Bản Anh: Mind and Meditation
[Pháp thoại trích từ : Awareness: The Key to Living in Balance (St Martin’s Griffin: 2001) trang 94-115].
Khi tâm không có niệm tưởng, đó là thiền (When the mind is without thought, it is meditation). Tâm không có niệm tưởng ở trong hai trạng thái – hoặc trong giấc ngủ sâu hoặc trong thiền. Nếu bạn có nhận biết sáng tỏ ( be aware: giác chiếu, viên minh) và các niệm tưởng biến mất, đó là thiền. Nếu các niệm tưởng biến mất và bạn trở thành không nhận biết (unaware: bất giác), đó là giấc ngủ sâu.
Giấc ngủ sâu và thiền có vài điều tương tự và vài điều khác biệt. Một điều tương tự — là trong cả hai, tư duy (= tiến trình tư tưởng) biến mất (thinking disappears). Một điều khác biệt – ở trong giấc ngủ sâu, nhận biết sáng tỏ (= giác chiếu, viên minh, tỉnh giác) biến mất (awareness disappears), nhưng trong thiền nhận biết sáng tỏ vẫn được bảo lưu. Như thế thiền thì tương đương giấc ngủ sâu cộng thêm nhận biết sáng tỏ (giác chiếu). Bạn được thư giãn, như trong giấc ngủ sâu, và có thêm nhận biết sáng tỏ, tỉnh thức một cách hoàn toàn – và sự vụ đó mang bạn đến cửa vào của những bất khả tư nghị (You are relaxed, as in deep sleep, and yet aware, fully awake—and that bring you to the door of mysteries).
Trong giấc ngủ sâu, bạn di chuyển vào vô-tâm (no-mind), nhưng bất-giác (but unawares). Bạn không biết bạn đang được đưa đến đâu, mặc dầu vào buổi sáng bạn sẽ cảm thấy tác động và hiệu ứng. Nếu đó là một giấc ngủ sâu thực sự đẹp đẽ, không có những giấc mơ phiền động đến bạn, thì vào buổi bạn sáng sẽ cảm thấy tươi tắn, mới mẻ, linh hoạt, trẻ trung lại, hăng hái và phong độ. Nhưng bạn không biết nó đã xảy ra như thế nào, nơi nào bạn đã đi. Bạn được đưa vào một loại hôn mê sâu, giống như là bạn chịu tác động của vài loại thuốc gây mê, và sau đó được đưa đi đó đây, ở đó bạn trở thành tươi tắn, trẻ trung, linh hoạt.
Trong thiền sự vụ nầy duyên hội xảy ra mà không dùng thuốc gây mê.
Như thế, thiền nghĩa là vẫn thư giãn như bạn đang trong giấc ngủ sâu và cộng thêm minh mẫn (So, meditation means remaining as you are in deep sleep and yet alert). Hãy tiếp tục giữ tính nhận biết sáng tỏ ở nơi thiền – hãy để niệm tưởng biến mất (= ra đi ), nhưng tính nhận biết sáng tỏ phải được giữ lại. Và chuyện nầy không khó, chỉ là chúng ta chưa cố gắng làm chuyện nầy, tất cả chỉ là vậy thôi…
Bạn chỉ phải tạo một không gian cho thiền tiến hành chức năng của nó; hãy cho thiền một cơ hội.
CÁI GÌ LÀ TÂM ? TÂM KHÔNG LÀ MỘT VẬT, NHƯNG LÀ MỘT SỰ SỰ.
Một vật thì có chất liệu trong nó, một sự sự (an event: sự sự ; hiện tượng) thì chỉ là một tiến trình(process). Một vật thì giống như một cục đá, một sự sự thì giống như một con sóng – nó hiện hữu, nhưng nó không có chất liệu vững bền (– it exists, but is not substantial). Nó chỉ là một sự-sự giữa gió và đại hải, một tiến trình, một hiện tượng.
Đây là một điều trước nhất phải được hiểu, tâm là một tiến trình giống như con sóng hoặc giống như một giòng sông, nhưng nó không có chất liệu trong nó. Nếu nó có chất liệu, lúc đó nó không thể bị tan biến. Nếu nó không có chất liệu, nó có thể biến mất không để lại một dấu vết nào cả.
Khi một con sóng biến mất vào trong đại hải, cái gì được để lại? Không gì cả, ngay cả một dấu vết. Thế nên những người đã nhận biết sáng tỏ, họ nói tâm giống như con chim đang bay trong bầu trời – không để lại dấu chân, ngay cả đến một vết tích đường bay. Con chim bay nhưng không để lại đường bay, không dấu chân.
Tâm là một tiến trình một cách tuyệt đối (The mind is just a process). Nói chi tiết hơn, tâm không hiện hữu – chỉ có các niệm tưởng (thoughts), các niệm tưởng chuyển biến quá nhanh khiến cho bạn nghĩ và cảm thấy là có cái gì đó hiện hữu ở đó trong sự tương tục ( In fact, mind doesn’t exist—only thoughts, thoughts moving so fast that you think and feel that something exists there in continuity ). Một niệm tưởng đến, một niệm tưởng khác đến, một niệm tưởng khác đến, và chúng tiếp tục… khoảng cách thì quá nhỏ bạn không thể thấy cái khoảng trống rỗng giữa một niệm tưởng và một niệm tưởng khác. Thế nên hai niệm tưởng trở thành bị nối với nhau, chúng thành một tương tục, và bởi vì có cái tương tục đó bạn nghĩ là có một cái tâm.
Có các niệm tưởng – không có “tâm”(There are thoughts—no “mind” ).Cũng như chỉ có những electron—không có “chất liệu” (Just as there are electrons—no “matter” ). Cũng giống như một đám đông… một đám đông hiện hữu theo một ý nghĩa, không hiện hữu theo một ý nghĩa khác. Chỉ có những cá nhân hiện hữu, nhưng những cá nhân cùng nhau cho một cảm giác như là họ là một. Một quốc gia hiện hữu và không hiện hữu–chỉ những cá nhân ở đó. Những cá nhân là những electron của một quốc gia , của một cộng đồng , của một đám đông.
Các niệm tưởng hiện hữu – tâm không hiện hữu; tâm là hiện tướng một cách tuyệt đối (Thoughts exist—mind doesn’t exist; mind is just the appearance). Và khi bạn nhìn vào tâm sâu hơn, tâm biến mất. Lúc đó chỉ có các niệm tưởng, nhưng khi “tâm” biến mất và chỉ có niệm tưởng cá biệt hiện hữu, nhiều sự sự vật vật được giải quyết một cách tức thời. Điều thứ nhất là một cách tức thời bạn chợt biết các niệm tưởng đó giống như những đám mây – chúng đến và đi, và bạn là bầu trời (=hư không). Khi không có tâm, một cách tức thời nhận thức đến với bạn rằng bạn chẳng còn bị can dự gì vào các niệm tưởng – các niệm tưởng có ở đó, đi ngang qua bạn giống như những đám mây bay qua bầu trời, hoặc làn gió bay qua các cây cối. Các niệm tưởng đang đi qua bạn, và chúng có thể đi qua bởi vì bạn là một rỗng thông mênh mông vô tận. Không có một cái gì ngăn ngại, cản trở. Không có tường vách nào hiện hữu để ngăn chặn chúng; bạn không là một hiện tượng bị dựng tường vách (you are not a walled phenomenon). Bầu trời của bạn thì vô tận viên dung (your sky is infinitely open) ; các niệm tưởng đến và đi. Và một khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng các niệm tưởng đến và đi, và bạn là người quán tâm (the watcher), sự chiếu soi (như đại viên kính) (the witness), sự làm chủ tâm (= sự hiểu thấu và vận dụng tâm không một chút khó khăn) đã được thành tựu ( And once you start feeling that thoughts come and go, and you are the watcher, the witness, the mastery of the mind is achieved).
Tâm không thể bị kiểm soát trong nghĩa thông thường. Trước nhất, bởi vì tâm không hiện hữu, làm sao bạn có thể kiểm soát nó? Thứ đến, ai sẽ kiểm soát tâm? Bởi vì không ai hiện hữu vượt ngoài tâm – và khi tôi nói không ai hiện hữu, tôi ý nói rằng không ai hiện hữu vượt ngoài tâm, chân không diệu hữu viên dung vô ngại (Because nobody exist beyond the mind – and when I say nobody exists, I mean that nobody exists beyond the mind, a nothingness). Ai sẽ kiểm soát tâm? Nếu một ai đó đang kiểm soát tâm, thì lúc đó nó sẽ chỉ là một phần của tâm kiểm soát một phần của tâm. Đó là cái bản ngã kiêu mạn là (That is what the ego is).
Tâm không thể bị kiểm soát theo cách đó. Nó không hiện hữu, và không ai kiểm soát nó. Chân không tự nội có thể thấy nhưng không thể kiểm soát.(The inner emptiness can see but cannot control). Nó có thể nhìn nhưng không thể kiểm soát – nhưng chính cái nhìn là cái kiểm soát, chính cái hiện tượng của sự quan sát, của sự chiếu soi, trở thành sự làm chủ bởi vì tâm biến mất. ( It can look but cannot control—but the very look is the control, the very phenomenon of observation, of witnessing, becomes the mastery because the mind disappears)…
Tâm chẳng là gì hết, mà chỉ là sự thiếu vắng của sự hiện diện của bạn. Khi bạn ngồi tĩnh lặng, khi bạn nhìn sâu vào tâm, tâm biến mất một cách dễ thấy. Các niệm tưởng sẽ vẫn ở đó, chúng hiện hữu, nhưng tâm sẽ không thể được tìm thấy.( Mind is nothing but the absence of your presence.When you sit silently, when you look deep into the mind, the mind simply disappears.Thoughts will remain, they are existential, but mind will not be found).
Nhưng khi tâm đã ra đi, lúc đó một nhận thức thứ nhì có thể khả hữu: bạn có thể thấy rằng các niệm tưởng không phải là những cái của bạn.( But when the mind is gone , then a second perception becomes possible: you can see that thoughts are not yours). Dĩ nhiên chúng đến và đôi khi chúng nghỉ ngơi (=lân la) đôi chút nơi bạn, và rồi chúng ra đi. Bạn có thể là một nơi lân la, nghỉ ngơi, nhưng chúng không khởi sinh ở trong bạn. Có bao giờ bạn chú ý rằng không một niệm cá biệt nào khởi sinh từ bạn? Không một niệm cá biệt nào sống suốt đời với bạn; chúng luôn luôn đến từ bên ngoài. Chúng không thuộc về bạn – không gốc rễ, không nhà cửa, chúng bay lượn. Đôi khi chúng nghỉ ngơi nơi bạn, tất cả chỉ vậy thôi, giống như một đám mây nghỉ ngơi nơi đỉnh ngọn đồi. Rồi sau đó chúng sẽ tự chúng ra đi (=vô sở trú); bạn không cần làm một điều gì cả. Nếu bạn quan sát một cách đơn thuần, sự kiểm soát được thành tựu.
Từ “kiểm soát” thì không hoàn hảo, bởi vì các từ không thể hoàn hảo. Các từ thuộc về tâm, thuộc về thế giới của các niệm tưởng. Từ không thể nào rất thâm nhập; chúng rất nông cạn.
Từ kiểm soát thì không hoàn hảo bởi vì không có ai để kiểm soát và không có một ai bị kiểm soát. Nhưng tạm nói, nó giúp hiểu ra một điều chắc chắn duyên hội xảy ra: khi bạn nhìn sâu sắc, tâm được kiểm soát – tức khắc bạn trở thành người chủ. Các niệm tưởng ở đó, nhưng chúng không còn là những người chủ của bạn. Chúng không thể làm bất cứ điều gì đối với bạn, chúng đơn giản đến và đi; bạn vẫn tiếp cận mà không bị ảnh hưởng (untouched) y như một đóa hoa sen giữa trận mưa. Những giọt nước mưa rơi trên những cánh hoa nhưng chúng tiếp tục lướt đi, chúng không gây ảnh hưởng tổn hại gì cả. Đóa hoa sen vẫn không bị ảnh hưởng.
Đó là lí do tại sao ở phương Đông hoa sen đã trở thành rất mực đặc trưng, rất mực biểu tượng. Biểu tượng cao cả nhất đến từ phương Đông là hoa sen. Nó mang toàn thể ý nghĩa của tâm thức Đông phương (Eastern consciousness). Nó nói: “Hãy hiện hữu như một đóa hoa sen, thế là đủ ( “Be like a lotus, that’s all”). Vẫn tiếp cận mà không bị ảnh hưởng gì cả và bạn đang giữ quyền kiểm soát. Vẫn tiếp cận mà không bị ảnh hưởng gì cả và bạn là người chủ”.
Thế nên có một quan điểm xem tâm giống như những con sóng – một nhiễu loạn (a disturbance). Khi đại hải lặng gió và yên tĩnh, không bị nhiễu loạn, những con sóng không ở đó (=tâm không ở đó). Khi đại hải loạn động trong đợt nước triều hoặc gió mãnh liệt, khi mà những đợt sóng cao cường dâng lên và toàn thể mặt nước hoàn toàn là một nhiễu loạn (chaos) có quan điểm xem tâm hiện hữu. Những cái này đều là những ẩn dụ chỉ để giúp bạn hiểu rõ một phẩm tính tự nội nhất định, không thể nói qua từ ngữ. Những ẩn dụ nầy rất thơ. Nếu bạn cố gắng hiểu chúng với cảm thông, bạn sẽ đạt đến một sự hiểu biết sáng tỏ, nhưng nếu bạn cố gắng hiểu chúngmột cách theo lý luận, bạn sẽ không hiểu được chúng. Chúng là những ẩn dụ.
Tâm là một sự phiền động của tâm thức, cũng như những con sóng là sự phiền động của đại hải.(Mind is a disturbance of consciousness, just as waves are a disturbance of the ocean). Một cái gì từ bên ngoài đã tiến vào – gió. Một cái gì đó từ bên ngoài đã duyên hội ảnh hưởng đến đại hải hoặc tâm thức – gió, hoặc những niệm tưởng, và có nhiễu động (chaos). Nhưng nhiễu động luôn luôn ở trên bề mặt. Các con sóng luôn luôn ở trên bề mặt. Không có sóng ở nơi chiều sâu thẳm– không thể có, bởi vì ở chiều sâu thẳm gió không thể vào được. Vì thế nên tất cả mọi thứ chỉ ở trên bề mặt. Nếu bạn di chuyển vào bên trong, kiểm soát được thành tựu. Nếu bạn di chuyển từ bề mặt vào bên trong, bạn đi tới trung tâm – bỗng nhiên, bề mặt có thể vẫn bị phiền động nhưng bạn không bị phiền động.
Toàn thể của khoa học của thiền chỉ là an-trụ trung-tâm, tiến trình di chuyển vào trung tâm, tiến trình lập gốc rễ nơi đó, an trụ nơi đó.Và từ nơi đó, toàn cảnh khách quan thay đổi. (The whole of science of meditation is nothing but centering, moving toward the center, getting rooted there, abiding there. And from there the whole perspective changes). Giờ đây các con sóng có thể vẫn ở đó, nhưng chúng không với tới bạn. Và giờ đây bạn có thể thấy chúng không thuộc về bạn, đó chỉ là một cuộc xung đột trên bề mặt với một cái gì đó từ ngoài vào.
Và từ nơi trung tâm, khi bạn nhìn, không lâu là cuộc xung đột chấm dứt. Không lâu là bạn thư giãn. Không lâu là bạn chấp thuận rằng dĩ nhiên có gió mạnh và các con sóng sẽ vẫn trỗi dậy, nhưng bạn không lo ngại, lúc đó có thể vui thích với cả các con sóng. Không có gì là sai trái nơi các con sóng.
Vấn đề khởi sinh khi bạn vẫn ở nơi mặt ngoài. Bạn ở trên con thuyền nhỏ trên mặt đại hải, và gió mạnh đến và hải triều dâng cao và toàn thể đại hải sóng cuồng gió loạn – dĩ nhiên bạn lo lắng, bạn sợ muốn chết đi được! Bạn ở trong nguy hiểm; bất cứ thời điểm nào các con sóng cũng có thể lật con thuyền nhỏ của bạn; bất cứ thời điểm nào cái chết có thể xảy ra. Bạn có thể làm gì với con thuyền nhỏ của bạn? Làm thế nào bạn kiểm soát bất cứ cái gì được? Nếu bạn tiến vào cuộc chiến với con sóng, bạn sẽ bị đánh bại. Chiến đấu không giúp được gì cả; bạn phải chấp thuận các con sóng. Thực ra, nếu bạn có thể chấp thuận các con sóng và để cho con thuyền của bạn, tuy nhỏ thế nào chăng nữa, di chuyển với các con sóng và không chống lại chúng, lúc đó chẳng có gì là nguy hiểm. Các con sóng ở đó; bạn đơn giản di chuyển theo chúng, không chống lại chúng. Bạn trở thành một phần của chúng. Lúc đó hạnh phúc kỳ diệu sinh khởi.
Đó là toàn thể nghệ thuật của lướt sóng – di chuyển với những con sóng, không chống lại chúng. Với chúng—như như thế, rằng bạn không khác biệt với chúng.( With them—so much so, that you are not different from them). Lướt sóng có thể trở thành đại thiền.( Surfing can become a great meditation). Nó có thể cho bạn những thoáng nhìn của tự nội bởi vì nó không phải là một cuộc chiến đấu, nó là một thõng-tay ( It can give you glimpses of the inner because it is not a fight, it is a let-go). Một khi bạn biết điều đó, ngay cả những con sóng cũng được thưởng thức…và điều đó có thể được biết khi bạn nhìn ngắm toàn thể hiện tượng từ trung tâm.
Cũng như nếu bạn là một lữ hành trong rừng rậm và những đám mây đã kéo đến và đang có nhiều ánh chớp, và bạn đã lạc lối và bạn đang cố gắng hối hả tìm về nhà. Đây là những gì xảy ra ở mặt ngoài – một lữ hành lạc lối, trời đầy mây, đầy chớp; chẳng bao lâu sẽ mưa như trút. Bạn đang tìm kiếm căn nhà, sự an ổn của căn nhà – lúc đó, bất thình lình bạn về đến nhà. Bây giờ bạn ngồi trong nhà, bây giờ bạn chờ đợi trận mưa – bây giờ bạn có thể thưởng thức. Bây giờ ánh chớp có vẻ đẹp riêng của chúng. Nó không đẹp như thế nếu bạn còn ở bên ngoài, lạc lối trong rừng rậm, nhưng bây giờ, ngồi trong căn nhà, toàn thể hiện tượng đẹp kỳ diệu. Bây giờ trận mưa đến và bạn thưởng thức, và sấm lớn trong những đám mây, và bạn thưởng thức bởi vì bây giờ bạn đã an toàn ở bên trong.
Một khi bạn tới được trung tâm, bạn khởi sự yêu thích thưởng thức bất cứ cái gì duyên hội xảy ra ở mặt ngoài.( Once you reach the center, you start enjoying whatsoever happens on the surface).Thế nên toàn thể sự vụ là không chiến đấu ở mặt ngoài, nhưng tốt hơn, hãy di chuyển âm thầm và từ từ vào trung tâm. Lúc đó có sự làm chủ, không một sự kiểm soát nào bị áp đặt, một sự làm chủ duyên khởi một cách tức thời khi bạn được an trụ trung tâm.
An trụ trung tâm (=Trung trụ) trong tâm thức là sự làm chủ tâm (Centering in consciousness is the mastery of the mind).
Thế nên đừng cố gắng “kiểm soát tâm” – ngôn ngữ có thể dẫn bạn lạc đường. Không ai có thể kiểm soát, và những ai cố gắng kiểm soát sẽ thành điên; họ đi đến suy nhược thần kinh một cách dễ hiểu, bởi vì cố gắng kiểm soát tâm chẳng là gì khác hơn chuyện một bộ phận của tâm cố gắng kiểm soát một bộ phận khác của tâm.
Bạn là ai, ai đang cố gắng kiểm soát? Bạn là một con sóng – dĩ nhiên một con sóng tôn giáo, cố gắng kiểm soát tâm .Và có những con sóng phi tôn giáo – có sinh hoạt tính dục và có giận dữ và có tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua- tranh (jealousy) và tính chiếm hữu và tính thù ghét, và hằng triệu con sóng phi tôn giáo.Và lúc đó có những con sóng tôn giáo – thiền, từ bi, đại bi. Nhưng những cái nầy chỉ có trên mặt ngoài, thuộc về mặt ngoài. Tôn giáo hoặc phi tôn giáo chẳng tạo nên sự sai biệt.
Tôn giáo thật thì ở trung tâm, và toàn cảnh khách quan duyên hội xảy ra xuyên qua trung tâm. Ngồi bên trong căn nhà của bạn, bạn nhìn ngắm cái mặt ngoài của chính bạn – mỗi sự sự vật vật thay đổi bởi vì toàn cảnh khách quan của bạn thì mới. Bất thình lình, bạn là người chủ. Thật ra bạn kiểm soát tự gốc rễ nên bạn có thể để mặt ngoài không bị kiểm soát, không còn lo nghĩ về mặt ngoài, nên bạn có thể vui thích với những con sóng, với những nước triều và những bão tố. Sự vụ nầy thì đẹp, tạo ra năng lực, tạo ra sức mạnh – không có gì để lo lắng về nó. Chỉ có những kẻ yếu đuối lo lắng về những niệm tưởng. Chỉ có những kẻ yếu đuối lo lắng về tâm. Những kẻ mạnh mẽ hơn thấm nhập toàn thể, và họ phong phú hơn nhờ toàn thể . Những kẻ mạnh mẽ chẳng bao giờ cự tuyệt bất cứ cái gì.
Cự tuyệt là do sự yếu đuối–bạn sợ hãi …
[Nói theo ngôn ngữ Bùi Giáng thì Osho đã “dìu ba đào về một chân trời khác”. ĐHP]
Chẳng có gì sai trái nơi tâm, chẳng có gì sai trái nơi niệm tưởng. Nếu có bất cứ điều gì sai trái, nó chỉ ở mặt ngoài — bởi vì vào lúc đó bạn không biết toàn thể và chịu đau thương, một cái đau thương có thể tránh được, bởi vì bạn chỉ biết một phần bộ của toàn thể và nhận thức có tính phần bộ và thiên lệch. Nhận thức toàn thể thì được cần đến và chỉ khả hữu từ nơi trung tâm – bởi vì từ nơi trung tâm bạn có thể nhìn khắp xung quanh tất cả các chiều kích, tất cả các hướng, nhìn toàn thể vòng ngoài của hiện hữu của bạn (at the whole periphery of your being). Và nó thì mênh mông. Thực ra nó thì giống như vòng ngoài của hiện hữu, tồn sinh.( And it is vast. In fact , it is the same as the periphery of existence). Một khi đã ở trung tâm (trung trụ), chẳng mấy lúc bạn trở thành rộng hơn và rộng hơn và lớn hơn và lớn hơn, và bạn cuối cùng là toàn thể, chẳng thiếu kém chút nào so với toàn thể. ( Once you are centered, by and by you become wider and wider and bigger and bigger, and you end with being the whole , not less than that)
Từ một quan điểm khác, tâm giống như cát bụi tích tập vào quần áo một lữ khách. Và bạn đã lữ hành và lữ hành và lữ hành suốt cả hàng triệu cuộc đời, và chẳng bao giờ được tắm một lần. Quá nhiều cát bụi bị tích tập một cách tự nhiên – chẳng có gì sai trái ở chuyện nầy. Nó phải là như thế – những lớp cát bụi và bạn nghĩ là những lớp nầy là nhân cách của bạn. Bạn trở thành bị đồng nhất quá đỗi với chúng, bạn đã sống với những lớp cát bụi nầy quá lâu nên chúng giống như cái làn da bao bọc của bạn. Bạn trở thành bị nhận diện đồng nhất với chúng (You have become identified).
Tâm là quá khứ, ký ức, cát bụi. Mọi người phải tích tập chúng – nếu bạn lữ hành, bạn sẽ tích tập cát bụi. Nhưng không có nhu cầu cần phải được nhận diện đồng nhất với chúng, không có nhu cầu trở thành một với chúng, bởi vì lúc đó bạn sẽ ở trong khốn đốn bởi vì bạn không phải là cát bụi, bạn là tâm thức. Omar Khayyám nói, “ Cát bụi đi tới cát bụi” (“Dust unto dust”) Khi một người chết, cái gì duyên hội xảy ra ?– cát bụi về với cát bụi. Nếu bạn tuyệt đối là cát bụi, lúc đó mỗi sự sự vật vật sẽ trở thành cát bụi, không còn lại gì cả. Nhưng có phải bạn tuyệt đối là cát bụi, những lớp của cát bụi, hoặc có cái gì đó bên trong bạn chẳng phải là cát bụi chút nào cả, chẳng là của trái đất chút nào cả?
Đó là tâm thức của bạn, viên minh giác chiếu của bạn. Viên minh giác chiếu là hiện hữu của bạn, tâm thức là hiện hữu của bạn, và cái cát bụi mà viên minh giác chiếu góp nhặt quanh nó (cái cát bụi đó ) là tâm của bạn (That’s your consciousness, your awareness. Awareness is your being, consciousness is your being, and the dust that awareness collects around it is your mind).
Có hai cách để giải quyết với cái cát bụi nầy. Đường lối “tôn giáo” thông thường là sẽ làm sạch quần áo, vất vả lau chùi thân thể. Nhưng những phương pháp nầy chẳng giúp ích được bao nhiêu… Những nhà tôn giáo cung cấp bạn xà phòng và các dung dịch hóa chất, các chỉ dẫn làm thế nào để giặt sạch cái nhơ bẩn, nhưng rồi những dung dịch thuốc tẩy nầy lại để lại dấu vết của chính chúng. Đó là lí do tại sao một người vô đạo đức có thể trở thành đạo đức nhưng vẫn còn nhơ bẩn–giờ đây trong cách thức đạo đức, nhưng người ấy vẫn còn nhơ bẩn. Đôi khi tình hình còn tệ hơn trước kia…
Tâm thì cũng giống như cát bụi thâu thập qua cả hàng triệu cuộc hành trình. Lập trường tôn giáo chân thật, lập trường tôn giáo cấp tiến đối nghịch với thông thường, là sẽ chỉ việc vứt hết quần áo đi. Không hơi đâu mà giặt giũ chúng, chúng không thể giặt sạch được. Chỉ việc di chuyển như con rắn tuột khỏi bộ da cũ và lúc đó cũng không thèm ngó lại nữa.
Từ một lập trường khác cấp tiến hơn nữa, tâm là quá khứ, ký ức, tất cả kinh nghiệm đã được tích lũy, có phần đúng của nó. Tất cả những gì bạn đã làm, tất cả những gì bạn đã nghĩ, tất cả những gì bạn đã ham muốn, tất cả những gì bạn đã mơ – tất cả mọi thứ, toàn thể quá khứ của bạn, ký ức của bạn – ký ức là tâm. Và trừ khi bạn tống xuất được ký ức, bạn sẽ không có khả năng làm chủ được tâm.
Làm thế nào cởi bỏ được ký ức? Nó thì luôn luôn ở đó, đi theo bạn.Thật ra, bạn là ký ức, vậy làm thế nào cởi bỏ được nó? Bạn là ai ngoại trừ những ký ức của bạn? Khi tôi hỏi “Bạn là ai?” bạn nói với tôi tên của bạn – đó là ký ức của bạn. Cha mẹ bạn đã cho bạn cái tên đó trước kia. Tôi hỏi bạn, “Bạn là ai?” và bạn nói về gia đình bạn, cha của bạn, mẹ của bạn – đó là một ký ức. Tôi hỏi bạn, “Bạn là ai?” và bạn nói với tôi về sự giáo dục của bạn, những văn bằng của bạn, rằng có một văn bằng cao học văn khoa, hoặc bạn là một tiến sĩ, hoặc bạn là một kỹ sư hoặc một kiến trúc sư. Đó là một ký ức.
Khi tôi hỏi bạn, “Bạn là ai?” nếu bạn thực sự nhìn vào bên trong, câu trả lời duy nhất của bạn có thể là “Tôi không biết”. Bất cứ cái gì bạn sẽ nói sẽ là ký ức, không phải bạn. Câu trả lời thật thà có thể là “Tôi không biết”, bởi vì biết chính mình là một điều chẳng phải ai cũng hết sức ao ước, mong cầu, hoặc hết sức chắc chắn (The only real, authentic answer can be “I don’t know” because to know oneself is the last thing). Tôi có thể trả lời tôi là ai, nhưng tôi sẽ không trả lời. Bạn không thể trả lời bạn là ai nhưng bạn lại có sẵn câu trả lời. Những người nhận biết sáng tỏ (= người tuệ tri), họ giữ im lặng về điều nầy.(Those who know, they keep silent about this). Bởi vì nếu tất cả ký ức đều bị liệng bỏ, và tất cả ngôn ngữ đều bị liệng bỏ, lúc đó tôi là ai không thể nói ra được. Tôi có thể nhìn vào bạn, tôi cho bạn một cử chỉ.Tôi có thể ở với bạn, với tất cả toàn thể hiện hữu của tôi – đó là câu trả lời của tôi. Nhưng câu trả lời không thể đưa ra bằng từ ngữ bởi vì bất cứ cái gì được đưa ra bằng từ ngữ sẽ là phần bộ của ký ức, phần bộ của tâm, không phải của tâm thức.
Làm thế nào để buông bỏ ký ức? Hãy quan sát chúng, chiếu soi chúng (Watch them, witness them). Và luôn luôn hãy nhớ, “Cái nầy đã ảnh hưởng đến tôi, nhưng cái nầy không phải là tôi”. Dĩ nhiên bạn đã được sinh ra trong một gia đình nhất định, nhưng cái nầy không phải là bạn; nó ảnh hưởng tới bạn, một tiến trình bên ngoài bạn. Dĩ nhiên, có người đặt tên (= danh) cho bạn; Danh thì tiện dụng và hữu ích nhưng danh không phải là bạn. Dĩ nhiên bạn có một hình tướng (= sắc), nhưng hình tướng không phải là bạn. Cái hình tướng chỉ là cái nhà mà tình cờ bạn duyên hội hiện thân vào. Và thân thể được trao tặng cho bạn bởi cha mẹ bạn. Đó là món quà tặng, nhưng nó không phải là bạn.
Hãy quan sát và phân biệt sáng tỏ (=liễu tri biện biệt) (Watch and discriminate). Đây là cái mà ở phương Đông gọi là vivek – phân biệt sáng tỏ — bạn liên tục phân biệt sáng tỏ. Cứ tiếp tục tiến trình phân biệt sáng tỏ – một sát na đến khi bạn đã loại bỏ tất cả những gì chẳng phải là bạn. Bỗng nhiên, ở trạng thái đó, bạn lần đầu tiên đối diện với chính bạn, bất ngờ bạn gặp gỡ chính hiện hữu của bạn. Hãy tiếp tục cắt đứt tất cả những căn cứ nhận diện không là bạn – gia đình, thân, tâm. Trong cái chân không đó, cái chân không diệu hữu viên dung vô ngại đó (In that emptiness), khi tất cả những gì không phải là bạn đã được liệng bỏ, bỗng nhiên hiện hữu của bạn hiển lộ. Đây là lần đầu tiên bạn gặp gỡ, kinh nghiệm chính mình và bạn (=that encounter: đương sự ) trở thành sự làm chủ. (Suddenly, in that state, you first time face yourself, you encounter your own being. Go on cutting all identities that you are not—the family, the body, the mind. In that emptiness, when everything that was not you has been thrown out, suddenly your being surfaces. For the first time you encounter yourself, and that encounter becomes the mastery.)
TIẾN TRÌNH TƯ TƯỞNG KHÔNG THỂ BỊ ĐÌNH CHỈ — KHÔNG PHẢI NÓ KHÔNG ĐÌNH CHỈ, NHƯNG NÓ KHÔNG THỂ BỊ ĐÌNH CHỈ. Nó đình chỉ theo lối tự nó thôi. Sự phân biệt nầy cần phải được hiểu thấu; nếu không, bạn có thể hóa điên khi đuổi theo tâm của bạn.
Vô-tâm không sinh khởi bằng cách đình chỉ tiến trình tư tưởng (thinking). Khi tiến trình tư tưởng không còn nữa, vô-tâm hiện hữu. Chính cái nỗ lực để đình chỉ sẽ tạo ra ưu tư lo lắng nhiều hơn, nó sẽ tạo ra xung đột, nó sẽ làm cho bạn chia chẻ ra. Bạn sẽ ở trong tình trạng luôn luôn có rối loạn, mê mờ ở trong bạn. Điều nầy sẽ chẳng giúp đỡ gì bạn.
Và ngay cả khi bạn thành công trong việc đình chỉ nó bằng áp lực được vài sát na, đó chẳng phải là một thành tựu gì cả — bởi vì những sát na nầy sẽ gần như chết, chúng sẽ không sống động. Bạn có thể cảm thấy một loại bất động nào đó (a sort of stillness)… nhưng không là sự tĩnh lặng (but not silence). Bởi vì sự bất động do sức ép bó buộc không phải là tĩnh lặng (Because a forced stillness is not silence). Ở bên dưới nó, sâu trong vô thức bất giác (deep in the unconscious) cái tâm bị áp bức vẫn tiếp tục hoạt động.
Thế nên, chẳng có cách nào để đình chỉ tâm. Nhưng tâm đình chỉ — đó là điều chắc chắn. Nó đình chỉ theo lối riêng của nó (It stops of its own accord).
Thế thì làm gì đây? – Câu hỏi là đích đáng. Hãy quan sát. Đừng cố gắng để đình chỉ. Chẳng có nhu cầu để làm bất cứ hành động nào chống lại tâm. Trước nhất, ai sẽ làm chuyện nầy? Đó sẽ là tâm chống lại chính tâm; bạn sẽ phân chia tâm thành hai: một bên là tâm cố gắng làm kẻ chỉ huy, kẻ quyền thế hung hăng nhất (top dog), gắng sức giết phía bên kia cũng là tâm – đó là điều phi lý. Đó là một trò chơi ngu ngốc, nó có thể đưa bạn đến điên khùng. Đừng cố gắng đình chỉ tâm hoặc tiến trình tư tưởng(=tư duy) – chỉ quan sát nó, không ngăn cản nó, để tự nhiên cho nó. Hãy để cho nó toàn thể tự do.Hãy để nó chạy nhanh như nó muốn; bạn không cố gắng bằng bất cứ cách nào để kiểm soát nó. Bạn dễ dàng tưởng tượng bạn như là sự chiếu soi (của đại viên kính ) ( you just be a witness).
Tâm thì đẹp tuyệt! Tâm là một trong những cơ chế vận hành đẹp nhất. Khoa học chưa từng bao giờ có thể tạo ra bất cứ một cái gì song hành với tâm. Tâm vẫn còn là tác phẩm tuyệt vời, phức tạp quá đỗi, quyền lực mênh mông quá đỗi, với biết bao nhiêu là đường hướng khả dụng quá đỗi. (Mind still remains the masterpiece, so complicated, so tremendously powerfull, with so many potentialities). Hãy quan sát tâm! Hãy thọ hưởng tâm.
Và chẳng nên quan sát như một kẻ thù nghịch, bởi vì nếu bạn nhìn vào tâm như một kẻ thù nghịch, bạn không thể quan sát. Bạn có sẵn thiên kiến rồi, bạn đã sẵn sàng chống lại rồi. Bạn đã quyết định sẵn rằng có một cái gì đó sai trái với tâm – và bạn đã kết luận sẵn rồi. Và bất cứ khi nào bạn nhìn vào ai đó như một kẻ thù nghịch, bạn chẳng bao giờ nhìn sâu, bạn chẳng bao giờ nhìn vào trong mắt; bạn tránh né.
Quan sát tâm là nhìn vào tâm với tình thương yêu sâu sắc, với lòng kính trọng sâu sắc, sự tôn quý — tâm thì cực kỳ tốt đẹp đối với bạn ( Watching the mind means to look at it with deep love, with deep respect, reverence — it is God’s gift to you //God’s gift = extremely good). Chẳng có gì sai trái trong tâm do chính nó cả. Chẳng có gì sai trái nơi tiến trình tư tưởng chính nó cả. Nó là một tiến trình tốt đẹp, cũng như các tiến trình khác. Những đám mây bay trên bầu trời rất đẹp – sao không những niệm tưởng bay trong bầu trời tự nội? Những đóa hoa đến với cây cỏ rất đẹp – sao không những niệm tưởng nở hoa trong hiện hữu của bạn sao? Giòng sông chảy về đại hải rất đẹp – sao không giòng chảy này của các niệm tưởng chảy từ một nơi nào đó để về đến một nơi chốn đầy ẩn mật? Nó không đẹp hay sao? Hãy nhìn với lòng tôn quý thâm sâu. Hãy đừng là một kẻ chiến đấu, hãy là một người yêu thương.
( Nothing is wrong in mind itself. Nothing is wrong in thinking itself. It is a beautiful process, as other processes are. Clouds moving in the sky are beautiful—why not thoughts moving in the inner sky?Flowers coming to the tree are beautiful – why not thoughts flowerings in your being? The river running to the ocean is beautiful – why not this stream of thoughts running from somewhere to an unknown destiny? Is it not beautiful? Look with deep reverence. Don’t be a fighter, be a lover).
Hãy quan sát những phân biệt tinh tế của tâm, những chuyển hướng bất thình lình, những chuyển hướng diệu mỹ. Những thao thức băn khoăn (jumps) và những siêu việt trực nhập (leaps) bất thình lình, những cuộc chơi mà tâm vẫn liên tục trình diễn; (The sudden jumps and leaps, the games that mind goes on playing); những giấc mơ mà tâm vẫn dệt – sự tưởng tượng, ký ức, ngàn lẻ một dự phóng mà tâm vẫn sáng tạo – hãy quan sát! Đứng đó thản nhiên, xa cách, không can dự, không lâu bạn bắt đầu cảm thấy… Sự quan sát của bạn trở thành càng sâu, viên minh giác chiếu của bạn càng trở thành minh-diệu diệu-minh, những khoảng trống bắt đầu sinh khởi, những khoảng trống rỗng (The deeper your watchfulness becomes, the deeper your awareness becomes, gaps start arising, intervals). Một niệm tưởng đến, một niệm tưởng khác chưa đến, và có một khoảng trống. Một đám mây đã đi qua, một đám mây khác đang đến, và có một khoảng trống.
Trong những khoảng trống nầy, bạn sẽ có những sơ ngộ về vô-tâm. Bạn sẽ có hương vị của vô-tâm – hãy gọi nó là hương vị của Thiền, hoặc Đạo, hoặc Du già.(In those gaps, for the first time you will have glimpses of no-mind. You will have the taste of no-mind—call it the taste of Zen, or Tao, or Yoga). Trong những khoảng trống rỗng, bỗng nhiên bầu trời trong sáng và mặt trời đang chiếu sáng. Bỗng nhiên thế giới thành viên-dung bất-khả-tư-nghị, bởi vì tất cả các chướng ngại đều được buông bỏ; cái màn che trên các con mắt của bạn không còn ở đó nữa. (Suddenly the world is full of mystery, because all barriers are dropped; the screen on your eyes is no longer there). Bạn thấy rõ ràng, bạn thấy thấu suốt. Toàn thể hiện hữu trở thành trong sáng, diệu-minh. (You see clearly, you see penetratingly. The whole existence becomes transparent)
Vào lúc bắt đầu, những sự vụ nầy sẽ hoàn toàn là những sát na hiếm hoi, vài lần và cách xa nhau. Nhưng chúng sẽ cho bạn những sơ ngộ, những thoáng nhìn thấy tam-ma-địa là gì (glimpses of what Samadhi is). Những tích tập nhỏ của tĩnh lặng – chúng sẽ đến và chúng sẽ biến mất, nhưng giờ đây bạn biết rằng bạn đang trên con đường mòn đúng ( Small pool of silence – they will come and they will disappear, but now you know that you are on the right track). Bạn lại bắt đầu quan sát. Khi một niệm tưởng đi qua, bạn quan sát nó; một khi khoảng trống rỗng đi qua, bạn quan sát nó. Những đám mây cũng đẹp; tia sáng mặt trời không bị mây che cũng đẹp.(Clouds are also beautiful; sunshine also is beautiful). Giờ đây bạn không là một người lựa chọn (a chooser) (= giờ đây bạn là một người vô cầu: choiceless). Giờ đây bạn không có một cái tâm cố chấp (a fixed mind). Bạn không nói: “Tôi thích những khoảng trống rỗng thôi”. Đó là ngu ngốc, bởi vì một khi bạn bị dính mắc chỉ muốn những khoảng trống rỗng thôi, bạn đã lại quyết định chống lại tiến trình tư tưởng. Và lúc đó những khoảng trung gian trống rỗng nầy sẽ biến mất. Chúng duyên hội xảy ra chỉ khi bạn xa cách, thản nhiên. Chúng duyên hội xảy ra, chúng không thể bị đem đến. Chúng duyên hội xảy ra, bạn chẳng thể bắt ép chúng duyên hội xảy ra. Chúng là những sự-sự duyên hội xảy ra tự nhiên ( They are spontaneous happenings ) .
Tiếp tục quan sát. Hãy để các niệm tưởng đến và đi – bất cứ nơi nào chúng muốn đi. Chẳng có gì là sai trái cả. Đừng cố gắng sắp xếp và đừng cố gắng chỉ huy. Hãy để các niệm tưởng di chuyển trong tự do hoàn toàn. Và lúc đó những khoảng trung gian trống rỗng lớn hơn sẽ đến. Bạn sẽ được chấp thuận và hỗ trợ với những chứng ngộ nhỏ ( You will be blessed with small satoris). Đôi khi nhiều phút sẽ qua đi và không niệm tưởng nào ở đó; sẽ không có niệm tưởng đến và đi – một sự tĩnh lặng hoàn toàn, không bị phiền động.
Khi những khoảng trống rỗng lớn hơn đến, bạn sẽ có một sự sáng tỏ viên minh mới sinh khởi. Bạn sẽ không chỉ có sự sáng tỏ viên minh (clarity) để thấy thế giới, bạn sẽ có thể thấy được cả thế giới nội quan. Với những khoảng trống rỗng đầu tiên bạn sẽ nhìn vào thế giới – cây cối sẽ xanh hơn chúng nhìn ngay bây giờ, bạn sẽ được bao trùm bởi âm nhạc vô tận, âm nhạc của các thế giới.
Bạn sẽ bỗng nhiên hiện hữu trong tính viên dung của vạn hữu (= ở trong vạn hữu với hai tướng ẩn-mật hiển-hiện đồng thời thành tựu), bất khả tư nghị, bất khả thuyết (You will be suddenly in the presence of godliness – ineffable, mysterious).
Tính viên dung của vạn hữu tiếp cận bạn, tuy vậy bạn không thể nắm bắt tính viên dung của vạn hữu. Tính vạn hữu viên dung (tính vạn hữu ẩn-mật hiển-hiện viên dung) ở trong tầm tiến tới của bạn tuy vậy cũng vượt ngoài nữa (Touching you, although you cannot grasp it. Within your reached yet beyond).
Với những khoảng trống rỗng lớn hơn, sự sự như thế sẽ duyên hội xảy ra bên trong. Vạn-hữu ẩn-hiển viên-dung-thân không những chỉ ở bên ngoài, bạn sẽ bỗng nhiên thấy thân ấy cũng ở bên trong. Viên-dung-thân không những chỉ ở trong cái được thấy (= sở kiến), mà còn ở trong người thấy nữa (= năng kiến), nội quan và ngoại quan (God will not only the outside, you will suddenly be surprised, he is inside also. He is not only in the seen, he is in the seer also – within and without). Không lâu …
Nhưng đừng dính mắc vào sự sự đó, cả nội quan và ngoại quan. Sự dính mắc là thực phẩm cho tâm tiếp tục. Chiếu soi mà không dính mắc là con đường đình chỉ tâm mà không cần dụng công để đình chỉ nó. ( Nonattached witnessing is the wayto stop it without any effortto stop it)
[ĐHP : Kinh Lăng nghiêm= vì chẳng có năng kiến và sở kiến, cho nên nói kiến còn phải lìa kiến (kiến do ly kiến) – || tương đồng với ý của Osho đang nói ].
Và khi bạn khởi sự hưởng thọ những sát na diệu lạc (blissfull moments), khả năng của bạn duy trì chúng cho những thời kỳ lâu dài hơn bắt đầu khởi lên. Nói một cách rốt ráo, cuối cùng là một ngày nào đó bạn trở thành người chủ. Lúc đó, khi bạn muốn tư duy, bạn tư duy ; nếu niệm tưởng được cần đến, bạn sử dụng nó. Nếu niệm tưởng không cần đến bạn cho phép nó yên nghỉ. Không phải là tâm không còn ở đó nữa – tâm ở đó, nhưng bạn có thể (sử ) dụng nó hoặc không (sử) dụng nó…
Khi tôi đang nói với bạn, tôi đang sử dụng tâm – chẳng có cách nào khác để nói. Khi tôi đang trả lời những câu hỏi của bạn, tôi đang dùng tâm – chẳng có cách nào khác. Tôi phải đáp ứng và quan liên và tâm là một cơ chế diệu mỹ,. Khi tôi không nói với bạn và khi tôi có một mình,
không có tâm – bởi vì tâm là một phương tiện truyền thông để liên lạc cảm thông. Khi tôi ngồi một mình, nó không được cần đến. (When I am not talking to you and I am alone, there is no mind – because it is a medium to relate through.When I sit alone , it is not needed)…
Khi bạn chết, tất cả mọi thứ trong thân bạn đều sẵn sàng để chết – ngoại trừ tâm.
Thế nên ở Đông phương chúng ta nói tâm rời thân và đi vào một cửa ngõ tái sinh khác, bởi vì nó chưa sẵn sàng chết. Tái sinh là của tâm.Và một khi bạn chứng đạt trạng thái vô-tâm, lúc đó sẽ không có tái sinh, lúc đó bạn sẽ chết một cách giản dị. Và với cái tiến trình chết của bạn, mọi thứ đều bị tan biến – thân bạn, tâm bạn – chỉ có linh tâm tự chiếu của bạn sẽ ở lại ( your witnessing soul: linh thể chiếu soi của bạn = linh tâm tự chiếu = tâm tính = Tính = your consciousness: tâm thức của bạn). Tâm thức đó thì vượt ngoài thời gian và không gian. Lúc đó bạn sẽ trở thành đồng nhất với hiện hữu ; lúc đó bạn không còn ly cách nữa với hiện hữu. Sự ly cách đến từ tâm.
(The rebirth is of the mind. And once you have attained the state of no-mind, then there will be no rebirth.Then you will simply die. And with your dying, everything will be dissolved—your body, your mind—only your witnessing soul will remain. That is beyond time and space. Then you become one with existence, then you are no longer separate from it.The separation comes from the mind).
Nhưng không có cách nào đình chỉ tâm bằng cưỡng bách –hãy đừng bạo lực. Hãy tiến một cách yêu thương với lòng tôn quý sâu thẳm, và sự đình chỉ đó sẽ bắt đầu duyên hội xảy ra tự nó và tự nhiên. Bạn chỉ quan sát và đừng có vội vàng.
Tâm thời hiện đại vội vã rất nhiều. Nó muốn những phương pháp tức thời để đình chỉ tâm. Do lý do đó, ma túy có sự hấp dẫn (Hence, drugs have appeal). Bạn có thể bức bách tâm đình chỉ bằng cách dùng hóa chất, ma túy, nhưng bạn lại đang bạo hành với cơ chế tiến trình tâm. Nó thì không tốt đẹp, nó có tính phá hoại.Trong cách nầy bạn sẽ không trở thành chủ của tâm. Bạn có khả năng đình chỉ tâm bằng sử dụng ma túy, nhưng lúc đó ma túy sẽ trở thành chủ của bạn – bạn sẽ không trở thành chủ. Bạn thay đổi các người chủ của bạn một cách dễ thấy, và bạn đã chỉ thay đổi sang cái tệ hại hơn. Bây giờ ma túy sẽ nắm giữ quyền lực trên bạn, chúng sẽ chiếm hữu bạn; không có chúng, chẳng thấy bạn ở nơi đâu cả (Now the drug will hold the power over you, they will possess you; without them you will be nowhere).
Thiền không phải là một nỗ lực chống lại tâm, nó là một con đường hiểu biết sáng tỏ tâm. Nó là một cách yêu thương chiếu soi tâm– nhưng dĩ nhiên bạn phải kiên nhẫn.Tâm nầy mà bạn đang mang trong đầu đã sinh khởi hàng trăm năm, hàng ngàn năm.Tâm nhỏ bé của bạn mang theo toàn thể kinh nghiệm của con người.Và không chỉ của con người – của thú vật, của chim, của cây cỏ, của đá; bạn đã trải qua tất cả các kinh nghiệm nầ.Tất cả mọi chuyện duyên hội xảy ra cho tới nay đều cũng duyên hội xảy ra trong bạn.(All that has happened up to now has happened in you also).
Nói vắn tắt, bạn mang theo toàn thể kinh nghiệm của tồn sinh. Đó là cái tâm bạn là.(In a small nutshell, you carry the whole experience of existence. That’s what your mind is). Thực ra nói nó là của bạn thì không đúng. Nó có tính tập thể, nó thuộc về tất cả chúng ta.Tâm lí học hiện đại đang tiến gần đến chúng, đặc biệt là những phân tích kiểu Jung đang tiến gần đến nó, và chúng đã bắt đầu cảm thấy cái gì đó giống như vô thức tập thể (a collective unconscious).Tâm bạn không là của bạn – nó thuộc về tất cả chúng ta. Những thân thể của chúng ta rất cách biệt; những tâm của chúng ta không cách biệt quá như thế. Những thân thể của chúng ta rõ ràng là cách biệt, những tâm của chúng ta có những phần bao trùm lên nhau và những tâm tính của chúng ta đều là một. (Our bodies are clearly separate, our minds are overlap — and our souls are one).
Những thân thể thì cách biệt, những tâm thì có phần chung nhau và những tâm tính là một. Tôi không có một tâm tính riêng biệt và bạn không có một tâm tính riêng biệt ( Bodies are separate, minds overlapping, and souls are one. I don’t have a different soul and you don’t have a different soul). Ở ngay chính trung tâm của hiện hữu tồn sinh chúng ta hội hiệp và là một. Đó là cái “Tâm Tính” là – điểm hội hiệp của tất cả. Giữa Tâm Tính và thế giới (= Giữa Tính và tướng)—“thế giới” nghĩa là những sắc thể — là tâm (At the very center of existence we meet and are one.That’s what “God” is – the meeting point of all. Between the God and the world – the “world” means the bodies – is mind).
Tâm là một cầu nối, một cầu nối giữa sắc thân (tướng) và tâm tính (the soul) giữa thế giới (tướng) và Tính Viên Dung (God). Hãy đừng tìm cách phá hủy tâm!
Nhiều người đã cố gắng phá hủy tâm qua pháp Du già (Yoga). Đó là sử dụng sai trái pháp Du già. Nhiều người cố gắng phá hủy tâm qua tư thế của thân thể, qua tiến trình thở – Sự sự đó đem đến những đổi thay hóa học vi tế bên trong cơ thể. Tỉ dụ, nếu bạn đứng bằng cách để đầu trên mặt đất trong shirshasan, một tư thế của Du già, bạn có thể phá hủy tâm rất dễ dàng. Bởi vì khi đó máu đổ xô quá nhiều, giống như một trận lụt, vào trong cái đầu… khi bạn đứng bằng cái đầu bạn, đó là cái bạn đang cố gắng làm cho máu đổ xô vào đầu. Cơ chế vận hành của não bộ thì yếu đuối. bạn đang làm tràn ngập nó với máu, các mô mềm yếu sẽ chết. Đó là lý do tại sao bạn chẳng bao giờ gặp một nhà Du già thông minh – không – những nhà du già thì, nhiều hoặc ít, ngu ngốc. Những thân thể của họ thì mạnh khỏe, điều đó đúng, mạnh khỏe – nhưng tâm của họ chết hoàn toàn. Bạn sẽ không thấy ánh mờ nhạt của trí tuệ thông minh. Bạn sẽ thấy một thân thể rất vạm vỡ, giống như động vật, nhưng không hiểu sao con người lại biến mất.
Đứng bằng cách đầu chạm đất, bạn đang bức bách máu của bạn đi vào đầu qua trọng lực. Đầu cần máu, nhưng chỉ một lượng nhỏ; và chuyển vận một cách thong thả, không như một trận lụt. Chống với trọng lực, lượng máu nhỏ bé đi tới đầu, trong một cách tĩnh lặng. Nếu quá nhiều máu tới vào trong đầu, nó trở nên phá hoại.
Pháp Du già đã được dùng để giết tâm. Tiến trình thở cũng được dùng để giết tâm – có những nhịp vận của hơi thở, những rung động vi tế của hơi thở, nó có thể thẳng tay đối với cái tâm dễ bị làm suy yếu (drastic to the delicate mind). Tâm có thể bị chúng phá hủy. Đó là những trò gian trá, những cạm bẫy có từ lâu rồi (old tricks). Những trò mới đây cung cấp bởi khoa học: LSD, cần sa, và các thứ khác; càng ngày càng nhiều các loại ma túy cao cấp sẽ được cung cấp hoặc sớm hoặc muộn. Tôi không tán thành đình chỉ tâm. Tôi tán thành quan sát tâm (quán tâm). Tâm đình chỉ theo lối tự nó – và lúc đó tâm thì diệu mỹ. Khi cái gì đó xảy ra mà không có bạo lực, nó có vẻ đẹp của chính nó; nó là sự phát triển tự nhiên…
Tâm là tiến trình nở hoa của bạn – hãy đừng ép buộc nó bằng bất cứ cách nào. Tôi chống lại tất cả những ép buộc và chống tất cả các loại bạo lực, và đặc biệt bạo lực được nhắm hướng vào chính bạn.
Chỉ hoàn toàn quan sát – trong nguyện ước, yêu thương, tôn quý sâu thẳm – và thấy cái duyên hội xảy ra. Những linh diệu duyên hội xảy ra tự nhiên. Không có nhu cầu phải kéo lui , và đẩy tới.
Làm sao để đình chỉ tiến trình tư tưởng? Tôi nói chỉ hoàn toàn quan sát, ở trạng thái nhạy bén, minh mẫn ( I say just watch, be alert). Và buông bỏ cái ý tưởng về đình chỉ, nói khác đi thì cái ý tưởng nầy nó sẽ đình chỉ cái chuyển hóa tự nhiên của tâm. Hãy buông bỏ cái ý tưởng về đình chỉ nầy ! Bạn là ai để đình chỉ ?
Ở độ cao nhất, hãy thưởng thức. Và không có điều gì là sai trái – ngay cả những niệm tưởng phi đạo đức, những niệm tưởng được-gọi phi đạo đức, đi qua tâm bạn, hãy để cho chúng đi qua. Không có gì sai trái. Bạn ở lại không bị dính mắc, thì chẳng có cái tai hại nào được tạo ra cả. Nó hoàn toàn chỉ là hư cấu, bạn đang xem một phim ảnh nội tâm. Hãy để cho nó đi theo lối nó và nó sẽ dẫn bạn, chẳng phải đợi lâu, tới trạng thái vô-tâm. Quán một cách rốt ráo vượt tới một đỉnh cao nhất trực nhập vô- tâm (Allow it its own way andit will lead you , by and by, to the state of no-mind. Watching ultimately culminates in no-mind) ( by and by = before long || nhất siêu trực nhập: một khi vượt lên là vào ngay).
Vô-tâm không phải là đối nghịch với tâm; vô-tâm là vượt ngoài tâm. Vô-tâm không đến bằng cách giết và phá hủy tâm ; vô-tâm đến khi bạn đã hiểu biết sáng tỏ tâm một cách toàn thể nên tiến trình tư tưởng(=tư duy) không còn được cần đến nữa – sự hiểu biết sáng tỏ đã thay thế nó.
————————————–
CHÚ THÍCH:
1- Từ ngữ
Mind: tâm (Sanskrit: citta; Hán Việt: tâm);
No-mind: Vô-tâm. Diệu tâm. Chân tâm. Thật tâm. Tự tâm.
Awareness: Sanskrit: vidya ||Tạng ngữ: rig-pa || nhận biết sáng tỏ; viên minh; giác chiếu; viên minh giác chiếu; minh; giác.
Consciousness (Sanskrit:Vijnàna). Tâm thức; thức; thần thức.(Hán Việt: thức).
Thought, thoughts: niệm, tưởng, niệm tưởng, ý tưởng, tư tưởng, tâm niệm.
Meditation: thiền (Sanskrit: dhyàna). (Hán Việt: Thiền, thiền na).
Àkasa (Sanskrit) : bầu trời, khoảng không, hư không, thái hư không, không giới.
Soul: tâm tính, tính, tánh, linh tâm , linh thể.
God: viên dung thân.
Godliness: tính viên dung của vạn hữu.
The watcher: người quán tâm , sự quán.
The witness: mirroring = sự chiếu soi (như đại viên kính) , linh tâm tự chiếu .
Thinking: tiến trình tư tưởng, tư duy, phân biệt.
Đình chỉ tiến trình tư tưởng = chấm dứt phân biệt.
————————-
1.1. Awareness thông thường có nghĩa là — knowing hoặc –being aware , và trong ngữ cảnh phật học và ngữ cảnh của Osho thì từ gốc Sanskrit là –Vidya.
1.2. Vidya có mấy nghĩa chính :
1. as a general term encompassing all experiences of consciousness and mental events : thuật ngữ tổng quát bao gồm tất cả các kinh nghiệm của thức và các tiến trình tâm ý
2. as intelligence or mental aptitude : thông tuệ hoặc khả năng tâm ý.
3. as a science or knowledge-based discipline : một khoa học hoặc chuyên ngành về nhận thức học.
4. as a pure awareness : thanh tịnh giác ( bản giác , …)
1.3. Giác: có nhiều nghiã. || Nghĩa V: Tên gọi chung của tâm và tâm sở. Đây là cái biết của tâm, tâm sở khi duyên theo cảnh (đối tượng)
[ Phật quang Đại Từ Điển.Thích Quảng Độ dịch, in năm 2000, trang 1936]
—————
1.4. Awareness:
the original state of mind, fresh, vast, luminous, and beyond thought.|| =Viên minh giác chiếu: trạng thái khởi nguyên của tâm, tươi tắn, mênh mông, quang minh (=chiếu sáng), và vượt ngoài niệm tưởng (=vượt ngoài tâm niệm )
1.5. Awareness:
On the subtlest level, awareness in the form of wisdom can be associated with colors, forms and even energies and subtances, such as the subtle neurotransmitter red and white drops in the subtle body.
More usually, awareness is differentiated from the material realm, and a complex mind-matter dualism is sustained as a way of keeping mindful of the elusive nature of reality, ever resisting the naïve reductionism of dogmatic theorists.
( The Tibetan Book of the Dead. Translated by R.A.F. Thurman. 1994. )
Tạm dịch : Viên minh giác chiếu : Ở trên mức độ vi tế nhất, viên minh giác chiếu trong sắc tướng của trí tuệ bát nhã có thể đi với những màu sắc, những hình tướng, và ngay cả những năng lượng và những chất liệu, tỉ dụ những giọt vi tế tín hiệu thông chuyển thần kinh màu đỏ và trắng trong thân vi tế.
Gần như luôn luôn, viên minh giác chiếu thì được phân biệt với cõi vật chất, và một chủ nghĩa nhị nguyên đối đãi có cả phức hợp tâm-chất liệu thì được hỗ trợ như là một cách quan tâm đến cái tính chất không sao hiểu nổi của thật tại, vẫn chống lại chủ nghĩa thu giảm của những lí thuyết gia theo chủ nghĩa giáo điều.
——————————————-
2- Trích từ : “ Osho: Con đường của Phật “. Ni sư Trí Hải dịch. Ưu đàm ( Canada )xuất bản (Bộ 12 quyển ; quyển 11, trang 136)
[Osho nói: Phật nói , ]
“Vượt qua bờ bên này
Và qua cả bờ kia
Ngoài bờ này bờ kia
Nơi không có đầu mối
Và cũng không chấm dứt”
Đấy là ý nghĩa của vượt qua khỏi cả bờ bên kia – khi bản ngã, tâm thức, tất cả đều chấm dứt, tan biến vào cái phổ quát, nhiệm mầu.
Khi vượt qua cả bờ nầy lẫn bờ kia, không gì còn lại, thì cũng đừng mang theo cái không ấy.
“Đừng sợ, hãy ra đi
Hãy luôn luôn thiền định”
Thiền định ở đây là ngắm nhìn, quán chiếu những dục vọng trong bạn, hiểu rõ thực chất của chúng… rồi để chúng tự rơi rụng như lá khô lìa cành vào mùa thu.
“Sống trong sạch an tịnh”
—————————–
3.-Trích từ : Osho –“ Meditation the first and the last freedom” bản in 1996.
[ Osho nói : ( trang 28) ]
Người quan sát không là sự chiếu soi.
Người quan sát (chủ thể quan sát; năng kiến) và cái bị quan sát (sở kiến) là hai phương diện của sự chiếu soi. Khi chúng biến mất vào trong nhau, khi chúng tan hoà vào trong nhau, khi chúng là một, sự chiếu soi ( như đại viên kính chiếu soi) lần đầu tiên sinh khởi trong toàn thể tính.
The observer is not the witness.
The observer and the observed are two aspects of the witness. When they disappear into each other, when they melt into each other, when they are one, the witness for the first time arises in totality.
Người quan sát nghĩa là chủ thể, và cái bị quan sát nghĩa là khách thể: chủ thể quan sát nghĩa là cái ở bên ngoài cái bị quan sát và cái bị quan sát nghĩa là cái ở bên trong. Cái bên trong và cái bên ngoài không thể ly biệt; chúng đều hội hiệp, chúng chỉ có thể hội hiệp. Khi sự hội hiệp, hoặc chính xác hơn sự viên nhất, được kinh nghiệm, sự soi chiếu khởi sinh.
The observer means the subjective, and the observed means the objective: the observer means that which is outside the observed, and the observed means that which is inside. The inside and the outside can’t be separate; they are together, they can only be together.When this togetherness, or rather oneness, is experienced, the witness arises.
Bạn không thể thực tập sự soi chiếu. Nếu bạn thực tập sự soi chiếu, bạn sẽ đang thực tập chỉ
(là) người quan sát, và người quan sát thì không là sự soi chiếu.
You cannot practice the witness. If you practice the witness, you will be practicing only the observer, and the observer is not the witness.
Thế rồi phải làm gì đây? Sự hoà hiệp phải được làm xong, sự hợp nhất phải được làm xong.Thấy một đoá hoa hồng, hãy quên một cách hoàn toàn rằng có một đối tượng được thấy và một chủ thể là người thấy. Hãy để cho vẻ đẹp của thời điểm này (sát na này), sự an-ổn-không-sợ-hãi (=sự vô úy thí) của thời điểm này, cả hai chan chứa bạn, thế nên đoá hoa hồng và bạn không còn li biệt nữa, chỉ có bạn trở thành một tiết điệu, một bài ca, một hoan hỉ ngất ngây
[ Osho nói đến-- sự an-ổn-không-sợ-hãi (= sự vô-úy-thí) của thời điểm này—cũng là nói đến vô-úy-thí của bồ tát đạo ]
Then what has to be done? Melting has be done, merging has to be done. Seeing a rose flower, forget completely that there is an object seen and a subject as a seer. Let the beauty of the moment, the benediction of the moment, overwhelm you both, so the rose and you are no more separate, but you become one rhythm, one song, one ectasy.
Khi sự soi chiếu (= linh tâm tự chiếu) khởi sinh, không có chủ thể đang chiếu soi và không có cái khách thể đang bị chiếu soi. Sự chiếu soi là một thanh tịnh kính (=đại viên kính), chiếu soi không tính (=tính không). Ngay chính lúc đó mà nói nó là một cái kính chiếu soi thì không đúng; tốt hơn hãy nói nó là một sự soi chiếu. Nó là một tiến trình động lực của hoà hiệp và hợp nhất; nó không phải là một hiện tượng bất động, nó là một giòng chuyển động. Đoá hoa hồng giăng trải bạn, bạn giăng trải vào trong đoá hoa hồng; nó là một tương dung của hiện hữu.
When witness arises, there is nobody who is witnessing and there is nothing to be witnessed. It is a pure mirror, mirroring nothing. Even to say it is a mirror is not right; it would be better to say it is a mirroring. It is more dynamic process of melting and merging; it is not a static phenomenon, it is a flow. The rose reaching you, you reaching into the rose; it is a sharing of being..
Người quan sát có thể được thực tập, sự soi chiếu duyên hội xảy ra. Người quan sát là một loại của tập trung tâm ý (=chỉ quán), và người quan sát làm cho bạn ly cách. Người quan sát sẽ làm cao lên, mạnh lên cái bản ngã kiêu mạn của bạn. Bạn càng trở thành người quan sát , bạn càng muốn như một hòn đảo – riêng biệt, không thân thiện, cách xa.
The observer can be practiced, the witness happens. The observer is a kind of concentration, and the observer keeps you separate. The observer will enhance, strengthen your ego. The more you become an observer, the more you will feel like an island—separate, aloof, distant.
Đã từ lâu rồi, các tăng sĩ trên khắp thế giới đã thực hành người quan sát. Họ có thể gọi nó là sự chiếu soi, nhưng nó không là sự chiếu soi. Sự chiếu soi là cái gì đó khác hẳn một cách toàn thể, khác hẳn một cách về phẩm tính. Người quan sát có thể được thực tập, được vun trồng ; bạn có thể trở thành một người quan sát tốt hơn qua sự thực hành nó.
Down the ages, the monks all over the world have been practicing the observer. They may have called it the witness, but it is not the witness.The witness is something totally different
, qualitatively different. The observer can be practiced, cultivated; you can become a better observer through practicing it.
Nhà huyền học chiếu soi. Nhưng hãy nhớ, sự chiếu soi là một sự duyên hội xảy ra, một phó sản — một phó sản của hiện hữu toàn thể trong bất cứ thời điểm nào, trong bất cứ tình huống nào, trong bất cứ kinh nghiệm nào.Tính toàn thể là chìa khoá: từ tính toàn thể khởi sinh sự-an-nhiên-không-sợ-hãi (vô uý thí) của sự soi chiếu.
Hãy quên tất cả về sự quan sát; sự quan sát đó sẽ cho bạn nhiều thông tin chính xác hơn về đối tượng bị quan sát, nhưng bạn sẽ vẫn cứ bất giác một cách tuyệt đối chính tâm thức của bạn
The mystic witnesses. But remember, witnessing is a happening, a byproduct—a byproduct of being total in any moment, in any situation, in any experience. Totality is the key: out of totality arises the benediction of witnessing.
Forget all about observing; that will give you more accurate information about the observed object, but you will remain absolutely oblivious of your own consciousness.
——————-
4. Trích pháp thoại “Talks On The Isha Upanishad – I AM THAT” (1981)–bản in 2008.
4.1. Để trả lời câu hỏi “What is god?” (trang 25),
Osho nói: “God is a presence, not a person… Dialogue is possible only between two persons, and God is not a person but a presence – like beauty, like joy. God simply means godliness.
“God là sự hiện diện, không phải là một người. Đối thoại thì khả hữu chỉ hai người, và god không là một người nhưng là sự hiện diện – cũng như đẹp, cũng như vui. God đơn giản nghĩa là viên dung”.
4.2. Osho cũng nói về thiền: ( trang 27-28 ):
“Thiền có hai phần: khởi đầu và kết thúc. Phần khởi đầu được gọi là dhyana (thiền) và phần kết thúc được gọi là Samadhi (tam-ma-địa, tam-ma-đề, đại-định). Thiền là hạt giống, tam-ma-địa là sự nở hoa.Thiền nghĩa là trở thành nhận biết sáng tỏ (= viên minh) với tất cả công trình (workings: tiến trình tạo tác) của tâm bạn, tất cả các lớp tầng của tâm bạn – ký ức của bạn, những tham ái của bạn, các niệm tưởng, các giấc mơ của bạn – trở thành viên minh về tất cả các thứ diễn tiến bên trong bạn.
Meditation has two parts: the beginning and the end.The beginning is called dhyana and the end called samadhi. Dhyana is the seed, samadhi is the flowering. Dhyana means becoming aware of all workings of your mind, all the layers of your mind—your memories, your desires, your thoughts, dreams—becoming of all that goes on inside you.
Thiền là viên minh (awareness) và tam-ma-địa là khi viên minh đã trở thành thâm sâu hết sức, tinh yếu hết sức, toàn thể hết sức nên viên minh giống như một ngọn lửa cháy (tam muội hỏa-ĐHP) đốt trọn mất toàn thể tâm và tất cả các tiến trình chức năng của tâm (=tư duy, phân biệt – ĐHP). Nó đốt trọn mất tất cả các các niệm tưởng, các tham ái, các tác ý, các hy vọng, các giấc mơ. Nó đốt trọn mất toàn thể các thứ mà tâm tích tập tràn đầy.”
Dhyana is awareness, and samadhi is when the awarenesshas become so de ep, so profound, so total that it is like a fire and it consumes the whole mind and all its functioning. It consumes thoughts, desires, ambitions, hopes, dreams. It consumes the whole stuff the mind is full of.
Samadhi là trạng thái viên minh có đó, nhưng không có cái gì (= chủ thể) đang viên minh ở trong bạn; sự chiếu soi (witnessing= Bản kiến) có đó, nhưng không có cái gì được chiếu soi.
Samadhi is the state when awareness is there, but there is nothing to be aware inside you; the witness is there, but there is nothing to be witnessed.
—————————–
5. Trích từ– Osho — I AM THE GATE (1972, in lại 2008 , trang 4-16)
Để trả lời câu hỏi đặt ra cho Osho “Who are You ?…”
Osho nói : (lược trích)
Thứ đến, bạn hỏi, Tôi là ai?, Tôi nói, “Tôi không là ”…Thế nên đối với tôi, câu hỏi “Ông là ai ?”chẳng có ý nghĩa. Khá hơn, (nên hỏi) “ Là cái gì?” câu hỏi liên quan duy nhất –không phải Ai? Nhưng Cái Gì ? Bởi vì cái Cái Gì có thể là toàn thể. Nó có thể hỏi về tính toàn thể, về tất cả những cái hiện hữu. Câu hỏi “ Là Cái Gì” thì có tính liên quan đến hiện hữu, và không có tính lưỡng biệt quan trọng trong nó, nó không làm ra phân cách. Nhưng câu hỏi “Ai?” làm ra phân cách ngay từ chính khởi đầu. Nó chấp thuận tính nhị nguyên tương đãi, tính vạn thù sai biệt, tính nhị nguyên tương đãi của những hữu tình (beings).
Chỉ có hữu tình (being) , không có những hữu tình (beings).
Khi tôi nói chỉ có hữu tình (being) điều đó nghĩa là chỉ có trạng thái hữu tình (beingness), bởi vì cái một (one) không thể hiện hữu mà không có cái khác (the other). Nếu không có cái khác (the other), lúc đó nói rằng cái một (one) hiện hữu là vô nghĩa.
Thế nên thực ra không có hữu tình (being), nhưng chỉ có trạng thái hữu tình (beingness)…
Secondly, you ask, who am I ? I say “I am not”…So to me, the question “ Who are you ?” makes no sense at all. Rather , “ What is?” is the only relevant question—not Who? But What? Because the What can be the whole. It can be asked about the totality , about all that exists.
The question “ What is?” is existential, and there is no dichotomy in it, it does not divide. But the question “Who?” divides from the very start. It accepts the duality, the multiplicity, the duality of beings.
There is only being, not beings.
When I say there is only being it means there is only beingness, because one cannot exist apart from the other. If there is no other, then to say that one exists is meaningless.
So there is not really being, but beingness….
Thế nên khi bạn hỏi , “Ông là Ai?”, tôi nói, “ Tôi là tâm thức”. Và câu trả lời này thì bao hàm tất cả — mọi thứ đều là tâm thức.Tôi trả lời chỉ như là một đại diện cho tất cả. Bạn có thể không nghe nói rằng bạn là tâm thức, bạn có thể không biết rằng bạn là tâm thức, nhưng tôi đang trả lời ngay cả cho bạn.Tâm thức hiện hữu, và khi tôi nói một cái gì hiện hữu, nghĩa là nó sẽ chẳng bao giờ ở trong trạng thái không hiện hữu. Nếu một cái gì đó có thể đi vào không hiện hữu, điều đó nghĩa là nó chẳng bao giờ thật sự hiện hữu. Nó đã chỉ có tính hiện tượng, nó chỉ đã hiện tướng hiện hữu…
So when you ask, “ Who are you?” I say , “ I am consciousness”. And this answer is all inclusive—everything is consciousness. I answer only as a representative of all. You may not
have heard that you are consciousness, you may not have known that you are consciousness , but I am answering even for you. Consciousness exists, and when I say something exists, it means that it will never be in nonexistence. If something can go into nonexistence, it would mean that it never really existed. It was only phenomenal, it just appeared to exist….
Thế nên tôi có thể kết luận rằng khi tôi nói “tôi”, thì bao hàm cả mọi người.Tôi là tâm thức, và tôi là tự do. Tôi dùng hai từ “tâm thức” và “tự do”, chỉ để làm cho những điều bất khả tư nghị bạn có thể hiểu nhiều hơn. Nói khác đi, cả hai có cùng một nghĩa.Tâm thức là tự do, tự do là tâm thức….
Tôi biết rằng bạn là tâm thức tự nó, không phải là một hữu tình có tâm thức.Tâm thức không phải là một tính đức (phẩm tính) được gắn kèm vào bạn. Bạn là tự do một cách toàn thể.
So I may conclude that when I say “I”, everyone is included. I am consciousness, and I am freedom. I use two words, “consciousness and “freedom”, only to make the mystery more understandable for you. Otherwise both have the same meaning. Consciousness is freedom , freedom is consciousness…
I know that you are consciousness itself, not the consciousness being. Consciousness is not a quality attached to you, you are consciousness.You are totally free.
—————–
6. Lời người dịch (ĐHP):
a) Có sự chiếu soi như đại viên kính chiếu soi, thế nên Kinh Kim Cương nói:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán
b) Lời kinh Lăng nghiêm được dẫn trong bản dịch để làm sáng tỏ những gì Osho đang nói.
c) Trong nhiều bản dịch các tác phẩm của Osho ( đã in thành sách), từ ngữ “a witness” , “the witness” được dịch là “nhân chứng”. Thế nên bản dịch này có các chú thích ghi rõ những điều Osho giảng về “the witness” bằng Anh ngữ và dịch sang Việt ngữ để độc giả thấy “the witness” không phải là “nhân chứng”.
d) người dịch bản văn này vẫn mong được độc gỉả từ bi chỉ giáo.
—————-
[Pháp thoại trích từ : Awareness: The Key to Living in Balance (St Martin’s Griffin: 2001) trang 94-115].
Thiền sư Osho (tên thật Chandra Mohan Jain (चन्द्र मोहन जैन)
s. 11 tháng 12 năm 1931 – m. 19 tháng Giêng năm 1990)
s. 11 tháng 12 năm 1931 – m. 19 tháng Giêng năm 1990)
Khi tâm không có niệm tưởng, đó là thiền (When the mind is without thought, it is meditation). Tâm không có niệm tưởng ở trong hai trạng thái – hoặc trong giấc ngủ sâu hoặc trong thiền. Nếu bạn có nhận biết sáng tỏ ( be aware: giác chiếu, viên minh) và các niệm tưởng biến mất, đó là thiền. Nếu các niệm tưởng biến mất và bạn trở thành không nhận biết (unaware: bất giác), đó là giấc ngủ sâu.
Giấc ngủ sâu và thiền có vài điều tương tự và vài điều khác biệt. Một điều tương tự — là trong cả hai, tư duy (= tiến trình tư tưởng) biến mất (thinking disappears). Một điều khác biệt – ở trong giấc ngủ sâu, nhận biết sáng tỏ (= giác chiếu, viên minh, tỉnh giác) biến mất (awareness disappears), nhưng trong thiền nhận biết sáng tỏ vẫn được bảo lưu. Như thế thiền thì tương đương giấc ngủ sâu cộng thêm nhận biết sáng tỏ (giác chiếu). Bạn được thư giãn, như trong giấc ngủ sâu, và có thêm nhận biết sáng tỏ, tỉnh thức một cách hoàn toàn – và sự vụ đó mang bạn đến cửa vào của những bất khả tư nghị (You are relaxed, as in deep sleep, and yet aware, fully awake—and that bring you to the door of mysteries).
Trong giấc ngủ sâu, bạn di chuyển vào vô-tâm (no-mind), nhưng bất-giác (but unawares). Bạn không biết bạn đang được đưa đến đâu, mặc dầu vào buổi sáng bạn sẽ cảm thấy tác động và hiệu ứng. Nếu đó là một giấc ngủ sâu thực sự đẹp đẽ, không có những giấc mơ phiền động đến bạn, thì vào buổi bạn sáng sẽ cảm thấy tươi tắn, mới mẻ, linh hoạt, trẻ trung lại, hăng hái và phong độ. Nhưng bạn không biết nó đã xảy ra như thế nào, nơi nào bạn đã đi. Bạn được đưa vào một loại hôn mê sâu, giống như là bạn chịu tác động của vài loại thuốc gây mê, và sau đó được đưa đi đó đây, ở đó bạn trở thành tươi tắn, trẻ trung, linh hoạt.
Trong thiền sự vụ nầy duyên hội xảy ra mà không dùng thuốc gây mê.
Như thế, thiền nghĩa là vẫn thư giãn như bạn đang trong giấc ngủ sâu và cộng thêm minh mẫn (So, meditation means remaining as you are in deep sleep and yet alert). Hãy tiếp tục giữ tính nhận biết sáng tỏ ở nơi thiền – hãy để niệm tưởng biến mất (= ra đi ), nhưng tính nhận biết sáng tỏ phải được giữ lại. Và chuyện nầy không khó, chỉ là chúng ta chưa cố gắng làm chuyện nầy, tất cả chỉ là vậy thôi…
Bạn chỉ phải tạo một không gian cho thiền tiến hành chức năng của nó; hãy cho thiền một cơ hội.
CÁI GÌ LÀ TÂM ? TÂM KHÔNG LÀ MỘT VẬT, NHƯNG LÀ MỘT SỰ SỰ.
Một vật thì có chất liệu trong nó, một sự sự (an event: sự sự ; hiện tượng) thì chỉ là một tiến trình(process). Một vật thì giống như một cục đá, một sự sự thì giống như một con sóng – nó hiện hữu, nhưng nó không có chất liệu vững bền (– it exists, but is not substantial). Nó chỉ là một sự-sự giữa gió và đại hải, một tiến trình, một hiện tượng.
Đây là một điều trước nhất phải được hiểu, tâm là một tiến trình giống như con sóng hoặc giống như một giòng sông, nhưng nó không có chất liệu trong nó. Nếu nó có chất liệu, lúc đó nó không thể bị tan biến. Nếu nó không có chất liệu, nó có thể biến mất không để lại một dấu vết nào cả.
Khi một con sóng biến mất vào trong đại hải, cái gì được để lại? Không gì cả, ngay cả một dấu vết. Thế nên những người đã nhận biết sáng tỏ, họ nói tâm giống như con chim đang bay trong bầu trời – không để lại dấu chân, ngay cả đến một vết tích đường bay. Con chim bay nhưng không để lại đường bay, không dấu chân.
Tâm là một tiến trình một cách tuyệt đối (The mind is just a process). Nói chi tiết hơn, tâm không hiện hữu – chỉ có các niệm tưởng (thoughts), các niệm tưởng chuyển biến quá nhanh khiến cho bạn nghĩ và cảm thấy là có cái gì đó hiện hữu ở đó trong sự tương tục ( In fact, mind doesn’t exist—only thoughts, thoughts moving so fast that you think and feel that something exists there in continuity ). Một niệm tưởng đến, một niệm tưởng khác đến, một niệm tưởng khác đến, và chúng tiếp tục… khoảng cách thì quá nhỏ bạn không thể thấy cái khoảng trống rỗng giữa một niệm tưởng và một niệm tưởng khác. Thế nên hai niệm tưởng trở thành bị nối với nhau, chúng thành một tương tục, và bởi vì có cái tương tục đó bạn nghĩ là có một cái tâm.
Có các niệm tưởng – không có “tâm”(There are thoughts—no “mind” ).Cũng như chỉ có những electron—không có “chất liệu” (Just as there are electrons—no “matter” ). Cũng giống như một đám đông… một đám đông hiện hữu theo một ý nghĩa, không hiện hữu theo một ý nghĩa khác. Chỉ có những cá nhân hiện hữu, nhưng những cá nhân cùng nhau cho một cảm giác như là họ là một. Một quốc gia hiện hữu và không hiện hữu–chỉ những cá nhân ở đó. Những cá nhân là những electron của một quốc gia , của một cộng đồng , của một đám đông.
Các niệm tưởng hiện hữu – tâm không hiện hữu; tâm là hiện tướng một cách tuyệt đối (Thoughts exist—mind doesn’t exist; mind is just the appearance). Và khi bạn nhìn vào tâm sâu hơn, tâm biến mất. Lúc đó chỉ có các niệm tưởng, nhưng khi “tâm” biến mất và chỉ có niệm tưởng cá biệt hiện hữu, nhiều sự sự vật vật được giải quyết một cách tức thời. Điều thứ nhất là một cách tức thời bạn chợt biết các niệm tưởng đó giống như những đám mây – chúng đến và đi, và bạn là bầu trời (=hư không). Khi không có tâm, một cách tức thời nhận thức đến với bạn rằng bạn chẳng còn bị can dự gì vào các niệm tưởng – các niệm tưởng có ở đó, đi ngang qua bạn giống như những đám mây bay qua bầu trời, hoặc làn gió bay qua các cây cối. Các niệm tưởng đang đi qua bạn, và chúng có thể đi qua bởi vì bạn là một rỗng thông mênh mông vô tận. Không có một cái gì ngăn ngại, cản trở. Không có tường vách nào hiện hữu để ngăn chặn chúng; bạn không là một hiện tượng bị dựng tường vách (you are not a walled phenomenon). Bầu trời của bạn thì vô tận viên dung (your sky is infinitely open) ; các niệm tưởng đến và đi. Và một khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng các niệm tưởng đến và đi, và bạn là người quán tâm (the watcher), sự chiếu soi (như đại viên kính) (the witness), sự làm chủ tâm (= sự hiểu thấu và vận dụng tâm không một chút khó khăn) đã được thành tựu ( And once you start feeling that thoughts come and go, and you are the watcher, the witness, the mastery of the mind is achieved).
Tâm không thể bị kiểm soát trong nghĩa thông thường. Trước nhất, bởi vì tâm không hiện hữu, làm sao bạn có thể kiểm soát nó? Thứ đến, ai sẽ kiểm soát tâm? Bởi vì không ai hiện hữu vượt ngoài tâm – và khi tôi nói không ai hiện hữu, tôi ý nói rằng không ai hiện hữu vượt ngoài tâm, chân không diệu hữu viên dung vô ngại (Because nobody exist beyond the mind – and when I say nobody exists, I mean that nobody exists beyond the mind, a nothingness). Ai sẽ kiểm soát tâm? Nếu một ai đó đang kiểm soát tâm, thì lúc đó nó sẽ chỉ là một phần của tâm kiểm soát một phần của tâm. Đó là cái bản ngã kiêu mạn là (That is what the ego is).
Tâm không thể bị kiểm soát theo cách đó. Nó không hiện hữu, và không ai kiểm soát nó. Chân không tự nội có thể thấy nhưng không thể kiểm soát.(The inner emptiness can see but cannot control). Nó có thể nhìn nhưng không thể kiểm soát – nhưng chính cái nhìn là cái kiểm soát, chính cái hiện tượng của sự quan sát, của sự chiếu soi, trở thành sự làm chủ bởi vì tâm biến mất. ( It can look but cannot control—but the very look is the control, the very phenomenon of observation, of witnessing, becomes the mastery because the mind disappears)…
Tâm chẳng là gì hết, mà chỉ là sự thiếu vắng của sự hiện diện của bạn. Khi bạn ngồi tĩnh lặng, khi bạn nhìn sâu vào tâm, tâm biến mất một cách dễ thấy. Các niệm tưởng sẽ vẫn ở đó, chúng hiện hữu, nhưng tâm sẽ không thể được tìm thấy.( Mind is nothing but the absence of your presence.When you sit silently, when you look deep into the mind, the mind simply disappears.Thoughts will remain, they are existential, but mind will not be found).
Nhưng khi tâm đã ra đi, lúc đó một nhận thức thứ nhì có thể khả hữu: bạn có thể thấy rằng các niệm tưởng không phải là những cái của bạn.( But when the mind is gone , then a second perception becomes possible: you can see that thoughts are not yours). Dĩ nhiên chúng đến và đôi khi chúng nghỉ ngơi (=lân la) đôi chút nơi bạn, và rồi chúng ra đi. Bạn có thể là một nơi lân la, nghỉ ngơi, nhưng chúng không khởi sinh ở trong bạn. Có bao giờ bạn chú ý rằng không một niệm cá biệt nào khởi sinh từ bạn? Không một niệm cá biệt nào sống suốt đời với bạn; chúng luôn luôn đến từ bên ngoài. Chúng không thuộc về bạn – không gốc rễ, không nhà cửa, chúng bay lượn. Đôi khi chúng nghỉ ngơi nơi bạn, tất cả chỉ vậy thôi, giống như một đám mây nghỉ ngơi nơi đỉnh ngọn đồi. Rồi sau đó chúng sẽ tự chúng ra đi (=vô sở trú); bạn không cần làm một điều gì cả. Nếu bạn quan sát một cách đơn thuần, sự kiểm soát được thành tựu.
Từ “kiểm soát” thì không hoàn hảo, bởi vì các từ không thể hoàn hảo. Các từ thuộc về tâm, thuộc về thế giới của các niệm tưởng. Từ không thể nào rất thâm nhập; chúng rất nông cạn.
Từ kiểm soát thì không hoàn hảo bởi vì không có ai để kiểm soát và không có một ai bị kiểm soát. Nhưng tạm nói, nó giúp hiểu ra một điều chắc chắn duyên hội xảy ra: khi bạn nhìn sâu sắc, tâm được kiểm soát – tức khắc bạn trở thành người chủ. Các niệm tưởng ở đó, nhưng chúng không còn là những người chủ của bạn. Chúng không thể làm bất cứ điều gì đối với bạn, chúng đơn giản đến và đi; bạn vẫn tiếp cận mà không bị ảnh hưởng (untouched) y như một đóa hoa sen giữa trận mưa. Những giọt nước mưa rơi trên những cánh hoa nhưng chúng tiếp tục lướt đi, chúng không gây ảnh hưởng tổn hại gì cả. Đóa hoa sen vẫn không bị ảnh hưởng.
Đó là lí do tại sao ở phương Đông hoa sen đã trở thành rất mực đặc trưng, rất mực biểu tượng. Biểu tượng cao cả nhất đến từ phương Đông là hoa sen. Nó mang toàn thể ý nghĩa của tâm thức Đông phương (Eastern consciousness). Nó nói: “Hãy hiện hữu như một đóa hoa sen, thế là đủ ( “Be like a lotus, that’s all”). Vẫn tiếp cận mà không bị ảnh hưởng gì cả và bạn đang giữ quyền kiểm soát. Vẫn tiếp cận mà không bị ảnh hưởng gì cả và bạn là người chủ”.
Thế nên có một quan điểm xem tâm giống như những con sóng – một nhiễu loạn (a disturbance). Khi đại hải lặng gió và yên tĩnh, không bị nhiễu loạn, những con sóng không ở đó (=tâm không ở đó). Khi đại hải loạn động trong đợt nước triều hoặc gió mãnh liệt, khi mà những đợt sóng cao cường dâng lên và toàn thể mặt nước hoàn toàn là một nhiễu loạn (chaos) có quan điểm xem tâm hiện hữu. Những cái này đều là những ẩn dụ chỉ để giúp bạn hiểu rõ một phẩm tính tự nội nhất định, không thể nói qua từ ngữ. Những ẩn dụ nầy rất thơ. Nếu bạn cố gắng hiểu chúng với cảm thông, bạn sẽ đạt đến một sự hiểu biết sáng tỏ, nhưng nếu bạn cố gắng hiểu chúngmột cách theo lý luận, bạn sẽ không hiểu được chúng. Chúng là những ẩn dụ.
Tâm là một sự phiền động của tâm thức, cũng như những con sóng là sự phiền động của đại hải.(Mind is a disturbance of consciousness, just as waves are a disturbance of the ocean). Một cái gì từ bên ngoài đã tiến vào – gió. Một cái gì đó từ bên ngoài đã duyên hội ảnh hưởng đến đại hải hoặc tâm thức – gió, hoặc những niệm tưởng, và có nhiễu động (chaos). Nhưng nhiễu động luôn luôn ở trên bề mặt. Các con sóng luôn luôn ở trên bề mặt. Không có sóng ở nơi chiều sâu thẳm– không thể có, bởi vì ở chiều sâu thẳm gió không thể vào được. Vì thế nên tất cả mọi thứ chỉ ở trên bề mặt. Nếu bạn di chuyển vào bên trong, kiểm soát được thành tựu. Nếu bạn di chuyển từ bề mặt vào bên trong, bạn đi tới trung tâm – bỗng nhiên, bề mặt có thể vẫn bị phiền động nhưng bạn không bị phiền động.
Toàn thể của khoa học của thiền chỉ là an-trụ trung-tâm, tiến trình di chuyển vào trung tâm, tiến trình lập gốc rễ nơi đó, an trụ nơi đó.Và từ nơi đó, toàn cảnh khách quan thay đổi. (The whole of science of meditation is nothing but centering, moving toward the center, getting rooted there, abiding there. And from there the whole perspective changes). Giờ đây các con sóng có thể vẫn ở đó, nhưng chúng không với tới bạn. Và giờ đây bạn có thể thấy chúng không thuộc về bạn, đó chỉ là một cuộc xung đột trên bề mặt với một cái gì đó từ ngoài vào.
Và từ nơi trung tâm, khi bạn nhìn, không lâu là cuộc xung đột chấm dứt. Không lâu là bạn thư giãn. Không lâu là bạn chấp thuận rằng dĩ nhiên có gió mạnh và các con sóng sẽ vẫn trỗi dậy, nhưng bạn không lo ngại, lúc đó có thể vui thích với cả các con sóng. Không có gì là sai trái nơi các con sóng.
Vấn đề khởi sinh khi bạn vẫn ở nơi mặt ngoài. Bạn ở trên con thuyền nhỏ trên mặt đại hải, và gió mạnh đến và hải triều dâng cao và toàn thể đại hải sóng cuồng gió loạn – dĩ nhiên bạn lo lắng, bạn sợ muốn chết đi được! Bạn ở trong nguy hiểm; bất cứ thời điểm nào các con sóng cũng có thể lật con thuyền nhỏ của bạn; bất cứ thời điểm nào cái chết có thể xảy ra. Bạn có thể làm gì với con thuyền nhỏ của bạn? Làm thế nào bạn kiểm soát bất cứ cái gì được? Nếu bạn tiến vào cuộc chiến với con sóng, bạn sẽ bị đánh bại. Chiến đấu không giúp được gì cả; bạn phải chấp thuận các con sóng. Thực ra, nếu bạn có thể chấp thuận các con sóng và để cho con thuyền của bạn, tuy nhỏ thế nào chăng nữa, di chuyển với các con sóng và không chống lại chúng, lúc đó chẳng có gì là nguy hiểm. Các con sóng ở đó; bạn đơn giản di chuyển theo chúng, không chống lại chúng. Bạn trở thành một phần của chúng. Lúc đó hạnh phúc kỳ diệu sinh khởi.
Đó là toàn thể nghệ thuật của lướt sóng – di chuyển với những con sóng, không chống lại chúng. Với chúng—như như thế, rằng bạn không khác biệt với chúng.( With them—so much so, that you are not different from them). Lướt sóng có thể trở thành đại thiền.( Surfing can become a great meditation). Nó có thể cho bạn những thoáng nhìn của tự nội bởi vì nó không phải là một cuộc chiến đấu, nó là một thõng-tay ( It can give you glimpses of the inner because it is not a fight, it is a let-go). Một khi bạn biết điều đó, ngay cả những con sóng cũng được thưởng thức…và điều đó có thể được biết khi bạn nhìn ngắm toàn thể hiện tượng từ trung tâm.
Cũng như nếu bạn là một lữ hành trong rừng rậm và những đám mây đã kéo đến và đang có nhiều ánh chớp, và bạn đã lạc lối và bạn đang cố gắng hối hả tìm về nhà. Đây là những gì xảy ra ở mặt ngoài – một lữ hành lạc lối, trời đầy mây, đầy chớp; chẳng bao lâu sẽ mưa như trút. Bạn đang tìm kiếm căn nhà, sự an ổn của căn nhà – lúc đó, bất thình lình bạn về đến nhà. Bây giờ bạn ngồi trong nhà, bây giờ bạn chờ đợi trận mưa – bây giờ bạn có thể thưởng thức. Bây giờ ánh chớp có vẻ đẹp riêng của chúng. Nó không đẹp như thế nếu bạn còn ở bên ngoài, lạc lối trong rừng rậm, nhưng bây giờ, ngồi trong căn nhà, toàn thể hiện tượng đẹp kỳ diệu. Bây giờ trận mưa đến và bạn thưởng thức, và sấm lớn trong những đám mây, và bạn thưởng thức bởi vì bây giờ bạn đã an toàn ở bên trong.
Một khi bạn tới được trung tâm, bạn khởi sự yêu thích thưởng thức bất cứ cái gì duyên hội xảy ra ở mặt ngoài.( Once you reach the center, you start enjoying whatsoever happens on the surface).Thế nên toàn thể sự vụ là không chiến đấu ở mặt ngoài, nhưng tốt hơn, hãy di chuyển âm thầm và từ từ vào trung tâm. Lúc đó có sự làm chủ, không một sự kiểm soát nào bị áp đặt, một sự làm chủ duyên khởi một cách tức thời khi bạn được an trụ trung tâm.
An trụ trung tâm (=Trung trụ) trong tâm thức là sự làm chủ tâm (Centering in consciousness is the mastery of the mind).
Thế nên đừng cố gắng “kiểm soát tâm” – ngôn ngữ có thể dẫn bạn lạc đường. Không ai có thể kiểm soát, và những ai cố gắng kiểm soát sẽ thành điên; họ đi đến suy nhược thần kinh một cách dễ hiểu, bởi vì cố gắng kiểm soát tâm chẳng là gì khác hơn chuyện một bộ phận của tâm cố gắng kiểm soát một bộ phận khác của tâm.
Bạn là ai, ai đang cố gắng kiểm soát? Bạn là một con sóng – dĩ nhiên một con sóng tôn giáo, cố gắng kiểm soát tâm .Và có những con sóng phi tôn giáo – có sinh hoạt tính dục và có giận dữ và có tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua- tranh (jealousy) và tính chiếm hữu và tính thù ghét, và hằng triệu con sóng phi tôn giáo.Và lúc đó có những con sóng tôn giáo – thiền, từ bi, đại bi. Nhưng những cái nầy chỉ có trên mặt ngoài, thuộc về mặt ngoài. Tôn giáo hoặc phi tôn giáo chẳng tạo nên sự sai biệt.
Tôn giáo thật thì ở trung tâm, và toàn cảnh khách quan duyên hội xảy ra xuyên qua trung tâm. Ngồi bên trong căn nhà của bạn, bạn nhìn ngắm cái mặt ngoài của chính bạn – mỗi sự sự vật vật thay đổi bởi vì toàn cảnh khách quan của bạn thì mới. Bất thình lình, bạn là người chủ. Thật ra bạn kiểm soát tự gốc rễ nên bạn có thể để mặt ngoài không bị kiểm soát, không còn lo nghĩ về mặt ngoài, nên bạn có thể vui thích với những con sóng, với những nước triều và những bão tố. Sự vụ nầy thì đẹp, tạo ra năng lực, tạo ra sức mạnh – không có gì để lo lắng về nó. Chỉ có những kẻ yếu đuối lo lắng về những niệm tưởng. Chỉ có những kẻ yếu đuối lo lắng về tâm. Những kẻ mạnh mẽ hơn thấm nhập toàn thể, và họ phong phú hơn nhờ toàn thể . Những kẻ mạnh mẽ chẳng bao giờ cự tuyệt bất cứ cái gì.
Cự tuyệt là do sự yếu đuối–bạn sợ hãi …
[Nói theo ngôn ngữ Bùi Giáng thì Osho đã “dìu ba đào về một chân trời khác”. ĐHP]
Chẳng có gì sai trái nơi tâm, chẳng có gì sai trái nơi niệm tưởng. Nếu có bất cứ điều gì sai trái, nó chỉ ở mặt ngoài — bởi vì vào lúc đó bạn không biết toàn thể và chịu đau thương, một cái đau thương có thể tránh được, bởi vì bạn chỉ biết một phần bộ của toàn thể và nhận thức có tính phần bộ và thiên lệch. Nhận thức toàn thể thì được cần đến và chỉ khả hữu từ nơi trung tâm – bởi vì từ nơi trung tâm bạn có thể nhìn khắp xung quanh tất cả các chiều kích, tất cả các hướng, nhìn toàn thể vòng ngoài của hiện hữu của bạn (at the whole periphery of your being). Và nó thì mênh mông. Thực ra nó thì giống như vòng ngoài của hiện hữu, tồn sinh.( And it is vast. In fact , it is the same as the periphery of existence). Một khi đã ở trung tâm (trung trụ), chẳng mấy lúc bạn trở thành rộng hơn và rộng hơn và lớn hơn và lớn hơn, và bạn cuối cùng là toàn thể, chẳng thiếu kém chút nào so với toàn thể. ( Once you are centered, by and by you become wider and wider and bigger and bigger, and you end with being the whole , not less than that)
Từ một quan điểm khác, tâm giống như cát bụi tích tập vào quần áo một lữ khách. Và bạn đã lữ hành và lữ hành và lữ hành suốt cả hàng triệu cuộc đời, và chẳng bao giờ được tắm một lần. Quá nhiều cát bụi bị tích tập một cách tự nhiên – chẳng có gì sai trái ở chuyện nầy. Nó phải là như thế – những lớp cát bụi và bạn nghĩ là những lớp nầy là nhân cách của bạn. Bạn trở thành bị đồng nhất quá đỗi với chúng, bạn đã sống với những lớp cát bụi nầy quá lâu nên chúng giống như cái làn da bao bọc của bạn. Bạn trở thành bị nhận diện đồng nhất với chúng (You have become identified).
Tâm là quá khứ, ký ức, cát bụi. Mọi người phải tích tập chúng – nếu bạn lữ hành, bạn sẽ tích tập cát bụi. Nhưng không có nhu cầu cần phải được nhận diện đồng nhất với chúng, không có nhu cầu trở thành một với chúng, bởi vì lúc đó bạn sẽ ở trong khốn đốn bởi vì bạn không phải là cát bụi, bạn là tâm thức. Omar Khayyám nói, “ Cát bụi đi tới cát bụi” (“Dust unto dust”) Khi một người chết, cái gì duyên hội xảy ra ?– cát bụi về với cát bụi. Nếu bạn tuyệt đối là cát bụi, lúc đó mỗi sự sự vật vật sẽ trở thành cát bụi, không còn lại gì cả. Nhưng có phải bạn tuyệt đối là cát bụi, những lớp của cát bụi, hoặc có cái gì đó bên trong bạn chẳng phải là cát bụi chút nào cả, chẳng là của trái đất chút nào cả?
Đó là tâm thức của bạn, viên minh giác chiếu của bạn. Viên minh giác chiếu là hiện hữu của bạn, tâm thức là hiện hữu của bạn, và cái cát bụi mà viên minh giác chiếu góp nhặt quanh nó (cái cát bụi đó ) là tâm của bạn (That’s your consciousness, your awareness. Awareness is your being, consciousness is your being, and the dust that awareness collects around it is your mind).
Có hai cách để giải quyết với cái cát bụi nầy. Đường lối “tôn giáo” thông thường là sẽ làm sạch quần áo, vất vả lau chùi thân thể. Nhưng những phương pháp nầy chẳng giúp ích được bao nhiêu… Những nhà tôn giáo cung cấp bạn xà phòng và các dung dịch hóa chất, các chỉ dẫn làm thế nào để giặt sạch cái nhơ bẩn, nhưng rồi những dung dịch thuốc tẩy nầy lại để lại dấu vết của chính chúng. Đó là lí do tại sao một người vô đạo đức có thể trở thành đạo đức nhưng vẫn còn nhơ bẩn–giờ đây trong cách thức đạo đức, nhưng người ấy vẫn còn nhơ bẩn. Đôi khi tình hình còn tệ hơn trước kia…
Tâm thì cũng giống như cát bụi thâu thập qua cả hàng triệu cuộc hành trình. Lập trường tôn giáo chân thật, lập trường tôn giáo cấp tiến đối nghịch với thông thường, là sẽ chỉ việc vứt hết quần áo đi. Không hơi đâu mà giặt giũ chúng, chúng không thể giặt sạch được. Chỉ việc di chuyển như con rắn tuột khỏi bộ da cũ và lúc đó cũng không thèm ngó lại nữa.
Từ một lập trường khác cấp tiến hơn nữa, tâm là quá khứ, ký ức, tất cả kinh nghiệm đã được tích lũy, có phần đúng của nó. Tất cả những gì bạn đã làm, tất cả những gì bạn đã nghĩ, tất cả những gì bạn đã ham muốn, tất cả những gì bạn đã mơ – tất cả mọi thứ, toàn thể quá khứ của bạn, ký ức của bạn – ký ức là tâm. Và trừ khi bạn tống xuất được ký ức, bạn sẽ không có khả năng làm chủ được tâm.
Làm thế nào cởi bỏ được ký ức? Nó thì luôn luôn ở đó, đi theo bạn.Thật ra, bạn là ký ức, vậy làm thế nào cởi bỏ được nó? Bạn là ai ngoại trừ những ký ức của bạn? Khi tôi hỏi “Bạn là ai?” bạn nói với tôi tên của bạn – đó là ký ức của bạn. Cha mẹ bạn đã cho bạn cái tên đó trước kia. Tôi hỏi bạn, “Bạn là ai?” và bạn nói về gia đình bạn, cha của bạn, mẹ của bạn – đó là một ký ức. Tôi hỏi bạn, “Bạn là ai?” và bạn nói với tôi về sự giáo dục của bạn, những văn bằng của bạn, rằng có một văn bằng cao học văn khoa, hoặc bạn là một tiến sĩ, hoặc bạn là một kỹ sư hoặc một kiến trúc sư. Đó là một ký ức.
Khi tôi hỏi bạn, “Bạn là ai?” nếu bạn thực sự nhìn vào bên trong, câu trả lời duy nhất của bạn có thể là “Tôi không biết”. Bất cứ cái gì bạn sẽ nói sẽ là ký ức, không phải bạn. Câu trả lời thật thà có thể là “Tôi không biết”, bởi vì biết chính mình là một điều chẳng phải ai cũng hết sức ao ước, mong cầu, hoặc hết sức chắc chắn (The only real, authentic answer can be “I don’t know” because to know oneself is the last thing). Tôi có thể trả lời tôi là ai, nhưng tôi sẽ không trả lời. Bạn không thể trả lời bạn là ai nhưng bạn lại có sẵn câu trả lời. Những người nhận biết sáng tỏ (= người tuệ tri), họ giữ im lặng về điều nầy.(Those who know, they keep silent about this). Bởi vì nếu tất cả ký ức đều bị liệng bỏ, và tất cả ngôn ngữ đều bị liệng bỏ, lúc đó tôi là ai không thể nói ra được. Tôi có thể nhìn vào bạn, tôi cho bạn một cử chỉ.Tôi có thể ở với bạn, với tất cả toàn thể hiện hữu của tôi – đó là câu trả lời của tôi. Nhưng câu trả lời không thể đưa ra bằng từ ngữ bởi vì bất cứ cái gì được đưa ra bằng từ ngữ sẽ là phần bộ của ký ức, phần bộ của tâm, không phải của tâm thức.
Làm thế nào để buông bỏ ký ức? Hãy quan sát chúng, chiếu soi chúng (Watch them, witness them). Và luôn luôn hãy nhớ, “Cái nầy đã ảnh hưởng đến tôi, nhưng cái nầy không phải là tôi”. Dĩ nhiên bạn đã được sinh ra trong một gia đình nhất định, nhưng cái nầy không phải là bạn; nó ảnh hưởng tới bạn, một tiến trình bên ngoài bạn. Dĩ nhiên, có người đặt tên (= danh) cho bạn; Danh thì tiện dụng và hữu ích nhưng danh không phải là bạn. Dĩ nhiên bạn có một hình tướng (= sắc), nhưng hình tướng không phải là bạn. Cái hình tướng chỉ là cái nhà mà tình cờ bạn duyên hội hiện thân vào. Và thân thể được trao tặng cho bạn bởi cha mẹ bạn. Đó là món quà tặng, nhưng nó không phải là bạn.
Hãy quan sát và phân biệt sáng tỏ (=liễu tri biện biệt) (Watch and discriminate). Đây là cái mà ở phương Đông gọi là vivek – phân biệt sáng tỏ — bạn liên tục phân biệt sáng tỏ. Cứ tiếp tục tiến trình phân biệt sáng tỏ – một sát na đến khi bạn đã loại bỏ tất cả những gì chẳng phải là bạn. Bỗng nhiên, ở trạng thái đó, bạn lần đầu tiên đối diện với chính bạn, bất ngờ bạn gặp gỡ chính hiện hữu của bạn. Hãy tiếp tục cắt đứt tất cả những căn cứ nhận diện không là bạn – gia đình, thân, tâm. Trong cái chân không đó, cái chân không diệu hữu viên dung vô ngại đó (In that emptiness), khi tất cả những gì không phải là bạn đã được liệng bỏ, bỗng nhiên hiện hữu của bạn hiển lộ. Đây là lần đầu tiên bạn gặp gỡ, kinh nghiệm chính mình và bạn (=that encounter: đương sự ) trở thành sự làm chủ. (Suddenly, in that state, you first time face yourself, you encounter your own being. Go on cutting all identities that you are not—the family, the body, the mind. In that emptiness, when everything that was not you has been thrown out, suddenly your being surfaces. For the first time you encounter yourself, and that encounter becomes the mastery.)
TIẾN TRÌNH TƯ TƯỞNG KHÔNG THỂ BỊ ĐÌNH CHỈ — KHÔNG PHẢI NÓ KHÔNG ĐÌNH CHỈ, NHƯNG NÓ KHÔNG THỂ BỊ ĐÌNH CHỈ. Nó đình chỉ theo lối tự nó thôi. Sự phân biệt nầy cần phải được hiểu thấu; nếu không, bạn có thể hóa điên khi đuổi theo tâm của bạn.
Vô-tâm không sinh khởi bằng cách đình chỉ tiến trình tư tưởng (thinking). Khi tiến trình tư tưởng không còn nữa, vô-tâm hiện hữu. Chính cái nỗ lực để đình chỉ sẽ tạo ra ưu tư lo lắng nhiều hơn, nó sẽ tạo ra xung đột, nó sẽ làm cho bạn chia chẻ ra. Bạn sẽ ở trong tình trạng luôn luôn có rối loạn, mê mờ ở trong bạn. Điều nầy sẽ chẳng giúp đỡ gì bạn.
Và ngay cả khi bạn thành công trong việc đình chỉ nó bằng áp lực được vài sát na, đó chẳng phải là một thành tựu gì cả — bởi vì những sát na nầy sẽ gần như chết, chúng sẽ không sống động. Bạn có thể cảm thấy một loại bất động nào đó (a sort of stillness)… nhưng không là sự tĩnh lặng (but not silence). Bởi vì sự bất động do sức ép bó buộc không phải là tĩnh lặng (Because a forced stillness is not silence). Ở bên dưới nó, sâu trong vô thức bất giác (deep in the unconscious) cái tâm bị áp bức vẫn tiếp tục hoạt động.
Thế nên, chẳng có cách nào để đình chỉ tâm. Nhưng tâm đình chỉ — đó là điều chắc chắn. Nó đình chỉ theo lối riêng của nó (It stops of its own accord).
Thế thì làm gì đây? – Câu hỏi là đích đáng. Hãy quan sát. Đừng cố gắng để đình chỉ. Chẳng có nhu cầu để làm bất cứ hành động nào chống lại tâm. Trước nhất, ai sẽ làm chuyện nầy? Đó sẽ là tâm chống lại chính tâm; bạn sẽ phân chia tâm thành hai: một bên là tâm cố gắng làm kẻ chỉ huy, kẻ quyền thế hung hăng nhất (top dog), gắng sức giết phía bên kia cũng là tâm – đó là điều phi lý. Đó là một trò chơi ngu ngốc, nó có thể đưa bạn đến điên khùng. Đừng cố gắng đình chỉ tâm hoặc tiến trình tư tưởng(=tư duy) – chỉ quan sát nó, không ngăn cản nó, để tự nhiên cho nó. Hãy để cho nó toàn thể tự do.Hãy để nó chạy nhanh như nó muốn; bạn không cố gắng bằng bất cứ cách nào để kiểm soát nó. Bạn dễ dàng tưởng tượng bạn như là sự chiếu soi (của đại viên kính ) ( you just be a witness).
Tâm thì đẹp tuyệt! Tâm là một trong những cơ chế vận hành đẹp nhất. Khoa học chưa từng bao giờ có thể tạo ra bất cứ một cái gì song hành với tâm. Tâm vẫn còn là tác phẩm tuyệt vời, phức tạp quá đỗi, quyền lực mênh mông quá đỗi, với biết bao nhiêu là đường hướng khả dụng quá đỗi. (Mind still remains the masterpiece, so complicated, so tremendously powerfull, with so many potentialities). Hãy quan sát tâm! Hãy thọ hưởng tâm.
Và chẳng nên quan sát như một kẻ thù nghịch, bởi vì nếu bạn nhìn vào tâm như một kẻ thù nghịch, bạn không thể quan sát. Bạn có sẵn thiên kiến rồi, bạn đã sẵn sàng chống lại rồi. Bạn đã quyết định sẵn rằng có một cái gì đó sai trái với tâm – và bạn đã kết luận sẵn rồi. Và bất cứ khi nào bạn nhìn vào ai đó như một kẻ thù nghịch, bạn chẳng bao giờ nhìn sâu, bạn chẳng bao giờ nhìn vào trong mắt; bạn tránh né.
Quan sát tâm là nhìn vào tâm với tình thương yêu sâu sắc, với lòng kính trọng sâu sắc, sự tôn quý — tâm thì cực kỳ tốt đẹp đối với bạn ( Watching the mind means to look at it with deep love, with deep respect, reverence — it is God’s gift to you //God’s gift = extremely good). Chẳng có gì sai trái trong tâm do chính nó cả. Chẳng có gì sai trái nơi tiến trình tư tưởng chính nó cả. Nó là một tiến trình tốt đẹp, cũng như các tiến trình khác. Những đám mây bay trên bầu trời rất đẹp – sao không những niệm tưởng bay trong bầu trời tự nội? Những đóa hoa đến với cây cỏ rất đẹp – sao không những niệm tưởng nở hoa trong hiện hữu của bạn sao? Giòng sông chảy về đại hải rất đẹp – sao không giòng chảy này của các niệm tưởng chảy từ một nơi nào đó để về đến một nơi chốn đầy ẩn mật? Nó không đẹp hay sao? Hãy nhìn với lòng tôn quý thâm sâu. Hãy đừng là một kẻ chiến đấu, hãy là một người yêu thương.
( Nothing is wrong in mind itself. Nothing is wrong in thinking itself. It is a beautiful process, as other processes are. Clouds moving in the sky are beautiful—why not thoughts moving in the inner sky?Flowers coming to the tree are beautiful – why not thoughts flowerings in your being? The river running to the ocean is beautiful – why not this stream of thoughts running from somewhere to an unknown destiny? Is it not beautiful? Look with deep reverence. Don’t be a fighter, be a lover).
Hãy quan sát những phân biệt tinh tế của tâm, những chuyển hướng bất thình lình, những chuyển hướng diệu mỹ. Những thao thức băn khoăn (jumps) và những siêu việt trực nhập (leaps) bất thình lình, những cuộc chơi mà tâm vẫn liên tục trình diễn; (The sudden jumps and leaps, the games that mind goes on playing); những giấc mơ mà tâm vẫn dệt – sự tưởng tượng, ký ức, ngàn lẻ một dự phóng mà tâm vẫn sáng tạo – hãy quan sát! Đứng đó thản nhiên, xa cách, không can dự, không lâu bạn bắt đầu cảm thấy… Sự quan sát của bạn trở thành càng sâu, viên minh giác chiếu của bạn càng trở thành minh-diệu diệu-minh, những khoảng trống bắt đầu sinh khởi, những khoảng trống rỗng (The deeper your watchfulness becomes, the deeper your awareness becomes, gaps start arising, intervals). Một niệm tưởng đến, một niệm tưởng khác chưa đến, và có một khoảng trống. Một đám mây đã đi qua, một đám mây khác đang đến, và có một khoảng trống.
Trong những khoảng trống nầy, bạn sẽ có những sơ ngộ về vô-tâm. Bạn sẽ có hương vị của vô-tâm – hãy gọi nó là hương vị của Thiền, hoặc Đạo, hoặc Du già.(In those gaps, for the first time you will have glimpses of no-mind. You will have the taste of no-mind—call it the taste of Zen, or Tao, or Yoga). Trong những khoảng trống rỗng, bỗng nhiên bầu trời trong sáng và mặt trời đang chiếu sáng. Bỗng nhiên thế giới thành viên-dung bất-khả-tư-nghị, bởi vì tất cả các chướng ngại đều được buông bỏ; cái màn che trên các con mắt của bạn không còn ở đó nữa. (Suddenly the world is full of mystery, because all barriers are dropped; the screen on your eyes is no longer there). Bạn thấy rõ ràng, bạn thấy thấu suốt. Toàn thể hiện hữu trở thành trong sáng, diệu-minh. (You see clearly, you see penetratingly. The whole existence becomes transparent)
Vào lúc bắt đầu, những sự vụ nầy sẽ hoàn toàn là những sát na hiếm hoi, vài lần và cách xa nhau. Nhưng chúng sẽ cho bạn những sơ ngộ, những thoáng nhìn thấy tam-ma-địa là gì (glimpses of what Samadhi is). Những tích tập nhỏ của tĩnh lặng – chúng sẽ đến và chúng sẽ biến mất, nhưng giờ đây bạn biết rằng bạn đang trên con đường mòn đúng ( Small pool of silence – they will come and they will disappear, but now you know that you are on the right track). Bạn lại bắt đầu quan sát. Khi một niệm tưởng đi qua, bạn quan sát nó; một khi khoảng trống rỗng đi qua, bạn quan sát nó. Những đám mây cũng đẹp; tia sáng mặt trời không bị mây che cũng đẹp.(Clouds are also beautiful; sunshine also is beautiful). Giờ đây bạn không là một người lựa chọn (a chooser) (= giờ đây bạn là một người vô cầu: choiceless). Giờ đây bạn không có một cái tâm cố chấp (a fixed mind). Bạn không nói: “Tôi thích những khoảng trống rỗng thôi”. Đó là ngu ngốc, bởi vì một khi bạn bị dính mắc chỉ muốn những khoảng trống rỗng thôi, bạn đã lại quyết định chống lại tiến trình tư tưởng. Và lúc đó những khoảng trung gian trống rỗng nầy sẽ biến mất. Chúng duyên hội xảy ra chỉ khi bạn xa cách, thản nhiên. Chúng duyên hội xảy ra, chúng không thể bị đem đến. Chúng duyên hội xảy ra, bạn chẳng thể bắt ép chúng duyên hội xảy ra. Chúng là những sự-sự duyên hội xảy ra tự nhiên ( They are spontaneous happenings ) .
Tiếp tục quan sát. Hãy để các niệm tưởng đến và đi – bất cứ nơi nào chúng muốn đi. Chẳng có gì là sai trái cả. Đừng cố gắng sắp xếp và đừng cố gắng chỉ huy. Hãy để các niệm tưởng di chuyển trong tự do hoàn toàn. Và lúc đó những khoảng trung gian trống rỗng lớn hơn sẽ đến. Bạn sẽ được chấp thuận và hỗ trợ với những chứng ngộ nhỏ ( You will be blessed with small satoris). Đôi khi nhiều phút sẽ qua đi và không niệm tưởng nào ở đó; sẽ không có niệm tưởng đến và đi – một sự tĩnh lặng hoàn toàn, không bị phiền động.
Khi những khoảng trống rỗng lớn hơn đến, bạn sẽ có một sự sáng tỏ viên minh mới sinh khởi. Bạn sẽ không chỉ có sự sáng tỏ viên minh (clarity) để thấy thế giới, bạn sẽ có thể thấy được cả thế giới nội quan. Với những khoảng trống rỗng đầu tiên bạn sẽ nhìn vào thế giới – cây cối sẽ xanh hơn chúng nhìn ngay bây giờ, bạn sẽ được bao trùm bởi âm nhạc vô tận, âm nhạc của các thế giới.
Bạn sẽ bỗng nhiên hiện hữu trong tính viên dung của vạn hữu (= ở trong vạn hữu với hai tướng ẩn-mật hiển-hiện đồng thời thành tựu), bất khả tư nghị, bất khả thuyết (You will be suddenly in the presence of godliness – ineffable, mysterious).
Tính viên dung của vạn hữu tiếp cận bạn, tuy vậy bạn không thể nắm bắt tính viên dung của vạn hữu. Tính vạn hữu viên dung (tính vạn hữu ẩn-mật hiển-hiện viên dung) ở trong tầm tiến tới của bạn tuy vậy cũng vượt ngoài nữa (Touching you, although you cannot grasp it. Within your reached yet beyond).
Với những khoảng trống rỗng lớn hơn, sự sự như thế sẽ duyên hội xảy ra bên trong. Vạn-hữu ẩn-hiển viên-dung-thân không những chỉ ở bên ngoài, bạn sẽ bỗng nhiên thấy thân ấy cũng ở bên trong. Viên-dung-thân không những chỉ ở trong cái được thấy (= sở kiến), mà còn ở trong người thấy nữa (= năng kiến), nội quan và ngoại quan (God will not only the outside, you will suddenly be surprised, he is inside also. He is not only in the seen, he is in the seer also – within and without). Không lâu …
Nhưng đừng dính mắc vào sự sự đó, cả nội quan và ngoại quan. Sự dính mắc là thực phẩm cho tâm tiếp tục. Chiếu soi mà không dính mắc là con đường đình chỉ tâm mà không cần dụng công để đình chỉ nó. ( Nonattached witnessing is the wayto stop it without any effortto stop it)
[ĐHP : Kinh Lăng nghiêm= vì chẳng có năng kiến và sở kiến, cho nên nói kiến còn phải lìa kiến (kiến do ly kiến) – || tương đồng với ý của Osho đang nói ].
Và khi bạn khởi sự hưởng thọ những sát na diệu lạc (blissfull moments), khả năng của bạn duy trì chúng cho những thời kỳ lâu dài hơn bắt đầu khởi lên. Nói một cách rốt ráo, cuối cùng là một ngày nào đó bạn trở thành người chủ. Lúc đó, khi bạn muốn tư duy, bạn tư duy ; nếu niệm tưởng được cần đến, bạn sử dụng nó. Nếu niệm tưởng không cần đến bạn cho phép nó yên nghỉ. Không phải là tâm không còn ở đó nữa – tâm ở đó, nhưng bạn có thể (sử ) dụng nó hoặc không (sử) dụng nó…
Khi tôi đang nói với bạn, tôi đang sử dụng tâm – chẳng có cách nào khác để nói. Khi tôi đang trả lời những câu hỏi của bạn, tôi đang dùng tâm – chẳng có cách nào khác. Tôi phải đáp ứng và quan liên và tâm là một cơ chế diệu mỹ,. Khi tôi không nói với bạn và khi tôi có một mình,
không có tâm – bởi vì tâm là một phương tiện truyền thông để liên lạc cảm thông. Khi tôi ngồi một mình, nó không được cần đến. (When I am not talking to you and I am alone, there is no mind – because it is a medium to relate through.When I sit alone , it is not needed)…
Khi bạn chết, tất cả mọi thứ trong thân bạn đều sẵn sàng để chết – ngoại trừ tâm.
Thế nên ở Đông phương chúng ta nói tâm rời thân và đi vào một cửa ngõ tái sinh khác, bởi vì nó chưa sẵn sàng chết. Tái sinh là của tâm.Và một khi bạn chứng đạt trạng thái vô-tâm, lúc đó sẽ không có tái sinh, lúc đó bạn sẽ chết một cách giản dị. Và với cái tiến trình chết của bạn, mọi thứ đều bị tan biến – thân bạn, tâm bạn – chỉ có linh tâm tự chiếu của bạn sẽ ở lại ( your witnessing soul: linh thể chiếu soi của bạn = linh tâm tự chiếu = tâm tính = Tính = your consciousness: tâm thức của bạn). Tâm thức đó thì vượt ngoài thời gian và không gian. Lúc đó bạn sẽ trở thành đồng nhất với hiện hữu ; lúc đó bạn không còn ly cách nữa với hiện hữu. Sự ly cách đến từ tâm.
(The rebirth is of the mind. And once you have attained the state of no-mind, then there will be no rebirth.Then you will simply die. And with your dying, everything will be dissolved—your body, your mind—only your witnessing soul will remain. That is beyond time and space. Then you become one with existence, then you are no longer separate from it.The separation comes from the mind).
Nhưng không có cách nào đình chỉ tâm bằng cưỡng bách –hãy đừng bạo lực. Hãy tiến một cách yêu thương với lòng tôn quý sâu thẳm, và sự đình chỉ đó sẽ bắt đầu duyên hội xảy ra tự nó và tự nhiên. Bạn chỉ quan sát và đừng có vội vàng.
Tâm thời hiện đại vội vã rất nhiều. Nó muốn những phương pháp tức thời để đình chỉ tâm. Do lý do đó, ma túy có sự hấp dẫn (Hence, drugs have appeal). Bạn có thể bức bách tâm đình chỉ bằng cách dùng hóa chất, ma túy, nhưng bạn lại đang bạo hành với cơ chế tiến trình tâm. Nó thì không tốt đẹp, nó có tính phá hoại.Trong cách nầy bạn sẽ không trở thành chủ của tâm. Bạn có khả năng đình chỉ tâm bằng sử dụng ma túy, nhưng lúc đó ma túy sẽ trở thành chủ của bạn – bạn sẽ không trở thành chủ. Bạn thay đổi các người chủ của bạn một cách dễ thấy, và bạn đã chỉ thay đổi sang cái tệ hại hơn. Bây giờ ma túy sẽ nắm giữ quyền lực trên bạn, chúng sẽ chiếm hữu bạn; không có chúng, chẳng thấy bạn ở nơi đâu cả (Now the drug will hold the power over you, they will possess you; without them you will be nowhere).
Thiền không phải là một nỗ lực chống lại tâm, nó là một con đường hiểu biết sáng tỏ tâm. Nó là một cách yêu thương chiếu soi tâm– nhưng dĩ nhiên bạn phải kiên nhẫn.Tâm nầy mà bạn đang mang trong đầu đã sinh khởi hàng trăm năm, hàng ngàn năm.Tâm nhỏ bé của bạn mang theo toàn thể kinh nghiệm của con người.Và không chỉ của con người – của thú vật, của chim, của cây cỏ, của đá; bạn đã trải qua tất cả các kinh nghiệm nầ.Tất cả mọi chuyện duyên hội xảy ra cho tới nay đều cũng duyên hội xảy ra trong bạn.(All that has happened up to now has happened in you also).
Nói vắn tắt, bạn mang theo toàn thể kinh nghiệm của tồn sinh. Đó là cái tâm bạn là.(In a small nutshell, you carry the whole experience of existence. That’s what your mind is). Thực ra nói nó là của bạn thì không đúng. Nó có tính tập thể, nó thuộc về tất cả chúng ta.Tâm lí học hiện đại đang tiến gần đến chúng, đặc biệt là những phân tích kiểu Jung đang tiến gần đến nó, và chúng đã bắt đầu cảm thấy cái gì đó giống như vô thức tập thể (a collective unconscious).Tâm bạn không là của bạn – nó thuộc về tất cả chúng ta. Những thân thể của chúng ta rất cách biệt; những tâm của chúng ta không cách biệt quá như thế. Những thân thể của chúng ta rõ ràng là cách biệt, những tâm của chúng ta có những phần bao trùm lên nhau và những tâm tính của chúng ta đều là một. (Our bodies are clearly separate, our minds are overlap — and our souls are one).
Những thân thể thì cách biệt, những tâm thì có phần chung nhau và những tâm tính là một. Tôi không có một tâm tính riêng biệt và bạn không có một tâm tính riêng biệt ( Bodies are separate, minds overlapping, and souls are one. I don’t have a different soul and you don’t have a different soul). Ở ngay chính trung tâm của hiện hữu tồn sinh chúng ta hội hiệp và là một. Đó là cái “Tâm Tính” là – điểm hội hiệp của tất cả. Giữa Tâm Tính và thế giới (= Giữa Tính và tướng)—“thế giới” nghĩa là những sắc thể — là tâm (At the very center of existence we meet and are one.That’s what “God” is – the meeting point of all. Between the God and the world – the “world” means the bodies – is mind).
Tâm là một cầu nối, một cầu nối giữa sắc thân (tướng) và tâm tính (the soul) giữa thế giới (tướng) và Tính Viên Dung (God). Hãy đừng tìm cách phá hủy tâm!
Nhiều người đã cố gắng phá hủy tâm qua pháp Du già (Yoga). Đó là sử dụng sai trái pháp Du già. Nhiều người cố gắng phá hủy tâm qua tư thế của thân thể, qua tiến trình thở – Sự sự đó đem đến những đổi thay hóa học vi tế bên trong cơ thể. Tỉ dụ, nếu bạn đứng bằng cách để đầu trên mặt đất trong shirshasan, một tư thế của Du già, bạn có thể phá hủy tâm rất dễ dàng. Bởi vì khi đó máu đổ xô quá nhiều, giống như một trận lụt, vào trong cái đầu… khi bạn đứng bằng cái đầu bạn, đó là cái bạn đang cố gắng làm cho máu đổ xô vào đầu. Cơ chế vận hành của não bộ thì yếu đuối. bạn đang làm tràn ngập nó với máu, các mô mềm yếu sẽ chết. Đó là lý do tại sao bạn chẳng bao giờ gặp một nhà Du già thông minh – không – những nhà du già thì, nhiều hoặc ít, ngu ngốc. Những thân thể của họ thì mạnh khỏe, điều đó đúng, mạnh khỏe – nhưng tâm của họ chết hoàn toàn. Bạn sẽ không thấy ánh mờ nhạt của trí tuệ thông minh. Bạn sẽ thấy một thân thể rất vạm vỡ, giống như động vật, nhưng không hiểu sao con người lại biến mất.
Đứng bằng cách đầu chạm đất, bạn đang bức bách máu của bạn đi vào đầu qua trọng lực. Đầu cần máu, nhưng chỉ một lượng nhỏ; và chuyển vận một cách thong thả, không như một trận lụt. Chống với trọng lực, lượng máu nhỏ bé đi tới đầu, trong một cách tĩnh lặng. Nếu quá nhiều máu tới vào trong đầu, nó trở nên phá hoại.
Pháp Du già đã được dùng để giết tâm. Tiến trình thở cũng được dùng để giết tâm – có những nhịp vận của hơi thở, những rung động vi tế của hơi thở, nó có thể thẳng tay đối với cái tâm dễ bị làm suy yếu (drastic to the delicate mind). Tâm có thể bị chúng phá hủy. Đó là những trò gian trá, những cạm bẫy có từ lâu rồi (old tricks). Những trò mới đây cung cấp bởi khoa học: LSD, cần sa, và các thứ khác; càng ngày càng nhiều các loại ma túy cao cấp sẽ được cung cấp hoặc sớm hoặc muộn. Tôi không tán thành đình chỉ tâm. Tôi tán thành quan sát tâm (quán tâm). Tâm đình chỉ theo lối tự nó – và lúc đó tâm thì diệu mỹ. Khi cái gì đó xảy ra mà không có bạo lực, nó có vẻ đẹp của chính nó; nó là sự phát triển tự nhiên…
Tâm là tiến trình nở hoa của bạn – hãy đừng ép buộc nó bằng bất cứ cách nào. Tôi chống lại tất cả những ép buộc và chống tất cả các loại bạo lực, và đặc biệt bạo lực được nhắm hướng vào chính bạn.
Chỉ hoàn toàn quan sát – trong nguyện ước, yêu thương, tôn quý sâu thẳm – và thấy cái duyên hội xảy ra. Những linh diệu duyên hội xảy ra tự nhiên. Không có nhu cầu phải kéo lui , và đẩy tới.
Làm sao để đình chỉ tiến trình tư tưởng? Tôi nói chỉ hoàn toàn quan sát, ở trạng thái nhạy bén, minh mẫn ( I say just watch, be alert). Và buông bỏ cái ý tưởng về đình chỉ, nói khác đi thì cái ý tưởng nầy nó sẽ đình chỉ cái chuyển hóa tự nhiên của tâm. Hãy buông bỏ cái ý tưởng về đình chỉ nầy ! Bạn là ai để đình chỉ ?
Ở độ cao nhất, hãy thưởng thức. Và không có điều gì là sai trái – ngay cả những niệm tưởng phi đạo đức, những niệm tưởng được-gọi phi đạo đức, đi qua tâm bạn, hãy để cho chúng đi qua. Không có gì sai trái. Bạn ở lại không bị dính mắc, thì chẳng có cái tai hại nào được tạo ra cả. Nó hoàn toàn chỉ là hư cấu, bạn đang xem một phim ảnh nội tâm. Hãy để cho nó đi theo lối nó và nó sẽ dẫn bạn, chẳng phải đợi lâu, tới trạng thái vô-tâm. Quán một cách rốt ráo vượt tới một đỉnh cao nhất trực nhập vô- tâm (Allow it its own way andit will lead you , by and by, to the state of no-mind. Watching ultimately culminates in no-mind) ( by and by = before long || nhất siêu trực nhập: một khi vượt lên là vào ngay).
Vô-tâm không phải là đối nghịch với tâm; vô-tâm là vượt ngoài tâm. Vô-tâm không đến bằng cách giết và phá hủy tâm ; vô-tâm đến khi bạn đã hiểu biết sáng tỏ tâm một cách toàn thể nên tiến trình tư tưởng(=tư duy) không còn được cần đến nữa – sự hiểu biết sáng tỏ đã thay thế nó.
————————————–
CHÚ THÍCH:
1- Từ ngữ
Mind: tâm (Sanskrit: citta; Hán Việt: tâm);
No-mind: Vô-tâm. Diệu tâm. Chân tâm. Thật tâm. Tự tâm.
Awareness: Sanskrit: vidya ||Tạng ngữ: rig-pa || nhận biết sáng tỏ; viên minh; giác chiếu; viên minh giác chiếu; minh; giác.
Consciousness (Sanskrit:Vijnàna). Tâm thức; thức; thần thức.(Hán Việt: thức).
Thought, thoughts: niệm, tưởng, niệm tưởng, ý tưởng, tư tưởng, tâm niệm.
Meditation: thiền (Sanskrit: dhyàna). (Hán Việt: Thiền, thiền na).
Àkasa (Sanskrit) : bầu trời, khoảng không, hư không, thái hư không, không giới.
Soul: tâm tính, tính, tánh, linh tâm , linh thể.
God: viên dung thân.
Godliness: tính viên dung của vạn hữu.
The watcher: người quán tâm , sự quán.
The witness: mirroring = sự chiếu soi (như đại viên kính) , linh tâm tự chiếu .
Thinking: tiến trình tư tưởng, tư duy, phân biệt.
Đình chỉ tiến trình tư tưởng = chấm dứt phân biệt.
————————-
1.1. Awareness thông thường có nghĩa là — knowing hoặc –being aware , và trong ngữ cảnh phật học và ngữ cảnh của Osho thì từ gốc Sanskrit là –Vidya.
1.2. Vidya có mấy nghĩa chính :
1. as a general term encompassing all experiences of consciousness and mental events : thuật ngữ tổng quát bao gồm tất cả các kinh nghiệm của thức và các tiến trình tâm ý
2. as intelligence or mental aptitude : thông tuệ hoặc khả năng tâm ý.
3. as a science or knowledge-based discipline : một khoa học hoặc chuyên ngành về nhận thức học.
4. as a pure awareness : thanh tịnh giác ( bản giác , …)
1.3. Giác: có nhiều nghiã. || Nghĩa V: Tên gọi chung của tâm và tâm sở. Đây là cái biết của tâm, tâm sở khi duyên theo cảnh (đối tượng)
[ Phật quang Đại Từ Điển.Thích Quảng Độ dịch, in năm 2000, trang 1936]
—————
1.4. Awareness:
the original state of mind, fresh, vast, luminous, and beyond thought.|| =Viên minh giác chiếu: trạng thái khởi nguyên của tâm, tươi tắn, mênh mông, quang minh (=chiếu sáng), và vượt ngoài niệm tưởng (=vượt ngoài tâm niệm )
1.5. Awareness:
On the subtlest level, awareness in the form of wisdom can be associated with colors, forms and even energies and subtances, such as the subtle neurotransmitter red and white drops in the subtle body.
More usually, awareness is differentiated from the material realm, and a complex mind-matter dualism is sustained as a way of keeping mindful of the elusive nature of reality, ever resisting the naïve reductionism of dogmatic theorists.
( The Tibetan Book of the Dead. Translated by R.A.F. Thurman. 1994. )
Tạm dịch : Viên minh giác chiếu : Ở trên mức độ vi tế nhất, viên minh giác chiếu trong sắc tướng của trí tuệ bát nhã có thể đi với những màu sắc, những hình tướng, và ngay cả những năng lượng và những chất liệu, tỉ dụ những giọt vi tế tín hiệu thông chuyển thần kinh màu đỏ và trắng trong thân vi tế.
Gần như luôn luôn, viên minh giác chiếu thì được phân biệt với cõi vật chất, và một chủ nghĩa nhị nguyên đối đãi có cả phức hợp tâm-chất liệu thì được hỗ trợ như là một cách quan tâm đến cái tính chất không sao hiểu nổi của thật tại, vẫn chống lại chủ nghĩa thu giảm của những lí thuyết gia theo chủ nghĩa giáo điều.
——————————————-
2- Trích từ : “ Osho: Con đường của Phật “. Ni sư Trí Hải dịch. Ưu đàm ( Canada )xuất bản (Bộ 12 quyển ; quyển 11, trang 136)
[Osho nói: Phật nói , ]
“Vượt qua bờ bên này
Và qua cả bờ kia
Ngoài bờ này bờ kia
Nơi không có đầu mối
Và cũng không chấm dứt”
Đấy là ý nghĩa của vượt qua khỏi cả bờ bên kia – khi bản ngã, tâm thức, tất cả đều chấm dứt, tan biến vào cái phổ quát, nhiệm mầu.
Khi vượt qua cả bờ nầy lẫn bờ kia, không gì còn lại, thì cũng đừng mang theo cái không ấy.
“Đừng sợ, hãy ra đi
Hãy luôn luôn thiền định”
Thiền định ở đây là ngắm nhìn, quán chiếu những dục vọng trong bạn, hiểu rõ thực chất của chúng… rồi để chúng tự rơi rụng như lá khô lìa cành vào mùa thu.
“Sống trong sạch an tịnh”
—————————–
3.-Trích từ : Osho –“ Meditation the first and the last freedom” bản in 1996.
[ Osho nói : ( trang 28) ]
Người quan sát không là sự chiếu soi.
Người quan sát (chủ thể quan sát; năng kiến) và cái bị quan sát (sở kiến) là hai phương diện của sự chiếu soi. Khi chúng biến mất vào trong nhau, khi chúng tan hoà vào trong nhau, khi chúng là một, sự chiếu soi ( như đại viên kính chiếu soi) lần đầu tiên sinh khởi trong toàn thể tính.
The observer is not the witness.
The observer and the observed are two aspects of the witness. When they disappear into each other, when they melt into each other, when they are one, the witness for the first time arises in totality.
Người quan sát nghĩa là chủ thể, và cái bị quan sát nghĩa là khách thể: chủ thể quan sát nghĩa là cái ở bên ngoài cái bị quan sát và cái bị quan sát nghĩa là cái ở bên trong. Cái bên trong và cái bên ngoài không thể ly biệt; chúng đều hội hiệp, chúng chỉ có thể hội hiệp. Khi sự hội hiệp, hoặc chính xác hơn sự viên nhất, được kinh nghiệm, sự soi chiếu khởi sinh.
The observer means the subjective, and the observed means the objective: the observer means that which is outside the observed, and the observed means that which is inside. The inside and the outside can’t be separate; they are together, they can only be together.When this togetherness, or rather oneness, is experienced, the witness arises.
Bạn không thể thực tập sự soi chiếu. Nếu bạn thực tập sự soi chiếu, bạn sẽ đang thực tập chỉ
(là) người quan sát, và người quan sát thì không là sự soi chiếu.
You cannot practice the witness. If you practice the witness, you will be practicing only the observer, and the observer is not the witness.
Thế rồi phải làm gì đây? Sự hoà hiệp phải được làm xong, sự hợp nhất phải được làm xong.Thấy một đoá hoa hồng, hãy quên một cách hoàn toàn rằng có một đối tượng được thấy và một chủ thể là người thấy. Hãy để cho vẻ đẹp của thời điểm này (sát na này), sự an-ổn-không-sợ-hãi (=sự vô úy thí) của thời điểm này, cả hai chan chứa bạn, thế nên đoá hoa hồng và bạn không còn li biệt nữa, chỉ có bạn trở thành một tiết điệu, một bài ca, một hoan hỉ ngất ngây
[ Osho nói đến-- sự an-ổn-không-sợ-hãi (= sự vô-úy-thí) của thời điểm này—cũng là nói đến vô-úy-thí của bồ tát đạo ]
Then what has to be done? Melting has be done, merging has to be done. Seeing a rose flower, forget completely that there is an object seen and a subject as a seer. Let the beauty of the moment, the benediction of the moment, overwhelm you both, so the rose and you are no more separate, but you become one rhythm, one song, one ectasy.
Khi sự soi chiếu (= linh tâm tự chiếu) khởi sinh, không có chủ thể đang chiếu soi và không có cái khách thể đang bị chiếu soi. Sự chiếu soi là một thanh tịnh kính (=đại viên kính), chiếu soi không tính (=tính không). Ngay chính lúc đó mà nói nó là một cái kính chiếu soi thì không đúng; tốt hơn hãy nói nó là một sự soi chiếu. Nó là một tiến trình động lực của hoà hiệp và hợp nhất; nó không phải là một hiện tượng bất động, nó là một giòng chuyển động. Đoá hoa hồng giăng trải bạn, bạn giăng trải vào trong đoá hoa hồng; nó là một tương dung của hiện hữu.
When witness arises, there is nobody who is witnessing and there is nothing to be witnessed. It is a pure mirror, mirroring nothing. Even to say it is a mirror is not right; it would be better to say it is a mirroring. It is more dynamic process of melting and merging; it is not a static phenomenon, it is a flow. The rose reaching you, you reaching into the rose; it is a sharing of being..
Người quan sát có thể được thực tập, sự soi chiếu duyên hội xảy ra. Người quan sát là một loại của tập trung tâm ý (=chỉ quán), và người quan sát làm cho bạn ly cách. Người quan sát sẽ làm cao lên, mạnh lên cái bản ngã kiêu mạn của bạn. Bạn càng trở thành người quan sát , bạn càng muốn như một hòn đảo – riêng biệt, không thân thiện, cách xa.
The observer can be practiced, the witness happens. The observer is a kind of concentration, and the observer keeps you separate. The observer will enhance, strengthen your ego. The more you become an observer, the more you will feel like an island—separate, aloof, distant.
Đã từ lâu rồi, các tăng sĩ trên khắp thế giới đã thực hành người quan sát. Họ có thể gọi nó là sự chiếu soi, nhưng nó không là sự chiếu soi. Sự chiếu soi là cái gì đó khác hẳn một cách toàn thể, khác hẳn một cách về phẩm tính. Người quan sát có thể được thực tập, được vun trồng ; bạn có thể trở thành một người quan sát tốt hơn qua sự thực hành nó.
Down the ages, the monks all over the world have been practicing the observer. They may have called it the witness, but it is not the witness.The witness is something totally different
, qualitatively different. The observer can be practiced, cultivated; you can become a better observer through practicing it.
Nhà huyền học chiếu soi. Nhưng hãy nhớ, sự chiếu soi là một sự duyên hội xảy ra, một phó sản — một phó sản của hiện hữu toàn thể trong bất cứ thời điểm nào, trong bất cứ tình huống nào, trong bất cứ kinh nghiệm nào.Tính toàn thể là chìa khoá: từ tính toàn thể khởi sinh sự-an-nhiên-không-sợ-hãi (vô uý thí) của sự soi chiếu.
Hãy quên tất cả về sự quan sát; sự quan sát đó sẽ cho bạn nhiều thông tin chính xác hơn về đối tượng bị quan sát, nhưng bạn sẽ vẫn cứ bất giác một cách tuyệt đối chính tâm thức của bạn
The mystic witnesses. But remember, witnessing is a happening, a byproduct—a byproduct of being total in any moment, in any situation, in any experience. Totality is the key: out of totality arises the benediction of witnessing.
Forget all about observing; that will give you more accurate information about the observed object, but you will remain absolutely oblivious of your own consciousness.
——————-
4. Trích pháp thoại “Talks On The Isha Upanishad – I AM THAT” (1981)–bản in 2008.
4.1. Để trả lời câu hỏi “What is god?” (trang 25),
Osho nói: “God is a presence, not a person… Dialogue is possible only between two persons, and God is not a person but a presence – like beauty, like joy. God simply means godliness.
“God là sự hiện diện, không phải là một người. Đối thoại thì khả hữu chỉ hai người, và god không là một người nhưng là sự hiện diện – cũng như đẹp, cũng như vui. God đơn giản nghĩa là viên dung”.
4.2. Osho cũng nói về thiền: ( trang 27-28 ):
“Thiền có hai phần: khởi đầu và kết thúc. Phần khởi đầu được gọi là dhyana (thiền) và phần kết thúc được gọi là Samadhi (tam-ma-địa, tam-ma-đề, đại-định). Thiền là hạt giống, tam-ma-địa là sự nở hoa.Thiền nghĩa là trở thành nhận biết sáng tỏ (= viên minh) với tất cả công trình (workings: tiến trình tạo tác) của tâm bạn, tất cả các lớp tầng của tâm bạn – ký ức của bạn, những tham ái của bạn, các niệm tưởng, các giấc mơ của bạn – trở thành viên minh về tất cả các thứ diễn tiến bên trong bạn.
Meditation has two parts: the beginning and the end.The beginning is called dhyana and the end called samadhi. Dhyana is the seed, samadhi is the flowering. Dhyana means becoming aware of all workings of your mind, all the layers of your mind—your memories, your desires, your thoughts, dreams—becoming of all that goes on inside you.
Thiền là viên minh (awareness) và tam-ma-địa là khi viên minh đã trở thành thâm sâu hết sức, tinh yếu hết sức, toàn thể hết sức nên viên minh giống như một ngọn lửa cháy (tam muội hỏa-ĐHP) đốt trọn mất toàn thể tâm và tất cả các tiến trình chức năng của tâm (=tư duy, phân biệt – ĐHP). Nó đốt trọn mất tất cả các các niệm tưởng, các tham ái, các tác ý, các hy vọng, các giấc mơ. Nó đốt trọn mất toàn thể các thứ mà tâm tích tập tràn đầy.”
Dhyana is awareness, and samadhi is when the awarenesshas become so de ep, so profound, so total that it is like a fire and it consumes the whole mind and all its functioning. It consumes thoughts, desires, ambitions, hopes, dreams. It consumes the whole stuff the mind is full of.
Samadhi là trạng thái viên minh có đó, nhưng không có cái gì (= chủ thể) đang viên minh ở trong bạn; sự chiếu soi (witnessing= Bản kiến) có đó, nhưng không có cái gì được chiếu soi.
Samadhi is the state when awareness is there, but there is nothing to be aware inside you; the witness is there, but there is nothing to be witnessed.
—————————–
5. Trích từ– Osho — I AM THE GATE (1972, in lại 2008 , trang 4-16)
Để trả lời câu hỏi đặt ra cho Osho “Who are You ?…”
Osho nói : (lược trích)
Thứ đến, bạn hỏi, Tôi là ai?, Tôi nói, “Tôi không là ”…Thế nên đối với tôi, câu hỏi “Ông là ai ?”chẳng có ý nghĩa. Khá hơn, (nên hỏi) “ Là cái gì?” câu hỏi liên quan duy nhất –không phải Ai? Nhưng Cái Gì ? Bởi vì cái Cái Gì có thể là toàn thể. Nó có thể hỏi về tính toàn thể, về tất cả những cái hiện hữu. Câu hỏi “ Là Cái Gì” thì có tính liên quan đến hiện hữu, và không có tính lưỡng biệt quan trọng trong nó, nó không làm ra phân cách. Nhưng câu hỏi “Ai?” làm ra phân cách ngay từ chính khởi đầu. Nó chấp thuận tính nhị nguyên tương đãi, tính vạn thù sai biệt, tính nhị nguyên tương đãi của những hữu tình (beings).
Chỉ có hữu tình (being) , không có những hữu tình (beings).
Khi tôi nói chỉ có hữu tình (being) điều đó nghĩa là chỉ có trạng thái hữu tình (beingness), bởi vì cái một (one) không thể hiện hữu mà không có cái khác (the other). Nếu không có cái khác (the other), lúc đó nói rằng cái một (one) hiện hữu là vô nghĩa.
Thế nên thực ra không có hữu tình (being), nhưng chỉ có trạng thái hữu tình (beingness)…
Secondly, you ask, who am I ? I say “I am not”…So to me, the question “ Who are you ?” makes no sense at all. Rather , “ What is?” is the only relevant question—not Who? But What? Because the What can be the whole. It can be asked about the totality , about all that exists.
The question “ What is?” is existential, and there is no dichotomy in it, it does not divide. But the question “Who?” divides from the very start. It accepts the duality, the multiplicity, the duality of beings.
There is only being, not beings.
When I say there is only being it means there is only beingness, because one cannot exist apart from the other. If there is no other, then to say that one exists is meaningless.
So there is not really being, but beingness….
Thế nên khi bạn hỏi , “Ông là Ai?”, tôi nói, “ Tôi là tâm thức”. Và câu trả lời này thì bao hàm tất cả — mọi thứ đều là tâm thức.Tôi trả lời chỉ như là một đại diện cho tất cả. Bạn có thể không nghe nói rằng bạn là tâm thức, bạn có thể không biết rằng bạn là tâm thức, nhưng tôi đang trả lời ngay cả cho bạn.Tâm thức hiện hữu, và khi tôi nói một cái gì hiện hữu, nghĩa là nó sẽ chẳng bao giờ ở trong trạng thái không hiện hữu. Nếu một cái gì đó có thể đi vào không hiện hữu, điều đó nghĩa là nó chẳng bao giờ thật sự hiện hữu. Nó đã chỉ có tính hiện tượng, nó chỉ đã hiện tướng hiện hữu…
So when you ask, “ Who are you?” I say , “ I am consciousness”. And this answer is all inclusive—everything is consciousness. I answer only as a representative of all. You may not
have heard that you are consciousness, you may not have known that you are consciousness , but I am answering even for you. Consciousness exists, and when I say something exists, it means that it will never be in nonexistence. If something can go into nonexistence, it would mean that it never really existed. It was only phenomenal, it just appeared to exist….
Thế nên tôi có thể kết luận rằng khi tôi nói “tôi”, thì bao hàm cả mọi người.Tôi là tâm thức, và tôi là tự do. Tôi dùng hai từ “tâm thức” và “tự do”, chỉ để làm cho những điều bất khả tư nghị bạn có thể hiểu nhiều hơn. Nói khác đi, cả hai có cùng một nghĩa.Tâm thức là tự do, tự do là tâm thức….
Tôi biết rằng bạn là tâm thức tự nó, không phải là một hữu tình có tâm thức.Tâm thức không phải là một tính đức (phẩm tính) được gắn kèm vào bạn. Bạn là tự do một cách toàn thể.
So I may conclude that when I say “I”, everyone is included. I am consciousness, and I am freedom. I use two words, “consciousness and “freedom”, only to make the mystery more understandable for you. Otherwise both have the same meaning. Consciousness is freedom , freedom is consciousness…
I know that you are consciousness itself, not the consciousness being. Consciousness is not a quality attached to you, you are consciousness.You are totally free.
—————–
6. Lời người dịch (ĐHP):
a) Có sự chiếu soi như đại viên kính chiếu soi, thế nên Kinh Kim Cương nói:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán
b) Lời kinh Lăng nghiêm được dẫn trong bản dịch để làm sáng tỏ những gì Osho đang nói.
c) Trong nhiều bản dịch các tác phẩm của Osho ( đã in thành sách), từ ngữ “a witness” , “the witness” được dịch là “nhân chứng”. Thế nên bản dịch này có các chú thích ghi rõ những điều Osho giảng về “the witness” bằng Anh ngữ và dịch sang Việt ngữ để độc giả thấy “the witness” không phải là “nhân chứng”.
d) người dịch bản văn này vẫn mong được độc gỉả từ bi chỉ giáo.
—————-