Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

Chất lượng sống thấp hơn Lào à?...Thôi kệ! ...

-Chất lượng sống thấp hơn Lào à?...Thôi kệ! (Bài đã bị gở tại baodatviet.vn)
(Thứ sáu, 2015-06-26 - Nguồn: BaoDatViet.vn) - Do tính lạc quan cao nên người Việt vẫn sống hạnh phúc. Dù chất lượng cuộc sống kém nhưng thử kêu ai qua Lào, Campuchia sống chưa chắc người ta đã qua.
Ông Nguyễn Văn Đực, Phó Giám đốc Công ty Địa ốc Đất Lành chia sẻ suy nghĩ xung quanh kết quả khảo sát Việt Nam có chất lượng sống thấp hơn Lào và Campuchia.

PV: - Qua khảo sát trực tuyến, website Numbeo.com - trang web dữ liệu lớn nhất về các thành phố và quốc gia trên thế giới - vừa công bố đánh giá Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia có chất lượng cuộc sống thấp bậc nhất trên thế giới dựa trên các tiêu chí: mức độ an toàn, chăm sóc sức khỏe, giá tiêu dùng, sức mua, giao thông đi lại, mức độ ô nhiễm và giá nhà đất so với thu nhập.


Cá nhân ông có bất ngờ trước kết quả xếp hạng trên không? Dựa trên các yếu tố khảo sát, theo ông, mức độ đáng tin của khảo sát này như thế nào? Và cảnh báo với Việt Nam từ bảng khảo sát này ra sao?


Ông Nguyễn Văn Đực: - Tôi hơi buồn khi nghe thông tin này nhưng phải thừa nhận rằng cái gì người ta đánh giá cũng có cơ sở. Theo tôi, có 4 điều đáng lo trong chất lượng cuộc sống ở Việt Nam.
Chat luong song thap hon Lao a?...Thoi ke!
Ở Việt Nam, ra đường như ra trận, sống chết hên xui. Ảnh minh hoạ: Tuổi trẻ
Thứ nhất, về chất lượng nhà ở, đại đa số người dân Việt Nam, nhất là người thu nhập trung bình thấp hiện nay có chất lượng nhà ở rất thấp. 80-90% người dân ở độ tuổi 20-35 đều chưa có nơi ở riêng, phần đông ở nhà cha mẹ hoặc thuê trọ. Họ ở với cha mẹ, ông bà không phải trong một vila mà là nhà phố chia 3-5 phòng, mỗi phòng là 1 gia đình. Còn cảnh ở nhà trọ cũng không khác mấy khi những người trẻ mới lập gia đình phải thuê phòng trọ trên dưới 20m2.
Trong khi đó, cơ quan chức năng cứ thống kê diện tích nhà ở bình quân đầu người 17-18m2/người nhưng điều đó không chính xác bởi thực tế có nhiều người giàu có 200-300m2 hoặc cả ngàn mét vuông nhà ở nhưng những người nghèo phải ở trong diện tích chật hẹp 2-10m2, không thể cứ cộng lại rồi chia bình quân.
Thứ hai, về an toàn trong thực phẩm, hàng ngày chúng ta phải ăn những thức ăn bẩn độc, chứa những chất không được phép sử dụng trong thực phẩm như chất tăng trưởng kích thích làm trái cây chín vàng, ngọt, rau muống mỗi ngày dài thêm 2-3 tấc...
Thứ ba, về giao thông, mỗi năm Việt Nam có hơn 10.000 người chết vì tai nạn giao thông, tương đương với một sư đoàn khiến người dân có cảm giác mỗi lần ra đường giống như ra trận, sống chết hên xui.
Thứ tư, về văn hoá sống. Văn hoá sống của người Việt Nam hiện đang ở  tình trạng báo động: người ta tranh cãi, chửi bới nhau, dùng vũ lực, trả  thù nhau... Đó là do pháp luật Việt Nam không nghiêm dẫn đến tình trạng người ta xử nhau bằng vũ lực chứ không phải bằng pháp luật.
Những vụ bắt trộm chó rồi đánh trộm đến chết là ví dụ điển hình. Trên thế giới có lẽ không có đất nước nào có hiệp sĩ đường phố như Việt Nam, mọi chuyện lẽ ra phải được lực lượng chức năng giải quyết chứ không phải người dân tự xử. Một điều đau lòng khác xảy ra ở Thủ đô Hà Nội là nạn nói tục, đến nỗi người ta sắp phải có quy định xử phạt hành vi này.
Kết quả khảo sát trên là hợp lý và có nhiều vấn đề đáng buồn mà họ phản ánh là có cơ sở. Nó cảnh báo Việt Nam đang bị tụt hậu dần về mọi mặt, trong khi nền kinh tế của Lào và Campuchia bắt đầu phát triển và ở chừng mực nào đó có phần hơn Việt Nam.
Thế giới đã đánh giá như vậy, chúng ta nên tiếp thu, lắng nghe, nghiệm lại và có sự cải tổ, canh tân một cách quyết liệt, dứt khoát. Ví dụ thông tin Hà Nội cấm nói tục, tại sao không làm cách đây 5-10 năm mà bây giờ mới phát động? Việc phát động phải được tiến hành từ lãnh đạo trở xuống, bắt đầu từ văn hoá công chức, văn hoá văn phòng sau đó lan toả khắp nơi. 


Chả phải nhìn xa đến thế đâu, Giời ạ!
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
"Tôi nghĩ mà lấy làm buồn và tủi hổ lắm. Bởi như vậy cho nên Việt Nam ta không thể sánh được với những nước như Singapore, Malaysia đã đành, mà giờ này coi chừng có thể tụt hậu so với Lào hay cả Campuchia, những nước mà trước đây chưa từng là “đối thủ” cạnh tranh của Việt Nam." - Nguyễn Công Khế

Tôi không nói được tiếng Khmer. Người Miên, phần lớn, lại không biết tiếng Anh tiếng u gì ráo. Bởi vậy, mỗi khi rời khỏi những tỉnh lỵ xa xôi (nơi có những thôn xóm người Việt quần tụ) để trở lại Phnom Penh là tôi bỗng trở nên “ú ớ,” gần như một người câm.


Mà tính tôi lại thích uống, và ưa nói. Khi không có ai xung quanh để cụng ly và trò chuyện thì tôi buồn muốn khóc luôn. Tuần rồi, đang lang thang một mình trên đường Monivong thì tôi bị hai thanh niên trông giống người Campuchia chận lại.

Họ đang ôm một xấp áo T Shirt trắng tinh và vui vẻ ngỏ ý muốn tặng cho tôi một cái. Vốn không tin là có cái gì “free” trên cuộc đời này nên tôi xua tay, lắc đầu:

- Thank but I don’t need that...

- No speak Khmer?

- Nope!

Chắc accent của tôi “nặng” dữ lắm nên vừa quay lưng thì nghe có tiếng với theo:

- Chú là người Việt, phải không?

- Yes!

- Ú́y Trời, Đất, Qủi Thần, ơi. Tụi con cũng là người Việt mà.

Màu da ngăm ngăm của người đối thoại khiến tôi hơi ngờ ngợ:

- Mấy em người Khmer Krom, phải không?

Cả hai thằng đều cười ha hả, sung sướng ra mặt:

- Dạ, con quê ở Bạc Liêu

- Còn con ở Trà Vinh.

Thiệt là mừng muốn chết luôn. Tui kéo hai thằng tắp liền vô quán bên đường. Bia bốc nổ lốp bốp, và nổ liền liền không dứt.

Nam Vang đi dễ khó về
Trai đi có vợ, gái về có con.


Dù quá tuổi “vợ con” lâu rồi nhưng tôi cũng dám kẹt luôn ở Nam Vang (như không) chớ không phải giỡn đâu nha. Xứ Chùa Tháp là nơi lý tưởng để uống bia mà.

Bất kể ngày/ đêm (Xuân – Hạ – Thu – Đông) gì cũng thế, Cambodia luôn luôn nóng cỡ 100 độ F! Nhờ vậy, lon bia nào cũng trở nên ngọt lịm, mát rượi, và thấm thía tới tận tim gan.

Uống ít ngon ít, uống nhiều ngon nhiều, càng uống càng ngon. Và rượu vào, tất nhiên, lời ra:

- Hai đứa qua đây hồi nào?

- Dạ, lâu rồi.

- Nhắm sống được không?

- Sống khoẻ.

- Sao tụi bay lại đi cho áo mà không bán lấy tiền sài.

Lúc đó, hai thằng mới quay lưng cho tui coi mấy dòng chữ bằng tiếng Khmer và tiếng Anh in trên áo mà tụi nó đang mặc: The existence of an independent judiciary leads to the respect for human rights.

- Nghĩa là làm sao?

- Một ngành tư pháp độc lập dẫn đến sự tôn trọng nhân quyền.

- Bộ tụi bay làm chính trị hả?

- Trời, nói sao ghe thấy ghê vậy chú. Tụi con làm nhân viên cho hội thiện nguyện, đi cổ vũ cho nhân quyền thôi chớ có chính trị/chính em khỉ mốc gì. Ở Cambodia, đòi hỏi nhân quyền là chuyện nhỏ mà.

Rồi không nói không rằng hai thằng lấy một cái áo, xoay phía sau ra trước, xong tròng đại vô người tôi. Tụi nó còn bắt tôi đứng chụp một cái hình kỷ niệm chơi nữa.

Thường dân Tưởng Năng Tiến. Ảnh tư liệu của MIRO

Tui dẫy đành đạch:

- Mặc cái áo “nhậy cảm” này công an Cambodia nó hốt liền chớ không phải “chuyện nhỏ” đâu à nha.

- Không dám hốt đâu. Nam Vang chớ có phải Sài Gòn hay Hà Nội sao mà có cái vụ hốt sảng như vậy.

- Thiệt không?

- Thiệt chớ. Ở đây đỡ mệt hơn Việt Nam nhiều. Vừa bước chân qua tới Cambodia là tụi con đã thấy dễ thở liền hà, thoáng lắm chú ơi!

- Thoáng là sao?

- Là không có chế độ hộ khẩu, không công an khu vực, không tổ trưởng dân phố, cũng không có hội hè đoàn thể mẹ rượt nào hành dân hết ráo. Mình có quyền bầy tỏ chính kiến trong mọi vấn đề miễn là với thái độ ôn hoà ...

Công nhận là hai thằng này nói đúng. Phnom Penh “thoáng” thiệt. Tôi không nghe ai nói gì tới phường, khóm, xã ấp gì ráo trọi. Những cái thứ của nợ như giấy tạm trú/tạm vắng cũng không luôn. Cảnh sát giao thông cũng hiếm thấy, chớ đừng nói chi đến đám công an hay dân phòng.

Người Cambodia biểu tình tại thủ đô Phnom Penh. Ảnh tư liệu của MIRO

Vậy là tui yên tâm mặc luôn cái áo, và mặc hoài hoài cho tới bữa nay. Cứ mỗi lần xỏ tay là tự nhiên tôi lại nhớ đến Người Buôn Gió. Thằng Phải Gió này đã có lúc ngồi tù cũng chỉ vì in ấn và phát tán những cái áo phông với những dòng chữ ... nhậy cảm: “Hoàng Sa & Trường Sa Của Việt Nam.”

Hôm gặp ở California, Người Buôn Gió có kể cho tôi nghe “chuyện vui” về một người Việt Nam tên Qúi. Nó nói là “chuyện hài” nhưng nghe xong tôi muốn ứa nước mắt:

“... chú Quý, một người đàn ông gầy gò. Vợ bỏ do chú ấy bị đi tù, ai cũng xa lánh chú ấy, mọi người nói chơi với thằng ấy là nguy hiểm, nó làm mình chết lây đấy. Chú Quý làm thợ hàn, lúc có việc lúc không, nhà chú trống hoác chả có gì. Một mình chú rang một đống lạc pha muối ăn dần với cơm. Con gái chú rất xinh, nó ở với mẹ. Nó cũng ghét bố vì mẹ nó nói bố nó là người hư hỏng.

Mình chả thấy chú hư hỏng gì, chú có việc thì làm chăm chỉ. Nhà chú nghèo nhưng nhiều sách, mình đến chơi nằm đọc cả ngày cũng được. Chắc chú buồn, thấy mình nên cũng kệ cho vui nhà. Rồi có lần chú lĩnh lương, làm món bún bò cho mình ăn cùng, chú sai đi mua rượu. Về hai chú cháu ăn, chú vừa ăn vừa uống rượu trầm ngâm. Mình đánh bạo hỏi sao chú bị đi tù.

Chú nghĩ một lúc, nhấp vài ngụm lại nghĩ, như là không nghe thấy câu hỏi. Mãi sau đột nhiên chú kể.

Lúc đó chú làm công đoàn nhà máy cơ khí, gần Tết bạn cùng nhà máy của chú trúng thưởng gì đó được một cái xe đạp Phương Hoàng màu ngọc bích. Lúc mọi người xúm vào xem xe, chú cũng xem và ngẫu hứng đọc câu thơ chế.

Xuân này hơn hẳn những xuân qua
Phương Hoàng ngọc bích đã về ta.
Vợ chồng làm tốt, con học giỏi
Niềm vui chan chứa khắp trong nhà.


Nửa tháng sau khi đọc bài thơ chế chúc mừng bạn có xe đạp, công an đến khám nhà chú, thu sách truyện một đống. Chú bị đi tù 4 năm vì tội xuyên tạc thơ chủ tịch HCM với ý đồ chế giễu... âm mưu phản động.
Cái “chú Qúi” này, nói nào ngay, vẫn còn... may chán! Dám “chữa” thơ bác Hồ mà chỉ đi tù có bốn năm thôi. Ít xịt hà. Tôi còn biết vài người đàn ông Việt Nam khác, họ chả dám đụng chạm gì tới thơ/văn của lãnh tụ kính yêu cả, chỉ chơi nhạc Vàng thôi mà cũng bị lãnh án mỗi người hơn chục năm tù.

Vụ án văn nghệ “Phan Thắng & Đồng Bọn” được mang ra toà xử vào tháng 1 năm 1971. Nhạc sĩ Tô Hải, một trong những người được mời tham dự, đã ghi lại vài đoạn đối thoại (rất ) thú vị giữa quan toà và bị cáo:

Chánh án: - Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi truỵ không?

Toán xồm: - Dạ! Thưa quý toà,con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hoà Dân Chủ Đức thôi ạ!

Chánh án: - Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?

Toán Xồm: - Dạ! Paloma là của nước bạn Cu Ba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà xuất Bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sỹ biểu diễn ạ!

Chánh án: - Vậy anh có biết cha cha cha là cái gì không?

Toán Xồm: - Dạ! Có ạ!! Đây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cu Ba ạ!

Chánh án: - Thế còn Tango bleu chắc anh cũng đổ cho Cu Ba hết hả?

Toán xồm: - Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ác-giăng-tin nhưng đã được quốc tế hoá. Vừa giờ Đoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều xử dụng cả ạ!

Chánh án: - Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Đừng có ngụy biện!

Toán Xồm: - Dạ! Đánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn... chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!

Chánh án: - Anh hãy im miệng! Đồ ngoan cố!

Và cứ như vậy, suốt phiên tòa Chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Đồ ngoan cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa.


Cuối cùng, toà luận án và tuyên án:

“Việc làm của bọn này đã gây ảnh hưởng xấu cho phong trào trật tư trị an, phá hoại việc thực hiện một số chính sách của Nhà nước, nhất là chính sác lao động sản xuất, chính sách nghĩa vụ quân sự... xâm phạm nghiêm trọng đến hạnh phúc, phẩm giá của phụ nữ, đến đạo đức và đời sống của nhiều người, và tuyên truyền xuyên tạc lại chế độ xã hội chủ nghĩa trong lúc cả nước đang chiến đấu chống Mỹ xâm lược.

Do tính chất nghiêm trọng của vụ án nói trên, toà quyết định xử phạt Phan Thắng Toán 15 năm tù giam và sau đó 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Đắc, 12 năm tù giam và sau đó 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Lộc 10 năm tù giam và 4 năm bị tước quyền công dân...”

Nửa thế kỷ sau, sau phiên tòa thượng dẫn, vào ngày 3 tháng 5 vừa qua, Luật Sư Võ An Đôn cho công bố nội dung một vụ án (“Công An Đánh Chết Cháu, Bác Và Cậu Sắp Đi Tù”) khiến nhiều người cười ra nước mắt:

Ngày 31/12/2013 em Tu Ngọc Thạch, học sinh lớp 9, Trường THCS Lương Thế Vinh bị Công an xã Vạn Long đánh chết. Khi nghe tin cháu Tu Ngọc Thạch bị công an đánh chết, xác cháu đang trên đường chở về nhà thì ông Nguyễn Văn Ly (Cậu ruột) và ông Mai Đình Tâm (Bác họ) của em Tu Ngọc Thạch đi đến Quốc lộ 1A thì thấy có hàng ngàn người dân bao quanh xe chở quan tài em Tu Ngọc Thạch, nhìn thấy cảnh tượng trên ông Ly và ông Tâm bức xúc la lên "Công an đánh chết người bà con ơi", sau đó ông Ly và ông Tâm cùng gia đình, bà con đưa quan tài em Tu Ngọc Thạch về nhà chôn cất.

Ngày 14/11/2014, Tòa án huyện Vạn Ninh đưa vụ án nêu trên ra xét xử sơ thẩm và tuyên phạt: bị cáo Lê Minh Phát (Công an xã Vạn Long) 6 năm 9 tháng tù, bị cáo Lê Ngọc Tâm (Công an xã Vạn Long) 9 tháng tù treo.

Sau khi Tòa án huyện Vạn Ninh xét xử sơ thẩm vụ án nêu trên với mức án quá nhẹ, gia đình em Tu Ngọc Thạch kháng cáo đề nghị Tòa án tỉnh Khánh Hòa xét xử lại vụ án trên theo thủ tục phúc thẩm.


Khi vụ án trên sắp đưa ra xét xử phúc thẩm, thì ông Nguyễn Văn Ly và ông Mai Đình Tâm bất ngờ nhận được Cáo trạng số: 32/CT-KSĐT, ngày 11/3/2015 của Viện kiểm sát huyện Vạn Ninh truy tố ông Ly và ông Tâm về tội "Gây rối trật tự công cộng" theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 245 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù...



Ông Nguyễn Văn Ly và ông Mai Đình Tâm đang viết giấy yêu cầu luật Võ An Đôn sư biện hộ. Ảnh chú thích: Dân Luận.

Với thời gian, rõ ràng, cái gọi là “luật pháp” của nước CHXHCNVN mỗi lúc một “trượt dốc” xa hơn, và cuốn theo nhiều nạn nhân hơn. Tuần rồi, sau việc cháu Nguyễn Tường Trọng (vô cớ) bị công an chận ở phi trường không cho xuất cảnh, bác Nguyễn Tường Thụy bèn có thơ (than) rằng:

Thích thì cấm, đắng cay chịu vậy
Đất trời này biết cậy nơi đâu
Thân lươn bao quản lấm đầu
Nhìn sang Bắc Mỹ, Âu Châu mà thèm.


Chả phải nhìn xa đến thế đâu, Giời ạ!


************
Martin Gainsborough/Journal of Democracy April 2012
Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ
Gộp chung lại, Việt Nam, Campuchia và Lào tiêu biểu như thể một câu đố. Trong khi Việt Nam và Lào vẫn còn một nước độc đảng Cộng sản, Cam-pu-chia đã trải qua một quá trình chuyển đổi dân chủ vào năm 1993 dưới giám sát của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, cả ba quốc gia đều cùng đi đến những nên chính trị giống nhau một cách đáng kể , đặc trưng bởi sự thiếu cam kết với những giá trị tự do. Trong cuộc kiếm tìm để giải thích điều này, chúng ta nên cân nhắc tầm quan trọng của văn hóa chính trị và "nền chính trị bạc tiền" trong khi cũng cần ghi nhận các hoạt động xã hội dân sự và những cuộc biểu tình tự phát đang ngày càng trở nên phổ biến.
Việt Nam, Campuchia và Lào thường được gộp chung với nhau cho các mục đích phân tích. Có một số nguyên nhân rõ rệt cho điều này. Tất cả ba nước đều là thuộc địa cũ của Pháp, từng được gọi chung là "Đông Dương thuộc Pháp" - nằm cạnh nhau trên lục địa Đông Nam Á. Tất cả đều cùng chứng kiến sự nổi lên nắm quyền của các đảng cộng sản trên cả nước vào giữa những năm 1970. Điều cũng tương thích là là nỗ lực thất bại bi thảm của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh lạnh nhằm duy trì một vai trò lãnh đạo đặc biệt ở Đông Dương, kết hợp Campuchia và Lào sau cuộc xâm lược của Việt Nam vào Campuchia năm 1978. Kể từ sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, Việt Nam, Campuchia và Lào đã được nhóm lại với nhau, vì họ các quốc gia Đông Nam Á nghèo nhất, vì họ cùng có mối liên kết thông qua những gì được biết đến như là các tiểu khu vực thuộc vùng Mekong mở rộng và bởi vì họ là các thành viên mới nhất của Hiệp hội Các nước Đông Nam Á (ASEAN). Cả ba nước cũng đã được nhìn thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo nhanh chóng từ những năm 1990, và đều được xem như đã trải qua một quá trình "cải cách", liên quan đến sự thay đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, Việt Nam, Campuchia, và Lào là những quốc gia độc lập có chủ quyền với lịch sử và ảnh hưởng tiền thuộc địa khác nhau. Mỗi nước trải qua những kinh nghiệm khác nhau dưới sự cai trị của thực dân Pháp, và tính cách nhà nước hậu thuộc địa cũng khác nhau theo những phương cách khá tinh tế. Cũng không có thể nói rằng ba nước ấy đã đi theo quỹ đạo như nhau sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Việt Nam và Lào không có quá trình chuyển đổi dân chủ và vẫn là những nước cộng sản độc đảng. Ngược lại, Cam-pu-chia, đã trải qua một quá trình chuyển đổi (dưới sự giám sát của cộng đồng quốc tế) vào năm 1993, mặc dù sau đó, nhiều tiến bộ dân chủ của họ đã bị đảo ngược.
Hơn nữa, khi ba nước này hội nhập đầy đủ hơn vào nền kinh tế của khu vực Đông Nam Á và toàn cầu, hoàn cảnh khác nhau của họ đã tạo nên những ứng xử khác nhau trước các lực lượng kinh tế, chính trị, và văn hóa từ bên ngoài. Những hoàn cảnh khác nhau này bao gồm các vấn đề về kích thước và vị trí. Việt Nam, với 86 triệu người, khiến Cam-pu-chia như còi cọc đi (với 15 triệu) và Lào với núi non bị quây kín trong đất liền (quốc gia nghèo và nhỏ nhất trong cả ba, với chỉ 7 triệu dân). Nền kinh tế của Việt Nam cũng là khoảng tám lần lớn hơn Campuchia và 15 lần lớn hơn Lào. Tóm lại, ba nước dù khác biệt nhưng vẫn có thể so sánh được, dù các quỹ đạo không giống nhau và sẽ không ngang nhau .
Các chuyên gia về khu vực đã thường nghĩ về cả ba quốc gia - từ phẩm chất của một quyết định có ý thức của giới cầm quyền - như thể đã từng theo đuổi một chính sách kinh tế nhà nước "cải cách" (theo định hướng thị trường). Việt Nam và Lào thường được cho là đã thực hiện như vậy vào năm 1986 tại các hội nghị đảng do đảng CS cầm quyền tổ chức trong năm đó. Việt Nam đã thông qua một chính sách gọi là đổi mới (theo nghĩa đen có nghĩa là "đổi mới" nhưng thường được dịch là "cải cách") và Lào đã công bố một "cơ chế kinh tế mới" dựa trên "tư duy mới." (1) Campuchia thường được cho là ít nhiều đã đi theo phương cách tương tự như thế trong năm 1989, sau khi quân đội Việt Nam rút đi.
Trong ý nghĩa của những gì mà giới cầm quyềncho là đã thực hiện đựợc, mối đồng thuận chung trong mỗi trường hợp của các nước này là những thay đổi đã tạo được một chiều kích đáng kể về chính trị cũng như kinh tế, thậm chí chiều kích kinh tế còn lớn hơn là chính trị. Tuy nhiên, mối đồng thuận này, cường điệu hóa sự thay đổi, chính sách có tính hình thức và chủ động của giới cầm quyền trong khi đánh giá thấp tầm quan trọng của tính liên tục về kinh tế chính trị và mức độ mà các yếu tố khác hơn so với các sáng kiến của giới cầm quyền đã hình thành nên các biến cố trong ba nước này.
Mối liên quan ở đây là phạm vi mà giới lãnh đạo ở cả ba nước thường chỉ đơn thuần là chính thức hóa các sáng kiến, thí nghiệm có tính tự phát, "từ dưới lên", dù là từ các quan chức, giám đốc doanh nghiệp, cư dân thị thành hoặc nông dân.
Nói chung, có vẻ như giới lãnh đạo thích được xem như họ đang cầm chịch và không chịu thừa nhận rằng họ đang bị động chứ không phải là chủ động. Tuy nhiên, như đã từng được nói đến về trường hợp có liên quan của Trung Quốc, bất kỳ giải thích nào bỏ qua vai trò của những sáng kiến không chính thức hoặc không được phép vốn là một giải thích "đã được tẩy rửa sạch sẽ" sẽ đánh lạc hướng chúng ta khỏi những động lực thực sự của quá trình cải cách" (2) Điều này không phải để phủ nhận rằng giới cầm quyền đã từng bắt đầu thay đổi, nhưng chỉ là để bào chữa cho một đánh giá cân bằng nhằm ghi nhận vai trò của sự không chính thức cũng như chính thức, và cân nhắc đến tính liên tục cũng như sự thay đổi. Hơn nữa, sự cân bằng ấy, cũng quan trọng khi cân nhắc đến thay đổi chính trị - kể cả khi thiếu vắng quá trình chuyển đổi dân chủ toàn diện- cũng như kiểm tra những cải cách đến nền kinh tế.
Những hạn chế của các cải cách chính trị chính thức
Trong giới hạn từ mỗi chế độ độc đảng của mình, Việt Nam và Lào đã tiến hành các biện pháp tương tự để cải cách hệ thống chính trị của họ. Quỹ đạo của Campuchia từng là khác hơn, mặc dù đã trải qua một quá trình chuyển đổi dân chủ vào đầu những năm 1990, đất nước này lại bầm dập và trở thành gần như tương tự về chính trị như hai nước láng giềng. Mặc dù các cải cách được đưa ra tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ Sáu tại Việt Nam và Đại hội lần thứ tư của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào vào năm 1986 thường được xem như chủ yếu là những thay đổi về kinh tế, cả hai trường hợp rõ ràng đã có một thành phần về chính trị. Ở Việt Nam, tuyên bố chính sách quan trọng từ năm đó đã từng nhấn mạnh các vấn nạn bao gồm sự phối hợp kém giữa Đảng Cộng sản, quan chức chính phủ và các xu hướng hoạt động ngoài pháp định và sự chà đạp lên các thủ tục bầu cử của các cán bộ Đảng. Phê phán này hinh thành hàng loạt những di chuyển chính thức của Đảng để xây dựng một nhà nước "pháp quyền", tăng cường vai trò của Quốc hội và làm rõ các mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và công dân. Những vấn đề này hiện nay vẫn còn tồn tại: Sự việc đảng xem "quy định của pháp luật" và mối quan hệ "đúng đắn" giữa công dân và nhà nước như thế nào vẫn còn là những câu hỏi chưa giải quyết đưọc.
Những cải cách ở Lào cũng tập trung vào pháp định, bao gồm việc ban hành hiến pháp hậu thuộc địa đầu tiên của quốc gia này vào năm 1991 cùng với sự nhấn mạnh về việc tăng cường bộ máy quan liêu. Ở cả hai nước, cũng đã có sự nới lỏng trong mối quan hệ với lãnh vực xã hội thông qua sự "phi stalin hóa đời sống hàng ngày". Các gắt gao trong nội địa và ngay cả việc du lịch ra nước ngoài đã trở nên giảm nhẹ, và việc kiểm soát hàng ngày trở nên ót căng thẳng; các phương tiện truyền thông mới đã được phép xuất hiện cùng với các hiệp hội, các nhóm chính thức, bao gồm các nhóm tôn giáo. Mặc dù không ai trong số các nhóm này bổ xung đưọc vào quá trình chuyển đổi dân chủ ở cả Việt Nam, ở Lào - sự kiểm soát của đảng Cộng sản vẫn còn và các lực lượng an ninh vẫn còn kinh khủng - ở cả hai nước không khí đã trở nên tự do hơn đáng kể.
Trong cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, khi quần chúng biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn, bức tường Berlin bị kéo xuống và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản trên khắp Trung, Đông Âu và Liên Xô cũ gửi các làn sóng rúng động ra toàn thế giới, cuộc tranh luận về tương lai hệ thống chính trị của Lào và Việt nam đã nổ ra. Tuy nhiên, phần lớn các cuộc thảo luận đã diễn ra sau hậu trường trong các chế độ khép kín, vì vậy thật khó để biết chính xác được những gì đã được bàn bạc. Tuy nhiên, phán quyết cơ bản là rõ ràng. Khi những năm 1990 bắt đầu, cả Việt Nam và Lào đã đi đến việc làm tắt tiếng những gì xuất hiện như các tiếng nói thiểu số kêu gọi chính trị đa nguyên. Tại Lào, hai cựu phó bộ trưởng và một quan chức Bộ Tư pháp đã bị bỏ tù vì bị cáo buộc âm mưu lật đổ chế độ (4) Tại Việt Nam, một thành viên Bộ Chính trị đã bị sa thải trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII vào năm 1991, rõ ràng là vì ông ủng hộ chính trị đa đảng.
Củng cố sự đối lập chống lại nền chính trị dân chủ, cả hai đảng cầm quyền đã ra tuyên bố dứt khoát từ chối những gì họ gọi là "các đòi hỏi tự do cực đoan" (ở Việt Nam) hay "một hệ thống đa đảng" (ở Lào) (5). Kể từ đó, không đảng nào từng động đậy. Cả hai tiếp tục nói chuyện về phát triển "dân chủ", nhưng bằng cách (dân chủ) này họ không mang ý nghĩa dân chủ tự do. Thay vào đó, chúng có nghĩa là những thứ chẳng hạn như mở rộng số thành viên của đảng cầm quyền được ban cho vai trò trong việc lựa chọn các nhà lãnh đạo hàng đầu, nâng cao số lượng các chức vụ được trực tiếp bầu chọn trong chính phủ địa phương và đảm bảo rằng Đảng Cộng sản sẽ chăm chú lắng nghe các quan chức nhà nước, lập pháp, và các công dân.
Kể từ đầu những năm 1990,cả Việt Nam và Lào đều mở cửa cho một loạt các tổ chức tài trợ song phương, đa phương và các tổ chức quốc tế phi chính phủ (NGOs) tiếp nhận các viện trợ và hỗ trợ kỹ thuật ở tầng cao cấp. Các nhà tài trợ là của cả châu Á và phương Tây. Tại Lào, có sự hiện diện nặng nề của Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam. Trung Quốc là nhà tài trợ châu Á lớn của Việt Nam, nhưng sự hiện diện của Trung Quốc được quản lý cẩn thận (hai nước đã từng đánh nhau một cuộc chiến tranh biên giới ngắn nhưng cay đắng vào đầu năm 1979, và tiếp tục các cuộc đụng độ vũ trang ở biên giới cho đến năm 1990). Các nhà tài trợ phương Tây đã làm việc với cả hai chính phủ Việt Nam và Lào về quản lý nhà nước liên quan đến các lĩnh vực như quản lý công cộng, cải cách hệ thống luật pháp, chiến đấu chống tham nhũng và phát triển xã hội dân sự. Tuy nhiên, không một điều nào trong số này đã có tác động nhiều đến nền chính trị ở hai nước.
Quỹ đạo của Campuchia thì khác. Sau cuộc xâm lược của Việt nam nhằm lật đổ chế dộ diệt chủng Khmer Đỏ vào năm 1978, Campuchia đã được cai trị bởi một chế độ do Hà Nội ủng hộ, lãnh đạo bởi thủ tướng Hun Sen từ năm 1985. Trong những năm 1980, một cuộc nội chiến đã nổ ra khi một liên minh bảo hoàng và Khmer Đỏ chiến đấu chống lại chế độ do Hà Nội hậu thuẫn. Hòa bình đã chỉ có thể thực hiện khi Việt Nam, vì những nguyên nhân chính trị trong nước của mình, quyết định không thể duy trì sự hiện diện quân sự tại Campuchia nữa. Sau hiệp ước hòa bình (ký kết tại Paris vào năm 1991) đưa đến một hoạt động quan trọng của Liên Hợp Quốc, dẫn tới đỉnh cao là cuộc bầu cử năm 1993, với 19 phe tranh cử.
Tối thiểu là trong ngắn hạn, Liên Hiệp Quốc đã có một tác động lớn. Cam-pu-chia cần đến một số nền tảng chính thức của nghĩa tự do hợp hiến, bao gồm cả một pháp luật cơ bản mới phù hợp với nguyên lý của mình. Cũng có một sự đột biến trong hoạt động xã hội dân sự, và nhiều tiếng nói đa dạng cũng đã nổi lên. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, các đoá hoa tự do này sớm héo tàn. Các cuộc bầu cử đã tiếp tục diễn ra khoảng các thời gian nhất định, nhưng những gì đạt được trong những năm 1990 đã bị đảo ngược dưới bàn tay của Hun Sen và Đảng Nhân dân cầm quyền Campuchia (CPP), vốn dứt khoát duy trì việc nắm chặt quyền lực. Kết quả là sự suy nhược hệ thống phe đối lập chính trị, bao gồm các đảng bảo hoàng được biết đến như FUNCINPEC (Đối tác liên minh cũ của CPP) và Đảng Sam Rainsy. Các nhà phê bình chính phủ trong các phương tiện truyền thông, công đoàn, và xã hội dân sự lớn thường đã bị mua chuộc để im lặng thông qua một hỗn hợp của sự bảo trợ, hăm dọa, bạo lực, thay đổi luật bầu cử, và sự nương tựa vào các toà án chính trị thiên vị (6).
Trong cuộc bầu cử gần đây nhất, được tổ chức vào tháng 7 năm 2008, đảng Nhân Dân Cam bốt (CPP) chiếm được 90 trong số 123 ghế, và lần đầu tiên kể từ năm 1993 đã có thể thành lập chính phủ riêng của mình. CPP cũng kiểm soát 90% tất cả các xã, ủy ban chính phủ địa phương (7). Đây là một biến đổi lớn cho một đảng - mà như nhiều người có xu hướng quên đi- đã về nhì sau đảng FUNCINPEC trong cuộc bỏ phiếu năm 1993.
Giống như các đối tác của mình tại Việt Nam và Lào, chính phủ Campuchia đã cho phép cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế được hoạt động, làm việc với họ trên một loạt các cải cách quản trị từ những năm 1990. Một lần nữa, các nhà tài trợ là người châu Á cũng như phương Tây, Trung Quốc và Việt Nam chiếm ưu thế trong số các nhà tài trợ cũ. Giống như Việt Nam và Lào, ảnh hưởng mà các nhà tài trợ bên ngoài tạo nên trong chiều hướng chính trị của Cam-pu-chia rõ ràng đã bị giới hạn về cơ bản.
Những sức mạnh ghê gớm của tính liên tục
Tại sao ba nước láng giềng này - Cam-pu-chia sau khúc dạo đầu của quá trình chuyển đổi năm 1993 và hai nước kia ít nhiều đã liên tục - lại bám chắc vào một con đường phi dân chủ ? Câu trả lời có thể nằm trong các nền văn hóa hết sức giống nhau của giới cầm quyền ở cả ba nước. Việc truy tìm đến gốc rễ sự tương đồng này nằm ngoài phạm vi của bài viết (8), nhưng chúng tôi có thể nêu ra các đặc điểm chung mà các nền văn hóa chính trị này từng chia sẻ và vạch ra các ảnh hưởng của chúng.
Tại cốt lõi các nền văn hóa chính trị của Việt Nam, Campuchia, và Lào ẩn chứa những liều lượng nặng nề của sự phát triển tầng lớp lãnh đạo và chủ nghĩa gia trưởng. Dưới những ảnh hưởng này, văn hoá mang gánh mối quan hệ thích hợp giữa nhà nước và người công dân của mình, hoặc giữa người cai trị và người bị trị, tương phản rõ nét với những gì có được ở phương Tây. Trong các xã hội Đông Nam Á này, có một niềm tin tiềm ẩn mạnh mẽ rằng thiện chí và năng lực đạo đức cao của những người hữu trách - chứ không phải sự kiểm tra khách quan và cân bằng vốn được ưa chuộng bởi truyền thống tự do - sẽ phục vụ như những hạn chế quan trọng trong quyền lực (9). Sự liên quan của tư tưởng văn hóa này cũng có thể được thoáng nhìn thấy ở sự đặt nặng đến yếu tố gia đình (hoặc hơn chính xác hơn, ở việc cha mẹ của mình là ai) trong cả ba nước.
Dùng văn hóa chính trị để giải thích sẽ giúp hiểu dễ dàng hơn việc tại sao tất cả ba đảng cầm quyền đều từ chối đa nguyên và cảm thấy khó chịu một cách sâu sắc về các xã hội dân sự hoặc bất kỳ hình thức tổ chức hoạt động nào ở bên ngoài cấu trúc của nhà nước hoặc đảng cầm quyền. Về mặt này, thật đang để ghi nhận rằng các quy định hợp pháp hóa những tổ chức phi chính phủ và các giao dịch của họ đã chỉ tiến bộ chậm chạp và thường có nhiều tranh cãi trong tất cả ba nước.
Một sự tập trung vào văn hóa chính trị cũng làm sáng tỏ tính chất của các cuộc bầu cử tại Việt Nam, Campuchia, và Lào. Tại mỗi nước, quyền hạn được áp dụng cho quyền bầu cử chẳng hơn gì một cuộc thi đua để lưa chọn những gì có thể thay thế chứ không phải là một cơ hội để các công dân xác nhận giá trị thực của các lãnh đạo của mình (10). Vì vậy, ở Việt Nam, Lào và Campuchia nhà nước tìm cách kiểm soát những người được bầu vào Quốc hội.
Hun Sen đã hành động như thể được sai khiến bởi bản năng để loại trừ bất kỳ khái niệm bầu cử nào có tính cách của một cuộc tranh tài nghiêm chỉnh. Hơn nữa, sức nặng từ văn hóa chính trị đặt ra những câu hỏi sâu sắc về những gì đang xảy ra khi đảng cầm quyền làm việc với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế trong các lĩnh vực như cải cách hành chính công, chống tham nhũng. Những cải cách mà cộng đồng các nhà tài trợ thúc đẩy thường liên quan đến việc kiểm tra các tổ chức mà giới cầm quyền nước chủ nhà xem như một sự mâu thuẫn sâu sắc.
Bất kể là các nhà tài trợ nghĩ rằng họ đang làm gì, thực tế là giới lãnh đạo ở địa phương hoặc là thiếu sót những cải cách tự do có tính cơ chế hoặc đã cố tình giải thích và áp dụng chúng theo những cách phi tự do. Cuối cùng, một sự tập trung vào văn hóa chính trị giúp hiểu dễ dàng hơn (mặc dù không phải để tha thứ) xu hướng mà các nhà cai trị cư xử với những người bất đồng chính kiến và các nhà phê bình gay gắt. Các quyền, những nhà lãnh đạo thường quan niệm để cai trị, bắt nguồn từ việc phải mua cổ phần từ trong quan niệm gia trưởng, lãnh đạo tập trung. Do đó, không chịu chi tiền ra nghĩa là không có quyền hạn gì cả. (11)
Ngoài một nền văn hóa chính trị không thân thiện, trở ngại lớn khác mà các nền chính trị tự do phải đối mặt tại Việt Nam, Campuchia, và Lào có thể được quy cho là vì sự gia tăng của loại "chính trị tiền bạc" và thương mại hóa các kết quả của nhà nước. Các giải thích thông thường của những cảnh cách ở khu vực Đông Nam Á (dù hiểu ngầm hay rõ ràng) có liên đới với công cuộc tự do hóa kinh tế và sự rút lui của nhà nước. Nhưng điều này không phải là những gì đã xảy ra. Các năm tháng cải cách ở Việt Nam, Campuchia và Lào thực sự nhìn thấy sự thị trường hóa, nhưng cũng chỉ là một hình thức tiến lên của nhà nước chứ không phải rút lui lại khi các chính khách, quan chức, và những người có quan hệ gần gũi với họ đã chiếm giữ được các cơ hội kinh doanh có liên kết với việc thị trường hóa và toàn cầu hóa để làm giàu cho chính mình.
Ở Việt Nam, quá trình này lần đầu tiên được ghi lại trong mối liên quan đến sự gia tăng các quyền lợi kinh doanh mới của nhà nước từ những năm 1980, khi những người có được các quan hệ chính trị bắt đầu tích lũy vốn bằng cách tham gia vào giao dịch thị trường, thậm chí còn dưới thời kế hoạch hóa tập trung. Tại Lào, việc thương mại hóa của nhà nước là hiển nhiên trong các tài liệu tham khảo thường xuyên cho các chính trị gia và người thân của họ, những người chiếm giữ được các đỉnh cao chỉ huy của nền kinh tế Lào. Ở Campuchia, quá trình bắt đầu vào cuối những năm 1980 với việc bán tháo tài sản nhà nước, đặc biệt bởi đảng CPP, Hun Sen đã tìm cách để có được người thân và giới có ảnh hưởng để dự phần vào các thay đổi sẽ xảy ra trong không khí chính trị.
Các đặc tính của "thời kỳ cải cách" kinh tế chính trị này là giống nhau trên khắp Việt Nam, Campuchia, và Lào. Đầu tiên, như đã giải thích, các kết nối chính trị và quan hệ là chìa khóa. Đây là những gì cần thiết để bảo vệ chính trị cũng như để tiếp cận đến đất đai, vốn, và hợp đồng, hoặc có được (nếu không bỏ qua được) những giấy phép cần thiết. Xung đột lợi ích là phổ biến, với các quan chức (thường hành động thông qua bạn bè hoặc người thân) hoạt động trong các lĩnh vực của nền kinh tế mà họ có trách nhiệm điều hành.
Đầu cơ, trục lợi dựa trên các thông tin bên trong đã đạt được dưới vỏ bọc của văn phòng công cộng cũng diễn ra thường xuyên. Đất đầu cơ - hay cướp đất trắng trợn như ở Campuchia - hoàn toàn phổ biến trong tất cả các nước, và đã chứng tỏ là một con đường rất nhanh giàu cho nhiều người có chức, đặc biệt là kể từ khi đất đai bắt đầu hồi phục được trạng thái như một mặt hàng có thể giao dịch được vào cuối những năm 1980.
Trong tâm trí của nhiều người trên khắp ba xã hội này, tồn tại một kết nối chặt chẽ giữa việc nắm giữ một văn phòng công cộng và mua lại tài sản của tư nhân. Như các nền văn hóa chính trị có đặc tính quý tộc, chúng ta đang ở đây trong sự hiện diện của một hiện tượng có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử, nhưng cũng lại có được những động lực mới từ hoàn cảnh mới - trong trường hợp này, là những người có liên quan được đến các cải cách kinh tế dựa trên thị trường. Ở Việt Nam, Campuchia và Lào, tiền lương thì thấp nhưng những kẻ khao khát sẽ phải trả giá đắt cho các chức vụ trong văn phòng và sự truy cập dễ dàng đến các bổng lộc tư nhân mà công việc mang lại. Do đó, việc hối lộ để được thăng cấp như là một cuộc đầu tư vốn có thể dễ dàng thu lại được với giá thuê mướn và các cơ hội khác mà một quan chức ở chỗ ngồi tốt có thể có đưọc. (12) Trong cả ba nước, loại kinh tế chính trị này có hậu quả sâu sắc đối với chính trị. Sự bất bình đẳng cao, không chỉ cao về thu nhập mà còn về quyền sở hữu được đất tập trung. Ví dụ như ở Cam-pu-chia, quá trình đầu cơ tích tụ là tham lam nhất, một phần mười số dân sở hữu gần hai phần ba đất đai, và mười kẻ đứng đầu của hàng 10 ấy - hoặc 1% của tất cả người Campuchia - sở hữu khoảng 20 đến 30% đất đai. Cứ năm hộ gia đình nông thôn thì một hộ hoàn toàn không có đất đai gì, và con số này mỗi năm đang leo lên hai phần trăm.(13) Lợi ích kinh doanh ngày càng gây ảnh hưởng đến chính trị, đôi khi đến mức nắm bắt được nhà nước. Các vận động hành lang chính phủ phát triển với cường độ cao khi các doanh nghiệp cố gắng để uốn nắn những quy định trong các cách thuận lợi cho mình.
Các đảng cộng sản cầm quyền hiện nay cho phép các doanh nhân được tham gia, và các nhân vật kinh tế tư nhân nổi bật hiện ngồi được trong quốc hội. Cuối cùng, mối gắn kết chặt chẽ giữa chính phủ và doanh nghiệp đang thúc đẩy một nhà nước thiên vị cho vốn tư bản khi tranh chấp thương mại phát sinh, và đang hòa trộn sự thù địch với cảm xúc bản năng của giới tinh hoa chính trị đối với các liên đoàn lao động độc lập.
Cuối cùng, mối liên kết trực tiếp giữa các nền kinh tế chính trị trong "thời đại cải cách" và thất bại của một chính phủ tự do đã tiến triển nhiều. Trong lĩnh vực cải cách hành chính công, từ lâu từng là chỗ dựa chính cho các nỗ lực của các nhà tài trợ vào Việt Nam, Campuchia, và Lào, những nỗ lực sàng xẩy các quan liêu không cần thiết liên tục thất bại không làm suy giảm được về tổng thể, khi các chức vụ, hay ban ngành loại bỏ lại được thay thế bởi các chức vụ, ban ngành mới. Điều này thường khó hiểu đối với người ngại cuộc, nhưng lại hết sức hợp lý với bất cứ người nào hiểu biết được việc các cơ quan công quyền và giới tư nhân làm tiền đã liên kết chặt chẽ ra sao trong các xã hội này. Việc đóng cửa các ban bộ chính phủ hoặc làm rõ các công việc phải bị phá vỡ vì đã đánh trúng vào tâm điểm của các hành vi tùy tiện mà quan chức dựa vào để bổ sung cho thu nhập của họ.
Ghi Chú
1. Borje Ljunggren, ed., The Challenge of Reform in Indochina (Cambridge: Harvard University Press, 1993).
2. Barry Naughton, Growing Out of the Plan: Chinese Economic Reform, 1978–93 (Cambridge: Cambridge University Press, 1995), 22.
3. Adam Fforde, “The Political Economy of ‘Reform’ in Vietnam: Some Reflections,” unpubl. ms., 1991, 8.
4. Søren Ivarsson, Thommy Svensson, and Stein Tønnesson, The Quest for Balance in a Changing Laos: A Political Analysis, NIAS Reports 25, 1995, Nordic Institute for Asian Studies, Copenhagen, 51–52.
5. Communist Party of Vietnam, Seventh National Congress: Documents (Hanoi: Vietnam Foreign Languages Publishing House, 1991), 104; and Ivarrson et al., Quest for Balance, 38–39.
6. Caroline Hughes, The Political Economy of the Cambodian Transition, 1991–2001 (London: Routledge, 2003).
7. David Chandler, “Cambodia in 2009: Plus C’est la Même Chose,” Asian Survey 50 (January–February 2010): 229.
8. Nếu không xác định hoặc bỏ quên tính hỗ tương của văn hóa, tôi sẽ thừa nhận rằng sức đề kháng dân chủ trong các xã hội nằm ở ngã tư, nơi một điều độc đáo duy nhất chỉ có Đông Nam Á giao nhau với di sản của chế độ cộng sản lâu năm. Khái niệm "một điều độc đáo duy nhất chỉ có ở Đông Nam Á" đề cập đến ảnh hưởng của Ấn Độ đối với Trung Quốc - hay một ảnh hưởng sắp tới của Ấn Độ đối với Trung Quốc- trong thời đại tiền thực dân và cách thức mà ảnh hưởng này tác động vào Việt Nam, Campuchia, và Lào bằng cách riêng của mình, với kết quả cuối cùng trong mỗi nước là một di sản mà họ phải chịu đựng cho đến ngày nay. Để biết thêm về nội dung này, xin đọc Alexander Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Nguyen and Ching Civil Government in the First Half of the Nineteenth Century (Cambridge: Harvard University Press, 1971); Robert S. Newman, Brahmin and Mandarin: A Comparison of the Cambodian and Vietnamese Revolutions, Centre of Southeast Asian Studies, Working Papers, Monash University, 1978.
9. Geir Helgesen and Li Xing, “Good Governance—Democracy or Minzhu,” in Hans Antl¨ov and Tak-Wing Ngo, eds., The Cultural Construction of Politics in Asia (Richmond, Surry: Curzon, 2000), 175–202.
10. R.H. Taylor, ed., The Politics of Elections in Southeast Asia (Cambridge: Cambridge University Press, 1996).
11. Antl¨ov and Ngo, Cultural Construction of Politics.
12. Martin Gainsborough, Dang Ngoc Dinh, and Tran Thanh Phuong, “Corruption, Public Administration and Development: Challenges and Opportunities as Viet Nam Moves Towards Middle-Income Status,” in Jairo Acu~na-Alfaro, ed., Reforming Public Administration Reform in Vietnam: Current Situation and Recommendations (Hanoi: National Political Publishing House, 2009), 377–427.
13. Caroline Hughes, “Cambodia in 2007: Development and Dispossession,” Asian Survey 48 (January–February 2008): 71.
(còn tiếp)


Martin Gainsborough/Journal of Democracy April 2012
Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ
Biểu tình tự phát và xã hội dân sự
Có thể mạnh như sức mạnh của văn hóa và lợi quyền khiến ngăn cản đường đi đến tự do chính trị, nhưng chúng đã không thể ngăn chặn được sự xuất hiện của các hình thức chống đối mới và các hoạt động của công dân trong các nước cộng sản cai trị ở Đông Nam Á. Trong những năm 1980, các cuộc biểu tình phổ biến, hay thực sự là bất kỳ hình thức tổ chức nào bên ngoài phạm vi của nhà nước độc đảng là cực kỳ hiếm. Trong những nam 1990, điều này bắt đầu thay đổi. Mặc dù môi trường quản lý pháp lý các hoạt động xã hội dân sự vẫn còn không chắc chắn và hạn chế, đã không hề có sự Stalin hóa cuộc sống hàng ngày, và mọi thứ đã không hề đứng yên. Các cuộc biểu tình quy mô nhỏ trở nên phổ biến và các cuộc lớn hơn không phải là không được biết đến, khi các công dân tràn ra đường phố hay tụ tập trước các văn phòng chính phủ để đòi hỏi đền bù về những nỗi bất mãn.

Ở Việt Nam, Campuchia, cũng như Lào, hầu hết các cuộc biểu tình đều có liên quan đến tranh chấp đất đai, khiếu nại về tham nhũng. Tuy nhiên, người Công giáo Việt Nam đã biểu tình đòi tự do tôn giáo trong khi các công dân tại Campuchia đã biểu tình vì cuộc tranh chấp một ngôi đền với Thái Lan. Việt Nam cũng đã nhìn thấy các cuộc biểu tình của công dân chống lại các hành động trên Biển Đông của người Trung Quốc, nơi quần đảo Trường Sa tuy không có người ở nhưng giàu hydrocarbon là chủ đề cuộc tranh chấp lãnh thổ Trung-Việt.
Ở Campuchia, phe đối lập đã tổ chức các cuộc biểu tình chính trị vào cuối những năm 1990, nhưng khung cảnh này hiện đã bị hạn chế và mang nhiều rủi ro. Bất chấp lệnh ngăn cấm đảng phái đối lập, ở Việt Nam và Lào, một số cá nhân và hội nhóm đã tìm cách tổ chức để chống lại nhà nước. Đã có một cuộc biểu tình duy nhất của sinh viên và giáo viên Lào vào năm 1999, và ở Việt Nam vào năm 2006 những người bất đồng chính kiến đưa ra Khối 8406, nhưng cả hai trường hợp đều bị chính thức đàn áp nặng nề và kết thúc sự bùng nổ của tự do ngôn luận và lập hội.
Như một sức mạnh cho sự thay đổi chính trị, giới bất đồng chính kiến hoặc hoạt động chống đối có ảnh hưởng lớn trong cả ba quốc gia bằng một hình thức mới và thầm lặng hơn bằng phương cách hoạt động đằng sau hậu trường trong tầng lớp trung lưu của các quốc gia mới nổi.
Hoạt động thông qua các mạng lưới khác nhau và các tổ chức phi chính phủ, người Việt Nam, Cambodia và Lào (ở một mức độ ít hơn) với một số phương tiện và giáo dục có được đang bắt đầu vận động các chính phủ của mình về các vấn đề khác nhau, từ bảo vệ nguồn tài nguyên đến bảo vệ nữ quyền và người phế tật. Trong hầu hết các hoạt động, quá trình này được ít được thể chế hoá trong điều kiện tốt nhất và chủ yếu chỉ dựa vào các kết nối cá nhân của những nhà hoạt động cũng như sự sẵn lòng tham gia vào xã hội dân sự của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, có một ý nghĩa của sự tiến bộ đã được thực hiện, khi các tổ chức phi chính phủ có kết nối giỏi có thể "vận dụng được hệ thống" và đạt được kết quả. Ở đây ta nên nhấn mạnh rằng các hoạt động xã hội dân sự này thường có một dàn diễn viên hết sức ái quốc và không (hoặc ít nhất là chưa) thúc đẩy đến việc thay thế các hệ thống độc đảng, nhưng chỉ tìm cách cải cách đảng nhà nưóc mà một số nhà đấu tranh từng một thời tuyên xưng lòng trung thành nhiệt thành .
Sự xuất hiện của xã hội dân sự sẽ không thể có được nếu không có những thay đổi xã hội đã xảy ra tại Việt Nam, Campuchia, và Lào từ năm 1986. Công dân, đặc biệt là những người thuộc tầng lớp trung lưu đô thị, hầu hết là các phần giàu có và giáo dục tốt hơn so với trước đây. Họ đi du lịch nhiều hơn, nhiều khả năng từng làm việc cho các tổ chức quốc tế, do đó có nhiều kinh nghiệm về việc moị điều được thực hiện ở các nước khác như thế nào. Họ được tiếp xúc với một đa dạng hơn của cả hai phương tiện truyền thông cũ và mới, bao gồm cả phương tiện truyền thông quốc tế. Họ tự tin hơn và ít tha thứ cho các lạm dụng quá đáng của nhà nước. Điều này không nhất thiết có nghĩa rằng họ đòi hỏi châm dứt hệ thống độc đảng, nhưng họ có ý thức về quyền của mình và muốn có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề có ảnh hưởng đến mình.
Tất nhiên là có một sự căng thẳng giữa cách nghĩ của tầng lớp trung lưu mới nổi và văn hóa chính trị của giới cầm quyền như đã được thảo luận trước. Tuy nhiên, mối căng thẳng ấy ít nghiêm trọng hơn là người ta có thể nghĩ, một phần bởi vì tầng lớp trung lưu và giới cầm quyền có ảnh hưởng lẫn nhau. Phần lớn tầng lớp trung lưu Đông Nam Á đã xuất hiện ở vị trí không cách biệt quá xa và vẫn còn gắn liền với nhà nước, thường là thông qua các thành viên gia đình, những người phục vụ như các quan chức nhà nước. Ngược lại, những người làm việc công quyền cũng đi du lịch, giao tiếp các phương tiện truyền thông nước ngoài, và tương tác với các tổ chức quốc tế - xã hội thay đổi ảnh hưởng đến nhân viên nhà nước cũng như các công dân khác. Do đó, tính cách của các tầng lớp cầm quyền Việt Nam, Campuchia, và Lào đang thay đổi trong một quá trình có thể được dự kiến là cũng sẽ ảnh hưởng đến đảng cầm quyền, ngay cả khi tốc độ thay đổi trong các tổ chức cầm quyền tụt hậu sau những gì phần lớn mọi người nhìn thấy trong xã hội (và đặc biệt là ở xã hội đô thị). (14)
Nhìn về tương lai
Tương lai chính trị của Việt Nam, Campuchia, và Lào sẽ ra sao ? Sụp đổ chế độ có lẽ là không xảy ra trong bất kỳ nước nào- những người cai trị tại Hà Nội, Phnom Penh, Vientiane không phải là không có chỗ dựa. Các đảng nhà nước trong mỗi quốc gia tìm được nguồn gốc hợp pháp từ nhiều nguồn: chẳng hạn như hoạt động kinh tế, chủ nghĩa yêu nước, mối quan tâm về trật tự và uy tín cá nhân của các quan chức hàng đầu. Tuy nhiên, mô tả chình xác việc các ủng hộ chế độ tồn tại và vận hành mạnh mẽ đến mức nào là khó khăn, bỏi vì mọi người đều không sẵn sàng nói chuyện ấy một cách cởi mở và không hề có bỏ phiếu trưng cầu ý kiến một cách khách quan khoa học. Ở Việt Nam và Lào, trong những cuộc bầu cử, tất cả các ứng cử viên phải được phê chuẩn bởi Đảng Cộng sản, và hầu hết là đảng viên. Các cuộc bầu cử ở Cam-pu-chia cócác đảng đối lập thi thố, nhưng việc mua phiếu bầu và đe dọa là mối quan tâm lớn ở đó. Hơn nữa, tất cả ba nước đã áp đặt các lực lượng an ninh. Chế độ Hunsen tại Cam-pu-chia được cho là ổn định nhất vì phong cách tàn bạo và tham lam hơn, trong đó giới tinh hoa cầm quyền của họ bắt tay vào việc chống chất tài sản tư nhân.
Tuy nhiên, khi nói đến đàn áp chống đối, ở cả ba nước đều là ác liệt.
Sự sụp đổ của cộng sản ở Trung Quốc có thể sẽ có một tác động cho tất cả ba nước, giống như sự sụp đổ của cộng sản tại Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến Cam-pu-chia và Lào. Tuy nhiên, trong tương lai gần, ít có học giả nào mong đợi một kết quả như thế. Đảng CPP của Cam-pu-chia có thể phải đối diện với khó khăn khi Hun Sen rời khỏi hiện trường, nhưng ông hiện 60 tuổi và có thể cầm quyền một thời gian nữa. Ngược lại, các đảng nhà nước ở Việt Nam và Lào, dựa vào lãnh đạo tập thể do đó ít có nhu cầu phải lo lắng về một cuộc khủng hoảng chuyển quyền.
Để vấn đề của Hun Sen sang một bên, phân tích của chúng tôi dẫn đến việc dự đoán sự tiếp tục của các chế độ hiện có trong tất cả ba nước cho một số năm, nhưng kết hợp với một sự tiến hóa dần dần của hệ thống chính trị cơ bản.
Quá trình tiến hóa này đã được diễn ra trong vòng mười lăm hay hai mươi năm qua. Nó có nghĩa rằng dù không có sự thay đổi trong đảng cầm quyền (ngay cả ở Campuchia, đảng CPP đã có thể dùng sức mạnh để trở lại quyền lực khá nhanh chóng dù thất bại trong cuộc bầu cử năm 1993), xã hội như một tổng thể đã không đứng yên và chất lên men của nó đã có ảnh hưởng đến chính bản thân các tầng lớp cầm quyền. Đến đúng lúc, điều này sẽ mở rộng phạm vi của những gì khả thi.
Về lâu dài, chúng ta sẽ không loại trừ khả năng rằng các đảng cộng sản Việt Nam và Lào có thể quyết định cho phép hình thành các đảng phái chính trị khác, hoặc CPP ở Campuchia có thể cho phép các đảng đối lập hiện hữu được hoạt động tự do hơn. Tuy nhiên giới cầm quyền, các nền văn hóa chính trị tự do của ba nước này chỉ thay đổi từ từ, và sự kiểm soát cơ quan công quyền vẫn còn có ý nghĩa của các khoản tiền bạc lớn lao, vì vậy "dài hạn" thực sự có thể là một chặng đường dài. Đối với các nưóc khác trong vùng Đông Nam Á cũng có thể nhận xét tương tự như thế. Có lẽ mọi việc có thể phát triển thành một tình huống không giống như ở Nam Hàn, trong đó có khoảng một phần tư thế kỷ sau khi cuộc chuyển đổi sang một nền dân chủ có hiệu quả của đất nước này, nhưng là một nền dân chủ mà các phương cách truyền thống (chẳng hạn như xu hướng tất cả mọi thứ xoay quanh một người hay vị tổng thống) vẫn còn tồn tại và tạo nên một tính cách đặc biệt đến đời sống chính trị ở đấy.(15)
Liệu một tiến trình thay đổi như vậy sẽ xảy ra trong ba nước châu Á Đông Nam của chúng ta ? Đối với Campuchia, người ta không thể tự tin để nói như vậy. Các lực lượng đối lập (hiện suy yếu) đang tồn tại ở đó vừa dứt khoát không đứng ngoài các giá trị độc tài của văn hóa chính trị truyền thống cũng vừa không đứng vững trên mặt đất của chủ nghĩa tự do hiến pháp cổ điển. Vì vậy, nếu một số phiên bản của phe đối lập có tìm được đường tham chính, có lẽ không phải trong ngắn hạn, cả giới cầm quyền và chính trị gia trưởng cũng sẽ cùng đảm đương việc đời sống chính trị được tiến hành như thế nào.
Còn về Việt Nam và Lào, người ta có thể hoan nghênh sự phát triển của các hoạt động xã hội dân sự trong khi cũng điềm tĩnh nhận ra rằng, dù sự phát triển ấy cho thấy một số ảnh hưởng tự do, nhưng nó cũng kém hơn sự tự do hoàn toàn trong triển vọng. Vì điều này không nói đến một nước nào trong số ba nước này, do vậy sẽ là công bằng để giả định rằng một sự thay đổi chế độ theo hướng đa đảng về thực chất sẽ báo hiệu sự chiến thắng của các giá trị tự do.
Tuy nhiên, một sự thay đổi từ chế độ độc đảng như thế sẽ đại diện cho sự tiến bộ rất lớn, do đó, thật đáng để xem xét đến việc làm thế nào để điều ấy có thể xảy ra. Nếu kinh nghiệm của các quốc gia khác là các hướng dẫn, một kịch bản có thể là bản thân chính đảng cai trị sẽ đi đến việc em xem hệ thống chính trị hiện tại như là một trách nhiệm và di chuyển để thay đổi nó. Các cuộc biểu tình lan rộng có thể can dự, như đã được như thế ở Hàn Quốc trong nửa sau của những năm 1980. Hoặc tiến trình có thể là một loại êm ả hơn như từng xảy ra ở Đài Loan vào khoảng cùng thời gian.
Ở đó, Quốc dân Đảng cầm quyền Trung Quốc bắt đầu đối thoại với phe đối lập vào năm 1986 không phải vì áp lực phổ biến, nhưng là một phần của nỗ lực có tính chiến lược nhằm làm giảm bớt việc Trung Quốc ngày càng gia tăng làm suy giảm ảnh hưởng của Cộng hòa Trung Hoa trên trường quôc tế (16). Tại Nam Hàn, sự thay đổi đã đến vào năm 1987 khi Roh Tae-woo,ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ Tư pháp cầm quyền, đã từ bỏ hàng ngũ với Chun Doo-hwan đương nhiệm bằng cách đồng ý với các đòi hỏi bấu cử tổng thống trực tiếp của phe đối lập khi phải đối diện với bất ổn xã hội và lao động lớn. (17)
Tất nhiên, khủng hoảng tạo nên các chia rẽ trong hàng ngũ cầm quyền là những động lực phổ biến của sự thay đổi chính trị ở nhiều nơi. Trong cả hai trường hợp Hàn Quốc và Đài Loan, đảng cầm quyền đã đến mức giành được thời gian cho chính mình vì đó là một số năm trong thời gian đa đảng trước khi phe đối lập giành được chính quyền. Thật không khó để tưởng tượng được một tình huống tương tự như thế sẽ tự diễn ra tại Việt Nam, Campuchia, Lào trong những năm tới.
Một kịch bản khác hình dung đảng cầm quyền âm mưu chặn đứng bất kỳ phe đối lập nào đang nổi lên bằng cách hình thành những nhóm "trung thành" đối lập thân thiện với chế độ. Đảng Hành động nhân dân từng cầm quyền lâu dài của Singapore đã thực hiện một hình thái tương tự như với "các thành viên được đề cử của quốc hội " (18). Một cách giải quyết như vậy có vẻ hấp dẫn đối với giới tinh hoa của đảng cầm quyền đường lối cũ bị căng thẳng bởi các đảng chính trị đối lập có tiềm năng thực sự. Tuy nhiên, khó nhìn thấy được việc làm sao để thiết lập một loại đối lập "thuần hóa" có thể tạo ra tính hợp pháp hoặc xoa dịu những người muốn thay đổi sâu rộng. Tuy nhiên, cũng không phải là giới lãnh đạo ở Việt Nam, ở Lào có thể loại bỏ chọn lựa này để tránh những gì họ sợ sẽ là một quá trình chia rẽ và gây mất ổn định của việc hình thàng đảng phái chính trị. Dù cuối cùng Việt Nam, Campuchia, và Lào chọn lộ trình nào, tối thiểu điều chắc chắn là một cuộc nổi dậy bất ngờ và cuộc bán buôn chính trị tự do là ít có khả năng xảy ra.
Ghi chú:
14. Mặc dù khó tìm được các dữ liệu so sánh đáng tin cậy, cả ba quốc gia đã chứng kìếnmức độ di cư từ nông thôn ra thành thị trong những năm cải cách. Các thành phố ở Việt Nam và Cam-pu-chia là lớn hơn nhiều so với tại Lào, nhưng cũng có quá quá trìnhđô thị hóa và ảnh hưởng của mình không đáng kể hơn. Các số kớn người di cư từ nông thôn gây căng thẳng cơ sở hạ tầng đô thị và mang đến những áp lực xã hội. Trong điều kiện của tầng lớp trung lưu đô thị, có những dấu hiệu về sự tăng trưởng của chúng trong tất cả ba quốc gia, minh chứng dễ thấy qua sức tiêu dùng, du lịch nước ngoài, giáo dục, và thời gian giải trí gia tăng. Tầng lớp trung lưu hoạt động chính trị,thường có tính chất cải cách, dáng kể nhất là tại Việt Nam, mặc dù Cam-pu-chia và Lào cũng có một mạng lưới non trẻ của các nhà hoạt động thuộc tầng lớp trung lưu. Để hiểu thêm, xin đọc Sarthi Acharya“Labour Migration in the Transitional Economies of South-East Asia,” Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, December 2003, 1–21; and Lisa Drummond and Mandy Thomas, eds., Consuming Urban Culture in Contemporary Vietnam (London: RoutledgeCurzon, 2003).
15. Tat Yan Kong, “Power Alternation in South Korea,” Government and Opposition 35 (July 2000): 370–91.
16. Laurence Whitehead, “Afterword: On Cultures and Contexts,” in Antl¨ov and Ngo, Cultural Construction of Politics, 234.
17. Han Sung-Joo, “South Korea in 1987: The Politics of Democratization,” Asian Survey 28 (January 1988): 52–61.
18. Michael Barr, “Perpetual Revisionism in Singapore: The Limits of Change,” Pacific Review 16, no. 1 (2003): 77–97.

- xcafevn -GIỚI CẦM QUYỀN VÀ GIỚI CẢI CÁCH TRONG CÁC NƯỚC LÀO, CAMPUCHIA VÀ VIỆT NAM (TIẾP THEO VÀ HẾT)

Tổng số lượt xem trang