Thứ Hai, 9 tháng 7, 2012

Đâu là ngưỡng nợ nước ngoài an toàn của Việt Nam?


- (Tamnhin.net) - Nợ nước ngoài tạo ra nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế nhưng có điểm giới hạn, nếu vượt quá điểm này sẽ tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế.
Từ những năm thập niên 60 các nhà kinh tế đều cho rằng việc chuyển giao các nguồn lực nước ngoài (thông qua các khoản vay, viện trợ và tài trợ) tại các nước kém phát triển là cần thiết, nó bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước. 
Với nguồn vốn được bổ sung sẽ giúp các nước chuyển đổi nền kinh tế của họ để tạo ra mức tăng trưởng cao hơn. Qua quá trình này có thể thấy mối liên hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế là với một quốc gia đang phát triển mức vay nợ hợp lý có khả năng tăng cường tăng trưởng kinh tế.
 Tuy nhiên về sau các nghiên cứu lại cho thấy càng gia tăng nợ thì tăng trưởng kinh tế sẽ càng tốt hơn. Nợ nước ngoài tạo ra nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế nhưng có điểm giới hạn nếu vượt quá điểm này gia tăng nợ sẽ tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế.
Nợ nước ngoài của Việt Nam trong những năm gần đây đã gia tăng đáng kể, theo thống kê của Bộ Tài Chính nợ nước ngoài đã tăng từ 31.4% trong năm 2006 lên 42.2% năm 2010.
Sự gia tăng của nợ nước ngoài không chỉ làm gia tăng lo ngại tạo ra gánh nặng cho thế hệ tương lai mà còn không đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Vận dụng lý thuyết “debt overhang” của nhà kinh tế Krugman (1988) chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi này. Lý thuyết của Krugman giúp chúng ta tìm ra ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam. Ngưỡng nợ được hiểu đơn giản là nếu vượt qua giá trị này sự tăng lên của nợ không đồng nghĩa với sự tăng trưởng tốt hơn.
Bằng cách vẽ mô phỏng các điểm phân bố GDP theo tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP theo dạng hàm phương trình bậc hai, sau đó xác định đỉnh của đường công. Đỉnh của đường cong này chính là ngưỡng nợ nước ngoài cần tìm. Với trường hợp của Việt Nam, khi quan sát số liệu từ năm 1986 đến năm 2010, ngưỡng nợ nước ngoài (tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP) được tìm thấy ở mức gần 65%.
Nói cách khác nếu tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP của Việt nam nhỏ hơn mức 65% sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nếu tỷ lệ này vượt quá 65% thì nợ nước ngoài sẽ tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra bằng cách ước lượng thông qua mô hình kinh tế lượng cũng cho thấy nếu tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP gia tăng 1% và chưa vượt ngưỡng 65% thì GDP sẽ gia tăng 15,76987 triệu USD và nếu vượt ngưỡng 65% thì GDP sẽ giảm 22.9528 triệu USD.
Từ kết quả phân tích chúng ta có thể thấy gia tăng nợ nước ngoài hiện nay của nước ta có thể chưa phải là quá nghiêm trọng. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả cao khi sử dụng nguồn lực này chúng ta cần nghiêm túc và thận trọng.
Nên phân tích đầy đủ lợi ích kinh tế và xã hội của tất cả các dự án được tài trợ bằng nợ.
Tài trợ bằng nợ chỉ nên thực hiện nếu dự án đảm bảo lợi nhuận tạo ra sẽ đảm đương được thanh toán lãi vay và vốn gốc. Việc sử dụng vốn cũng phải được giám sát chặt chẽ để làm cho đảm bảo vốn vay được sử dụng một cách có hiệu quả...
(Tamnhin.net) -Hiện tượng “đầu tư công dàn trải và kém hiệu quả” hay chúng ta nhận định ví von là đầu tư kiểu :con nhà lính tính nhà quan" hay học đòi kiểu “nhà nghèo lãng phí” đó chính là sự nghịch lý đầu tư công ở Việt Nam trong suất thời gian qua. 
Lấy một vài con số hai ví dụ cụ thể còn đi tổng kết toàn thể các lĩnh vực ngành nghề, và các địa phưởng thì  thực sự là vấn đề phải cần đến chữ cảnh báo và "rùng mình" khi nhắc đến; Ví như  những bê bối của Tậpđoàn kinh tế nhà nước Vinashin với dự án tàu vận tải biển tuyến Bắc -Nam, chi ra cả 1.000 tỉ đồng nhưng lại hoạt động kém hiệu quả, hayVinalines với dự án đầu tư xây dựng Dự án Nhà máy sửa chữa tàu biểnVinalines phía Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế là minh chứng điển hìnhcho sự hoang phí nguồn nhân lực và tài nguyên. Hay con số mà các chuyêngia bắt mạch căn bệnh “nghiện đầu tư công” đã chỉ ra: trong lòng mộtnền kinh tế với GDP mới 130 tỉ USD mà sở hữu tới 100 cảng biển, 18 khukinh tế ven biển, 30 khu kinh tế cửa khẩu, hơn 650 cụm công nghiệp.

Một đoạn đường cao tốc TP.HCM - Trung Lương

Nguyên nhân tại sao lại kém hiệu quả trong đầu tư công ?
Năm 2011, để chống chọi lại với lạm phát gia tăng, Chính phủ đã rất đauđầu trong công tác cắt giảm đầu tư công kém hiệu quả. Tuy nhiên, có mộtnghịch lý: trong khi chủ trương chung là thắt chặt chi tiêu và giảm đầutư công, thì số liệu cuối năm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) công bốtỷ lệ đầu tư dự án công cả nước vẫn chiếm 40% GDP, kèm theo nhận xéthiệu quả đầu tư còn thấp. Đáng ngạc nhiên hơn là trong bối cảnh khó khănnhư vậy, báo chí lại tiếp tục đưa tin về những danh mục đầu tư công mới2012 do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương trình với Chính phủvới tổng vốn lên đến 300 tỉ USD.
Mặt khác, trong khi các dự án mới liên tục được cấp phép và được nghiêncứu thì nhiều dự án cũ vẫn chưa tiến hành xong, chậm trễ tiến độ thicông, hay thậm chí còn… nằm trên giấy. Sự lệch pha giữa các kế hoạchmuốn thực hiện và được thông qua với mức độ khả thi, ít nhất xét về khíacạnh tài chính có thể quan sát được qua con số của Bộ KH-ĐT: Để tiêuthụ hết số dự án đã được thông qua, mỗi năm cần một số tiền lớn hơn tổngmức đầu tư toàn xã hội. Có quá nhiều dự án được phê duyệt chỉ “cho có”,không tiến hành thực hiện. TS Phan Thanh Hà, Vụ phó Vụ Tài chính vàTiền tệ, Bộ KH-ĐT đúc kết: “Chúng ta phê duyệt quá nhiều dự án vượt khảnăng nguồn lực hiện có, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra nhiều năm, cònviệc thực hiện dự án thì theo kiểu xếp gạch giữ chỗ”.
Kém hiệu năng, chưa minh bạch trong quá trình thực hiện, tư duy nhiệmkỳ hay bị lợi ích nhóm chi phối… là những nét chấm phá trên bức tranhđầu tư công còn nhiều nghịch lý của Việt Nam. Truy nguyên cốt lõi vấnđề, có thể khái quát qua hai góc nhìn chính. Một là mối quan hệ chiềungang chồng chéo giữa ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và các cơ quanchủ quản. Hai là sự phân cấp chiều dọc giữa địa phương và Trung ươngtrong việc thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ về ngân sách vẫn còn nhiềubất cập.
Chẳng hạn, mô hình phân cấp đầu tư của nước ta từ năm 2006 đến nay đượcví von như mô hình “phân cấp trắng”, Bộ KH-ĐT gần như không có vai tròtrong việc cân đối giữa nhu cầu và khả năng cung ứng. Cơ chế của đầu tưgần như là quá trình “xin - cho” giữa hai bên vốn là “cặp bài trùng”trong từng khoảng lợi ích: Các ngành và địa phương quyết định dự án đầutư, còn nguồn vốn là “xin từ ngân sách trung ương”.
Do đó, nhiều trường hợp các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các tỉnh,trung ương sẽ liên kết giành lấy những dự án béo bở và củng cố ảnh hưởnglẫn nhau, với mục đích đôi bên cùng có lợi. Trong mối quan hệ này, đãthiếu đi một cơ quan đủ “tầm” để kiểm soát tính hiệu quả của các dự ánvà lưu thông dòng vốn. Tình trạng thiếu vốn của các dự án khởi công làmột hệ quả khó tránh khỏi, đồng thời kéo theo việc bất cân đối trong đầutư, sử dụng công nghệ thiết bị lạc hậu, kéo lùi tiến độ thực hiện, đầutư thiếu tập trung và dứt điểm cho các công trình trọng điểm...
Tìm phương án khắc phục hay sửa sai:
Thực tế khi triển khai đầu tư trong cơ chế thị trường cần bình đẳng giữa các doanh nghiệp với nhau không phân biệt NN hay tư nhân vì chủ thể được thực hiện đầu tư cần pahir có năng lực và phương án quản lý kinh doanh về điều này chính các DNTN có phản ứng nhanh nhạy hơn vớithị trường và những cơ hội mới.
Nhưng thực tế các DNNN lại được đầu tư nhiều hơncác doanh nghiệp tư nhân về cả công nghệ, kỹ thuật, nguồn nhân lực,được Nhà nước hỗ trợ thông qua các chính sách ưu đãi, được ưu tiên tiếpcận vốn tín dụng, thậm chí còn được Nhà nước bảo lãnh trong việc đi vaynợ lớn từ các nước với lý do là hoàn thành các đơn đặt hàng từ Nhà nước.Dù có những ưu thế gần như tuyệt đối về mọi mặt, DNNN lại không thể tạonên một sự vượt trội. Nhưng dù sao, với sự hậu thuẫn như vậy, một sốDNNN lớn đã trở thành lực lượng mạnh có ảnh hưởng trực tiếp đến sự pháttriển của nền kinh tế Việt Nam. Và do các hình thức phân biệt này, cácdoanh nghiệp tư nhân chọn lựa việc duy trì hoạt động với quy mô nhỏ vàphi chính thức hơn là đầu tư để đạt được lợi thế kinh tế theo quy mô. Nhưng ta cũng cần phải nói rõ là các doanh nghiệp phải có năng lực thực sự cả về chất lượng và phương pháp thực hiện chân chính.
Ðiều này kìm hãm tăng trưởng về năng suất, bởi các doanh nghiệp nhỏkhông thể đầu tư vào các công nghệ tiên tiến hoặc đạt được lợi thế kinhtế theo quy mô thông qua việc tổ chức và quản trị có hiệu quả hơn. Sựthiếu vắng những công ty với quy mô lớn và được quản lý một cách chuyênnghiệp trong khu vực công và tư đã giới hạn hoạt động sản xuất của ViệtNam - chỉ hướng vào những sản phẩm thâm dụng về lao động và có giá trịgia tăng thấp.
Khi địa phương nào cũng thấy đặc thù của mình là có một không hai, cókhả năng tạo thành lợi thế cạnh tranh để đưa tỉnh nhà cất cánh, cộng vớisự liên kết không chặt chẽ ở hàng ngang giữa các bộ chủ quản, ngân hàngvà các DNNN, thì đánh giá hay thẩm định dự án sẽ mang tính cục bộ hoặcngười nhà “xem xét với nhau”. Bởi vậy, “63 vùng kinh tế” không mang tínhliên kết đồng bộ tương ứng với 63 tỉnh, thành, cùng với hàng loạt dự ánchậm trễ, thất thoát, lãng phí trong những năm vừa qua là những hệ quảtrực tiếp từ sự bất đồng bộ của cơ chế này.
Nhận định “Gốc rễ của tái cơcấu đầu tư công là nhất thiết cần điều chỉnh tư duy đầu tư công bằng cáccách làm cụ thể. Đã đến lúc cần tập trung chất thay vì lượng, nếu khôngthì đầu tư công sẽ tiếp tục dàn trải và còn nhiều hệ quả chờ đợi phíatrước”. Điều chỉnh tư duy ở đây, Phó thủ tướng nhấn mạnh hàm ý về việcnâng cao hiệu quả đầu tư, mà yếu tố “chất lượng” thay vì “số lượng” giữvai trò kim chỉ nam. Và để có thể từ chối cái lợi trước mắt, hướng tớicác công trình có chất lượng thì một “cơ chế hiệu năng” trong việc đánhgiá và xét lọc các dự án phải được thành lập, trong đó yếu tố phân cấpquyền và trách nhiệm trong việc cấp phép đầu tư phải được lựa chọn nhưtiêu chí hàng đầu.
Nghịch lý đầu tư công là bất cập về chức năng và mâu thuẫn lợi íchtrong bộ máy điều hành. Loại bỏ hay ít nhất có biện pháp chế tài nhữngyếu tố này là chìa khóa của mọi chìa khóa để cải thiện bức tranh màu xámcủa đầu tư công nước ta thời gian tới.
Đê cải cách đầu tư công hay gọi là cái cấu trúc đầu tư công trước hết phải có một bản kết luận và thực hiện kỳ sát hạch kiêm tra công khai minh bạch kết quả của những phi vụ đã đầu tư "hiệu quả đến đầu" phân định rõ ràng mục tiêu phát triển theo vùng miền lợi thế địa lý và kinh tế theo ngành và lĩnh vực từ đó mới có chiến lược triển khai về thời gian và "đầu tư cái gì? đầu tư cho ai ? đem lai lợi ích hiệu quả ? 

Có ý kiến cho rằng, việc hạ lãi suất của ngân hàng chỉ là chiêu “giả vờ cứu doanh nghiệp”. Thực tế, doanh nghiệp “đói” vốn nhưng ngân hàng vẫn "ôm" tiền?

Sáp nhập với Habubank, SHB bị hạ triển vọng xuống mức 'tiêu cực'
Trong bản báo cáo ra ngày hôm nay, 9/7, hãng định mức tín nhiệm Moody's Investors Service đã quyết định...
Đối với khoản nợ tiền mua điện của EVN lên đến hơn 10.000 tỷ đồng, PVN cho biết EVN vẫn...
-Lãi suất xuống, nợ xấu tăng
(TBKTSG) - Lãi suất và nợ xấu là bốn từ được nhắc đến với tần suất dày đặc khi đề cập tới hoạt động tiền tệ sáu tháng đầu năm nay. Lãi suất chót vót, cả thị trường e ngại. Rồi lãi suất giảm nhanh và mạnh, cả thị trường vẫn e ngại vì vốn vẫn không đến được doanh nghiệp. Các chỉ số tăng trưởng công nghiệp, bán lẻ hàng hóa, hàng tồn kho... tiếp tục cao hơn so với cùng kỳ.
Vì sao có những "nút thắt" làm kinh tế suy giảm?(Tamnhin.net) Đặc điểm đầu tiên của các DN về vốn, hầu hết DN Việt Nam đều có vốn chủ sở hữu rất thấp. Trong khi đó, khả năng vay vốn mới tại ngân hàng gần như bằng 0 do nợ quá hạn, nợ xấu tồn đọng quá cao. DN không vay được, hàng không bán được do sức mua kém dẫn đến ngừng sản xuất, phá sản là tất yếu.
Đặc điểm nút thắt thứ hai, với bất động sản, sau thời gian tăng trưởng nóng, thị trường chuyển sang đóng băng kéo dài khiến các tài sản cầm cố vay ngân hàng, tài sản của DN bị hạ thấp giá trị. Nhiều DN kiệt sức và cạn lực khi trước đó quá chú trọng vào tài sản này.
Đặc điểm thứ ba, với DN Nhà nước, dù gần như độc quyền trong việc sử dụng một số nguồn lực quốc gia nhưng các DN Nhà nước đầu tư  sinh lời thấp, thậm chí thua lỗ, gây hạn chế cạnh tranh và thu hút nguồn lực đầu tư xã hội hóa vào nhiều lĩnh vực, cần nhanh chóng tháo gỡ.
Đặc điểm thứ tư, nút thắt cuối cùng khiến các DN khó thoát cảnh bi đát hiện nay là nợ xấu tăng cao, do thực lực của hệ thống ngân hàng chưa tốt và thực lực của các dn sản xuất không còn,chủ yếu gia công, ít mặt hàng có thế mạnh nên khi xuất khẩu bị ảnh hưởng, các DN lập tức gặp khó khăn. Tại thị trường nội địa, nhiều sản phẩm nội không thể cạnh tranh với hàng Trung Quốc, khi sức mua giảm, hàng tồn kho nhiều, DN  không còn cách trả nợ ngân hàng,mà lãi vay lại quá cao trong thời gian quá dài.
“Không quá lo lắng về tăng trưởng GDP” (VnEco).
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình: Cứu doanh nghiệp là cứu ngân hàng (TBNH/Vinacorp).  -Vẫn nan giải bài toán giảm lãi suất và tăng trưởng tín dụng (SGTT).
Chờ xử lý “cục máu đông” nợ xấu (TT).
6 ngân hàng yếu kém đang chờ cơ cấu lại (ĐV)
Kinh tế chỉ cần kiên nhẫn chờ thêm 1 tháng nữa? (DT).
Cán cân vốn đe doạ tỷ giá trong trung và dài hạn (SGTT).

Ngân hàng điện tử: tiền nào của nấy (SGTT).
Các tập đoàn dược phẩm và trò kinh doanh bệnh tật: Kỳ 1: Buôn bán bệnh tật (SGTT).
Cần Thơ: lúa chất lượng cao cũng không thoát cảnh “được mùa, úa… giá” (SGTT).
Các ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất (SGTT).
Trung Nguyên: Đủ căn cứ khẳng định cà phê G7 là số 1 (GDVN).
Đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang Nhật Bản và Hàn Quốc (TN).
Kinh tế Trung Quốc: Voi cưỡi xe đạp lao dốc? (VnEco).

Tổng số lượt xem trang