TS Lê Xuân Nghĩa – Phó chủ tịch, Uỷ ban Giám sát Tài chính Quốc gia đã nhấn mạnh điều này tại Hội thảo Tổ chức kiểm toán đối với việc quản lí và sử dụng các khoản nợ công do Kiểm toán Nhà nước tổ chức.
Theo báo cáo của Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, tính đến ngày 31/12/2010, tổng số dư nợ công ở mức 1.122 nghìn tỷ đồng, tương đương 56,7% GDP năm 2010 và dự kiến tổng số nợ công sẽ ở mức khoảng 1.375 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 58,7% GDP năm 2011.
Cũng theo báo cáo này, ước tổng số dư nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 835 nghìn tỷ đồng, bằng 42,2% GDP năm 2010 và dự kiến nợ nước ngoài của quốc gia sẽ ở mức 44,5% GDP năm 2011.
Như vậy, các chỉ số trên vẫn trong giới hạn an toàn như theo Quyết định số 211/2004/QĐ-TTg ngày 14/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng phát triển tài chính Việt Nam đến năm 2010.
Ngoài ra, theo khuyến cáo của một số nhà kinh tế và kinh nghiệm của một số nước thì nợ công ở mức 60% GDP là giới hạn an toàn.
Mặc dù vậy, xu hướng gia tăng các khoản nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia là đáng lưu ý, đặc biệt khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp trong những tháng đầu năm 2011 do chính sách tiền tệ, tín dụng trong nước thắt chặt, huy động vốn trong nước khó khăn.
Cũng theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, đơn vị này đã và đang chủ động nghiên cứu để xây dựng khuôn khổ pháp lý, có các đề xuất về hoạt động quản lý rủi ro nhằm kiểm soát nợ công và nợ nước ngoài một cách hiệu quả.
Cũng theo TS Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch, Uỷ ban Giám sát Tài chính Quốc gia, việc xác định “ngưỡng an toàn” chỉ là khái niệm tương đối, mạng nặng tính thống kê. Còn trong thực tế, việc nợ công của các quốc gia có thực sự ở trong “ngưỡng an toàn” còn phải xem xét trên nhiều khía cạnh như tốc độ tăng trưởng, tính bền vững trong phát triển, khả năng chống đỡ rủi ro, khoảng hoảng, biến động bất ngờ…).
TS Lê Xuân Nghĩa nêu rõ, đối với nợ công Việt Nam sẽ có những rủi ro tiềm ẩn sau:
Thứ nhất, nợ nước ngoài cao (chiếm 58,8% trong nợ Chính phủ) trong đó phần lớn các khoản nợ nước ngoài là vay ODA (85%) ngoài việc làm tăng chi phí đầu vào của khoản vay thì làm tăng nguy cơ rủi ro về cơ cấu nợ, chưa kể các khoản vay ODA này sẽ giảm dần trong tương lai.
Thứ hai, áp lực chi phí ngân sách lớn dẫn đến thâm hụt ngân sách cả trong và ngoài dự toán ngày càng gia tăng (từ 2,8% GDP năm 2001 lên tới 9% GDP năm 2009) vượt qua mức 5% theo thông lệ quốc tế cũng gây áp lực lên chính sách tài khoá và nghĩa vụ trả nợ trong tương lai.
Thứ ba, chỉ số ICOR – đo lường hiệu quả đầu tư càng cao thì hiệu quả dầu tư của nền kinh tế càng thấp. Hệ số ICOR năm 1991 là 3,2 đã tăng lên 8 vào năm 2009 cho thấy hiệu quả thấp trong việc sử dụng nguồn lực, sự lãng phí và quản lý chưa chặt chẽ trong đầu tư cũng như khả năng cạnh tranh thấp của nền kinh tế.
Thứ tư, nợ công có thể gia tăng nhanh chóng và đột biến trong thời gian ngắn nếu một số các tập đoàn kinh tế đổ bể, mất khả năng thanh toán và chính phủ phải vay nợ để tài trợ cho các tập đoàn này nhằm tái cơ cấu tài chính. Ông Nghĩa dẫn chứng tới việc tái cơ cấu tập đoàn Vinashin.
Thứ năm, tình trạng bong bong bất động sản, nợ xấu, rủi ro lãi suất và hối đoái cũng ảnh hưởng đến nền tảng tài chính và thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Trong trường hợp các ngân hàng thương mại gặp khó khăn về thanh khoản cần được tài trợ từ ngân sách cũng có thể làm bội chi và nợ công tăng đột ngột.
Sơn Hà