Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

Financial Times: Môi trường đầu tư Việt Nam đang kém hấp dẫn hơn

-Tăng trưởng trong nước quá nóng và suy thoái kinh tế toàn cầu khiến nhiều nhà đầu tư ngần ngại khi rót vốn vào thị trường Việt. (Ảnh: Đ.Hà).
(DVT.vn) - Việt Nam từng được coi là đứa “con cưng” của nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, giờ đây, giới đầu tư đang cân nhắc khi rót tiền vào thị trường Việt.
Chỉ 5 năm trước, Việt Nam là điểm đến hấp dẫn thứ 2, chỉ sau Trung Quốc, đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn tìm kiếm 1 thị trường đang phát triển. 
Các nhà sản xuất lớn trên khắp thế giới từ Mỹ, Nhật, Đức,... ồ ạt tiến vào quốc gia có tới 90 triệu dân và sở hữu lợi thế lao động giá rẻ. 
Hàng chục nhà sản xuất Hàn Quốc và Đài Loan trong nhiều ngành nghề, từ đồ nội thất đến hàng may mặc, cũng di dời nhà máy từ miền Nam Trung Quốc, nơi mà mức lương lao động cao gấp 3 lần, sang Việt Nam. 

Đến năm 2010, Việt Nam là nước sản xuất các sản phẩm của Nike lớn nhất thế giới. 

Tốc độ tăng lạm phát hàng năm của Việt Nam (đường màu đỏ) so với các nước đang phát triển khác ở châu Á (màu xanh).

Tốc độ tăng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ năm 2000 - 2011 (dự kiến). Đơn vị: Tỷ USD


So với USD, tỷ giá đồng nội tệ Việt Nam tăng nhanh thứ 2, sau Ấn Độ (tính từ 31/12/2010).

(Nguồn: IMF, EIU, Thomson Reuters, Datastream).
Tuy nhiên, sự xuất hiện ngày càng nhiều những thương hiệu xa xỉ như Bentleys, iPhones hay Louis Vuitton tại Hà Nội và TPHCM lại là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang mất cân bằng. 

Sự tập trung của chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng khiến lạm phát tăng cao, tiền tệ mất ổn định và hệ thống ngân hàng đứng trước nguy cơ khủng hoảng. 

Lạm phát tăng nhanh khiến các chủ doanh nghiệp phải đối mặt với sức ép tiền lương liên tục tăng. Tuy nhiên, trình độ người lao động lại chưa tăng tương xứng khiến các nhà đầu tư nước ngoài đặt ra nhiều câu hỏi về sự hiệu quả của đồng vốn. Phần lớn sản phẩm được sản xuất đều là hàng gia công, giá trị gia tăng thấp do nguyên liệu nhập khẩu chiếm phần lớn giá thành sản phẩm.

Không chỉ Việt Nam, mà cả Malaysia, Thái Lan và 1 số quốc gia đang phát triển khác cũng đang đối mặt với tình trạng trên khi có lợi thế lao động giá rẻ nhưng không sản xuất được nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao.

Đối với nhiều nhà phân tích, một số nước trong khu vực, thậm chí là cả các nước châu Âu và Mỹ có thể sẽ vấp phải tình trạng tương tự như Việt Nam, khi trình độ người lao động không theo kịp với chi phí nhân công mà các chủ doanh nghiệp bỏ ra do lạm phát không ngừng tăng cao. 

Tình trạng xảy ra với các chủ nhà máy ở khu công nghiệp Thăng Long - Nội Bài, Hà Nội là một ví dụ điển hình.

Kể từ khi được thành lập năm 2000, khu công nghiệp Thăng Long đã nhanh chóng thu hút các công ty nước ngoài đến đặt cơ sở sản xuất tại đây. 

Với lợi thế nhân công giá rẻ, khu công nghiệp này đã được lấp đầy vào năm 2009 khi có tới gần 100 công ty, chủ yếu là đến từ Nhật Bản và 55.000 công nhân làm việc ngày đêm. 

Ở đây quy tụ hầu hết các thương hiệu lớn của cường quốc châu Á này như Canon, Panasonic, nhà máy linh kiện cho máy bay Boeing 737,... và được coi là cơ sở sản xuất thay thế của Trung Quốc. 

Tuy nhiên, lạm phát tăng cao, tới 20% so với cùng kì năm trước khiến không ít nhà máy tại khu vực này và nhiều khu công nghiệp khác trên khắp cả nước, bị ảnh hưởng bởi các cuộc đình công tự phát. 

Kể từ đầu năm, đã có ít nhất 10 nhà máy xảy ra tình trạng trên. 

Mặc dù hiểu rằng công nhân lao động phải vật lộn để tồn tại với mức lương tối thiểu 2 triệu đồng/tháng nhưng các công ty vẫn ngần ngại tăng lương vì lợi nhuận đang ngày càng giảm sút bởi khủng hoảng toàn cầu. Canon, thương hiệu máy ảnh hàng đầu thế giới cũng đang đau đầu với việc tuyển thêm lao động khi những người cũ liên tục xin nghỉ. Ngoài mức lương 2,9 triệu đồng/tháng, công ty này đưa ra cam kết tăng lương 2 lần/năm, sắp xếp chỗ ở giá rẻ và cung cấp 5 kg gạo/tháng cho người lao động.

Giá lương thực đã tăng 32% kể từ đầu năm. Còn mức lương dành cho lao động phổ thông lại chỉ tăng chậm chạp.

Người lao động, dù vẫn thất vọng với mức lương thấp nhưng buộc phải chấp nhận làm việc vì không muốn bị thất nghiệp. 

Sự xuất hiện ngày càng nhiều những thương hiệu xa xỉ như Louis Vuitton tại Hà Nội và TPHCM là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang mất cân bằng. Ảnh: Financial Times.

Bên cạnh lạm phát thì lãi suất tăng nhanh, khó tiếp cận vốn,... là những lí do cơ bản được các doanh nghiệp đưa ra khi rơi vào tình trạng thua lỗ, làm ăn cầm chừng, thậm chí là phá sản. 

Ngân hàng thế giới World Bank dự đoán, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam sẽ tăng chậm lại, từ mức trung bình 8,1% trong giai đoạn 2003-2007 xuống còn 6% trong 5 năm tiếp theo. Điều này cho thấy triển vọng kinh tế trong nước có phần ảm đạm.

Trong khi đó, nền kinh tế toàn cầu vẫn đang đương đầu với 1 loạt thách thức: khủng hoảng nợ công ở châu Âu, thất nghiệp cao ở Mỹ, kinh tế Nhật phục hồi chậm chạp,... khiến kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực như giày da, dệt may, gạo, cà phê,... đều bị ảnh hưởng. 

Trước tình hình bất ổn trong nước, người dân đổ xô đi mua vàng, bất chấp giá vàng trong nước có thời điểm cao hơn giá thế giới tới 10%. Tới thời điểm này, Việt Nam là một trong số những nước có lượng vàng nắm giữ/người cao nhất thế giới.

Ben Bingham, người từng giữ cương vị đại diện Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF ở Việt Nam trong 4 năm cho biết: “Chính phủ Việt đang phải đối mặt với môi trường kinh tế khó hơn nhiều so với dự đoán khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm 2007”. 

Tăng trưởng trong nước quá nóng, cùng với suy thoái kinh tế toàn cầu đã buộc nhiều nhà đầu tư nước ngoài và cả Việt Nam xem xét lại quan điểm của họ về triển vọng nền kinh tế. 

Đức Minh
Theo Financial Times-Nguồn:
 Financial Times: Môi trường đầu tư Việt Nam đang kém hấp dẫn hơn(DVT/Financial Times)


--“Cơn nghiện” đầu tư  công đã có cách chữa? (TBKTSG). - Chỉ thị 1792 của Thủ tướng có thể được xem là “toa thuốc” để giải quyết căn bệnh đầu tư dàn trải hiện nay, nhưng hiệu quả điều trị còn phải chờ xem.
“Các đồng chí nhớ một điều: nếu được thì bán luôn công trình, bán 100% công trình cho tư nhân”, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh nhắc đi nhắc lại điều này khi gặp lãnh đạo các địa phương tuần trước để phổ biến Chỉ thị 1792 của Thủ tướng về quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ. Đó là một yêu cầu mạnh hiếm gặp của một bộ trưởng. Song, có vẻ, ông Vinh đã đưa ra lối thoát hợp lý nhất cho những dự án đầu tư công không cân đối được vốn trong năm năm tới: những dự án đó, nếu không bán được (như ông đề nghị), hoặc không chuyển đổi được sang các hình thức đầu tư kết hợp với tư nhân chỉ còn nước duy nhất là giãn và hoãn tiến độ cho đến sau năm 2015. Bên cạnh đó, những dự án sử dụng vốn trái phiếu chính phủ sẽ không được khởi công. Ông nói thẳng người ký quyết định phải chịu trách nhiệm với những dự án không xác định rõ nguồn vốn mà vẫn được khởi công.
Có lẽ, bộ trưởng không dọa suông. Điện Biên sẽ là địa phương đầu tiên trên cả nước phải trả giá. Lãnh đạo tỉnh này đã khởi công xây cầu Đồng Xuyên trị giá 400 tỉ đồng bằng nguồn vốn trái phiếu chính phủ mà chưa được Chính phủ bố trí vốn. Theo Nghị quyết 881 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quyết định 184 của Thủ tướng, công trình này không nằm trong danh mục đầu tư đã được phê duyệt. Như vậy, dù đã được thi công gần xong, công trình này sẽ không được chính quyền trung ương bố trí vốn. Ông Vinh kể, ông đã báo cáo điều này với Thủ tướng và được Thủ tướng ủng hộ. Trong Chỉ thị 1792, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thừa nhận tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án, vượt khả năng cân đối vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ do phân cấp quá rộng. Bên cạnh đó, các dự án thi công quá dài, hiệu quả kém, phân tán nguồn lực đã không đáp ứng được yêu cầu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Tất cả những yếu kém đó, theo bộ trưởng, bắt nguồn từ sự hạn chế của cơ chế quản lý đầu tư hiện nay. Rõ ràng, những động thái như trên đã phát đi thông điệp chính: chính quyền trung ương nay đã không còn đủ nguồn lực, và sự kiên nhẫn, để tiếp sức cho những dự án đầu tư công dàn trải, manh mún và gây lãng phí.
Hiện cả nước có trên 32.000 dự án đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước đang được thực hiện, theo nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong thuộc Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội từ nguồn số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đó là một con số lớn đến khó tin, từ những đại dự án như các khu kinh tế, đường bộ cao tốc trị giá hàng tỉ đô la, cho đến những dự án rất nhỏ như lợp lại mái cho lớp học ở vùng sâu. Câu hỏi đặt ra, làm sao để tạo ra khuôn khổ pháp lý để khắc phục tình trạng trên, nhất là khi đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước được xác định là một trong ba trọng tâm phải xử lý nhằm tái cơ cấu nền kinh tế?
Đã có không ít lời khuyên từ các học giả và chuyên gia. Hầu hết đều cho rằng cơ chế phân cấp đầu tư công dễ dãi như hiện nay, như Bộ trưởng Vinh thừa nhận, cần phải được chỉnh sửa. Ông Nguyễn Quang Thái, nguyên Viện phó Viện Chiến lược phát triển, cho rằng trước hết cần sửa đổi cơ chế phân cấp ngân sách, phân cấp đầu tư và quan trọng hơn là tăng cường vai trò cân đối chung ở tầm quốc gia của Chính phủ. Đây là điều có thể làm được, nhất là khi có tới hơn 50 tỉnh đang phải nhờ trợ cấp của trung ương vì không tự cân đối được ngân sách địa phương. Nếu không có tầm nhìn thống nhất, toàn cục thì không thể khắc phục được tình trạng mở rộng hơn nữa các khu kinh tế, cảng biển, sân bay… như thời gian qua. Về điểm này, ông Lê Xuân Bá, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, đồng tình. Ông cho rằng, việc phân cấp quản lý đầu tư hiện nay là “quá mức”, vượt tầm kiểm soát của chính các cơ quan quản lý nhà nước, gây lãng phí lớn nguồn lực, làm méo mó cơ cấu kinh tế. Ông Bá cho rằng, về phân cấp quản lý đầu tư thì các câu hỏi làm gì, bao giờ, ở đâu phải do trung ương quyết định, còn ai làm, làm thế nào có thể  phân cấp, trung ương chỉ hướng dẫn. Vì lẽ đó, phải sửa đổi Nghị quyết 08 ngày 30-6-2004 của Chính phủ. Rộng hơn nữa, ông Bá cho rằng, phải ban hành cùng lúc ba bộ luật là Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư cơ sở hạ tầng, và Luật Quy hoạch.
Tuy nhiên, việc đơn giản nhất có thể làm là giảm ngay quy mô đầu tư công. Ông Thái cho rằng, vốn đầu tư từ ngân sách phải được giảm xuống khoảng 25% tổng chi tiêu cân đối ngân sách, tránh trường hợp tăng cao lên đến gần 40% như năm 2009. Trong khi đó, ông Bá cho rằng, cần phải giảm mạnh đầu tư công xuống dưới một phần ba tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Rà soát lại các khoản đầu tư công, căn cứ vào các quy hoạch và tạo cân đối trong kế hoạch, có tính khả thi về cân đối tài chính trong trung hạn. Phải tái cấu trúc lại các công trình, dự án đã đầu tư không còn phù hợp, và ngăn ngừa việc tiếp tục sản sinh ra các danh mục đầu tư “ba không” (không rõ mục đích, không cân đối được nguồn lực và không xác định được phân kỳ đầu tư).
Ở một góc độ kiên quyết hơn, ông Bá cho rằng cần phải rà soát lại toàn bộ danh mục đầu tư đã được phê duyệt, nhưng chưa triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, ông cho rằng, cần xây dựng chương trình đầu tư công cho giai đoạn năm năm tới, thay vì hàng năm như hiện nay.
Hiện tại, những bản kiến nghị của các chuyên gia kinh tế đang được thảo luận và tập hợp để gửi lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nhưng với những gì đang diễn ra, đó có thể sẽ là quá trình dài để các cơ quan nghiên cứu và chỉnh sửa. Đã có thêm ba khu kinh tế được cấp phép sau khi Thủ tướng chính phủ “chốt” danh sách 15 khu theo quy hoạch đến năm 2010. Bên cạnh đó, đầu tư từ ngân sách tới 180.000 tỉ đồng, và trái phiếu chính phủ 45.000 tỉ đồng cho năm 2012 cho thấy đầu tư công vẫn theo đà tăng mạnh. Hiện tại, Bộ trưởng Vinh đã có Chỉ thị 1792 làm “thượng phương bảo kiếm” cho tình trạng đầu tư dàn trải hiện nay. Song, vẫn phải rút kinh nghiệm. Sau khi ông họp với lãnh đạo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chỉ thị này, một cấp dưới đã đưa cho ông một nghị quyết về cơ cấu đầu tư công do Quốc hội ban hành năm 2004 có nội dung tương tự như Chỉ thị 1792. Đã bảy năm trôi qua, nghị quyết đó chưa từng được tuân thủ. Kinh nghiệm đó là thách thức không hề nhỏ.

 Tái cấu trúc và… nợ xấu ngân hàng - (Tamnhin.net) - Đến năm 2015, Việt Nam sẽ có 15 ngân hàng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và có từ 1 đến 2 ngân hàng có thể đảm bảo được tính cạnh tranh và tầm cỡ quy mô của khu vực.
--Đau lòng lắm, các sếp EVN ơi!
Đổ ra cả núi tiền xây thủy điện làm nhiệt điện, tưởng rằng sẽ có đủ điện dùng, té ra vẫn “đi mua điện về bán”, các sếp đã đau chưa?
- Dự thảo Nghị định quản lý hoạt động kinh doanh vàng: Vẫn còn những bất an(TBKTSG).





-----

Tổng số lượt xem trang