Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2011

Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người


Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William Burns (Reuters)
Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William Burns (Reuters)
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người-QĐND - Quyền con người (QCN) là thành quả của nền văn minh nhân loại, là giá trị lớn lao mà các quốc gia dân tộc có thể chia sẻ. Cách mạng Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã có những đóng góp lớn lao, mang tính đột phá, tính thời đại về nhân quyền. Điều này thể hiện tập trung ở Tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn Cách mạng Việt Nam
.1- Sự ra đời của khái niệm QCN gắn liền với các cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xã hội thần dân thế kỷ XVII, XVIII. Ở Anh, khái niệm đó nằm trong Luật về các quyền (1689); ở Mỹ, nằm trong Tuyên ngôn Độc lập (1776) và Hiến pháp (bổ sung, 1789); ở Pháp, nằm trong Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền (1789). Khái niệm QCN hiện đại ra đời trong thế kỷ XX, gắn với sự ra đời của Liên hợp quốc, năm 1945, trong Hiến chương Liên hợp quốc và trong Tuyên ngôn Thế giới về QCN, năm 1948. 
Quyền con người được hiểu trên hai bình diện: Bình diện nhân văn và bình diện pháp lý. Trên bình diện nhân văn, QCN được xem là một phạm trù đạo đức. Hạt nhân của quan niệm này là sự tôn trọng nhân phẩm, là giá trị vốn có và bình đẳng đối với tất cả mọi người; là tinh thần nhân đạo, khoan dung đối với con người. Trên bình diện pháp lý, QCN là quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích (vật chất, tinh thần) của con người được thể chế hóa trong quy định pháp luật, được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và thực hiện. Quyền con người trong pháp luật quốc gia vừa mang tính phổ quát vừa mang tính đặc thù về lịch sử, văn hóa và chế độ xã hội.
Khác với quyền công dân, QCN là quyền của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại. Đây chính là cơ sở lý luận và pháp lý mà các thế lực đế quốc và tay sai của chúng lợi dụng để can thiệp vào công việc của các quốc gia. 
Trên phạm vi quốc tế, Chiến lược “Diễn biến hòa bình” (DBHB), lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền của chủ nghĩa đế quốc diễn ra song song với cuộc đấu tranh vũ trang ngay từ khi nhà nước công nông đầu tiên ra đời (năm 1917). Từ giữa thập kỷ 80 (thế kỷ XX), lợi dụng cải tổ, cải cách, đổi mới, chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh chiến lược này, kết hợp với bạo loạn, lật đổ hòng làm thay đổi chế độ xã hội ở các nước XHCN. Có thể nói, các cuộc “cách mạng màu” ở Đông Âu, “cách mạng hoa nhài” ở Trung Đông, Bắc Phi là những biến thể của Chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Chẳng thế mà ngày nay, các thế lực thù địch đang mơ sẽ có “cách mạng hoa sen” ở Việt Nam. 
2- Ở Việt Nam, hơn 80 năm áp đặt chế độ thống trị, thực dân Pháp vẫn duy trì chế độ phong kiến thối nát; dân tộc ta không có Hiến pháp, không có quyền công dân, quyền con người. "Thành tựu" nhân quyền mà chủ nghĩa đế quốc, thực dân và phát-xít đã đem lại cho dân tộc Việt Nam là sự kiện hơn 2 triệu người ở Bắc Bộ chết đói vào năm 1945 (chiếm gần 1/10 dân số lúc đó), là cuộc chiến tranh mang tính hủy diệt của đế quốc Mỹ kéo dài 30 năm, cho đến nay nhiều người Mỹ vẫn còn ân hận. Đây là một bằng chứng lịch sử không ai có thể phủ nhận được.
Thế là, hơn 150 năm, kể từ khi có Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp, ở các nước thuộc địa, người dân vẫn phải sống kiếp nô lệ. Không phải ngẫu nhiên người ta nghĩ rằng, khái niệm nhân quyền không phải bao giờ cũng được sử dụng với nguyên nghĩa tốt đẹp của nó, mà đằng sau đó còn chứa đựng những ý đồ chính trị đen tối của các thế lực đế quốc, thực dân và của những kẻ tay sai của chúng.
3- Không phủ nhận rằng, QCN mang tính phổ quát, nhưng do những đặc thù về lịch sử, văn hóa và chế độ xã hội, nội dung, phương thức, cơ chế bảo đảm QCN ở mỗi quốc gia luôn có sự khác nhau. Trong Cách mạng Việt Nam, QCN do nhân dân ta đứng lên đấu tranh tự giành lấy. Tuyên ngôn Độc lập 1945 và Hiến pháp 1946 đã ghi nhận các quyền công dân và QCN của nhân dân ta, trước khi có Bản Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới 1948. 
Việc bảo đảm QCN của nhân dân ta ngày nay không chỉ là việc chăm lo cho đời sống của nhân dân mà còn phải đấu tranh với các thế lực thù địch và tay sai của chúng, bảo vệ chế độ và thành quả của cách mạng đã giành được.
Trong lịch sử Cách mạng Việt Nam, đổi mới là một thời kỳ đặc biệt. Đó là thời kỳ Đảng ta sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, nhận thức lại CNXH và con đường đi lên CNXH. Bản lĩnh của Đảng ta đã thể hiện rõ trong bước ngoặt lịch sử này. Đảng ta chủ trương chọn lọc, kế thừa các giá trị của nền văn minh nhân loại, trong đó có kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, dân chủ và quyền con người. Tuy nhiên, Đảng ta quán triệt nguyên tắc: Đổi mới phải dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững định hướng XHCN, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ của nhân dân. 
Thời kỳ đầu những năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra những sai lầm khuyết điểm trên lĩnh vực dân chủ và QCN như: "Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh”, "tình trạng một số cơ quan nhà nước và người thi hành công vụ làm trái pháp luật..., có trường hợp vi phạm nghiêm trọng quyền công dân”... Đồng thời, Đảng ta cũng đã sớm chỉ ra rằng, “Đối với chúng ta, vấn đề QCN được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của CNXH... bao quát rộng rãi nhiều lĩnh vực từ chính trị, tư tưởng, văn hóa đến kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, pháp chế” (1).
Trên một số lĩnh vực nhạy cảm về dân chủ và QCN, khi chưa có sự thống nhất về mặt nhận thức trong Đảng và xã hội, Đảng ta đã có sự chỉ đạo trực tiếp trong nội bộ Đảng và trong cả hệ thống chính trị. Có thể lấy một số văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương, của Ban Bí thư và Bộ Chính trị làm ví dụ: Chỉ thị của BCH Trung ương về “Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” (1998), trong đó Đảng ta thể hiện rõ quan điểm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân quyết định”; Nghị quyết Trung ương 3, khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” (2006); Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX (2003) “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc”, trong đó Đảng ta xác định: "Xóa bỏ mặc cảm định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau...”; Nghị quyết về “Công tác dân tộc”, Đảng ta tái khẳng định quan điểm: "Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau”, “ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi”. Nghị quyết về “Công tác tôn giáo”, Đảng ta xác định "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”...
Nhằm khắc phục nhận thức của xã hội không đúng về HIV/AIDS, đặc biệt là sự kỳ thị với người nhiễm HIV, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Chỉ thị 54, năm 2005 về “Tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới”, trong đó yêu cầu Nhà nước sớm “xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ tạo môi trường pháp lý... cho công tác phòng, chống HIV/AIDS”... Trong hơn 20 năm đổi mới, sở dĩ cách mạng Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn, trong đó chính trị ổn định; kinh tế vượt qua khủng hoảng, giữ được tăng trưởng khá cao trong nhiều năm; vị thế của đất nước được nâng cao... là nhờ Đảng ta không chấp nhận mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây, không sao chép mô hình “dân chủ công khai”, “đa nguyên, đa đảng” của cải tổ. 
Để bảo vệ QCN của nhân dân ta hiện nay, không thể không đấu tranh chống lại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch thực hiện Chiến lược “Diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”(2).
Hiện nay, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài đòi “đổi mới triệt để”, đòi cải cách thể chế chính trị, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hạn chế sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, đòi thực hiện “tam quyền phân lập ”… nhằm từng bước làm thay đổi tính chất chế độ xã hội ta.
Không phủ nhận rằng, chúng ta đang đối mặt với một thực tế là tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ,“suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”(3); tình trạng phân hóa giàu-nghèo; những bất cập trong lĩnh vực y tế, giáo dục; tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, cơ chế “xin-cho”, “lợi ích nhóm”…, song không vì thế mà có thể phủ nhận đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta nhất quán tôn trọng và bảo vệ QCN.
TS Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

(1) - Tài liệu của Viện Nghiên cứu quyền con người , Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
(2)- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG.HN, 2011, tr 29. 
(3) - Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG.HN, 2011, tr 29...


“Tái cấu trúc” là thế này đây! – (BoxitVN).- Mạn đàm về: “ý đảng – lòng dân” – (DLB).-- Lại trồng cây (Nguyễn Thông).
Nhà báo cả nước rúng động: phóng viên Hoàng Khương bị đuổi việc (FB Cô Gái Đồ Long/ TTXVA). – – Cần xử lý nghiêm PV bất chấp pháp luật trong lúc hành nghề (CAND).



-Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ sẽ viếng thăm Việt Nam đầu tuần tới
Hôm nay 10/12/2011, thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William Burns rời Washington để đi công du Ấn Độ và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ sẽ đến Hà Nội ngày 13/12/2011 để hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam về việc phát triển quan hệ đối tác hai bên.

Theo tin từ báo chí Ấn Độ hôm nay, theo chương trình dự kiến, tại New Delhi ngày 12/10, ông William Burns sẽ thảo luận với các quan chức cao cấp chính phủ Ấn Độ về một loạt vấn đề song phương, khu vực và toàn cầu, thể hiện mối quan hệ đối tác ngày càng chặt chẽ giữa hai nước Hoa Kỳ và Ấn Độ.


Trước khi thăm Malaysia, thứ trưởng Ngoại giao Mỹ sẽ đến Hà Nội ngày 13/12 để hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam về việc phát triển quan hệ đối tác giữa hai nước, trong đó có hợp tác kinh tế, cũng như tiếp tục nêu lên những mối quan ngại của Hoa Kỳ về nhân quyền ở Việt Nam.

Xin nhắc lại là vòng 16 Đối thoại Nhân quyền Mỹ-Việt vừa diễn ra tại Washington trong hai ngày 9 và 10/11/2011. Tuy vẫn tăng cường quan hệ ngoại giao và quân sự với Việt Nam, Hoa Kỳ thường xuyên kêu gọi Việt Nam tôn trọng nhân quyền, đồng thời lên án việc Hà Nội tiếp tục sách nhiễu, giam giữ các nhà bất đồng chính kiến.

Đúng ngày hôm nay, Hoa Kỳ và Việt Nam kỷ niệm 10 năm Hiệp định thương mại song phương có hiệu lực. Theo thông cáo của đại sứ quán Mỹ, kể từ khi hiệp định này có hiệu lực ngày 10/12/2001, trao đổi mậu dịch hai chiều giữa hai nước đã tăng từ 1,5 tỷ đôla lên 20 tỷ đôla. Hiện nay, Hoa Kỳ và Việt Nam, cùng với bảy nước đối tác khác, đang đàm phán một hiệp định tự do mậu dịch khu vực mang tên Quan Hệ Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Những ngọn nến sáng ở xứ đạo Vạn Phần (Cộng đoàn Vinh).
 Hành động đúng với Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (VOV).
(VOV) - Ngày 10/12 cũng chính thức được lấy làm Ngày Quốc tế về Nhân quyền để nhắc nhở mọi người hãy tôn trọng những quyền thiêng liêng của con người.
Ngày 10/12/1948, Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền đã chính thức được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua với những tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người.
Được xây dựng trên cơ sở các thỏa ước quốc tế, thỏa ước nhân quyền khu vực, hiến pháp và luật pháp quốc gia… Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là một khuôn mẫu chung để mọi quốc gia và mọi dân tộc thực thi. Tinh thần của bản Tuyên ngôn, đúng như ở điều đầu tiên trong tổng số 30 điều, đã ghi là: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế phải đối xử với nhau trên tinh thần bác ái”.
Thế giới rộng lớn với nhiều quốc gia, nhiều dân tộc cùng tồn tại rất cần sự tuân thủ nghiêm ngặt những điều ghi trong Tuyên Ngôn Quốc tế về Nhân quyền. Nếu những điều ấy được thực thi, được tuân thủ ở mọi quốc gia và giữa mọi quốc gia đã không nảy sinh những xung đột, chém giết những đói khổ, nguy nan… Con người đã thực sự được hưởng cái quyền của chính mình. Thế nhưng, người ta chưa hiểu đúng hay hiểu mà vẫn cố tình làm sai khi một dân tộc, một quốc gia này tự cho mình cái quyền đi xâm lược nước khác, áp bức dân tộc khác?!
Người ta không tuân thủ hay chỉ vì đặt lợi ích cá nhân mình cao hơn mà sẵn sàng vi phạm cả luật pháp quốc tế khi áp đặt những chuẩn mực phi lý đối với một dân tộc, một quốc gia có chủ quyền khác.
Từ những cuộc chiến tranh liên miên trong lịch sử xa xưa đến những xung đột mới nảy sinh giữa các quốc gia, sắc tộc, tôn giáo… đều có nguyên nhân từ chính những hành vi vi phạm quyền con người. Và cũng có những hành vi núp dưới chiêu bài “bảo vệ nhân quyền” nhưng trên thực tế lại đang trà đạp lên nhân quyền hay tước đoạt quyền của con người.
Đâu là tôn trọng quyền con người khi lấy cớ “bảo vệ người dân vô tội” nhiều tấn bom, đạn lại dội xuống một quốc gia có chủ quyền, để rồi những mạng người bị tiêu diệt lại chính là người dân vô tội! Đâu là bảo vệ quyền con người khi lấy cớ trừng phạt quốc gia này, dân tộc kia vi phạm nhân quyền người ta lại áp đặt những biện pháp hà khắc mà cuối cùng người bị hại cũng lại chính là những dân tộc, những con người với đầy đủ quyền được sống an toàn!
Nhiều quốc gia đã tự cho mình cái quyền này, quyền kia để di “răn dạy” các quốc gia khác bằng những báo cáo nhân quyền, báo cáo tôn giáo mà trên thực tế đó mới chính là những hành vi vi phạm nghiêm trọng Tuyên ngôn Nhân quyền.
Ở trong một quốc gia cũng vậy, nếu quyền con người được tôn trọng, luật pháp về quyền con người được bảo đảm thì những hành vi vi phạm kiểu tham nhũng, lạm quyền không thể có chỗ tồn tại. Người ta không thể vẫn tồn tại theo danh nghĩa bình đẳng mà một số ít người thì hưởng quá nhiều quyền lợi, trong khi số nhiều người khác lại phải chịu thiệt thòi. Không thể bảo đảm nhân quyền khi có những người được no nê, phè phỡn trong khi nhiều người khác lại nghèo đói, thất học và vô gia cư.
Cũng chính bởi những điều đó mà ở bất cứ đâu trên trái đất này, khi một quốc gia, một thể chế, một chính phủ thực hiện tốt hoặc đang nỗ lực thực sự cho những mục tiêu tốt đẹp là bảo đảm nhân quyền, quốc gia ấy, thể chế ấy phải được công nhận, được đánh giá cao. Ngược lại, mọi quốc gia, mọi dân tộc không thể lợi dụng “Tuyên ngôn nhân quyền” mà có những việc làm đi ngược với tinh thần chung nhất được nêu trong tuyên ngôn là “vì con người”./.

-Ðảng, Nhà nước luôn chăm lo bảo đảm và bảo vệ quyền con người Quá trình lãnh đạo cách mạng Ðảng ta luôn khẳng định, việc bảo đảm quyền con người là một mục tiêu, động lực của cách mạng, là trách nhiệm lớn của Ðảng và Nhà nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập, Ðảng ta chủ trương "Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia"(1).
Trong xã hội ta, quyền con người của tất cả mọi người đều được tôn trọng và bảo đảm, không phân biệt giai cấp, tầng lớp nào, quá khứ của họ ra sao. Bảo đảm quyền con người ở Việt Nam nằm trong mục tiêu xây dựng xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Quan điểm nhất quán của Ðảng và Nhà nước
Ở Việt Nam quyền con người gắn với quyền dân tộc và chủ quyền quốc gia. Muốn hiện thực hóa được các quyền con người phải có các tiền đề, điều kiện nhất định. Ðiều kiện trước hết là đất nước phải được độc lập, chủ quyền quốc gia phải được tôn trọng. Thực tiễn lịch sử Việt Nam và nhiều nước vừa trải qua đấu tranh giành độc lập đã chứng minh, đất nước bị nô lệ thì người dân không thể có tự do, các quyền con người bị chà đạp nghiêm trọng. Vì vậy, các dân tộc bị áp bức đã không nề hy sinh, mất mát để giành và giữ nền độc lập. Và quyền dân tộc tự quyết đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nhân quyền. Nói cách khác, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người. Không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, không thể nói đến các quyền con người.
Bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Trách nhiệm pháp lý này đã được Liên hợp quốc quy định trong các văn kiện nhân quyền quốc tế. Mặt khác, chính Hiến chương Liên hợp quốc cũng nhấn mạnh "Không quốc gia nào, kể cả Liên hợp quốc, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia".
Ngày nay, quyền con người đã được quốc tế hóa về nhiều mặt, nhưng việc bảo đảm quyền con người chủ yếu vẫn thuộc thẩm quyền của các quốc gia. Sự hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền là rất quan trọng, vì đã bổ sung thêm nguồn lực và kinh nghiệm trong việc bảo đảm quyền con người. Tuy nhiên, các cơ chế nhân quyền quốc tế chỉ nhằm bổ sung chứ không thể thay thế các cơ chế đang vận hành tại các quốc gia. Ðối với việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, trách nhiệm của quốc gia càng rõ - không có bất cứ một quốc gia hay tổ chức quốc tế nào có thể đảm đương được việc bảo đảm các quyền này thay cho các nhà nước. Ðây là những nguyên tắc cần được nhận thức đầy đủ; không được mơ hồ, phân vân.
Ðộc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là đòi hỏi hàng đầu trong việc bảo đảm và thực thi nhân quyền, nhưng điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là nhà nước phải sử dụng các điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi thành viên của đất nước. Giành độc lập cho Tổ quốc là một trong những mục tiêu lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng vừa đạt được mục tiêu này Người đã chỉ rõ, nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Ðiều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người với quyền dân tộc tự quyết và trở thành định hướng chính trị quan trọng trong mọi hoạt động bảo vệ quyền con người.
Quyền con người được pháp luật bảo vệ, gắn liền trách nhiệm, nghĩa vụ công dân. Thực tiễn Việt Nam và thế giới cho thấy, bảo đảm bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người được thực hiện. Mọi nhu cầu hay yêu sách về quyền nếu không được pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì không thể có bất cứ một quyền con người nào.
Trong phạm vi quốc gia, pháp luật bảo vệ quyền con người thể hiện ở việc ghi nhận các quyền trong pháp luật, hoàn thiện các thiết chế, bộ máy... nhằm bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người. Mặc dù luôn nhấn mạnh "quyền bẩm sinh", nhưng ngày nay, ở mọi quốc gia, quyền con người đều được ghi nhận và bảo vệ bằng các hình thức pháp luật khác nhau.
Hiện nay đang xuất hiện một số những đòi hỏi cực đoan, rằng nhà nước phải để người dân được tự do bày tỏ quan điểm chính trị, tự do lập hội, hội họp, biểu tình, tự do ra báo tư nhân, nhà xuất bản tư nhân, tự do hoạt động tôn giáo... Nhiều người đã ráo riết tuyên truyền và hoạt động bất chấp những quy định của pháp luật hiện hành. Thậm chí họ cũng không hiểu hoặc cố tình không hiểu rằng, chính Luật Nhân quyền quốc tế cũng ghi rõ một số quyền có thể bị hạn chế vì an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe cộng đồng và tự do của người khác.  
Trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước ta luôn coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật; củng cố các cơ quan tư pháp và cơ chế nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của người dân.  
Phương Tây luôn nhấn mạnh quyền mà không nói đến nghĩa vụ cá nhân. Quan điểm này đã ảnh hưởng mạnh vào Việt Nam. Thậm chí đến nay, trong giới nghiên cứu lý luận nhân quyền ở nước ta, cũng có nhiều người cho rằng, nói đến nhân quyền là nói đến nghĩa vụ của nhà nước, không thể đòi hỏi nghĩa vụ cá nhân ở đây (?!). Ðiều này đã gây nhận thức mơ hồ trong xã hội về trách nhiệm cá nhân khi hưởng thụ quyền.
Bàn về vấn đề này, Các Mác từng viết: "Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi"(2). Trên thực tế, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người cũng ghi nhận: "Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng mà chính trong đó nhân cách của bản thân có thể phát triển tự do và đầy đủ" (Ðiều 29); các văn kiện nhân quyền khác cũng đều nhấn mạnh, mỗi cá nhân trong khi được hưởng thụ các quyền cần tôn trọng tự do của người khác và tôn trọng lợi ích của cộng đồng.  
Quan điểm này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì nó chỉ ra được cách giải quyết một trong những mối quan hệ cơ bản nhất của vấn đề nhân quyền, khắc phục được cách hiểu phiến diện, cực đoan về vấn đề nhân quyền.
Các chủ trương, chính sách lớn bảo đảm quyền con người
Từ các quan điểm cơ bản nói trên, trong quá trình đổi mới Ðảng đã đề ra một số chủ trương, chính sách, công tác, nhiệm vụ để bảo đảm quyền con người trong điều kiện mới.
Trước hết là công tác tuyên truyền giáo dục trong nhân dân, tùy từng đối tượng cụ thể có nội dung, phương thức phù hợp để mọi người hiểu rõ quan điểm, chính sách của Ðảng, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, nhận rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta là vì con người, vạch trần những luận điểm bịp bợm và thủ đoạn xấu xa của các thế lực thù địch trên lĩnh vực này. Khắc phục tình trạng bị động trong hoạt động tuyên truyền đối ngoại. 
Hệ thống pháp luật, từng bước thể chế hóa các nội dung về quyền con người phù hợp với điều kiện của nước ta, với các tiêu chuẩn về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Ðiều quan trọng nhất là Ðảng lãnh đạo toàn dân tiếp tục thúc đẩy công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhiều chính sách, quyết định lớn của Ðảng, Chính phủ về kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội đều nhằm mục tiêu vì con người.
Ðảng và Nhà nước đặc biệt chăm lo kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật trong sạch, vững mạnh, bảo vệ có hiệu quả các quyền công dân, quyền con người. Nghiêm khắc kiểm điểm, uốn nắn, khắc phục những khuyết điểm vi phạm quyền dân chủ của các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức.
Các cơ quan lý luận khoa học, các ban, ngành bảo vệ pháp luật đã tiến hành tổ chức nghiên cứu sâu về quyền con người, phát triển các tư tưởng nhân đạo, giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng ta, làm rõ sự khác nhau giữa các quan điểm đó với quan điểm tư sản về quyền con người. Trên cơ sở đó xây dựng hệ thống quan điểm của Ðảng ta về quyền con người, làm cơ sở cho công tác tư tưởng, cho việc hoàn thiện pháp luật và chính sách về quyền con người, tạo thế chủ động chính trị trong cuộc đấu tranh vì quyền con người trên trường quốc tế.
Trong hoạt động ngoại giao và tuyên truyền đối ngoại, trên cơ sở thực hiện tốt những quyền cơ bản của con người ở nước ta theo đúng đường lối, quan điểm của Ðảng, hiến pháp và pháp luật của Nhà nước đã chủ động và kiên định nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo đảm an ninh quốc gia, không thỏa hiệp trước những yêu sách gây tổn hại đến chủ quyền an ninh; đồng thời có đối sách linh hoạt, mềm dẻo trong một số vụ việc xét không phương hại đến an ninh và chủ quyền, nhằm đáp ứng yêu cầu đối ngoại, tranh thủ thêm bạn bè, phân hóa các lực lượng thù địch...
Sau 25 năm đổi mới, trong bối cảnh lịch sử mới, về bảo đảm và bảo vệ quyền con người, Ðại hội đại biểu lần thứ XI (năm 2011) của Ðảng đã khẳng định: Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực; dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm...
Thực hiện Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng, bảo đảm quyền con người trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, chúng ta cần tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục sát hợp với từng tầng lớp nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân về công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới. Phải nắm vững quan điểm, chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước ta, tự hào về những thành tựu to lớn về nhân quyền của Việt Nam đã đạt được trong nhiều năm qua; đồng thời phải nâng cao cảnh giác với những âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Dành mối quan tâm thường xuyên trong giáo dục đối với tầng lớp thanh niên, sinh viên, học sinh, đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số về nhân quyền. Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản.
Cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung lãnh đạo thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Trung ương, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đặc biệt ở vùng chiến lược trọng điểm. Tăng cường đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, giữa cộng đồng trong nước với cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước về tôn giáo, dân tộc, quy chế dân chủ ở cơ sở, chính sách đất đai, chính sách cán bộ... Kịp thời giải quyết ngay tại cơ sở các vụ việc phức tạp, không để lây lan kéo dài, trở thành "điểm nóng". Cần tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đi đôi với kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nghiên cứu ban hành các luật còn thiếu liên quan đến quyền con người; sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật và điều luật không còn phù hợp. Tổ chức tốt việc thi hành pháp luật, nhất là công tác bắt, xét xử, giam giữ, cải tạo phạm nhân. Phổ biến rộng rãi các công ước và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết; nghiên cứu tham gia các công ước quốc tế về quyền con người.
(1) Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, Hà Nội, 2001, tr.134.
(2) Các Mác - Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, T16, NXB Chính trị quốc gia, H, 1995, tr. 25.
TS ÐẶNG DŨNG CHÍ (Viện Nghiên cứu quyền con người)
-Nguồn:Báo Nhân Dân


-------

Tổng số lượt xem trang