Thứ Ba, 19 tháng 7, 2011

Bàn về sức mạnh mềm

-Joseph S.Nye. Jr

Lời bạt: Trong công cuộc bảo vệ chủ quyền Tổ quốc hiện nay, Việt Nam đang đứng trước những thử thách to lớn không chỉ liên quan chủ quyền biển đảo sau hai vụ Bình Minh 2 và Viking 2 mà còn liên quan đến hàng loạt vấn đề thuộc kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa. Những nhà làm chính sách của Việt Nam thường nhắc đến sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong xử lý các mối quan hệ, giải quyết các vấn đề, vượt qua các thách thức và tận dụng các cơ hội.


Một trong những thành tố cấu thành sức mạnh tổng hợp mà tổ tiên chúng ta đã sử dụng thành công trong suốt chiều dài lịch sử chính là sự “khoan thư sức dân”, “chính nghĩa thắng gian tà”, “lấy nhu thắng cương”, "lấy ít địch nhiều" và trong chiến thắng luôn lấy đức hiếu sinh mà mở đường sống cho đối phương.

Sức mạnh mềm là những hình thái văn hóa, nghệ thuật, khoa học, tập quán, tôn giáo của một vùng hay một dân tộc có khả năng ảnh hưởng đến những vùng hay đất nước khác. Vậy có thể nói rằng người Việt đã sử dụng một dạng thức sức mạnh mềm trong dựng nước và giữ nước.
Sức mạnh mềm có ba trụ cột văn hóa, giá trị, định hướng (thể chế và phương hướng) ứng với lịch sử, các giá trị hiện tại và sự dấn bước đến tương lai của một dân tộc trong hình thành và phát triển, trong lao động và chiến đấu giữ nước. Chúng tôi xin trích dịch chương thứ tư của tác phẩm Soft Power- The means to success in world politics - của Joseph S.Nye. Jr, bàn về sức mạnh mềm và giới thiệu đến độc giả như một góc nhìn tham chiếu.



Thực thi sức mạnh mềm

Các chính quyền sử dụng sức mạnh quân sự để phát động các động tác răn đe, phát động chiến tranh và phối hợp với kỹ năng cùng yếu tố ngẫu nhiên, và chính quyền sẽ đạt được những kết quả mong muốn trong một thời gian phù hợp nào đó. Sức mạnh kinh tế thường là một thực thể trực diện tương tự. Các chính phủ có thể ra lệnh đóng băng những ngân hàng nước ngoài trong vòng một đêm cũng như có thể phân chia các khoản hối lộ hay viện trợ nhanh chóng (dù rằng những cuộc cấm vận kinh tế nếu có, thường cần thời gian dài hơn để đạt kết quả mong muốn). Theo chương 1, thực thi sức mạnh mềm khó khăn hơn vì nhiều loại tài nguyên quan trọng nằm ngoài tầm với của các chính phủ, ngoài ra ảnh hưởng của sức mạnh mềm phụ thuộc chặt chẽ vào sự chấp nhận của các cộng đồng tiếp nhận sức mạnh mềm. Hơn nữa, các nguồn lực sức mạnh mềm thường tác động một cách gián tiếp trong quá trình tạo môi trường để thực hiện chính sách và đôi khi tác động của loại sức mạnh này cần nhiều năm mới có kết quả mong muốn.



Dĩ nhiên, các khác biệt này nằm ở nhiều mức độ. Các cuộc chiến tranh hay tranh chấp kinh tế sẽ không phát huy hiệu lực trong một sớm một chiều - chúng ta có thể nhìn vào độ dài và sự thất bại sau cùng của cuộc chiến Việt Nam, và chúng ta có thể thấy các cuộc cấm vận kinh tế thường mang lại các hệ lụy chỉ bằng một phần ba trong tổng số các cuộc cấm vận trước nay trong lịch sử. (1) Tại Iraq, Saddam Hussein đã sống sót qua các cuộc phong tỏa kinh tế hơn 10 năm và dù cho chiến dịch quân sự kéo dài bốn tuần của Mỹ đã thay đổi chế độ của ông ta, đó chẳng qua chỉ là những bước đầu tiên để Mỹ đạt được hết các mục tiêu của mình tại Iraq. Như một cựu quan chức quân sự đã nhận thấy, dấu ấn của một cuộc chinh phạt không phải nằm ở chỗ diệt trừ những ai mà ở chỗ xây dựng được những gì. Và câu hỏi của cuộc chiến Iraq vẫn còn bỏ ngỏ câu trả lời cho người phán xét sau khi cuộc chiến đã tàn nhiều năm sau. (2) Vả lại, đôi khi việc tung tin có thể tạo ra hay ngăn trở những hệ quả mong muốn. Tuy nhiên, nhìn chung thì nguồn lực của sức mạnh mềm thường là chậm chạp, phân tán và khó điều phối hơn là tài nguyên của sức mạnh cứng.


Những nỗ lực ban đầu


Khó khăn trong vận hành sức mạnh mềm ở khâu nguồn lực vẫn không ngăn nổi các chính phủ luôn nỗ lực gia tăng sức mạnh mềm. Vào thế kỷ 17 và 18, Pháp đã truyền bá văn hóa của mình khắp mảnh đất châu Âu. Tiếng Pháp không chỉ đã trở thành ngôn ngữ ngoại giao mà còn được sử dụng tại các tòa án nước ngoài như Phổ và Nga. Trong cuộc cách mạng Pháp, nước Pháp đã tìm cách vượt qua các chính phủ ngoại quốc và đưa lời kêu gọi của mình trực tiếp đến nhân dân các nước khác để quảng bá tư tưởng cách mạng của mình. Sau khi thất bại trong cuộc chiến Pháp Phổ, chính phủ Pháp đã tìm cách cứu vãn uy tín đã sứt mẻ của mình bằng cách truyền bá ngôn ngữ và văn chương của mình đến Liên Hiệp Pháp, được lập ra năm 1883. Như sử gia Richard Pells ghi lại: ”Việc đưa văn hóa Pháp ra ngoài nước do vậy đã trở thành một thành tố quan trọng trong nền ngoại giao Pháp.”(3)  Ý , Đức và các nước khác chẳng bao lâu cũng đã theo cách của Pháp bằng cách lập các viện quảng bá văn hóa của họ ra nước ngoài.


Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra với sự bùng phát nhanh chóng các nỗ lực triển khai quyền lực mềm ra khắp nơi và hầu như tất cả các chính phủ đã thiết lập cơ sở của mình để tuyên truyền cho sự nghiệp của mình. Hoa Kỳ không chỉ thiết lập văn phòng của mình mà còn - trong suốt những năm đầu chưa tham chiến - là một trung tâm cho các nước khác quảng bá hình ảnh, như Đức và Anh đã tranh giành hình ảnh và uy tín từ công luận Mỹ. Nhận ra các hiệu quả của việc phản tuyên truyền của Đức thông qua các kênh truyền thông đại chúng, Anh Quốc đã thành công hơn khi tập trung vào thành phần tinh hoa của nước Mỹ và dùng cách tiếp cận mềm mại hơn. Một khảo sát khoa học ngày đó về tuyên truyền trong chiến tranh đã nhận định:”Riêng sự phát xạ trong nhận thức của tầng lớp quý tộc đã đủ để làm ấm các góc cạnh của những tâm hồn Cộng Hòa trung kiên nhất, và sự phát tác đó sẽ thổi bùng nhiệt huyết của cả đất nước thành phẩm giá, sự đĩnh đạc và tình hữu nghị.”(4)


Hoa Kỳ là quốc gia khá chậm trong ý niệm sử dụng thông tin và văn hóa cho mục đích ngoại giao. Năm 1917,Tổng Thống Woodrow Wilson đã lập Ủy ban Thông tin Công cộng do bạn ông điều phối: ký giả George Creel. Theo Tổng Thống, công việc của Creel là công viêc của “một đại công ty chuyên làm công tác bán hàng, và tiến hành các cuộc phiêu lưu kỳ thú nhất của thế giới vào ngành nghề quảng cáo.” (5) Creel cho rằng các công việc của ông không kiến tạo các cuộc tuyên truyền mà chỉ mang tính cách giáo dục và cung cấp thông tin. Tuy nhiên thực tế rõ ràng ngược lại. Trong các hạng mục công việc, Creel đã tổ chức các chuyến đi, xen kẽ phát các tờ rơi nói về “học thuyết Mỹ”, ông thiết lập các dịch vụ do chính phủ quản lý , bảo đảm rằng các nhà làm phim nhận được đầy đủ những nguyên vật liệu quý hiếm của thời chiến và đoan chắc rằng các thước phim phải phản ánh tích cực về Hoa Kỳ.(6) Ủy ban thông tin công cộng đã gây nghi ngờ khá lớn tại Quốc hội và dân chúng Mỹ đến độ ngay khi hòa bình lập lại thì ủy ban này bị bãi bỏ ngay lập tức.


Sự ra đời của radio trong những năm 1920 đã khiến cho các chính phủ phải tiến vào mặt trận phát thanh tiếng nước ngoài, và trong những năm 1930, những người cộng sản ở Liên Xô và phe phát xít ở Đức Ý đã cạnh tranh nhau để quảng bá các hình ảnh tốt đẹp về đất nước và hệ tư tưởng của họ đến với công chúng bên ngoài. Tiếp theo chương trình phát sóng tiếng nước ngoài, chính phủ Đức Quốc xã còn hoàn thiện các loại phim ảnh tuyên truyền. Vào năm 1937, ngoại trưởng Anh Anthony Eden đã nhận xét các kênh truyền thông mới này: ”Dĩ nhiên, nói một cách chính xác các tuyên truyền văn hóa có hay đến đâu cũng không thể sửa chữa được các tổn hại của một chính sách ngoại giao yếu kém, tuy nhiên không phải nói quá rằng một chính sách ngoại giao hoàn hảo nhất cũng có thể thất bại nếu bỏ quên công tác giảng giải và thuyết phục mà thế giới hiện đại buộc phải thực hiện”.(7)  Vào cuối thập kỷ 1930, đài BBC –phát từ 1922, đã bắt đầu các chương trình bá âm bằng tất cả các ngôn ngữ châu Âu và Ả rập.


Vào cuối những năm 1930, nội các Roosevelt đã tin rằng ”nền an ninh của Mỹ tùy thuộc vào khả năng phát ngôn và thu phục sự ủng hộ của dân chúng tại các quốc gia khác.” (8) Tổng Thống Roosevelt đặc biệt quan tâm đến các tuyên truyền của Đức tại các nước Mỹ Latin. Vào năm 1938, Bộ Ngoại giao đã lập ra Vụ Quan hệ Văn hóa và hai năm sau đó bổ sung thêm với một Văn phòng Sự vụ Liên Mỹ Châu, dưới quyền Nelson Rockerfeller, người đã tích cực quảng bá thông tin và văn hóa Hoa Kỳ vào các nước Mỹ Latin. Vào năm 1939, Đức đã cho phát sóng 7 giờ một tuần, còn Mỹ phát 12 tiếng một tuần đến các nước Mỹ Latin. Vào năm 1941, Mỹ cho phát sóng 24 tiếng mỗi ngày.(9)


Sau khi Mỹ tham chiến, chương trình tiến công về văn hóa của Hoa Kỳ đã lan ra toàn cầu. Vào 1942, Roosevelt đã lập ra Phòng thông tin chiến tranh (OWI) để xử lý các thông tin được cho là chính xác, còn tổ chức tình báo OSS (Phòng Dịch vụ Chiến lược) bao gồm việc phân phối các thông tin bị cố tình bóp méo tại các phòng ban chức năng. Nhóm OWI thậm chí còn hoạt động để uốn nắn các tác phẩm của Hollywood cho trở thành các công cụ tuyên truyền hữu hiệu, đề nghị thêm vào hay lược bỏ đối với phim ảnh và từ chối cấp phép cho một số bộ phim.(10) Các nhà quản lý của Hollywood, tràn đầy tinh thần yêu nước và một phần do lợi ích cá nhân, cũng đã vui vẻ hợp tác. Theo Richard Pell, ngay trước Chiến Tranh Lạnh, ”giới quản lý các công ty cũng như ngành quảng cáo Mỹ và những người đứng đầu Hollywood đã bán không chỉ các sản phẩm của Mỹ mà còn phân phối các giá trị và văn hóa Mỹ cũng như bí quyết thành công của họ đến với thế giới.” (11) Các nguồn lực sức mạnh mềm thời chiến đã được tạo ra một phần nhờ chính phủ và một phần từ các cơ quan độc lập.


Radio cũng đóng góp một vai trò quan trọng. VOA cũng đã phát triển nhanh chóng trong thời gian Thế chiến thứ nhì. Theo BBC, năm 1943 VOA đã có 23 làn sóng phát 27 ngôn ngữ khác nhau. Sau chiến tranh, là cuộc Chiến tranh lạnh và mối đe dọa từ Liên Xô, VOA đã tiếp tục phát triển và đi theo sự phát triển ấy là những tranh luận ngày càng gia tăng rằng không rõ liệu VOA đã trở thành cổng thông tin bị khống chế bởi các nguồn tin chính phủ hay VOA là một đại diện độc lập của văn hóa Mỹ. Các trạm phát sóng đặc biệt đã được bổ sung vào như Đài phát thanh tự do (RL) hay Đài Châu Âu Tự do (FRE) đã sử dụng các kiều dân lưu vong nhằm phát thanh đến khối Đông Âu. Chung quy hơn, khi Chiến Tranh Lạnh ngày càng leo thang, có hai luồng ý kiến liên quan. Một luồng hoan nghênh các thông tin chậm về ngoại giao văn hóa như nghệ thuật, sách báo và những trao đổi văn nghệ, còn một luồng khác thì quan tâm hơn đến các thông tin nhanh chóng hơn như radio, phim ảnh, tin tức phát hình, vốn hứa hẹn sẽ mang lại các kết quả đáng đồng tiền bát gạo (bang for the buck) dễ thấy và trực diện hơn.(12)


Trong suốt cuộc Chiến tranh lạnh, những người ủng hộ hai phương cách trên đã tranh cãi qua câu hỏi liệu chính phủ có cần phải đầu tư vào sức mạnh mềm hay không. Những người cứng rắn luôn theo đuổi cách tuyên truyền trực tiếp còn những người mềm mỏng cho rằng để thay đổi thái độ của ngoại quốc thì sẽ cần định liệu trong nhiều năm.(13) Giữa hai phái cũng có những tranh luận về việc chính phủ nên cai quản các chương trình do chính phủ đài thọ chặt chẽ đến mức độ nào. Tựu trung, theo Reinhold Wagnleiter, các chương trình văn hóa đối ngoại của Mỹ đã bị cuốn theo con nước xoáy của chính sách đối ngoại chống cộng kịch liệt. ”Một ví dụ, có một đạo luật đã nêu rằng các thư viện hải ngoại của chúng ta nên ”khách quan", nhưng mặt khác, các thư viện của chúng ta chính xác phải là các thư viện có công năng đặc biệt. Điều tối ưu mà chúng ta hy vọng sẽ đạt đến đó chính là duy trì ảo giác về tính khách quan của các thư viện ấy với mọi bên.” (14) Lằn ranh giữa thông tin và tuyên truyền vô cùng mong manh. Henry James Jr, một viên chức thuộc Bộ Ngoại giao đã lưu ý rằng hàng loạt tạp chí phê phán chính sách của nội các Truman và các trước tác liên quan đến vấn đề chủng tộc đã gây ấn tượng đối với độc giả ngoài nước về “độ đáng tin cậy của nguồn tư liệu.” Những công kích của Thượng nghị sĩ McCarthy đã tạo nên một làn sóng cuồng nhiệt và kiểm duyệt thông tin ngắn hạn, tuy nhiên các đạo luật ban hành năm 1953 đã tái lập sự quân bình.(15)


Những tranh biện này dai dẳng bất chấp các cải tổ của các thể chế Hoa Kỳ đối với mặt trận ngoại giao công cộng trong suốt nhiều năm. Cuộc tranh luận liệu nhà nước nên kiểm soát các công cụ sức mạnh mềm trực tiếp và gián tiếp đến đâu không thể nào được giải quyết rốt ráo vì cả hai bên đều có lý cứng của mình. 46 năm sau năm 1953, cơ quan trung tâm chuyên lo ngoại giao công cộng của Mỹ đã là USIA (United States Information Agency). Năm 1978, VOA được sáp nhập vào cơ quan này và vào những năm 1980, nội các Reagan đã cố gắng nâng cao khả năng phản ứng nhanh của hai cơ quan này đối với các mục tiêu trước mắt của chính phủ. (16) Vào năm 1999, USIA đã được giải tán và các phòng ban chức năng của nó đã được sáp nhập vào Bộ Ngoại giao. Tại đây, cơ quan này được tiếp xúc thân cận hơn với các trung tâm chính sách, còn VOA và các cơ quan chuyên biệt của họ thì được giao về cho một thực thể lưỡng đảng, đó là Ban phát sóng thuộc hành pháp (Broadcasting Board of Governors). Hiện nay VOA đang phát 53 ngôn ngữ đến với khoảng 91 triệu thính giả trên thế giới.(17)


Quan trọng hơn những thay đổi trong việc tái tổ chức là thái độ thiếu quan tâm đến sức mạnh mềm thời hậu chiến. Thật vậy, Tổng Thống Eisenhower khi hết nhiệm kỳ đã cho biết lẽ ra ông đã phải rút phần ngân sách chi tiêu cho quân lực để củng cố USIA, tuy nhiên điều đó cũng không phải là tiêu biểu. Một người quan sát đã phát biểu: ”Có lẽ ngoại trừ Dwight Eisenhower, không có một Tổng thống nào coi trọng vị trí giám đốc USIA. Trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, [giám đốc USIA là Edward R.] Murrow đã không can dự. Ông đã phát biểu rằng ông thích tham dự từ đầu, không phải đến cờ tàn mới có mặt. (18) Ngay cả trong thời gian Chiến tranh lạnh vào thập kỷ 70, Pháp và Đức đã chi tiêu nhiều hơn cho các cơ quan chức năng chuyên về thông tin chính sách và giao lưu văn hóa hơn Mỹ – trên con số tuyệt đối - còn Anh và Nhật chi tiêu nhiều hơn trên tỷ lệ của nguồn ngân sách, số cụ thể là 0.23% (Anh) và 0.14% (Nhật) so với các khoản chi này của Mỹ chỉ là 0.11%. Vào năm 1975, “lãnh đạo thế giới tự do” đã xếp thứ năm trong hàng ngũ các đồng minh Phương Tây về khoản đầu tư cho các nguồn lực sức mạnh mềm.(19)


Với việc kết thúc Chiến tranh lạnh, người Mỹ đã quan tâm hơn đến tiết kiệm chi tiêu thay vì gia tăng đầu tư cho sức mạnh mềm. Từ 1963 đến 1993, ngân sách liên bang tăng gấp 15 lần, nhưng ngân sách dành cho USIA chỉ tăng 6.5 lần. USIA có hơn 12 ngàn nhân viên tại thời gian đỉnh điểm vào giữa những năm 60, nhưng sau đó chỉ còn 9000 vào 1994 và 6715 vào thời điểm sát nhập trở lại với Bộ Ngoại giao.(20)  Xem chừng sức mạnh mềm có vẻ không quan trọng gì cả. Giữa 1989 và 1999, ngân sách dành cho USIA, có tính trừ hao lạm phát, đã giảm 10%. Trong khi các chương trình phát sóng do chính phủ tài trợ hàng tuần đã vươn ra một nửa dân số Liên Xô và khoảng từ 70 đến 80% dân số của Đông Âu trong suốt cuộc Chiến tranh lạnh, vào đầu thế kỷ mới, chỉ có 2% dân Ả Rập nghe được đài VOA.(21) Các nguồn lực dành cho USIA ở Indonesia nước có dân số theo đạo Hồi lớn nhất thế giới, đã bị cắt xuống còn một nửa. Từ 1995 đến 2001, các trao đổi về văn hóa và khoa học đã giảm từ 45 ngàn lượt xuống còn 29 ngàn lượt hàng năm, và có nhiều trung tâm văn hóa cũng như thư viện đã bị đóng cửa. (22) Vào năm 2003, dịch vụ BBC World Service đã có 150 triệu người nghe hàng tuần trên toàn thế giới trong khi VOA chỉ có non 100 triệu thính giả.(23) Dường như quá hiếm người Mỹ nhận ra rằng với cuộc cách mạng thông tin đang diễn ra, tầm quan trọng của sức mạnh mềm đã tăng chứ không giảm thiểu. Chỉ sau tháng 9 năm 2001 thì người Mỹ mới tái khám phá tầm quan trọng của đầu tư vào sức mạnh mềm, và sự đầu tư ấy có phần chưa thích hợp; năm 2003 VOA đã giảm các chương trình phát thanh tiếng Anh xuống 25%.(24)

                                                            Lê Vĩnh Trương (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) dịch

* Tiêu đề do Tia Sáng đặt

(1) “Quyền lực hạn chế của túi tiền” The Atlantic monthly, tháng 11/2003. Trg 54. Để nghiên cứu sâu, đọc Gary Hufbauer, Jeffrey J.Schott và Kimberley Elliott, Nhìn lại các cuộc cấm vận kinh tế. 2nd ed. (Washington, D.C.: Học viện Kinh tế Quốc tế, 1990)

(2) Tác giả cảm ơn Jane Holl Lute đã chia sẻ ý tưởng này trong buổi trình bày đến Nhóm Chiến Lược Aspen vào tháng 8/2003.

(3) Richard Pells, Không giống chúng ta (New York Basic books, 1997), trg.31-32.

(4) Harold Lasswell, cited in Philip M. Taylor, Tuyên truyền của Anh quốc trong thế kỷ 20 (Edinburg; Ban tu thư Đại Học Edinburg,1999), p.37

(5) Creel dẫn lời Emily Rosenberg, Lan tỏa ước mơ Mỹ (New York: Hill &Wang, 1982),p.79

(6) Sách đã dẫn. Trang 100

(7) Eden trích dẫn Reinhold Wagnleitner, Thực dân hóa coca và chiến tranh lạnh (Chapel Hill: Ban tu thư Đại học Bắc Carolina, 1994), trg 50.

(8) Pells, Không giống chúng ta, trg 33

(9) Rosenberg. Lan Tỏa Ước mơ Mỹ. Trg 208

(10) Sách đã dẫn., trg 209-11

(11) Pells, Không giống chúng ta, trg xiii

(12) Rosenberg, Lan tỏa ước mơ Mỹ. Trg 215-217

(13) Terry Deibel và Walter Roberts, Văn hóa và thông tin: hai nhiệm vụ của chính sách đối ngoại (Beverly Hills; Sage Publications, 1976) trg 14-15

(14) Wagnleitner, Thực dân hóa coca, Trg 58.

(15) Mary Niles Maack, “Sách và thư viện - những khí giới ngoại giao văn hóa tại Châu Phi nói tiếng Pháp thời Chiến tranh lạnh,” Trg 66

(16) Carnes Lord, “Quá khứ và tương lai của ngoại giao công chúng” Orbis, Mùa Đông 1998, Trg 49-72

(17) Rosaleen Smyth, “Lược khảo ngoại giao công chúng của Mỹ trong thế kỷ 21” Tạp chí Úc về quan hệ quốc tế 55, số 3 (2001) trg 429

(18) Leo Bogart, Chiến tranh mát, chiến tranh lạnh (Washington D.C.: Ban tu thư Đại học American, 1995)Trg xvii,xxix.

(19) Deibel and Roberts, Văn hóa và thông tin, trg 23

(20) Bogart, Chiến tranh mát, chiến tranh lạnh, trg xxiv, and Leo Bogart, “Lịch sử Bộ Ngoại Giao trong nhiệm kỳ Bill Clinton (1993-2001), Văn phòng Sử gia, Phòng Công vụ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, xem tại: http//www.state.gov/r/pa/ho/pubs/8518.htm.

(21) Anthony J. Blinken, “Chiến thắng chiến tranh tư tưởng,” trong Alexander T.J. Lennon, ed., Cuộc chiến tranh giành trái tim và khối óc; Sử dụng sức mạnh mềm để triệt phá các mạng khủng bố (Cambridge, Mass.: MIT Press, 2003), trg 287.


(22) Stephen Johnson and Helle Dale,”Cách thức tái khởi động ngoại giao công chúng của Hoa Kỳ,” Heritage Foundation Backgounder no 1645 (Washington D.C.:Heritage Foundation,2003) xem tại http://www.heritage.org/research/nationalsecurity/bg1645.cfm, trg 4

(23) BBC world service, Báo cáo thường niên 2002-2003, “Khảo lược dịch vụ quốc tế và tin tức toàn cầu” xem tại: http://www.bbc.co.uk/info/report2003/pdf/worldservice.pdf, trg 4

(24) Sanford J.Ungar, “Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, đã tắt” Washington Post, 10 tháng 11 năm 2003, trg A 25
-Nguồn:TS

Tổng số lượt xem trang