-Chuyên gia độc lập của LHQ về nghèo cùng cực nhấn mạnh - “Những lợi ích của tăng trưởng kinh tế cần phải được san sẻ đồng đều,”
GENEVA, 31/05/2011 – “Việt Nam đã đạt được những thành công đầy ấn tượng trong giảm nghèo, xứng đáng được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và hoan nghênh. Cùng với những tiến bộ đáng ngợi ca đó, vẫn còn rất nhiều việc phải làm để giải quyết tình trạng vẫn còn nhiều người nghèo và sự gia tăng bất bình đẳng trong thụ hưởng quyền con người,” bà Magdalena Sepúlveda, chuyên gia độc lập của LHQ đã nói như vậy trong bài trình bày báo cáo chuyến đi của bà đến Việt Nam trước Ủy ban về Quyền con người của LHQ, được tổ chức tại Giơ-ne-vơ vào thứ Ba tuần vừa rồi.*
Bà Sepúlveda nói: “Trong chuyến đi của tôi, tôi đã chứng kiến sự cách biệt rất lớn giữa các vùng miền, cũng như giữa khu vực nông thôn và thành phố. Sự bất bình đẳng về thu nhập, cơ hội có việc làm, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và khả năng được tiếp cận tới các dịch vụ của Chính phủ thể hiện rất rõ ràng ở các nhóm dân tộc”. Vào năm 2008, ít nhất có 23 triệu người vẫn còn sống trong tình trạng nghèo cùng cực, và các nhóm dân tộc thiểu số chiếm khoảng 56% trong tổng số này. Phụ nữ, trẻ em, người già, người khuyết tật và dân nhập cư là những nhóm người đặc biệt dễ bị tổn thương do nghèo tại Việt Nam.
Chuyên gia độc lập cũng nhấn mạnh tới thực tế là “tình trạng nghèo ngày càng có khả năng kháng cự bền bỉ đối với tăng trưởng và bất bình đẳng vẫn liên tục ở mức cao. Vì thế, cần có những nỗ lực lớn hơn nữa để đảm bảo rằng tăng trưởng mang lại lợi ích cho tất cả mọi người”. Liên quan tới vấn đề này, chuyên gia độc lập hoan nghênh Chiến lược mới về An sinh xã hội giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ, trong đó đã nhìn nhận rất rõ quyền của mọi người dân tới an sinh xã hội và khẳng định cần phải ưu tiên người nghèo và các nhóm dân số dễ bị tổn thương. Tuy nhiên, bà cũng cảnh báo rằng hiện vẫn còn nhiều vấn đề sẽ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện có hiệu quả một chương trình bảo vệ xã hội lấy quyền con người làm định hướng, trong đó có thực tế là các chương trình bảo vệ xã hội hiện hữu vẫn chỉ có độ bao phủ rất hạn chế do các tiêu chí lựa chọn nghiêm ngặt và các mức hưởng lợi chưa phù hợp.
Chuyên gia độc lập khuyến nghị Chính phủ chú ý đặc biệt đến việc tăng cường hỗ trợ cho các cơ chế bảo trợ xã hội, tính đến một tỷ lệ dân số rất hạn chế đang được hưởng lợi từ các chính sách bảo hiểm chính thức hiện hữu. “Cần có những nỗ lực to lớn để đảm bảo cho những người đang làm việc trong thị trường phi chính thức, lao động nông thôn và các doanh nghiệp nhỏ cũng có thể được thụ hưởng sự bảo vệ của bảo hiểm xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người lao động khác,” bà nhấn mạnh.
(*) Nhấn vào đây để tải và đọc toàn bộ báo cáo
END
Magdalena Sepúlveda là một chuyên gia độc lập trong lĩnh vực quyền con người và nghèo cùng cực từ tháng Năm 2008. Bà là một Luật sư người Chi lê, hiện đang làm việc với cương vị Giám đốc Nghiên cứu tại Hội đồng quốc tế về Chính sách Quyền con người tại Giơ-ne-vơ. Bà có rất nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực kinh tế, quyền xã hội và văn hóa và có bằng Tiến sĩ về Luật quốc tế về Quyền con người tại Utrecht University.
Xem thêm thông tin về nhiệm vụ và công việc của Chuyên gia độc lập tại: http://www.ohchr.org/EN/Issues/Poverty/Pages/PovertyExpertIndex.aspx
Nếu cần thông tin và có các yêu cầu về báo chí, xin liên hệ: Lidia Rabinovich (Tel: +41 22 917 9763 / email:lrabinovhc@ohchr.org hoặc viết và gửi về
Công nhân khốn đốn vì vay nặng lãi(Tuổi trẻ).
TT - Đời sống khó khăn, thiếu trước hụt sau đang khiến nhiều công nhân rơi vào bẫy cho vay nóng với lãi suất “cắt cổ”.
Trưa 30-5, trong vai những công nhân cần đóng tiền thuê phòng trọ, chúng tôi vào một điểm chuyên cho công nhân vay nặng lãi ở ấp Tiền Lân, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, gần Khu công nghiệp (KCN) Vĩnh Lộc, TP.HCM. Ném ánh mắt dò xét, bà chủ tên Thi nói thẳng: “Ở đây chỉ cho khách quen vay thôi, lãi suất khá cao đó”.
Lãi suất “cắt cổ”
Nhưng khi biết có người quen giới thiệu, bà Thi niềm nở: “Thế muốn vay bao nhiêu? Tiền lãi 10% mỗi tháng nhe. Vay một ngày rồi trả cũng tính một tháng tiền lãi”. Thắc mắc về khoản lãi suất quá cao, bà Thi gằn giọng: “10% có gì mà cao, ở đây ai cũng vay như thế cả”.
Hỏi về thủ tục, bà ta liền gạt tay bảo: “Không cần, chỉ cần ký tên xác nhận thôi. Đã có người quen giới thiệu, tui sẽ nắm được chỗ ở, quê quán, công ty của em làm mà”.
Sau khi điện thoại cho người giới thiệu, bà Thi đưa 1 triệu đồng cho khách và lấy ra một cuốn sổ cũ dày cộp trong đó ghi rất chi tiết tên, số tiền vay nóng và phía dưới là chữ ký xác nhận của nhiều con nợ. Bà ta nhanh chóng ghi ngày tháng cho vay, tên và số tiền... rồi bảo chúng tôi ký xác nhận. “Lo mà trả gốc lẫn lãi cho đúng thời hạn nhe, đừng để khó xử cho nhau” - bà dặn.
Quanh KCN Vĩnh Lộc có tới bốn điểm cho vay nặng lãi với lãi suất 10-12%/tháng. Chị Ngọc Trinh, công nhân KCN Vĩnh Lộc, nói: “Phần lớn người vay là công nhân, vay tính tiền lãi theo tuần và theo tháng. Những người không quen biết phải có người quen đứng ra bảo lãnh và thủ tục cực kỳ đơn giản là chỉ cần ký tên xác nhận là xong”.
Tương tự, chị Thu Hồng - công nhân may ở Q.Tân Phú, TP.HCM - cho biết quanh khu vực công ty, gần KCN Tân Bình có 4-5 điểm cho vay nóng sẵn sàng cho công nhân vay 24/24 giờ từ vài triệu đến 10 triệu đồng, lãi suất thấp nhất là 10%, còn cao lên đến 30%/tháng.
“Biết nhiều công nhân rất cần tiền, kiểu gì cũng phải vay nên có chỗ bắt chẹt bằng cách nâng mức lãi suất kinh hoàng đến 30% mỗi tháng và bắt trả tiền lãi mỗi tuần một lần. Sợ công nhân không có tiền trả, chủ nợ còn canh đúng ngày phát lương để chặn lấy bằng được tiền” - chị Hồng nói.
Trưa 29-5, chúng tôi liên hệ với ông Hùng, một “cò” cho vay nặng lãi gần KCN Bình Đường (Bình Dương). Ông Hùng là người chuyên móc nối làm khâu trung gian cho công nhân có nhu cầu vay vốn. Qua điện thoại, ông cho biết: “Muốn vay nóng bao nhiêu cũng có nhưng phải là người quen biết và phải có giấy cam kết”.
Mức lãi mà ông Hùng môi giới cho công nhân các KCN tại đây vay là 15%/tháng và số tiền vay tối đa là 20 triệu đồng/người kèm giấy cam kết sẽ trả gấp ba lần vốn nếu không trả lãi đúng hẹn trong ba tháng.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, khu vực quanh KCN Bình Đường là “lãnh địa” của các nhóm cho vay nặng lãi khét tiếng gồm Vương, Lĩnh “trắng”, Linh “Hà Nội” và Tính “chó”... Lãi suất cho vay lên đến 15%/tháng và đều do ông Hùng làm mối ăn tiền hoa hồng. “Con mồi” công nhân nào có nhu cầu sẽ thông qua ông bảo lãnh để giới thiệu đến một trong những nhóm này thì mới được vay tiền.
“Nói thiệt nhé, không cần thiết lắm hoặc còn xoay xở được ở đâu thì cố mà xoay chứ bọn này toàn những đứa mới ra tù nên léng phéng là nó xử ngay” - người giới thiệu chúng tôi với ông Hùng cho biết.
Không chỉ có các đường dây cho vay nặng lãi xuất hiện khá nhiều quanh các KCN, “cò” còn len lỏi vào cả trong các công ty, nơi công nhân làm việc để hoạt động. Chị Nguyễn Thị Hoa, công nhân Công ty may Nam Yang (KCN Sông Mây, Đồng Nai), cho biết thời gian gần đây trong công ty xuất hiện nhiều điểm “ngầm” cho vay nóng với lãi suất 10%/tháng của một số công nhân “có điều kiện” đứng ra tổ chức. Tiền được huy động từ bên ngoài, công nhân muốn vay chỉ cần thế chấp thẻ ATM.
“Công nhân cần tiền vay nóng theo dạng này nhiều lắm. Sợ con nợ “chẹn” tiền nên đến kỳ lĩnh lương, công nhân phải đọc mật khẩu ATM cho người cho vay để họ kiểm tra, rút giùm rồi lấy cả tiền gốc lẫn lời, xong việc họ trả thẻ” - chị Hoa nói.
Thế thân vì vay nóng
Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay có hơn 20 đường dây, đầu mối lớn chuyên cho công nhân vay nóng với lãi suất khá cao
10-30%/tháng, tập trung gần các KCN Vĩnh Lộc, Tân Tạo, Sóng Thần, Bình Đường, Tân Bình, Khu chế xuất Linh Trung... Số tiền cho vay bình quân tối đa 10 triệu đồng/người và thường buộc các con nợ phải hoàn trả đầy đủ tối đa trong vòng sáu tháng vì sợ công nhân bỏ trốn. Nếu không trả đủ lãi định kỳ thì phải hoàn trả gấp 3-5 lần số tiền đã mượn. Nếu con nợ bỏ trốn, chủ nợ cho đàn em về tận quê truy lùng.
Cách đây ba tháng, một nam công nhân ở KCN Tân Tạo vì nợ 10 triệu đồng không có khả năng chi trả lãi lẫn vốn nên định bỏ trốn về quê ở Rạch Giá, Kiên Giang thì bị chủ nợ là ông H. “đen”, một chủ đường dây cho vay khét tiếng gần KCN này, cho người truy đuổi. Anh này đã bị đàn em ông H. đánh gãy tay khi vừa ra khỏi nhà. Sau đó, người thân của anh phải vay mượn khắp nơi để hoàn trả gấp ba lần tiền vốn cộng với tiền lãi còn nợ mới được chủ nợ bỏ qua.
Gần KCN Sóng Thần còn có ba đường dây cho vay nóng “ưu đãi” cho nữ công nhân vay do bà L.T., bà M. “xoăn”, bà H. “đen” làm chủ. Sau một thời gian không có khả năng chi trả, một số nữ công nhân đành phải chịu thế thân trả nợ bằng cách vào phục vụ tại các quán cà phê ôm, karaoke ôm, matxa... do chủ nợ giới thiệu, “sang tay” lại cho các quán. T.M.H., tiếp viên của quán karaoke D trên xa lộ Hà Nội, cho biết vì vay 8 triệu đồng không có khả năng trả nên cô bị chủ nợ yêu cầu phải xin nghỉ việc tại công ty để vào làm cho quán karaoke do bà ta giới thiệu nếu không muốn bị hành hung.
Hằng tháng cô phải trích tiền “bo” (vì làm không lương) trả lại cho bà ta tiền nợ cùng tiền lãi, còn số tiền hoa hồng chủ nợ được hưởng khi “sang tay” con nợ cho quán là bao nhiêu thì H. không được biết.
Nước mắt công nhân
Tháng 6-2010, chị Đ.Y.N. (công nhân tại KCN VSIP, Bình Dương) vay nóng 5,5 triệu đồng với lãi suất 10,5%/tháng (đóng tiền lãi 600.000 đồng/tháng). Trả tiền lãi được hai tháng, chị N. không có khả năng chi trả tiếp nên nhiều lần bị chủ nợ tìm gặp đòi nợ. Tháng 11-2010, chủ nợ yêu cầu chị N. phải thanh toán cả tiền vay gốc lẫn lãi và ra điều kiện: “Nếu không trả đủ số tiền như đã hẹn thì phạt gấp đôi số tiền gốc”.
Sợ bị phạt nên chị N. đã mượn bạn bè được 2 triệu đồng đưa trước cho chủ nợ và hứa sẽ trả số tiền còn lại trước Tết Nguyên đán. Nhưng không ngờ dịp tết công ty không phát thưởng nên chị N. đành một lần nữa khất nợ và sợ bị hành hung nên tìm cách lánh mặt.
Ngày 4-4-2011, chị N. đang điều khiển xe gắn máy trong KCN thì bị chủ nợ gọi lại nói chuyện. Chủ nợ thông báo số tiền mà chị N. phải trả cả gốc lẫn lãi là 14 triệu đồng (tính cả tiền phạt gấp đôi) và viết giấy nợ yêu cầu chị phải ký xác nhận. Sau đó, chị N. tiếp tục bị đe dọa: “Nếu không trả đủ số tiền như đã hẹn sẽ bị cắt tai để nhớ đời”. May mắn là vụ việc sau đó đã được Công an phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, Bình Dương bắt quả tang, xử lý.
Anh Tường - công nhân may ở Q.Tân Phú, TP. HCM - kể hai tháng trước, bạn của anh làm việc tại một công ty trong KCN Tân Tạo, do thiếu tiền trả phòng trọ nên được giới thiệu vay nóng 1 triệu đồng với mức lãi suất 10%/tháng tại một điểm cho vay nặng lãi gần KCN. Lương bấp bênh, chưa đủ chi trả tiền lãi nên sau đó bạn anh đành khất nợ và hứa hoàn trả số tiền sớm.
Sau vài lần khất nợ, chủ nợ “nổi khùng” thuê hẳn một nhóm “đầu gấu” chặn ngay trước cổng công ty, đợi lúc bạn anh vừa tan ca để “tính sổ”. Vừa ra khỏi công ty, đang trên đường về phòng trọ, người bạn này đã bị chặn đường đánh túi bụi, kèm theo đó là lời cảnh báo: “Nếu không trả sớm thì tụi tao sẽ chặt chân mày”.
Anh Đức Trường, công nhân may ở KCN Vĩnh Lộc, cho biết những tháng công ty không có hàng, chậm phát lương thì buộc nhiều công nhân phải vay nóng với lãi suất “cắt cổ” để trang trải cuộc sống.
“Lãi suất 10% là quá cao so với mức lãi suất bình thường nhưng tụi tui vẫn phải vay. Vì nếu không thì làm sao có tiền lo cho cuộc sống, đành nhắm mắt đánh liều. Một khi đã dính vào vay nặng lãi thì cứ phải mượn chỗ này trả chỗ kia cho đúng thời hạn, chứ dây dưa dễ bị đánh lắm. Cuối cùng, rất nhiều công nhân cuốn vào vòng xoáy nợ nần không gỡ ra được” - anh Trường tâm sự.
Tràn lan các tờ rơi cho vay tín chấp Nhiều công nhân tại các KCN ở TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương... phản ảnh: gần đây xuất hiện rất nhiều tờ rơi cho vay tín chấp với số tiền rất lớn từ 10 triệu đồng đến vài chục triệu đồng mà không cần thế chấp, bảo lãnh. Thủ tục đơn giản, giải ngân trong vòng vài ngày, ưu đãi về lãi suất... Nhiều công nhân liên hệ một vài số điện thoại trên các tờ rơi thì phát hiện chủ một số đầu mối cho vay này cũng là chủ các đường dây cho vay nặng lãi với mức lãi suất cao do các “cò” cho vay tổ chức “tiếp thị” trong giới công nhân.
|
HOÀNG LỘC
- Hàng trăm công nhân Trung Quốc xung đột với công an tại tỉnh Quảng Đông
-Người nghèo Việt Nam- nghèo vẫn hoàn nghèo (TVN)Hình như tất cả các chương trình đó như “muối bỏ bể”, tính tích cực không được bao nhiêu, tỉ lệ nghèo cho dù có thuyên giảm trong một chừng mực, một vài năm, thì lại luôn chực chờ trở về “nguyên trạng” nghèo.
Ngày 31/8/2010, tại cuộc họp báo nhân chuyến thăm và làm việc ở Việt Nam, chuyên gia độc lập của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền và đói nghèo Magdalena Sepulveda cho rằng nghèo đói tại VN sẽ tăng từ 10% năm 2010 lên 13% nếu chiếu theo chuẩn nghèo mới.
Tháng 4-5/2011, một thông tin tưởng như đùa của đất nước có sản lượng gạo xuất khẩu đứng thứ nhì thế giới làm cho nhiều người giật mình, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa xin Chính phủ cứu đói khẩn cấp dân qua mùa giáp hạt. Theo một thống kê mới nhất, tình hình thiếu đói đã tăng cao trong tháng 1, tháng 2/2011. Số lượt nhân khẩu nông nghiệp thiếu đói đã tăng gần gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2010 với 838,6 nghìn lượt. Đây cũng là số lượng nhân khẩu thiếu đói nhiều nhất kể từ năm 2007 đến nay.
Ai là người nghèo?
Để trả lời cho khái niệm "nghèo", trước hết phải hiểu nghèo được biểu hiện ở những khía cạnh nào, các chỉ tiêu và chuẩn mực để xác định và đánh giá mức độ nghèo, thực trạng nghèo của VN trong những năm gần đây, các nhân tố tác động đến tình trạng nghèo.
"Chuẩn" nghèo được quy định của Chính phủ VN dựa trên một số quy tắc về chuẩn nghèo của Liên Hợp Quốc (UN): Giai đoạn 2000-2006, hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi, hải đảo từ 80.000 ĐVN/người/tháng trở xuống là hộ nghèo, nông thôn đồng bằng là 100.000 ĐVN/người/tháng, thành thị là 150.000 ĐVN/người/tháng.
Quyết định của Thủ tướng chính phủ Số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 "Về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010": Khu vực nông thôn, hộ gia đình có thu nhập bình quân từ 200.000 ĐVN/người/tháng (2.400.000 ĐVN/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Khu vực thành thị: từ 260.000 ĐVN/người/ tháng (dưới 3.120.000 ĐVN/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Dự kiến chuẩn nghèo cho giai đoạn 2010-2015: Thành thị là 812.500 ĐVN/người/tháng, nông thôn là 562.500 ĐVN/người/tháng.
Nhóm hộ nghèo ở VN đa số là những người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa thuộc biên giới hải đảo, vùng miền núi. Nông dân ở vùng nông thôn, nhất là những vùng đất canh tác ít, hay gặp thiên tai. Người làm công ăn lương, người hưu trí, hoặc kinh doanh nhỏ lẻ....
Ngoài ra ở thành thị, là lớp thị dân nghèo, sống trong các ngôi nhà "ổ chuột", hay ngoại ô thành phố. Nguồn thu nhập chính của người nghèo chủ yếu là từ canh tác nuôi trồng nông, lâm, thủy sản, chiếm 55,5% tổng thu nhập, tiền lương tiền công chiếm 23,8% tổng thu nhập.
Thu nhập ít ỏi, nên phải dành ưu tiên chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu để duy trì sự sống như mua lương thực thực phẩm, chất đốt... luôn chiếm tỷ lệ cao nhất, tới 65,1%. Còn chi cho những nhu cầu phục vụ chất lượng sống như nhà ở, điện, nước, vệ sinh, y tế, giáo dục, giải trí... chỉ chiếm 34,9%.
Do đó, khi giá cả tăng cao, người nghèo sẽ phải dồn khoản tiền kiếm được chỉ để duy trì cuộc sống, như phải tăng thêm 0,5% tiền để mua thực phẩm, lương thực, thêm 0,5% tiền cho thuốc chữa bệnh và 1,4% cho đi lại (giai đoạn 2006-2008). Các nhu cầu may mặc, giáo dục, mua sắm đồ dùng, nhà ở bị co lại từ 0,2- 0,7%, dù nhóm người nghèo luôn được hưởng nhiều chính sách miễn giảm của Nhà nước.
Đặc biệt, với những người lao động nhập cư, họ phải đối diện với nhiều khoản chi ngoài các chi tiêu cơ bản như: Tiền thuê nhà thường tăng từ 20-30%, tiền điện, tiền nước thường cao hơn 2-4 lần so với dân địa phương (mà còn luôn tăng thêm do giá điện, nước tăng)...
Những con số không vô tri
Theo ông John Hendra, Trưởng phái đoàn UN tại Hà Nội cho biết tìm hiểu của UN thu thập từ các nghiên cứu về kinh tế VN cho thấy tình trạng đói nghèo tăng 2,1% kể từ sau đợt lạm phát cao hồi năm 2008. Thông tin nhanh của UN Việt Nam cho biết lạm phát trong tháng 4.2011 tại VN ở mức 17,5% - cao nhất kể từ tháng 12/2008, tức tăng 3,3% so với tháng 3/2011 và vẫn tiếp tục gia tăng.
Ông Hendra cũng cho biết VN là 1 trong số 5 quốc gia có tỉ lệ lạm phát cao nhất trên thế giới, cao hơn so với các nền kinh tế ASEAN khác và gọi đây là "tình trạng nghiêm trọng"."Nó sẽ gia tăng tỉ lệ nghèo đói, 1 hay 2% hoặc cao hơn thế", ông nói trong một cuộc gặp gỡ phóng viên tại Hà Nội, ngày 10/5/2011.
Tỉ lệ lạm phát ở VN tăng đến chóng mặt, trong tháng 1.2011, giá lương thực đã tăng 2,28%, thực phẩm tăng 2,74%, đến tháng 2.2011, lần lượt các nhóm hàng này tăng 1,51% và 4,53%. Theo Dự báo năm 2011 của Bộ KHĐT, CPI bình quân năm sẽ cao hơn tới 5,4- 6,4% so với mặt bằng trên.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 tăng 1,75%, tháng 2 tăng 2,09%, tháng 3 tăng 2,17% và tháng 4 tăng 3,32% so với tháng liền kề trước. So với tháng 12/2010, chỉ số giá tháng 4/2011 tăng 9,64%. Bình quân 4 tháng năm 2011 so với cùng kỳ năm 2010, CPI tăng 13,95%.
Các chuyên gia cho biết khi đó, giá trị thực tế của chuẩn nghèo 5 năm tới sẽ bị mất khoảng 7-8% giá trị, tức khoảng 30.000- 40.000 đồng/người/tháng. Vì thế, số hộ nghèo vừa vươn lên... ngưỡng hộ cận nghèo về bản chất, vẫn hoàn nghèo như cũ.
Một con số thống kê, khá "đắng". Hiện, cả nước có 3,1 triệu hộ nghèo, chiếm 14,42% và 1,65 triệu hộ cận nghèo, tỷ lệ 7,69%. Các tỉnh có hộ nghèo nhiều nhất là Lào Cai, Điện Biên (trên 50%), Lai Châu, Hà Giang (trên 40%), Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum (trên 30%).
Người nghèo không muốn làm giàu?
Chính phủ đã có một chương trình khá lớn và lâu dài "xóa đói giảm nghèo" mang tên "Chương trình 135". Ngoài ra còn có Quyết định số 07/2006/QD-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 và một số quyết định khác cho các vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo, các vùng núi nhiều dân tộc ít người... gặp khó khăn.
Thế nhưng hình như tất cả các chương trình đó như "muối bỏ bể", tỉ lệ nghèo cho dù có thuyên giảm trong một chừng mực, một vài năm, thì lại luôn chực chờ trở về "nguyên trạng" nghèo.
Phải chăng các chính sách xóa đói giảm nghèo chưa mang tính chiến lược, xây căn nhà từ móng thật chắc chắn, mà chỉ là đưa "con cá" cho người dân, không dạy cách "câu con cá" như thế nào để tạo tính vững bền dài lâu? Ăn hết lại cho tiếp. Chính tính ỷ lại sự trợ cấp của Chính phủ nên những người nghèo "há miệng chờ... trợ cấp xóa đói giảm nghèo" của Chính phủ và lấy đó làm kế sinh nhai chủ yếu của mình, mà như thế cũng chỉ bữa đói bữa no, làm sao thoát nghèo?
Phải chăng người dân ở các vùng đói nghèo, càng nghèo thêm vì thiên tai, mà khoản trợ cấp của Chính phủ chỉ là biện pháp tạm thời, giải quyết tình thế cấp bách không có tính lâu dài, bền vững. Và nếu một cơn giận dữ của ông trời giáng xuống tiếp thì "ngôi nhà" lại bay mất, lại cảnh "màn trời chiếu đất & nước", thiếu đói rã ruột. Lại lặp lại điệp khúc "cứu trợ". Điều này có thể chứng thực rất nhiều lần qua những lần cứu trợ thiên tai cho người dân.
Ngoài ra cái nghèo còn liên quan đến sự phân tầng xã hội. Những người giàu có điều kiện đầu tư cho việc học tập và nâng cao chất lượng cuộc sống, nhờ vậy họ có kiến thức, năng lực để tiếp cận thị trường và kiếm được công việc có thu nhập cao. Trong khi đó, người nghèo không có điều kiện học tập, chất lượng cuộc sống không tốt, trình độ năng lực ảnh hưởng, nên khó tìm được việc làm có thu nhập cao mà thường phải làm những công việc ít tiền với vị thế xã hội thấp. Thu nhập không cao, trong khi lạm phát như "ngựa phi nước đại", thiếu thốn đủ bề, nên khả năng làm giàu cực khó bởi hệ lụy của một chữ "nghèo".
Chất lượng cuộc sống làm người nghèo, nghèo hơn
Bà Magdalena Sepulveda, chuyên gia độc lập của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền và đói nghèo nhận định: "Hiện nay vẫn có nhiều người sống trong vùng đói nghèo và không tiếp cận được với các dịch vụ xã hội". Đó có thể cũng là một trong nhiều nguyên nhân để cho người nghèo vẫn hoàn nghèo ở VN.
Ngoài những khó khăn về môi trường thổ nhưỡng mang tính địa lý (vùng sâu, vùng xa, vùng hay có thiên tai, vùng hoang hóa, khu ngoại vi TP...), người dân nghèo ở các vùng này còn phải chịu nhiều thiếu thốn và thua thiệt hơn hẳn. Do vị trí địa lý không thuận lợi, việc cung ứng các điều kiện cơ bản đảm bảo chất lượng cuộc sống cũng ách tắc, không những không đầy đủ mà còn lạc hậu.
Ở các khu dân cư nghèo sinh sống, điều kiện vệ sinh tối thiểu như nước sạch nhiều khi cũng là một loại hàng "xa xỉ". Các điều kiện dân sinh cơ bản khác như y tế, giáo dục, văn hóa càng hạn chế. Khi người dân không có được những dịch vụ xã hội cơ bản, chất lượng cuộc sống thấp, kéo theo nhiều hệ lụy khác, mà cơ bản nhất là chữ "nghèo".
Ngay cả với những người nhập cư vào các đô thị lớn cũng phải chịu nhiều thiệt thòi. Họ nghèo mới tìm đến đô thị để kiếm sống để mong thoát nghèo, nhưng sống ở đô thị, làm việc và đóng góp cho sự phát triển của xã hội nhưng lại chưa được thụ hưởng đầy đủ những thành quả đó. Họ chỉ sống ở đô thị chứ chưa được xem là người đô thị. Họ thiếu nhiều thứ, kể cả những dịch vụ cơ bản như quyền được dùng điện, nước, con cái được học hành như dân thành phố...
Bà Sepulveda cũng khuyến nghị : "Các chiến lược về giảm nghèo của VN cần xây dựng trên quan điểm chung là mọi người dân VN cần được hưởng đầy đủ quyền dân sự, kinh tế, chính trị xã hội và văn hóa. Chính phủ cần nhận thức việc đầu tư vào những người đói nghèo cùng cực không phải hành động của tình thương mà là nghĩa vụ về nhân quyền".
Và khi kết thúc bài viết này, tôi lại nhớ một câu đồng dao của người Nam Bộ nói về cái nghèo đến tận mạng: Nghèo xơ nghèo xác/ Nghèo nát xương mông/ Nghèo không gạo nấu/ Nghèo thấu Ngọc Hoàng/ Nghèo tàn nghèo mạt/ Nghèo khạc ra tro/ Nghèo ho ra bụi/ Nghèo lủi trong bờ/ Nghèo mờ con mắt/ Nghèo thắt ống chân/ Nghèo sưng ống quyển...
Tháng 4-5/2011, một thông tin tưởng như đùa của đất nước có sản lượng gạo xuất khẩu đứng thứ nhì thế giới làm cho nhiều người giật mình, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa xin Chính phủ cứu đói khẩn cấp dân qua mùa giáp hạt. Theo một thống kê mới nhất, tình hình thiếu đói đã tăng cao trong tháng 1, tháng 2/2011. Số lượt nhân khẩu nông nghiệp thiếu đói đã tăng gần gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2010 với 838,6 nghìn lượt. Đây cũng là số lượng nhân khẩu thiếu đói nhiều nhất kể từ năm 2007 đến nay.
Ai là người nghèo?
Để trả lời cho khái niệm "nghèo", trước hết phải hiểu nghèo được biểu hiện ở những khía cạnh nào, các chỉ tiêu và chuẩn mực để xác định và đánh giá mức độ nghèo, thực trạng nghèo của VN trong những năm gần đây, các nhân tố tác động đến tình trạng nghèo.
"Chuẩn" nghèo được quy định của Chính phủ VN dựa trên một số quy tắc về chuẩn nghèo của Liên Hợp Quốc (UN): Giai đoạn 2000-2006, hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi, hải đảo từ 80.000 ĐVN/người/tháng trở xuống là hộ nghèo, nông thôn đồng bằng là 100.000 ĐVN/người/tháng, thành thị là 150.000 ĐVN/người/tháng.
Quyết định của Thủ tướng chính phủ Số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 "Về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010": Khu vực nông thôn, hộ gia đình có thu nhập bình quân từ 200.000 ĐVN/người/tháng (2.400.000 ĐVN/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Khu vực thành thị: từ 260.000 ĐVN/người/ tháng (dưới 3.120.000 ĐVN/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Dự kiến chuẩn nghèo cho giai đoạn 2010-2015: Thành thị là 812.500 ĐVN/người/tháng, nông thôn là 562.500 ĐVN/người/tháng.
Nhóm hộ nghèo ở VN đa số là những người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa thuộc biên giới hải đảo, vùng miền núi. Nông dân ở vùng nông thôn, nhất là những vùng đất canh tác ít, hay gặp thiên tai. Người làm công ăn lương, người hưu trí, hoặc kinh doanh nhỏ lẻ....
Ngoài ra ở thành thị, là lớp thị dân nghèo, sống trong các ngôi nhà "ổ chuột", hay ngoại ô thành phố. Nguồn thu nhập chính của người nghèo chủ yếu là từ canh tác nuôi trồng nông, lâm, thủy sản, chiếm 55,5% tổng thu nhập, tiền lương tiền công chiếm 23,8% tổng thu nhập.
Thu nhập ít ỏi, nên phải dành ưu tiên chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu để duy trì sự sống như mua lương thực thực phẩm, chất đốt... luôn chiếm tỷ lệ cao nhất, tới 65,1%. Còn chi cho những nhu cầu phục vụ chất lượng sống như nhà ở, điện, nước, vệ sinh, y tế, giáo dục, giải trí... chỉ chiếm 34,9%.
Do đó, khi giá cả tăng cao, người nghèo sẽ phải dồn khoản tiền kiếm được chỉ để duy trì cuộc sống, như phải tăng thêm 0,5% tiền để mua thực phẩm, lương thực, thêm 0,5% tiền cho thuốc chữa bệnh và 1,4% cho đi lại (giai đoạn 2006-2008). Các nhu cầu may mặc, giáo dục, mua sắm đồ dùng, nhà ở bị co lại từ 0,2- 0,7%, dù nhóm người nghèo luôn được hưởng nhiều chính sách miễn giảm của Nhà nước.
Đặc biệt, với những người lao động nhập cư, họ phải đối diện với nhiều khoản chi ngoài các chi tiêu cơ bản như: Tiền thuê nhà thường tăng từ 20-30%, tiền điện, tiền nước thường cao hơn 2-4 lần so với dân địa phương (mà còn luôn tăng thêm do giá điện, nước tăng)...
Tình trạng đói nghèo tại VN tăng 2,1% kể từ sau đợt lạm phát cao hồi năm 2008 |
Theo ông John Hendra, Trưởng phái đoàn UN tại Hà Nội cho biết tìm hiểu của UN thu thập từ các nghiên cứu về kinh tế VN cho thấy tình trạng đói nghèo tăng 2,1% kể từ sau đợt lạm phát cao hồi năm 2008. Thông tin nhanh của UN Việt Nam cho biết lạm phát trong tháng 4.2011 tại VN ở mức 17,5% - cao nhất kể từ tháng 12/2008, tức tăng 3,3% so với tháng 3/2011 và vẫn tiếp tục gia tăng.
Ông Hendra cũng cho biết VN là 1 trong số 5 quốc gia có tỉ lệ lạm phát cao nhất trên thế giới, cao hơn so với các nền kinh tế ASEAN khác và gọi đây là "tình trạng nghiêm trọng"."Nó sẽ gia tăng tỉ lệ nghèo đói, 1 hay 2% hoặc cao hơn thế", ông nói trong một cuộc gặp gỡ phóng viên tại Hà Nội, ngày 10/5/2011.
Tỉ lệ lạm phát ở VN tăng đến chóng mặt, trong tháng 1.2011, giá lương thực đã tăng 2,28%, thực phẩm tăng 2,74%, đến tháng 2.2011, lần lượt các nhóm hàng này tăng 1,51% và 4,53%. Theo Dự báo năm 2011 của Bộ KHĐT, CPI bình quân năm sẽ cao hơn tới 5,4- 6,4% so với mặt bằng trên.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 tăng 1,75%, tháng 2 tăng 2,09%, tháng 3 tăng 2,17% và tháng 4 tăng 3,32% so với tháng liền kề trước. So với tháng 12/2010, chỉ số giá tháng 4/2011 tăng 9,64%. Bình quân 4 tháng năm 2011 so với cùng kỳ năm 2010, CPI tăng 13,95%.
Các chuyên gia cho biết khi đó, giá trị thực tế của chuẩn nghèo 5 năm tới sẽ bị mất khoảng 7-8% giá trị, tức khoảng 30.000- 40.000 đồng/người/tháng. Vì thế, số hộ nghèo vừa vươn lên... ngưỡng hộ cận nghèo về bản chất, vẫn hoàn nghèo như cũ.
Một con số thống kê, khá "đắng". Hiện, cả nước có 3,1 triệu hộ nghèo, chiếm 14,42% và 1,65 triệu hộ cận nghèo, tỷ lệ 7,69%. Các tỉnh có hộ nghèo nhiều nhất là Lào Cai, Điện Biên (trên 50%), Lai Châu, Hà Giang (trên 40%), Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum (trên 30%).
Người nghèo không muốn làm giàu?
Chính phủ đã có một chương trình khá lớn và lâu dài "xóa đói giảm nghèo" mang tên "Chương trình 135". Ngoài ra còn có Quyết định số 07/2006/QD-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 và một số quyết định khác cho các vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo, các vùng núi nhiều dân tộc ít người... gặp khó khăn.
Thế nhưng hình như tất cả các chương trình đó như "muối bỏ bể", tỉ lệ nghèo cho dù có thuyên giảm trong một chừng mực, một vài năm, thì lại luôn chực chờ trở về "nguyên trạng" nghèo.
Phải chăng các chính sách xóa đói giảm nghèo chưa mang tính chiến lược, xây căn nhà từ móng thật chắc chắn, mà chỉ là đưa "con cá" cho người dân, không dạy cách "câu con cá" như thế nào để tạo tính vững bền dài lâu? Ăn hết lại cho tiếp. Chính tính ỷ lại sự trợ cấp của Chính phủ nên những người nghèo "há miệng chờ... trợ cấp xóa đói giảm nghèo" của Chính phủ và lấy đó làm kế sinh nhai chủ yếu của mình, mà như thế cũng chỉ bữa đói bữa no, làm sao thoát nghèo?
Phải chăng người dân ở các vùng đói nghèo, càng nghèo thêm vì thiên tai, mà khoản trợ cấp của Chính phủ chỉ là biện pháp tạm thời, giải quyết tình thế cấp bách không có tính lâu dài, bền vững. Và nếu một cơn giận dữ của ông trời giáng xuống tiếp thì "ngôi nhà" lại bay mất, lại cảnh "màn trời chiếu đất & nước", thiếu đói rã ruột. Lại lặp lại điệp khúc "cứu trợ". Điều này có thể chứng thực rất nhiều lần qua những lần cứu trợ thiên tai cho người dân.
Ngoài ra cái nghèo còn liên quan đến sự phân tầng xã hội. Những người giàu có điều kiện đầu tư cho việc học tập và nâng cao chất lượng cuộc sống, nhờ vậy họ có kiến thức, năng lực để tiếp cận thị trường và kiếm được công việc có thu nhập cao. Trong khi đó, người nghèo không có điều kiện học tập, chất lượng cuộc sống không tốt, trình độ năng lực ảnh hưởng, nên khó tìm được việc làm có thu nhập cao mà thường phải làm những công việc ít tiền với vị thế xã hội thấp. Thu nhập không cao, trong khi lạm phát như "ngựa phi nước đại", thiếu thốn đủ bề, nên khả năng làm giàu cực khó bởi hệ lụy của một chữ "nghèo".
Chất lượng cuộc sống làm người nghèo, nghèo hơn
Bà Magdalena Sepulveda, chuyên gia độc lập của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền và đói nghèo nhận định: "Hiện nay vẫn có nhiều người sống trong vùng đói nghèo và không tiếp cận được với các dịch vụ xã hội". Đó có thể cũng là một trong nhiều nguyên nhân để cho người nghèo vẫn hoàn nghèo ở VN.
Ngoài những khó khăn về môi trường thổ nhưỡng mang tính địa lý (vùng sâu, vùng xa, vùng hay có thiên tai, vùng hoang hóa, khu ngoại vi TP...), người dân nghèo ở các vùng này còn phải chịu nhiều thiếu thốn và thua thiệt hơn hẳn. Do vị trí địa lý không thuận lợi, việc cung ứng các điều kiện cơ bản đảm bảo chất lượng cuộc sống cũng ách tắc, không những không đầy đủ mà còn lạc hậu.
Ở các khu dân cư nghèo sinh sống, điều kiện vệ sinh tối thiểu như nước sạch nhiều khi cũng là một loại hàng "xa xỉ". Các điều kiện dân sinh cơ bản khác như y tế, giáo dục, văn hóa càng hạn chế. Khi người dân không có được những dịch vụ xã hội cơ bản, chất lượng cuộc sống thấp, kéo theo nhiều hệ lụy khác, mà cơ bản nhất là chữ "nghèo".
Ngay cả với những người nhập cư vào các đô thị lớn cũng phải chịu nhiều thiệt thòi. Họ nghèo mới tìm đến đô thị để kiếm sống để mong thoát nghèo, nhưng sống ở đô thị, làm việc và đóng góp cho sự phát triển của xã hội nhưng lại chưa được thụ hưởng đầy đủ những thành quả đó. Họ chỉ sống ở đô thị chứ chưa được xem là người đô thị. Họ thiếu nhiều thứ, kể cả những dịch vụ cơ bản như quyền được dùng điện, nước, con cái được học hành như dân thành phố...
Bà Sepulveda cũng khuyến nghị : "Các chiến lược về giảm nghèo của VN cần xây dựng trên quan điểm chung là mọi người dân VN cần được hưởng đầy đủ quyền dân sự, kinh tế, chính trị xã hội và văn hóa. Chính phủ cần nhận thức việc đầu tư vào những người đói nghèo cùng cực không phải hành động của tình thương mà là nghĩa vụ về nhân quyền".
Và khi kết thúc bài viết này, tôi lại nhớ một câu đồng dao của người Nam Bộ nói về cái nghèo đến tận mạng: Nghèo xơ nghèo xác/ Nghèo nát xương mông/ Nghèo không gạo nấu/ Nghèo thấu Ngọc Hoàng/ Nghèo tàn nghèo mạt/ Nghèo khạc ra tro/ Nghèo ho ra bụi/ Nghèo lủi trong bờ/ Nghèo mờ con mắt/ Nghèo thắt ống chân/ Nghèo sưng ống quyển...
Lao động di cư nặng gánh hai vai (LĐ 7-6-11)- Đau đầu vì lao động bỏ việc (NLĐ).