Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

Học gì từ chính sách kinh tế của VNCH?

--Học gì từ chính sách kinh tế của VNCH?BBC Tiếng Việt 25 tháng 4 2015
Việt Nam ngày nay nên học chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong cách nhìn về kinh tế thị trường cũng như cách đào tạo, trọng dụng nhân tài. Nhận định trên được chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, một Việt kiều Mỹ nay đang sống ở Việt Nam, đưa ra trong cuộc phỏng vấn với BBC ngày 23/4.

Ông Thành cũng cho rằng "dư âm của nền kinh tế tập trung" đang hạn chế sự phát triển của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, cũng như trong tương lai.


BBC: Ông có thể cho biết một số đặc trưng của nền kinh tế miền Nam trước năm 1975?

Ông Bùi Kiến Thành: Trước 1975 thì kinh tế miền Nam, dù có những khó khăn do chiến tranh, nhưng vẫn là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.

Vì trong bối cảnh chiến tranh nên chính sách thời đó là mở rộng tất cả những gì có thể. Nông nghiệp thì gặp khó khăn về chiến tranh, thương mại cũng chỉ trao đổi hàng hóa, chứ việc phát triển công nghiệp thì chưa được bao nhiêu.

Nhưng nó vẫn là nền kinh tế cho phép nhân dân tự do tham gia, để những người có ‎ý chí muốn làm kinh tế được tạo điều kiện tốt.

Trong những năm dưới Đệ nhị Cộng hòa thì có khó khăn do cơ chế quản lý nhà nước vẫn chưa có những kinh nghiệm trong vận hành kinh tế thị trường, quản lý‎ nhà nước vẫn chưa hoàn toàn trong sáng, vẫn có những nhũng nhiễu của các nhóm lợi ích.

Trước 75 thì kinh tế miền Nam sống nhờ viện trợ hoa kỳ. Mỹ cung cấp cho miền Nam một tài khoản lớn, mỗi năm mấy trăm triệu đôla, mỗi năm nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam rồi chi cho chính phủ, chi cho phát triển.

Với nền Đệ nhị Cộng hòa thì chiến tranh mở rộng và chi phí của bộ máy quân sự Mỹ ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế. Nền kinh tế phát triển ảo, phát triển về hạ tầng chứ không phải phát triển doanh nghiêp để tạo ra công nghệ mới.

Nó có định hướng tốt là nền kinh tế thị trường nhưng không vững chắc, không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính.

Cả Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa đều không có điều kiện để phát triển hết tiềm năng của một nền kinh tế thị trường, do chiến tranh và việc chuyển đổi qua nền kinh tế kế hoạch tập trung rất là khắc nghiệt.

Nếu so sánh với các nước khác thì Đại Hàn bắt đầu dưới thời Park Chung Hee mới bắt đầu phát triển tốt và đến 70 mới phát triển xa hơn Việt Nam Cộng Hòa.

Không thể so sánh với những nước như Nhật được. Nhật đến năm 70 đã phát triển thành nền kinh tế tiến bộ rồi.

Singapore thời đó cũng chỉ mới bắt đầu có tiến triển dưới thời L‎ý Quang Diệu và đến 70 thì phát triển xa hơn miền Nam nhiều, vì cả ba nước này không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh.


Ở miền Nam trước 75 thì là một nền giáo dục rất mở, người sinh viên và các thầy giáo được quyền tiếp cận các nền giáo dục tư tưởng, dù là tư bản hay cộng sản, không hạn chế.Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành

BBC: Xu hướng phát triển của Việt Nam Cộng Hòa sẽ như thế nào nếu được phát triển trong hòa bình, thưa ông?

Ông Bùi Kiến Thành: Nói chung nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa là một nền kinh tế thị trường có nhiều tiềm năng, nếu được phát triển trong hòa bình thì sẽ có nhiều khả năng phát triển tốt hơn là chính sách phát triển tập trung sau 30/4/1975.

Nếu Việt Nam có hòa bình thì những chính sách phát triển kinh tế bắt đầu từ nền Đệ nhất Cộng hòa vẫn được duy trì, như khu công nghiệp Biên Hòa, các trung tâm phát triển công nghiệp. Khi đó chúng ta học dần dần thì bắt đầu tích lũy kinh nghiệm và bắt đầu đi lên.

Tuy nhiên, sau 30/4 thì tất cả những kinh nghiệm đó bị chặn đứng, áp dụng kế hoạch tập trung của miền Bắc vào miền Nam, bao nhiêu doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, doanh nhân thì vào trại cải tạo hoặc bỏ xứ ra đi.

Nền kinh tế tan vỡ ra hết và nền kinh tế tập trung không phát triển được, việc ngăn sông cấm chợ khiến nền kinh tế đi vào ngõ cụt.

Đến khi đó nhà nước cộng sản mới áp dụng chinh sách Đổi Mới. Nhưng Đổi Mới không phải là kinh tế thị trường mà là nền kinh tế 'nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường dưới sự quản lý‎ của nhà nước".

Cho đến nay định nghĩa của nền kinh tế Việt Nam sau Đổi Mới vẫn chưa có gì mới hơn là định nghĩa năm 1986, là kinh tế nhiều thành phần có sự quản l‎ý của nhà nước.

Vì vậy nên đến 2015, chúng ta vẫn bị sự chi phối nặng nề của các doanh nghiệp nhà nước, không thoát ra được tư duy kế hoạch tập trung của một số lãnh đạo, và không thoát ra khỏi sự vận hành của kinh tế nhà nước, trì trệ và không có hiệu quả.

Từ năm 1985 đến giờ ta không bắt kịp các nền kinh tế khác vì tư duy không rõ ràng, không ai biết kinh tế xã hội chủ nghĩa là cái gì.

Một mặt thì nói là kinh tế thị trường, một mặt thì nói là có sự quản l‎ý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta đã mất hết 30 năm mà vẫn còn loay hoay trong những việc làm không rõ ràng.Nền kinh tế thị trường của miền Nam đã bị phá vỡ sau năm 1975

BBC: Liệu chính phủ ngày nay có thể học được gì từ chính sách kinh tế miền nam trước 1975 thưa ông?

Ông Bùi Kiến Thành: Thứ nhất là kinh tế là việc của nhân dân chứ không phải của chính phủ, chính phủ không làm kinh tế. Đó là bài học lớn nhất.

Phải bỏ tập quán chính phủ đi làm kinh tế. Đã có định hướng như thế rồi nhưng chính phủ Việt Nam vẫn chưa ra khỏi vấn đề tư duy kinh tế nhà nước.

Thứ hai là các nhóm lợi ích của thành phần cầm quyền có ảnh hưởng rất lớn về vấn đề lợi ích trong nền kinh tế, khiến nền kinh tế bị khống chế bởi một nhóm lợi ích, khó mà phát triển được.

Kinh tế làm sao phải lan tỏa được để mọi người có thể tham gia, làm sao để tổ chức mà cả hệ thống chính trị, hệ thống hành chính tạo điều kiện cho người dân tham gia bình đẳng vào vấn đề kinh tế.

Ở miền Nam khi đó không có vấn đề là đảng viên thì hay ở trong hệ thống tổ chức nào mới được trọng dụng.

Đến bây giờ chúng ta thấy rằng về vấn đề quản lý nhà nước, toàn thể Việt Nam vẫn ở trong hệ thống Đảng Cộng sản, không phải đảng viên thì không được gì, mà chưa hẳn là 4 triệu đảng viên cộng sản đã là tinh túy nhất của toàn dân Việt Nam, nên nó hạn chế việc đào tạo lãnh đạo quản lý‎ nhà nước.

Chúng ta chưa thực sự mở cửa đào tạo, có hệ thống giáo dục tân tiến.

Đi vào đại học thì học những chuyện đã cũ rích rồi, từ những sách tiếng Anh dịch ra cho học sinh học mà thầy giáo đọc còn chưa hiểu, trong khi ở những nước khác, sinh viên học trên internet các dữ liệu, kiến thức mới.

Hệ thống giáo dục của Việt Nam chưa thể đưa những kinh nghiệm hay kiến thức mới vào nền giáo dục kịp thời, nên chúng ta đào tạo ra các sinh viên không đủ năng lực đi vào thực tế, đi vào xã hội.

Các doanh nghiệp khi thuê từ đại học ra phải đào tạo lại cho phù hợp với doanh nghiệp mình, nên tốn gấp đôi thời gian và tiền.

Bên cạnh đó, Việt Nam bây giờ còn có cái đại nạn là phải đi mua việc. Điều đó tạo ra vấn đề là những cán bộ làm việc trong cơ quan nhà nước không phải do năng lực. Những chuyện đó hạn chế chất lượng quản lý nhà nước của Việt Nam.

Ở miền Nam trước 75 thì là một nền giáo dục rất mở, người sinh viên và các thầy giáo được quyền tiếp cận các nền giáo dục tư tưởng, dù là tư bản hay cộng sản, không hạn chế.

Giáo dục miền Bắc khi đó chỉ có Marxist thôi, không được đọc sách báo, không nghe về tư bản chủ nghĩa, không nghe BBC, radio thì bị khóa không được mở các tần số đấy.

Giờ thì trong trường đại học mở ra nhiều hướng để sinh viên tiếp cận, ví dụ như Internet. Nhưng giáo trình thì không bao nhiêu, vì các thầy cũng có được học đâu, các thầy cũng học trong cơ chế xã hội chủ nghĩa bao năm nay rồi, nên việc đào tạo các thầy trước rồi đào tạo sinh viên sau khiến nền giáo dục bị chậm trễ.
Dư âm của một nền văn hóa tập trung vẫn khiến Việt Nam bị hạn chế cho đến nay....
Ra mắt báo cáo phát triển nền kinh tế thị trường Việt NamThời báo Kinh tế Sài Gòn Online
'Ý thức về tự do đã ăn sâu vào miền Nam'
BBC Tiếng Việt
Ý thức về tự do và kinh tế thị trường đã ăn sâu vào xã hội miền Nam Việt Nam, giúp nơi đây trở thành bàn đạp cho Đổi Mới. Nhận định trên được một người làm việc ở Sài Gòn trước 1975 nói với BBC trong dịp đánh dấu 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam.
************


 
Gửi cho BBC từ California, Hoa Kỳ


Mô hình dân chủ thời chiến của Việt Nam Cộng Hòa có nhiều khập khiễng
Năm 1971, tôi là một Thiếu Tá Hải quân (VNCH) đang phục vụ tại trường Sĩ quan Hải Quân Nha Trang. Tôi quyết định ra ứng cử dân biểu quốc hội nhiệm kỳ 1971-1975.
Vào thời gian đó cuộc chiến tại Việt Nam đang dâng cao và cuộc hòa đàm tại Paris sắp kết thúc. Tôi muốn có một diễn đàn để đóng sức vào công cuộc xây dựng dân chủ cho miền Nam Việt Nam.

Qua cuộc bầu cử 1971, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo quốc gia đã kiểm soát được quốc hội với đa số tuyệt đối dân biểu thân chính quyền. Phật giáo chiếm 19 ghế, phần còn lại cho nhóm ông Dương Văn Minh, cho VNQDĐ và Phong Trào Cấp Tiến (Đại Việt) của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
Khối Dân Tộc Xã Hội
Sau khi đắc cử tại thành phố Nha Trang cùng với dân biểu Nguyễn Văn Cử, tôi gia nhập Khối đối lập Dân Tộc Xã Hội (DTXH) một kết hợp của Khối Xã Hội (XH) và Khối Dân tộc (DT).
Khối XH thành hình trong nhiệm kỳ 1967-1971 do dân biểu Phan Thiệp lãnh đạo gồm các dân biểu gốc VNQDĐ và một số dân biểu độc lập có khuynh hướng Phật giáo. Phật giáo không có đại diện chính thức vì tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội 1967-71. Lập trường của Khối Xã Hội là chống chính quyền quân nhân (dưới lốt dân sự) của tổng thống Thiệu. Khối Dân Tộc gồm 19 dân biểu thân Phật giáo, đắc cử do sự ủng hộ của Phật Giáo miền Trung. Tôi là một trong 19 dân biểu được Phật giáo ủng hộ. Dân Biểu Đinh Xuân Dũng (Phan Thiết) ra tranh cử với tư cách độc lập. Vào Quốc hội ông gia nhập khối DTXH.
Sau thủ tục hợp thức hóa sự đắc cử của các dân biểu, Khối DT và XH nhập lại cho đủ túc số theo nội quy và thành lập khối đối lập Dân Tộc Xã Hội. Khối DTXH gồm 29 dân biểu, 19 thân Phật giáo, 10 dân biểu còn lại thuộc các đảng phái và những thành phần ủng hộ tướng Dương Văn Minh.
Lúc bầu trưởng khối của Khối DTXH, quý vị lãnh đạo Ấn Quang có ý chọn anh Lê Đình Duyên. Anh Duyên là con trai của bác sĩ Lê Đình Thám, người có công chấn hưng Phật giáo tại Việt Nam thập niên 1930. Nhưng sau khi cân nhắc hơn thiệt đề nghị của dân biểu Lý Trường Trân, quý vị đồng ý mời luật sư Trần Văn Tuyên, lãnh tụ VNQDĐ, một nhân vật có uy tín làm trưởng khối.
Sinh hoạt tại quốc hội trong bốn năm 1971 – 1975 cho thấy đây là một sự chọn lựa có viễn kiến. Khối đối lập có một khuôn mặt lãnh đạo có tầm vóc quốc tế, có lập trường chống Cộng vững chắc và với khéo léo và uy tín luật sư Trần Văn Tuyên đã giữ cho khối đối lập mà đa số chưa có kinh nghiệm sinh hoạt nghị trường không bị các khuynh hướng quá khích và thân Cộng sản lôi kéo.
Từ khi còn làm Phó thủ tướng, luật sư Tuyên đã biết rằng con đường cứu vãn VNCH là xây dựng một chế độ dân chủ được sự hậu thuẫn của toàn dân và một nền kinh tế tự lập. Ông nghĩ nếu Nam Hàn trong cùng cảnh ngộ tồn tại được thì tại sao VNCH không tồn tại được, nhất là VNCH được Hoa Kỳ viện trợ nhiều hơn Nam Hàn.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu muốn đẩy đối lập ra ngoài sinh họat chính trị trong một thời gian
Nhưng có hai khác biệt căn bản: Nam Hàn có lãnh đạo tốt, trong khi VNCH không có. Các tướng lãnh của VNCH đều là sản phẩm của nền thống trị cuối mùa của Pháp để lại. Thứ hai tại Nam Hàn Hoa Kỳ quyết ở lại, trong khi tại Nam Việt Nam Hoa Kỳ muốn đi.
Sau Hiệp Định Paris, nhìn thấy trước mắt con đường liên hiệp, tâm lý các khối thế lực: Phật giáo, Công giáo, Đảng phái đều ra sức chống tổng thống Thiệu để dành chỗ làm cho tình hình trở nên rối ren hơn. Và chỉ có lợi cho cộng sản.
Trong giai đọan đó, 3 nhóm họp thành khối đối lập DTXH theo đuổi ba chương trình khác nhau:
(1) nhóm Phật giáo chống Thiệu và muốn Thiệu ra đi bằng mọi giá.
(2) nhóm Đảng phái (VNQDĐ, Đại Việt) lo cũng cố đảng
(3) nhóm thân tướng Minh muốn ông Dương Văn Minh thay thế Thiệu.
Trong thâm tâm hình như luật sư Trần Văn Tuyên nghĩ rằng tình hình vô vọng. Nhưng bản năng tự tồn loay hoay trong một ván bài không dễ thấy lời giải, làm cho ông nghĩ rằng có thể vì quyền lợi toàn cầu của ba thế lực Nga- Mỹ-Trung Quốc, và nhất là địa lý chính trị Á châu – Thái bình Dương, Hà Nội sẽ không thanh toán VNCH bằng vũ lực mà tìm một giải pháp ôn hòa. Kết luận: Minh thay Thiệu có thể là một giải pháp.
Khối Dân Tộc Xã Hội và tướng Dương Văn Minh
Với phân tích đó trong 2 năm sau cùng (1974, 1975), Khối DTXH đã ủng hộ giải pháp Dương Văn Minh. Đây là một sai lầm. Vì sau khi ký Hiệp Định Paris người Mỹ chỉ muốn rút lui khỏi Việt Nam an toàn không bị quân lực VNCH ngăn cản.
Từ năm 1972 đến năm 1974 có sự tranh chấp căng thăng giữa tổng thống Thiệu và đối lập do sự vận động của Hành pháp thông qua Luật Ủy quyền (1972) sau khi quân đội cộng sản tấn công qua Bến Hải chiếm nửa tỉnh Quảng Trị và đe dọa Huế, để ông Thiệu cai trị bằng sắc luật. Mục đích của ông Thiệu là đẩy đối lập ra ngoài sinh họat chính trị trong một thời gian để ông rãnh tay ban hành những sắc luật cần thiết để củng cố quyền lực mà ông cho là cần thiết trong giai đoạn khẩn trương.
Căng thẳng khác là đầu năm 1974 ông Thiệu vận động tu chính Hiến pháp để ông ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ 3 (1975-1979). Theo ông phụ tá Nguyễn Văn Ngân tình hình bắt buộc vì “không ai thay ngựa giữa dòng”. Cuộc chiến nổ rộ toàn quốc, trong khi Hoa Kỳ đang cắt dần viện trợ.
Sau khi tu chính Hiến pháp tin tức Trung Quốc tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa ngày 19/1/1974 tràn ngập và không ai còn thì giờ để lên án sự tham quyền của tổng thốngThiệu.
Trung Quốc chiếm Hoàng Sa
Những sự việc chung quanh vụ Hoàng Sa vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được trả lời. Quần đảo Hoàng Sa cách bờ biển Đà Nẵng 230 hải lý (379 km) do quân đội VNCH và một đơn vị Địa phương quân tỉnh Quảng Nam trấn giữ.
Tổng thống Thiệu không báo cáo nên Quốc hội không biết những gì đang diễn ra ngoài Hoàng Sa cho đến khi tin tức quốc tế loan báo Hải quân Trung Quốc đã đánh bại một Hải đội của Hải quân Việt Nam trong ngày 19/1/1074 và mấy hôm sau cho đổ bộ chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa. Gần 80 binh sĩ gồm biệt kích, thủy thủ, sĩ quan VNCH tử trận. Ông Gerald Kosh, một cựu sĩ quan Hoa Kỳ thuộc tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng đi theo quan sát bị bắt.
Lệnh bảo vệ Hoàng Sa bằng sức mạnh vũ trang do chính tổng thống Thiệu ban ra. Tổng thống Thiệu không tham khảo ý kiến của tòa đại sứ Hoa Kỳ khi ban lệnh này.
Sau khi Hoàng Sa bị chiếm, Khối DTXH yêu cầu chính phủ điều trần, nhưng ông chủ tịch quốc hội Nguyễn Bá Cẩn không đưa vào nghị trình.
Chính phủ Thiệu lúng túng vì các đơn vị Hải quân Hoa Kỳ thuộc hạm đội 7 ở gần đó đã không đáp ứng lời kêu cứu của Bộ Tư Lệnh HQVN xin vớt thủy thủ Việt Nam của chiến hạm HQ 10 bị đánh chìm đang trôi dạt trên biển. Hình như có một sự đồng ý giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa.
Lúng túng
Khối DTXH lại có thêm một lần lúng túng khác khi lưỡng viện quốc hội họp ngày 27/4/1974 để thông qua một quyết nghị cho phép tổng thống Trần Văn Hương (vừa nhận quyền tổng thống ngày 21/4 khi tổng thốngThiệu từ chức) trao quyền tổng thống cho tướng Dương Văn Minh. Quyết nghị này vi hiến, nhưng khối DTXH quyết định bỏ phiếu thuận xem đây con đường duy nhất còn lại để có một giải pháp chính trị cho Việt Nam. Tướng Minh nhậm chức chiều ngày 28/4 cũng là lúc Không quân Bắc Việt oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất.
Cho đến phút kết thúc, luật sư Trần Văn Tuyên giữ đúng vai trò một lãnh tụ đối lập có lập trường chống Cộng kiên quyết. Luật sư Tuyên quyết định không bỏ nước ra đi dù tòa đại sứ Hoa Kỳ qua đệ nhất tham vụ Joe Bennett hẹn đưa ông và gia đình di tản.
Đầu tháng 5/1975, sau khi Hà Nội chiếm Sài Gòn, tướng Võ Nguyên Giáp gởi một sĩ quan cán bộ đến nhà cho biết ông ta sẽ can thiệp với Ủy ban Quân quản Sai Gòn Gia định cho phép ông khỏi đi trình diện học tập. Luật sư Tuyên cũng từ chối. Ông muốn chia sẻ số phận của người bại trận cùng với các đồng bào miền Nam và chiến sĩ của ông.
Sau đó luật sư Tuyên được tập trung cùng với 3000 quân cán chính VNCH tại trại Long Thành. Rồi cùng một số nhỏ được đưa qua nhà tù Thủ Đức. Mùa thu năm 1976 ông được đưa ra giam tại một trại giam trong tỉnh Hà Sơn Bình. Tại đây ngày 26/10 luật sư Tuyên đột trụy khi cùng với các tù nhân khác tham dự một buổi học tập tự phát biểu lập trường “đề cao cách mạng, nhục mạ chế độ VNCH, xỉ vả cá nhân tội lỗi của mình” như yêu cầu của ban quản trại. Ban quản trại cho rằng ông chỉ bị xâm xoàng, tiếp tục buổi học tập. Sau đó ban y tế trại mới cho xe chở ông đi bệnh viện tỉnh, và mấy hôm sau cho biết ông đã chết sáng ngày 28/10/1976.
Nhìn lại, luật sư Tuyên đã hiến trọn cuộc đời chống Pháp, chống Cộng sản để giành độc lập và tự do của Việt Nam. Ông đã không thành công, nhưng ông thành nhân.
Đóng góp
Khối DTXH đã đóng góp được gì trong công cuộc xây dựng dân chủ tại Việt Nam?
Yếu tố quan trọng nhất của sự thất bại của đối lập là thiếu kinh nghiệm dân chủ và sinh hoạt nghị trường. Cho đến đầu thập niên 1970 Việt Nam chưa bao giờ là một nước dân chủ. Thời gian 1946-1954 với chính phủ Bảo Đại bên trên là một Ủy viên toàn quyền người Pháp. Chỉ là một chính quyền đô hộ Pháp với các vỏ quốc gia của cựu hoàng Bảo Đại. Dưới chính thể ông Ngô Đình Diệm VNCH chỉ là một nước dân chủ trên giấy tờ. Và qua đệ nhị Cộng Hòa với hai nhiệm kỳ của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng vậy. Hiến pháp 1967 dân chủ hơn Hiến Pháp đệ nhất Cộng Hòa nhưng chỉ là hình thức.
Mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ đến giúp Nam Việt Nam xây dựng một miền nam độc lập, dân chủ và phú cường ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản trong thập niên 1960 là một chiến lược đúng. Chỉ vì lãnh đạo chiến tranh (của Hoa Kỳ) kém cỏi, và các nhà lãnh đạo sót lại tại miền Nam thiếu bản lãnh nên cuối cùng Hoa Kỳ phải chấp nhận thất bại, rút lui để bày một ván cờ khác.
Lý do địa phương cũng đóng góp không ít vào sự thất bại này. Miền Nam Việt Nam thiếu truyền thống dân chủ, lãnh tụ bất tài, và các chính trị gia – theo Thiệu hay chống Thiệu - thiếu khả năng. Chương trình của đối lập do sự thúc đẩy của Phật giáo là dân sự hóa chính quyền, nói chuyện với Mặt Trận Gỉai Phóng Miền Nam thay thế tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để chấm dứt chiến tranh đã chứng tỏ là một đường lối sai lầm. Nó làm yếu chính quyền Thiệu thay vì đoàn kết các lực lượng chống Cộng và chống Thiệu thành một khối. Mặt khác Cộng sản cũng đã thành công xâm nhập vào mọi cơ cấu và định chế của VNCH.
Làm gì?
Sau 35 năm cục diện Á Châu thay đổi. Trung Quốc đang vươn lên thế siêu cường. Việt Nam đang chuyển đổi chính sách vì nhu cầu bảo vệ đất biển và an ninh quốc gia. Hoa Kỳ trở lại Á châu để bảo vệ vị trí siêu cường.
Trên bàn cờ Á châu lại xuất hiện những con cờ cũ. Và bên cạnh là một lực lượng đối lập. Đối lập với chính quyền Việt Nam bây giờ là ai? Là khối người Việt hải ngoại và thành phần đấu tranh dân chủ trong nước.
Chương trình của đối lập phải như thế nào để khỏi đi vào vết xe cũ? Chúng ta rút tỉa được gì qua sinh hoạt của đối lập qua hai nền Cộng Hoà 1955- 1975?
Bài viết được rút ngắn từ một tham luận tác giả mang đến Hội luận tại đại học Cornell – Ithaca, New York, ngày 11 & 12, tháng Sáu 2012, của các nhân chứng Đệ Nhị Cộng Hòa.


 bbc : Nhìn lại kinh nghiệm đối lập thời VNCH

Tổng số lượt xem trang