Tin nóng! Tin nóng! "Phép lạ" Việt Nam đến lúc chấm dứt! The End of the Vietnamese Miracle (Foreign Policy 11-7-12) ◄◄ .- Sự kỳ diệu của Việt Nam chấm dứt-Đã là quá đủ cho câu chuyện thành công tiếp theo ở châu Á
Tác giả: Geoffrey Cain 0-Người dịch: Đan Thanh
11-7-2012
Thành phố Hồ Chí Minh – Tại cái nơi đã từng là một trong những thị trường đang nổi lên sôi động nhất châu Á, Nguyen Van Nguyen chỉ nhìn thấy phía trước là bầu trời ảm đạm. Kể từ năm 2008, công ty của ông ở thủ phủ kinh tế miền nam Việt Nam đã trải qua hai lần lạm phát rất đột ngột, đạt đỉnh vào tháng 8-2011 ở mức 23% – là mức lạm phát cao nhất châu Á vào thời điểm đó. Giờ đây, đề tự bảo hiểm trước rủi ro giá cả, ông chỉ nhận những đơn đặt hàng nhỏ từ nước ngoài cho nhà máy của mình – Bình Minh – nhà máy sản xuất mành trúc ở TP.HCM, từng một thời thịnh vượng. Ông bảo rằng khách hàng ở Australia, châu Âu, và Mỹ đều đã giảm bớt số đơn đặt hàng, sau khi nhu cầu toàn cầu suy thoái. Chi phí sản xuất trong ngành đã tăng xấp xỉ 30%, trong khi khách hàng chỉ còn sẵn sàng trả thêm chừng 10% nữa – theo ông Dang Quoc Hung, phó chủ tịch Hiệp hội Thủ công Mỹ nghệ và Đồ Gỗ ở TP.HCM. Ông Nguyen cũng thuê ít công nhân hơn cho mùa cao điểm là những tháng hè, và giảm lương của họ từ 200 USD xuống còn khoảng 120 USD/tháng. “Chúng tôi chỉ có thể làm chầm chậm thôi, mọi việc bây giờ khó khăn lắm” – ông than vãn như vậy hồi cuối tháng 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam muốn các nhà đầu tư nhìn nhận những trường hợp như của ông Nguyên chỉ đơn giản là tác động tức thời ở địa phương của suy thoái kinh tế toàn cầu, chứ không phải là một sự suy yếu đi của cả hệ thống. Trong hai thập niên kể từ khi Đảng thiết lập cải cách kinh tế vào năm 1986, tăng trưởng GDP hàng năm đạt mức trung bình ấn tượng 7,1%. Quả thật, bốn năm về trước, Việt Nam có vẻ như là câu chuyện thành công tiếp theo ở châu Á. Trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, các nhà lãnh đạo của đất nước này cam kết sẽ còn làm tốt hơn, đẩy nhanh tốc độ một tiến trình khổng lồ – tái cơ cấu và tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước làm ăn tốn kém của họ – tiến trình này được gọi tránh đi là “cổ phần hóa”. Quỹ Tiền tệ Quốc tế hồi năm 2007 dự đoán rằng, một trong các kết quả của việc gia nhập WTO là nhập khẩu rẻ hơn, có thể kìm giữ lạm phát, và cải cách cơ cấu có thể san bằng sân chơi giữa các đối thủ cạnh tranh nước ngoài và sở tại. Nhưng tại chuyến thăm của bà Hillary Clinton tới Hà Nội vào đầu tuần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bị buộc phải rơi vào thế phòng vệ, phải hứa hẹn các điều kiện ưu đãi cho giới đầu tư nước ngoài, khi ông cố gắng duy trì “phép màu Việt Nam”.
Trong thập niên vừa qua, tiền công lao động tăng lên ở Trung Quốc đưa đến kết quả là những ngày họ đóng vai trò “công xưởng của thế giới” không còn bao lâu. Một Việt Nam ổn định, với lực lượng lao động trẻ tuổi và rẻ tiền, cơ sở hạ tầng tiện lợi, dường như là sự lựa chọn hợp logic tiếp sau Trung Quốc. Đầu tư nước ngoài tràn vào trong suốt những năm giữa thập niên 2000, với vốn ròng tăng hơn ba lần, đạt 9,6 tỷ USD vào năm 2008 so với hai năm trước đó. Việt Nam là “con hổ châu Á tiếp theo đang thành hình”, Goldman Sachs bảo vậy. Ông Edmund Malesky, một nhà kinh tế chính trị ở ĐH California, San Diego và chuyên sâu nghiên cứu về Việt Nam, nói: “Các nhà đầu tư nước ngoài không quan tâm đến năng lực điều hành của chính phủ hay là chính sách. Họ chỉ bị thu hút bởi động lực là tiền công lao động rẻ”.
Nhưng rồi té ra phớt lờ chính trị lại là một sơ suất tốn kém. Rất ít doanh nhân dự đoán được tình hình Việt Nam năm 2012: một đất nước phải vật lộn với đồng nội tệ yếu, lạm phát, quan liêu, chủ nghĩa tư bản thân hữu dẫn đến lãng phí hàng tỷ USD, và là đất nước có một chính phủ ra các quyết định như xây cảng, xây đường ở những nơi rất kỳ cục mà hầu như không có giá trị kinh tế.
Mọi thứ bắt đầu đi xuống khi Việt Nam khởi động một chương trình mở rộng tín dụng nội địa, trị giá 100 tỷ USD, từ năm 2007 tới năm 2010. Do cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, chương trình càng được tăng tốc. Thay vì hướng đến các doanh nghiệp tư nhân, chính phủ lại chuyển các quỹ tới tay những doanh nghiệp nhà nước có mối quan hệ về chính trị. Các đơn vị đó sử dụng vốn này để bành trướng mạnh mẽ vào những lĩnh vực ngoài ngành nghề chuyên môn của họ, tạo ra nhu cầu ngày càng tăng về nguồn lực và dẫn đến lạm phát. Sẵn lắm tiền mặt, họ đã có thể loại bỏ những đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn nhưng lại hiệu quả hơn. Hãng đóng tàu quốc doanh khổng lồ Vinashin, nơi tuyển dụng khoảng 60.000 công nhân và cai quản 28 xưởng đóng tàu, chia thành gần 300 đơn vị, gồm cả cơ sở sản xuất xe máy, khách sạn. Trước đó họ đã nhận được thêm 1 tỷ USD từ các nhà đầu tư quốc tế, trong năm 2007. Giới chức lãnh đạo hy vọng nó sẽ là lực kéo tăng trưởng kinh tế, giống như các tập đoàn (công-lô-mê-rát) nửa công nửa tư nhân của Hàn Quốc.
Nhưng, vào năm 2010, Vinashin bị phát hiện là đã làm giả chứng từ tài chính, và tập đoàn gần như sụp đổ vì khoản nợ trị giá 4,4 tỷ USD, cả với chủ nợ trong nước lẫn quốc tế. Con số này tương đương gần 5% GDP. Cuối cùng Vinashin vỡ nợ một khoản 400 triệu USD của Credit Suisse. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – người hậu thuẫn cho Vinashin bởi đó là dự án ưa thích của ông, dự án trung tâm của nền kinh tế do nhà nước điều hành – buộc phải xin lỗi Quốc hội trong một phiên tự phê bình rất đau đớn. Các đối thủ của Dũng, khi tìm cách bảo vệ lợi ích riêng của công ty mình và chỗ đứng chính trị của mình, đã tìm ra con dê tế thần: Tháng 3, chính quyền kết án 8 nhân viên điều hành. Nhưng thay vì đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa nhiều hứa hẹn mà chậm chạp thê thảm, được khởi động suốt từ những năm 1990, thì chính quyền giấu nhẹm mọi sự thất bại của họ.
Chính phủ bắt đầukiểm soát thiệt hại, từ chối bảo trợ cho khoản 400 triệu USD vay từ Credit Suisse trong khi Vinashin vẫn không chịu cởi mở thông tin với giới chủ nợ châu Âu. Phản ứng trước khủng hoảng, Moody hạ điểm tín dụng chủ quyền của Việt Nam một điểm, từ B1 xuống Ba3, đánh dấu “rủi ro tín dụng cao” dưới điểm về đầu tư.
Theo một số biên tập viên ở vài tờ báo quốc doanh, được phỏng vấn năm 2011, thì các vụ sụp đổ tương tự Vinashin khác cũng đã xảy ra, nhưng mạng lưới mánh mung bí mật cho phép họ che giấu sổ sách chứng từ thua lỗ trong nhiều năm. Vào tháng 5-2012, một cuộc điều tra của chính phủ cho thấy tập đoàn đóng tàu quốc doanh Vinalines đã vỡ nợ đối với 4 khoản nợ, trị giá 1,1 tỷ USD, và nợ lũy tiến 2,1 tỷ USD, gấp hơn bốn lần tài sản của họ. Kể từ tháng 2, đã có 4 nhân viên điều hành bị bắt vì quản lý yếu kém nguồn lực nhà nước; trong khi đó thì chính quyền đang truy nã vị cựu chủ tịch của hãng này (đã bỏ trốn).
Giới đầu tư ngoại quốc, đối diện với chi phí lao động và nguyên vật liệu tăng cao, bắt đầu lo sợ rằng Việt Nam đang mất đi lợi thế giá thấp. Bốn nhà đầu tư nước ngoài than phiền trong các cuộc phỏng vấn diễn ra hai năm qua, rằng các doanh nghiệp quốc doanh đã lạm dụng địa vị “người gác cổng trong nghề” có mối liên hệ mật thiết tới chính phủ. “Họ là ung nhọt” – môt luật sư kinh doanh người Mỹ ở TP.HCM nói. “Chẳng ai muốn dây dưa với đám ấy”.
Trong khi giới chức Việt Nam đang cố gắng đảm bảo với các nhà đầu tư rằng thời điểm tồi tệ nhất đã qua, thì một báo cáo kiểm toán nhà nước phát hành hồi đầu tháng 7 tiết lộ rằng ít nhất 30 doanh nghiệp nhà nước lớn khác cũng đang mắc những gánh nợ rất đáng lo ngại. Vấn đề sâu xa hơn nữa là ở Việt Nam, không giống như ở Trung Quốc, giới tinh hoa trong Đảng Cộng sản không ảo tưởng gì về chuyện chia lợi lộc với tư nhân, đặc biệt là doanh nhân nước ngoài. Ở Trung Quốc, nhìn chung đảng giữ tính cạnh tranh của thị trường bằng cách bảo vệ doanh nghiệp tư nhân, cải thiện chất lượng điều hành của chính phủ, tư nhân hóa khoảng 90.000 doanh nghiệp trị giá hơn 1,4 nghìn tỷ USD từ năm 1998 đến năm 2005, và gần đây là tiến hành thanh trừng các tay mao ít mới như Bí thư Tỉnh ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai. Giới lãnh đạo Việt Nam thì vẫn chưa xác định được phải sửa chữa, điều chỉnh nền kinh tế của mình như thế nào mà không phải từ bỏ một số hình thức kiểm soát về chính trị nào đó – một bước mà họ không muốn tiến hành.
Thay vì làm sạch đống mạng nhện giữa các doanh nghiệp nhà nước với những chính trị gia bảo hộ cho chúng, thì các tay chơi quyền lực lại tổ chức nhiều chiến dịch chống lại tầng lớp doanh nhân mới giàu (nouveau riche) kiêm đại biểu quốc hội. Hồi cuối tháng 5, Quốc hội bỏ phiếu với tỷ lệ 96% thuận để bãi nhiệm bà Đặng Thị Hoàng Yến – một trong chỉ một số rất ít trùm kinh doanh có chân trong cơ quan lập pháp mà không phải đảng viên – vì tội khai man lý lịch.
Thật ra tội đúng của bà Yến là: liên tục kêu gọi đối xử bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân, vốn dĩ chiếm gần nửa nền kinh tế. “Dọn sạch cả căn nhà thì quá nhiều so với khả năng xử lý của hệ thống” – ông David Brown, một nhà cựu ngoại giao của Mỹ tại Hà Nội, nhận xét.
Tới tháng 6, việc chính phủ thắt chặt tín dụng góp phần hạ lạm phát từ 23% tháng 8 năm ngoái xuống còn 6,9%. Chủ sở hữu các nhà máy nhỏ như nhà máy của ông Nguyên, than thở rằng vấn đề bây giờ là làn sóng tín dụng dễ dãi đã làm tăng nguy cơ khủng hoảng ngân hàng. Sa hai vụ sụp đổ doanh nghiệp nhà nước rất nặng nề, chính phủ đã đi đến lúc thừa nhận rằng hệ thống tài chính có vấn đề gì đó sai căn bản. Giám đốc Ngân hàng trung ương của Việt Nam, ông Nguyễn Văn Bình, có nói hồi đầu tháng 6 rằng khoảng 10% nợ của các ngân hàng Việt Nam là nợ xấu. Thay vì cải cách nền kinh tế, chính phủ đang đề xuất nhiều thứ cũng tương tự như cũ: Một kế hoạch là thành lập cơ quan quản lý tài sản quốc gia, với 4,8 tỷ USD để thanh toán nợ. Nhưng điều đó có nghĩa là lập ra một cơ quan hành chính quan liêu mới, nằm kẹt trong mạng lưới bảo trợ giữa các thành viên cao cấp trong đảng, ngân hàng và doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư cũng đã than phiền về gánh nặng quá lớn do nạn quan liêu gây ra, và nhiều nhà đầu tư giờ đây bắt đầu nghĩ đến việc chuyển sang Indonesa, Bangladesh và Myanmar – Denny Cowger, một luật sư làm cho Duane Morris, công ty luật của Mỹ có văn phòng ở Hà Nội và TPHCM, nói. Trong Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, năm 2011 và 2012, Việt Nam tụt sáu bậc xuống vị trí 65, do luật lệ phiền toái, lạm phát, thâm hụt ngân sách, và cơ sở hạ tầng không tốt (báo cáo đánh giá cao Việt Nam do có thị trường lao động tương đối hiệu quả và có “tiềm năng đổi mới sáng tạo”).
Trong khi đó, khy vực nhà nước tiếp tục ngốn tới 40% GDP. “Vấn đề chính yếu là Việt Nam phải tiến hành một số cải cách kinh tế về căn bản trong nước, để duy trì được tính cạnh tranh” – ông Carl Thayer, giáo sư danh dự tại ĐH New South Wales, nói. “Có nhiều khả năng là giới lãnh đạo Việt Nam sẽ sử dụng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như lời biện hộ cho những thứ tương tự”.
Nguồn: Foreign Policy
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
Tác giả: Geoffrey Cain 0-Người dịch: Đan Thanh
11-7-2012
Thành phố Hồ Chí Minh – Tại cái nơi đã từng là một trong những thị trường đang nổi lên sôi động nhất châu Á, Nguyen Van Nguyen chỉ nhìn thấy phía trước là bầu trời ảm đạm. Kể từ năm 2008, công ty của ông ở thủ phủ kinh tế miền nam Việt Nam đã trải qua hai lần lạm phát rất đột ngột, đạt đỉnh vào tháng 8-2011 ở mức 23% – là mức lạm phát cao nhất châu Á vào thời điểm đó. Giờ đây, đề tự bảo hiểm trước rủi ro giá cả, ông chỉ nhận những đơn đặt hàng nhỏ từ nước ngoài cho nhà máy của mình – Bình Minh – nhà máy sản xuất mành trúc ở TP.HCM, từng một thời thịnh vượng. Ông bảo rằng khách hàng ở Australia, châu Âu, và Mỹ đều đã giảm bớt số đơn đặt hàng, sau khi nhu cầu toàn cầu suy thoái. Chi phí sản xuất trong ngành đã tăng xấp xỉ 30%, trong khi khách hàng chỉ còn sẵn sàng trả thêm chừng 10% nữa – theo ông Dang Quoc Hung, phó chủ tịch Hiệp hội Thủ công Mỹ nghệ và Đồ Gỗ ở TP.HCM. Ông Nguyen cũng thuê ít công nhân hơn cho mùa cao điểm là những tháng hè, và giảm lương của họ từ 200 USD xuống còn khoảng 120 USD/tháng. “Chúng tôi chỉ có thể làm chầm chậm thôi, mọi việc bây giờ khó khăn lắm” – ông than vãn như vậy hồi cuối tháng 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam muốn các nhà đầu tư nhìn nhận những trường hợp như của ông Nguyên chỉ đơn giản là tác động tức thời ở địa phương của suy thoái kinh tế toàn cầu, chứ không phải là một sự suy yếu đi của cả hệ thống. Trong hai thập niên kể từ khi Đảng thiết lập cải cách kinh tế vào năm 1986, tăng trưởng GDP hàng năm đạt mức trung bình ấn tượng 7,1%. Quả thật, bốn năm về trước, Việt Nam có vẻ như là câu chuyện thành công tiếp theo ở châu Á. Trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, các nhà lãnh đạo của đất nước này cam kết sẽ còn làm tốt hơn, đẩy nhanh tốc độ một tiến trình khổng lồ – tái cơ cấu và tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước làm ăn tốn kém của họ – tiến trình này được gọi tránh đi là “cổ phần hóa”. Quỹ Tiền tệ Quốc tế hồi năm 2007 dự đoán rằng, một trong các kết quả của việc gia nhập WTO là nhập khẩu rẻ hơn, có thể kìm giữ lạm phát, và cải cách cơ cấu có thể san bằng sân chơi giữa các đối thủ cạnh tranh nước ngoài và sở tại. Nhưng tại chuyến thăm của bà Hillary Clinton tới Hà Nội vào đầu tuần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bị buộc phải rơi vào thế phòng vệ, phải hứa hẹn các điều kiện ưu đãi cho giới đầu tư nước ngoài, khi ông cố gắng duy trì “phép màu Việt Nam”.
Trong thập niên vừa qua, tiền công lao động tăng lên ở Trung Quốc đưa đến kết quả là những ngày họ đóng vai trò “công xưởng của thế giới” không còn bao lâu. Một Việt Nam ổn định, với lực lượng lao động trẻ tuổi và rẻ tiền, cơ sở hạ tầng tiện lợi, dường như là sự lựa chọn hợp logic tiếp sau Trung Quốc. Đầu tư nước ngoài tràn vào trong suốt những năm giữa thập niên 2000, với vốn ròng tăng hơn ba lần, đạt 9,6 tỷ USD vào năm 2008 so với hai năm trước đó. Việt Nam là “con hổ châu Á tiếp theo đang thành hình”, Goldman Sachs bảo vậy. Ông Edmund Malesky, một nhà kinh tế chính trị ở ĐH California, San Diego và chuyên sâu nghiên cứu về Việt Nam, nói: “Các nhà đầu tư nước ngoài không quan tâm đến năng lực điều hành của chính phủ hay là chính sách. Họ chỉ bị thu hút bởi động lực là tiền công lao động rẻ”.
Nhưng rồi té ra phớt lờ chính trị lại là một sơ suất tốn kém. Rất ít doanh nhân dự đoán được tình hình Việt Nam năm 2012: một đất nước phải vật lộn với đồng nội tệ yếu, lạm phát, quan liêu, chủ nghĩa tư bản thân hữu dẫn đến lãng phí hàng tỷ USD, và là đất nước có một chính phủ ra các quyết định như xây cảng, xây đường ở những nơi rất kỳ cục mà hầu như không có giá trị kinh tế.
Mọi thứ bắt đầu đi xuống khi Việt Nam khởi động một chương trình mở rộng tín dụng nội địa, trị giá 100 tỷ USD, từ năm 2007 tới năm 2010. Do cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, chương trình càng được tăng tốc. Thay vì hướng đến các doanh nghiệp tư nhân, chính phủ lại chuyển các quỹ tới tay những doanh nghiệp nhà nước có mối quan hệ về chính trị. Các đơn vị đó sử dụng vốn này để bành trướng mạnh mẽ vào những lĩnh vực ngoài ngành nghề chuyên môn của họ, tạo ra nhu cầu ngày càng tăng về nguồn lực và dẫn đến lạm phát. Sẵn lắm tiền mặt, họ đã có thể loại bỏ những đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn nhưng lại hiệu quả hơn. Hãng đóng tàu quốc doanh khổng lồ Vinashin, nơi tuyển dụng khoảng 60.000 công nhân và cai quản 28 xưởng đóng tàu, chia thành gần 300 đơn vị, gồm cả cơ sở sản xuất xe máy, khách sạn. Trước đó họ đã nhận được thêm 1 tỷ USD từ các nhà đầu tư quốc tế, trong năm 2007. Giới chức lãnh đạo hy vọng nó sẽ là lực kéo tăng trưởng kinh tế, giống như các tập đoàn (công-lô-mê-rát) nửa công nửa tư nhân của Hàn Quốc.
Nhưng, vào năm 2010, Vinashin bị phát hiện là đã làm giả chứng từ tài chính, và tập đoàn gần như sụp đổ vì khoản nợ trị giá 4,4 tỷ USD, cả với chủ nợ trong nước lẫn quốc tế. Con số này tương đương gần 5% GDP. Cuối cùng Vinashin vỡ nợ một khoản 400 triệu USD của Credit Suisse. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – người hậu thuẫn cho Vinashin bởi đó là dự án ưa thích của ông, dự án trung tâm của nền kinh tế do nhà nước điều hành – buộc phải xin lỗi Quốc hội trong một phiên tự phê bình rất đau đớn. Các đối thủ của Dũng, khi tìm cách bảo vệ lợi ích riêng của công ty mình và chỗ đứng chính trị của mình, đã tìm ra con dê tế thần: Tháng 3, chính quyền kết án 8 nhân viên điều hành. Nhưng thay vì đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa nhiều hứa hẹn mà chậm chạp thê thảm, được khởi động suốt từ những năm 1990, thì chính quyền giấu nhẹm mọi sự thất bại của họ.
Chính phủ bắt đầukiểm soát thiệt hại, từ chối bảo trợ cho khoản 400 triệu USD vay từ Credit Suisse trong khi Vinashin vẫn không chịu cởi mở thông tin với giới chủ nợ châu Âu. Phản ứng trước khủng hoảng, Moody hạ điểm tín dụng chủ quyền của Việt Nam một điểm, từ B1 xuống Ba3, đánh dấu “rủi ro tín dụng cao” dưới điểm về đầu tư.
Theo một số biên tập viên ở vài tờ báo quốc doanh, được phỏng vấn năm 2011, thì các vụ sụp đổ tương tự Vinashin khác cũng đã xảy ra, nhưng mạng lưới mánh mung bí mật cho phép họ che giấu sổ sách chứng từ thua lỗ trong nhiều năm. Vào tháng 5-2012, một cuộc điều tra của chính phủ cho thấy tập đoàn đóng tàu quốc doanh Vinalines đã vỡ nợ đối với 4 khoản nợ, trị giá 1,1 tỷ USD, và nợ lũy tiến 2,1 tỷ USD, gấp hơn bốn lần tài sản của họ. Kể từ tháng 2, đã có 4 nhân viên điều hành bị bắt vì quản lý yếu kém nguồn lực nhà nước; trong khi đó thì chính quyền đang truy nã vị cựu chủ tịch của hãng này (đã bỏ trốn).
Giới đầu tư ngoại quốc, đối diện với chi phí lao động và nguyên vật liệu tăng cao, bắt đầu lo sợ rằng Việt Nam đang mất đi lợi thế giá thấp. Bốn nhà đầu tư nước ngoài than phiền trong các cuộc phỏng vấn diễn ra hai năm qua, rằng các doanh nghiệp quốc doanh đã lạm dụng địa vị “người gác cổng trong nghề” có mối liên hệ mật thiết tới chính phủ. “Họ là ung nhọt” – môt luật sư kinh doanh người Mỹ ở TP.HCM nói. “Chẳng ai muốn dây dưa với đám ấy”.
Trong khi giới chức Việt Nam đang cố gắng đảm bảo với các nhà đầu tư rằng thời điểm tồi tệ nhất đã qua, thì một báo cáo kiểm toán nhà nước phát hành hồi đầu tháng 7 tiết lộ rằng ít nhất 30 doanh nghiệp nhà nước lớn khác cũng đang mắc những gánh nợ rất đáng lo ngại. Vấn đề sâu xa hơn nữa là ở Việt Nam, không giống như ở Trung Quốc, giới tinh hoa trong Đảng Cộng sản không ảo tưởng gì về chuyện chia lợi lộc với tư nhân, đặc biệt là doanh nhân nước ngoài. Ở Trung Quốc, nhìn chung đảng giữ tính cạnh tranh của thị trường bằng cách bảo vệ doanh nghiệp tư nhân, cải thiện chất lượng điều hành của chính phủ, tư nhân hóa khoảng 90.000 doanh nghiệp trị giá hơn 1,4 nghìn tỷ USD từ năm 1998 đến năm 2005, và gần đây là tiến hành thanh trừng các tay mao ít mới như Bí thư Tỉnh ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai. Giới lãnh đạo Việt Nam thì vẫn chưa xác định được phải sửa chữa, điều chỉnh nền kinh tế của mình như thế nào mà không phải từ bỏ một số hình thức kiểm soát về chính trị nào đó – một bước mà họ không muốn tiến hành.
Thay vì làm sạch đống mạng nhện giữa các doanh nghiệp nhà nước với những chính trị gia bảo hộ cho chúng, thì các tay chơi quyền lực lại tổ chức nhiều chiến dịch chống lại tầng lớp doanh nhân mới giàu (nouveau riche) kiêm đại biểu quốc hội. Hồi cuối tháng 5, Quốc hội bỏ phiếu với tỷ lệ 96% thuận để bãi nhiệm bà Đặng Thị Hoàng Yến – một trong chỉ một số rất ít trùm kinh doanh có chân trong cơ quan lập pháp mà không phải đảng viên – vì tội khai man lý lịch.
Thật ra tội đúng của bà Yến là: liên tục kêu gọi đối xử bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân, vốn dĩ chiếm gần nửa nền kinh tế. “Dọn sạch cả căn nhà thì quá nhiều so với khả năng xử lý của hệ thống” – ông David Brown, một nhà cựu ngoại giao của Mỹ tại Hà Nội, nhận xét.
Tới tháng 6, việc chính phủ thắt chặt tín dụng góp phần hạ lạm phát từ 23% tháng 8 năm ngoái xuống còn 6,9%. Chủ sở hữu các nhà máy nhỏ như nhà máy của ông Nguyên, than thở rằng vấn đề bây giờ là làn sóng tín dụng dễ dãi đã làm tăng nguy cơ khủng hoảng ngân hàng. Sa hai vụ sụp đổ doanh nghiệp nhà nước rất nặng nề, chính phủ đã đi đến lúc thừa nhận rằng hệ thống tài chính có vấn đề gì đó sai căn bản. Giám đốc Ngân hàng trung ương của Việt Nam, ông Nguyễn Văn Bình, có nói hồi đầu tháng 6 rằng khoảng 10% nợ của các ngân hàng Việt Nam là nợ xấu. Thay vì cải cách nền kinh tế, chính phủ đang đề xuất nhiều thứ cũng tương tự như cũ: Một kế hoạch là thành lập cơ quan quản lý tài sản quốc gia, với 4,8 tỷ USD để thanh toán nợ. Nhưng điều đó có nghĩa là lập ra một cơ quan hành chính quan liêu mới, nằm kẹt trong mạng lưới bảo trợ giữa các thành viên cao cấp trong đảng, ngân hàng và doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư cũng đã than phiền về gánh nặng quá lớn do nạn quan liêu gây ra, và nhiều nhà đầu tư giờ đây bắt đầu nghĩ đến việc chuyển sang Indonesa, Bangladesh và Myanmar – Denny Cowger, một luật sư làm cho Duane Morris, công ty luật của Mỹ có văn phòng ở Hà Nội và TPHCM, nói. Trong Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, năm 2011 và 2012, Việt Nam tụt sáu bậc xuống vị trí 65, do luật lệ phiền toái, lạm phát, thâm hụt ngân sách, và cơ sở hạ tầng không tốt (báo cáo đánh giá cao Việt Nam do có thị trường lao động tương đối hiệu quả và có “tiềm năng đổi mới sáng tạo”).
Trong khi đó, khy vực nhà nước tiếp tục ngốn tới 40% GDP. “Vấn đề chính yếu là Việt Nam phải tiến hành một số cải cách kinh tế về căn bản trong nước, để duy trì được tính cạnh tranh” – ông Carl Thayer, giáo sư danh dự tại ĐH New South Wales, nói. “Có nhiều khả năng là giới lãnh đạo Việt Nam sẽ sử dụng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như lời biện hộ cho những thứ tương tự”.
Nguồn: Foreign Policy
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
- Nợ xấu ngân hàng VN ‘gần 10 tỷ USD’ — (BBC). - Nợ xấu ngân hàng, con số nào chính xác nhất? – (Bùi Văn Bồng). - Nợ xấu ngân hàng 202.000 tỉ đồng (Bee). - Phỏng vấn quyền Chánh thanh tra Cơ quan Thanh tra, giám sát NHNN: Nợ xấu 202.000 tỉ đồng! (TN). - Ngân hàng che dấu gần 100 ngàn tỷ đồng nợ xấu (RFA). - Nợ xấu 202.000 tỉ đồng! (TN). - Báo cáo 117.000 tỉ đồng, thanh tra ra gấp đôi (TT).
- Chuyên gia ngân hàng tư vấn gửi tiết kiệm hiệu quả (VTC).
- Tìm lối ra cho kinh tế Việt Nam – Kỳ 11: Chọn nông nghiệp là mũi nhọn (TN).
- Tổng quan chuyển động ngành tài chính ngân hàng ngày 12-7-2012(VF). -
- Dự báo sản lượng cà phê giảm (TN). – Doanh nghiệp Việt đầu tư trồng 100.000ha cà phê tại Angola (SGGP).
- Nhập siêu 6 tháng 158 triệu USD.
- PVN tìm lối thoát nạn đầu tư sai (PLTP).
- - Doanh nghiệp lại viết tâm thư gửi Bộ trưởng Tài chính (VNE).
--Thủ tướng phớt lờ cảnh báo Harvard? (BBC 11-7-12) -- Thủ tướng lẩm bẩm: Chung quanh tao toàn là tấn sĩ cả: Vũ Văn Ninh nè, Nguyễn Sinh Hùng nè, Nguyễn Thiện Nhân nè (đừng quên cậu Nhân cũng là một chuyên gia về kinh tế thế giới chớ giỡn sao?) đến hai thằng (cách thủ tướng gọi) Vương Đình Huệ, Đinh La Thăng cũng là tấn sĩ! Thằng Cao Minh Quang thì là tấn sĩ bên Thuỵ Điển (xém được Nô ben!) ... Trong gia đình tao cũng có tấn sĩ, thạc sĩ, bác sĩ.. Tao cần gì ý kiến của mấy thằng Mỹ này? Hỏi ý kiến tụi nó là hỏi chơi vậy thôi, tụi nó tưởng thiệt à? Sao tụi nó ngu vậy? [TẤT NHIÊN! Viet-studies đã đăng bài này rồi: Lựa chọn Thành công - Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam (Kennedy School of Government 1/2008) Bốn tháng sau thì có thêm báo cáo này nữa: Bài thảo luận chính sách số 2 – Vượt qua khủng hoảng và tiếp tục đẩy mạnh cải cách (Kennedy School 19-5-08)◄
Clinton thăm viếng Việt Nam: Vì sao bà Clinton gặp Tổng Bí thư VN? (BBC 11-7-12) -- Thủ tướng hơi lo, nhưng hú hồn: Bà ấy không xin gặp Trương Tấn Sang, Nguyễn Bá Thanh!
Clinton’s talk of democracy in Asia lacks precision (FT 11-7-12) -- David Pilling phê bình Hillary Clinton nói về dân chủ quá "chung chung"
Vũ Khoan: 4 việc lớn mong đợi nhà nước (TT 11-7-12)
Ông Thanh đang làm gì ở Đà Nẵng? Gửi tới HĐND TP Hà Nội: Nhìn Đà Nẵng ngẫm về Thủ đô (infonet 11-7-12)
-Nóng vội! (NVP)
Tại hội nghị sơ kết sáu tháng đầu năm và triển khai kế hoạch sáu tháng cuối năm của ngành ngân hàng vào cuối tuần trước, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình thúc giục các ngân hàng phải kéo lãi vay nợ cũ xuống dưới 15%/năm.
Trong bối cảnh dư luận xã hội đang bất bình ngành ngân hàng vẫn cứ lãi lớn bất kể khó khăn của doanh nghiệp, lời thúc giục này ắt sẽ được nhiều người ủng hộ. Các doanh nghiệp đang phải vay vốn với lãi suất cao, không tiếp cận được các khoản vay ưu tiên, sẽ càng tán thành quan điểm của Thống đốc.
Thế nhưng xét ở bình diện nguyên tắc thị trường, chỉ thị của Thống đốc NHNN có nhiều điểm đáng bàn.
NHNN tác động vào mặt bằng lãi suất trên thị trường thông qua các loại lãi suất điều hành như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Một loạt các loại lãi suất này vừa được NHNN điều chỉnh giảm từ đầu tháng 7 như lãi suất tái cấp vốn giảm từ 11% xuống còn 10%, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 9% xuống còn 8%. Chính sách thường cần một thời gian để phát huy tác dụng, chứ không thể nóng vội sử dụng ý chí ra lệnh hành chính. Thật ra, từ đầu năm đến nay NHNN đã năm lần điều chỉnh giảm các loại lãi suất điều hành; nếu thị trường không hồi đáp với chính sách điều chỉnh, chứng tỏ sự điều hành của NHNN chưa đủ liều lượng hoặc thị trường đang có những đặc điểm làm cho sự xoay chuyển của NHNN khó khăn hơn nhiều lần.
Đặc điểm thứ nhất là hệ thống ngân hàng hiện không có động lực để cạnh tranh lành mạnh trong khi lãi suất cho vay chỉ có thể giảm khi các ngân hàng cạnh tranh nhau để cho vay. Trong con mắt của công chúng, ngân hàng tốt cũng như ngân hàng yếu kém đều được sự bảo bọc, che chắn của NHNN trong khi cạnh tranh để cho vay trong bối cảnh hiện nay là điều đem lại nhiều rủi ro cho ngân hàng. Chỉ khi nào NHNN loại bỏ yếu tố che chắn cho mối nguy đạo đức (moral hazard) thì mới mong khơi dậy yếu tố cạnh tranh ở các ngân hàng.
Đặc điểm thứ hai là nền kinh tế trong mấy năm gần đây đã trở thành con tin của hệ thống ngân hàng khi doanh nghiệp quá phụ thuộc vào vốn vay – mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính lên quá cao – không thể một sớm một chiều mà hóa giải ngay được. Theo chuyên gia kinh tế Jonathan Pincus trong một bài viết trên tờ Financial Times, tín dụng ngân hàng trên GDP đã tăng gấp đôi từ 62% vào năm 20005 lên đến 136% năm 2010. Tín dụng tăng vọt sau hai đợt: đợt đầu do dòng vốn bên ngoài chảy vào trong các năm 2007 và 2008; đợt sau do dòng vốn kích cầu chống suy thoái năm 2009 và đầu năm 2010. Bùng nổ tín dụng như thế đương nhiên dẫn tới nợ xấu. Ngân hàng hiện phải lo giải quyết nợ xấu cũng đã ngập đầu – làm sao trông mong họ giảm lãi suất để tăng cho vay? Ngược lại ở phía doanh nghiệp, làm sao để giảm bớt tỷ lệ vay nợ so với tỷ lệ vốn chủ sở hữu là xu hướng nên không thể trông mong họ hăm hở đi vay như những năm tín dụng dễ dãi trước đây.
Mới chỉ cách đây mấy tháng, báo chí liên tục đưa tin tăng lãi suất để chống lạm phát. Nay không thể đột ngột quay ngoắt 180 độ, thúc giục giảm lãi suất nếu không muốn lạm phát bùng nổ trở lại. Lãi suất tăng đã làm bộc lộ những yếu kém của cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng. Một bên là đầu tư kém hiệu quả, bung ra tràn lan, nhất là sang lãnh vực địa ốc; một bên là khả năng quản lý rủi ro còn kém, lại ham chạy theo lợi nhuận, bất kể rủi ro. Những khó khăn vừa qua là bộ lọc, sàng lọc doanh nghiệp mạnh, làm ăn đàng hoàng, bền vững. Sao không hỗ trợ xu hướng đó mà lại vội vã thúc đẩy lòng tham của ngày trước bùng phát trở lại?
Atisô Đà Lạt trước nguy cơ xóa sổ (TT 11-7-12) -- Tại sao có thể xảy ra việc này?
Thị trường bán lẻ Việt Nam: Tụt dốc hay đã được đặt lên quá cao? (TT 11-7-12)
Thị trường bán lẻ Việt Nam: Tụt dốc hay đã được đặt lên quá cao? (TT 11-7-12)
- Điều gì đang diễn ra với nền kinh tế VN? (BBC). - Nguy cơ giảm phát trong những tháng cuối năm (VOV). - Chuyên gia cảnh báo: Dân không còn sức mua (DT). - DN lỗ, ban điều hành phải chịu trách nhiệm (PLTP).
- “Ông lớn” khởi động giảm lãi suất các khoản vay cũ (VnEconomy). - ‘Ông lớn’ ngân hàng sẵn sàng ‘xả’ tiền lãi 11% (VTC). - ‘Cần chế tài buộc ngân hàng hạ lãi suất’ (VNE). – Giảm lãi suất nợ cũ: tiếp sức cho doanh nghiệp “khỏe” (Tầm nhìn). – Phía sau loạt “ra quân” giảm lãi suất về tối đa 15% (VnEco). - Ngân hàng đồng loạt giảm lãi suất cho vay (VTV).
- Nghịch lý lạm phát thấp (VNE).
- Thương lái Trung Quốc nợ 33 tỉ đồng tiền mua cá cơm (TN).
- Hỗ trợ 100% lãi vay cho các dự án y tế, giáo dục và xã hội (SGGP).
- Đất vàng bỏ hoang, DN ‘chết’ vì… đói vốn (VNN). – Vốn trong dân vẫn ở trạng thái “phòng thủ” (Tầm nhìn).
- 6 tháng, quỹ ngoại rút gần 27 triệu USD khỏi thị trường cổ phiếu(NDHMoney). - Chứng khoán: Lại rơi về đáy cũ? (VEF).
- Chia nhỏ EVN để giá điện cạnh tranh (TT). - EVN trần tình về vị trí độc quyền trong thị trường điện (VEF).
- Sẽ kiểm tra giá cước của doanh nghiệp vận tải (TT). - Phí phải đợi sự đồng thuận (TN).
- Đề xuất hỗ trợ 20 triệu đồng cho mỗi hecta tôm nuôi (PLTP).
- Việt Nam chiếm hơn 80% kim ngạch cá da trơn nhập khẩu vào Mỹ(Gafin).
- Xử lý 1.000 bao bột đất mang nhãn hiệu phân bón (PLTP).
- Làm rõ vụ Vietnamobile tố VNPT (NLĐ).
- 21 tập đoàn Mỹ tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam (DT).
- Hoa Kỳ: Đã đạt được “tiến bộ quan trọng” tại cuộc đàm phán TPP (VOA).
- Quốc hội Nga thông qua hiệp ước gia nhập WTO (VOA).
- Ngân hàng cấu kết kiếm lợi: Lòng tham xé nát niềm tin (Economist/VEF).
- Thuốc lá giả Trung Quốc tràn ngập thị trường Châu Âu (RFI).
- KINH TẾ TRUNG QUỐC BẮT ĐẦU HỤT HƠI: Năm dấu hiệu báo động (NLĐ). – “Cuộc chơi” hạ lãi suất ở Trung Quốc để kích thích tăng trưởng kinh tế (Reuters/Tầm nhìn).
- “Ông lớn” khởi động giảm lãi suất các khoản vay cũ (VnEconomy). - ‘Ông lớn’ ngân hàng sẵn sàng ‘xả’ tiền lãi 11% (VTC). - ‘Cần chế tài buộc ngân hàng hạ lãi suất’ (VNE). – Giảm lãi suất nợ cũ: tiếp sức cho doanh nghiệp “khỏe” (Tầm nhìn). – Phía sau loạt “ra quân” giảm lãi suất về tối đa 15% (VnEco). - Ngân hàng đồng loạt giảm lãi suất cho vay (VTV).
- Nghịch lý lạm phát thấp (VNE).
- Thương lái Trung Quốc nợ 33 tỉ đồng tiền mua cá cơm (TN).
- Hỗ trợ 100% lãi vay cho các dự án y tế, giáo dục và xã hội (SGGP).
- Đất vàng bỏ hoang, DN ‘chết’ vì… đói vốn (VNN). – Vốn trong dân vẫn ở trạng thái “phòng thủ” (Tầm nhìn).
- 6 tháng, quỹ ngoại rút gần 27 triệu USD khỏi thị trường cổ phiếu(NDHMoney). - Chứng khoán: Lại rơi về đáy cũ? (VEF).
- Chia nhỏ EVN để giá điện cạnh tranh (TT). - EVN trần tình về vị trí độc quyền trong thị trường điện (VEF).
- Sẽ kiểm tra giá cước của doanh nghiệp vận tải (TT). - Phí phải đợi sự đồng thuận (TN).
- Đề xuất hỗ trợ 20 triệu đồng cho mỗi hecta tôm nuôi (PLTP).
- Việt Nam chiếm hơn 80% kim ngạch cá da trơn nhập khẩu vào Mỹ(Gafin).
- Xử lý 1.000 bao bột đất mang nhãn hiệu phân bón (PLTP).
- Làm rõ vụ Vietnamobile tố VNPT (NLĐ).
- 21 tập đoàn Mỹ tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam (DT).
- Hoa Kỳ: Đã đạt được “tiến bộ quan trọng” tại cuộc đàm phán TPP (VOA).
- Quốc hội Nga thông qua hiệp ước gia nhập WTO (VOA).
- Ngân hàng cấu kết kiếm lợi: Lòng tham xé nát niềm tin (Economist/VEF).
- Thuốc lá giả Trung Quốc tràn ngập thị trường Châu Âu (RFI).
- KINH TẾ TRUNG QUỐC BẮT ĐẦU HỤT HƠI: Năm dấu hiệu báo động (NLĐ). – “Cuộc chơi” hạ lãi suất ở Trung Quốc để kích thích tăng trưởng kinh tế (Reuters/Tầm nhìn).
Bọn "thái tử đảng" làm giàu: The family fortunes of Beijing’s new few (FT 10-7-12)
Hồn ma Bạc Hi Lai: Bo's ghost to haunt CCP congress (Asia Times 11-7-12)
Trung Quốc: Uông Dương ngược dòng triều đại? (DNSG 10-7-12)
Đừng tin thống kê kinh tế của Trung Quốc! Why China's economic opacity is a serious problem (FP 10-7-12)
Hồn ma Bạc Hi Lai: Bo's ghost to haunt CCP congress (Asia Times 11-7-12)
Trung Quốc: Uông Dương ngược dòng triều đại? (DNSG 10-7-12)
Đừng tin thống kê kinh tế của Trung Quốc! Why China's economic opacity is a serious problem (FP 10-7-12)