Quý bạn đọc có thể tải toàn bộ tài liệu "Bi mật Ngũ Giác Đài" tại đường lên kết
(4) Chính Phủ ngày 3 tháng 11 năm 1946
Quốc hội bầu vào tháng Giêng năm 1946 trong cuộc bầu cử mà sự trung thực là đáng nghi ngờ - được triệu tập tại Hà Nội vào cuối tháng Mười. Trong số các thành viên ban đầu, 291 đại biểu tự giới thiệu mình. Thành phần khai mạc gồm như sau:
Các đảng phái chính trị trong Quốc hội VNDCCH 53/ ngày 28 Tháng 10, 1946 | |
độc lập [không đảng phái] Dân chủ Xã Hội Mác Xít Liên Việt Đồng Minh Hội VNQDĐ Tổng cộng | 90
45
2415 80 17 20
291
|
VNQDD và Đồng Minh Hội, được phân bổ tương ứng 50 và 20 số ghế, do đó ít hơn 50% tổng số các đại biểu, và nhóm Mác Xít, là nhóm nhỏ nhất trong Quốc Hội, theo tất cả các bằng chứng còn hiện hửu, là nhóm có những hoạt động tích cực và có ảnh hưởng nhất. Trong hai tuần họp của Quốc Hội, một số thành viên đối lập đã bị bắt giữ và bị buộc tội hình sự. Khi phiên họp Quốc Hội bế mạc, chỉ còn 20 ghế cho Đồng Minh Hội và VNQDD, và trong số này, chỉ có 2 phiếu đăng ký không tán thành.
Hiến Pháp mới, được phê chuẩn ngày 8 tháng 11 năm 1946 bởi Quốc Hội với 240-2 đại biểu tán thành, được ban hành với những cụm từ gợi nhớ những lời của Jefferson và Rousseau về một nhà nước bảo đảm những quyền tự do dân sự, khoanh định nhiệm vụ và quyền hạn của công dân, và quyền lực tối cao thuộc về Quốc Hội. Sau đó, Quốc Hội được hoãn cho đến cuối năm 1953, và không bao giờ có những chuyển động gì để chuyển đổi nó dưới hình thức pháp quy. 54 / Hiến pháp năm 1946 đã tuyên cáo Việt Nam là một nước Dân Chủ Cộng Hòa mà trong đó tất cả quyền lực thuộc về nhân dân "mà không phân biệt giai cấp, chủng tộc, tín ngưỡng, sức khỏe, hoặc xu hướng tình dục." Lãnh thổ của chúng ta bao gồm Bắc Kỳ tức miền Bắc Việt Nam (Tonkin), Trung- Bộ tức miền Trung Việt Nam (An Nam), và Nam- Bộ tức miền Nam Việt Nam (Nam Kỳ) là một và không thể chia cắt... thủ đô của Việt Nam là Hà Nội. " 55 / Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1946 không bao giờ đã được thể chế hóa, thay vào đó, do đòi hỏi cấp bách của cuộc chiến tranh với Pháp đã biến chính phủ thành một sự nối dài hành chánh của một bộ máy chính trị-quân sự với kỷ luật cực kỳ cứng nhắc đứng đầu là Hồ Chí Minh, và một bộ sậu gồm các cán bộ đồng chí cũ của mình từ Đảng Cộng Sản Đông Dương. 56 /
Chính phủ đã được Quốc hội phê duyệt ngày 03 Tháng Mười Một 1946, tuy nhiên, vẫn bảo tồn được một bề mặt của một liên minh, mặc dù các vị trí chủ chốt trong nội các đã được lấp đầy bởi những người cộng sản, là một chính phủ gồm đủ thành phần: độc lập, dân chủ, xã hội và ngay cả một danh xưng VNQDĐ. Hình 5 trình bày các Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1949. Hồ Chí Minh trong suốt thời gian đó đã bảo toàn được liên minh, ít nhất chỉ là hình thức. Chính phủ VNDCCH năm 1949 vẫn còn bao gồm một số ít thành viên cộng sản và bao gồm một VNQDD và một Đồng Minh Hội. (Trong Biểu đồ tên Liên Việt bị bỏ qua, và thay thế bằng tên “Việt Minh” quen thuộc hơn; Việt Nam Quốc Dân Đảng là VNQDD.)
Cả Hiến Pháp và chính phủ nước VNDCCH, năm 1946, đã nhanh chóng bị chìm lắng khi Việt Minh chuyển hướng dần đến chiến tranh với Pháp. Một loạt các đụng độ vũ trang trong tháng mười, tiếp theo bằng một cuộc chiến quy mô lớn tại Hà Nội vào cuối tháng Mười Hai, phá hủy những gì còn lại của tình trạng giữ nguyên nguyên trạng giữa Pháp-Việt. Chính phủ VNDCCH đã rút lui lên vùng rừng núi và duy trì một nhà nước vô hình. Việt Minh, chính là Mặt Trận Liên Việt – tự mình biến thành một tổ chức kháng chiến nữa bí mật, và quyết tâm đánh bại quân Pháp. Trong năm đầu của cuộc chiến tranh năm 1947, VNDCCH đã đi những bước để nâng cao tính chất liên minh của mình, và mở rộng lời kêu gọi của Việt Minh. Cộng sản, bao gồm cả Võ Nguyên Giáp, đã được loại bỏ khỏi nội các, và những người Công giáo và và những người không đảng phái lỗi lạc được thêm vào. Sau đó, chính phủ chuyển mình đều đặn ở vềcánh tả. Một năm sau đó, Phạm Văn Đồng, cộng sản cao cấp nhất, đã trở thành Phó Chủ Tịch. Hơn nữa, ban đầu kháng chiến chống Pháp là do nhiều phe nhóm chính trị khác nhau, cuối cùng Việt Minh, do có tổ chức và lãnh đạo cao, đã chiếm lại độc quyền của họ trên phe quốc gia kháng chiến.
Trong một cuộc khảo sát về các phong trào chính trị chính ở Việt Nam trong giai đoạn 1947-1950. Hai nhóm chính đã tồn tại: nhóm Việt Minh mà cộng sản là trung tâm và các tổ chức phụ thuộc trong kháng chiến chống Pháp, và nhóm quốc gia chung sức trong việc phục hồi Bảo Đại.
Những Phong Trào Chính Trị ở Việt Nam, 1947-1950 | |
Đảng hay Nhóm | Mô tả |
Kháng Chiến | |
Việt Minh (hay Liên Việt) (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) | Là bộ máy chính trị duy nhất có tầm hoạt động rộng khắp Việt Nam và khắp [các tầng lớp] xã hội ở Việt Nam. Có danh tiếng qua Thế Chiến II, nhưng đã đưa ra học thuyết mới cho hoạt động chính trị và quân sự. Lãnh đạo hiệu quả, và dựa nhiều vào uy tín của Hồ là người chủ nghĩa quốc gia ưu tú. Chính thức sáp nhập với Liên Việt vào tháng Ba năm 1949. |
Đảng Cộng Sản Việt Nam |
Tuy bề ngoài là đã bịgiải thể, nhưng rõ ràng vẫn là chức năng cốt lõi của Việt Minh. CIA ước tính số đảng viên đã tăng trong những năm qua như sau:
1931: 1500 1946: 50.000 1950: 400.000 Đảng tuyệt đối tuân theo đường lối “mặt trận dân tộc”, vẫn duy trì trong bí mật, và làm việc thông qua Việt Minh. |
Đảng Dân Chủ | Một nhóm nhỏ trong Việt Minh thuộc tầng lớp trung lưu chủ yếu là người gốc Bắc, trung thành với Hồ Chí Minh, và là những người ủng hộ vững chắc chính phủ VNDCCH. |
Đảng Xã Hội | ở Hà Nội, phỏng theo các đảng dân chủ xã hội Âu Châu, chỉ thu hẹp trong một ít người thành lập 1946 trong Việt Minh, và ủng hộ nhất quán của chính phủ VNDCCH. |
Việt Nam Quốc Dân Đảng | Một nhóm nhỏ không đáng kể của VNQDD, hoạt động trong Việt Minh |
Đồng Minh Hội | Một nhóm ly khai nhỏ chẳng có chút sức mạnh chính trị |
Phong Trào Trốt Kít | Tập trung ở Sài Gòn, là một nhóm cộng sản thuộc phe cánh tả chống đối như nhau cả Pháp lẫn Việt Minh.Ý nghĩa chủ yếu [của nhóm này] là tiếp tục làm suy giảm hiệu quả của cộng sản ở Nam Kỳ |
Phong Trào Tái Lập Bảo Đại | |
Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia Liên Hiệp | Được thành lập ở Nam Kinh vào tháng Hai 1947, VNQDD và các nhà lãnh đạo Đồng Minh Hội, đã đạt được sự ủng hộ của Trần Trọng Kim (Thủ Tướng trong chính phủ Bảo Đại từ tháng Ba đến tháng Tám năm 1945), Nguyễn Hải Thần (từng là Phó Chủ tịch cho Hồ trong Đồng Minh Hội), và Nguyễn Tường Tam (VNQDD, có lần đã là Bộ trưởng Ngoại giao của VNDCCH). VNQDD, Đồng Minh Hội, Cao Đài, và các Phật tử khẳng định đoàn kết sau lưng Bảo Đại, nhưng tan đàn xẻ nghé với sự rút lui ủng hộ của giáo phái, và dưới tác động do các hành động chính trị của Pháp. |
Đồng Minh Hội | Tái thành lập ở Trung Quốc vào năm 1946, nhưng không bao giờ một lần nữa đạt ảnh hưởng ởi Việt Nam; có lẽ số thành viên là 5.000 hoặc ít hơn. Khi chiến tranh nổ ra, ĐMH đã tìm cách hòa giải với Việt Minh, nhưng đã bị từ chối. Đong đưa với Bảo Đại, mặc dù chủ trương một đường lối cứng rắn với Pháp |
Việt Nam Quốc Dân Đảng | Thừa hưởng những uy tín truyền thống từ những năm 1930, nhưng liên quan chặt chẽ với vận may suy yếu của Tưởng Giới Thạch. Có lẽ con số là 5.000 hoặc ít hơn, và ảnh hưởng ở Việt Nam chủ yếu chỉ đến Hà Nội, và phía bắc miền Bắc, trong vùng trung tâm của Việt Minh. Hỗ trợ cho Bảo Đại của họ là nặng tính dự kiến và đòi hỏi nhiều điều kiện. |
Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng | Một nhóm ly khai của Việt Minh ở Nam Kỳ từ cuộc tranh cãi với các nhà lãnh đạo Việt Minh. Bao gồm Cao Đài, Hòa Hảo, và các nhà lãnh đạo Bình Xuyên, và [nhóm này] tham gia trong Liên minh Mặt trận Quốc Gia. Đảng này bị gãy đổ trong vào mười một năm 1947, trong một tranh chấp với Hòa Hảo, và sau đó không còn tồn tại nữa |
Phong Trào Bình Dân | Một nhóm gốc Bắc ở Hà Nội chống VNDCCH nhưng không hậu thuẩn rộng rãi, và đến 1949 dường như đã bị tan rả. |
Đoàn Thanh Niên Quốc Gia Việt Nam | Một phong trào nhỏ gốc Bắc không đáng kể |
Đoàn Thể Cao Đài | Đứng đầu là Phạm Công Tắc, Giáo Chủ của Cao Đài (năm 1946 Pháp đưa ông đang sống lưu vong ở Madagascar về nước). Liên đoàn tuyên bố co 1.000.000 đến 2.000.000 thành viên ở Nam Kỳ và duy trì một lực lượng vũ trang (với một số trợ giúp của Pháp). Đụng độ giữa quân đội Cao Đài và Việt Minh đã thường xuyên xảy ra trong các khu vực chi phối bởi Cao Đài. Cao Đài bị chia về vấn đề hỗ trợ của Pháp, khi tinh thần bài ngoại đã là phổ biến trong giáo phái. Vào tháng Giêng năm 1948, Cao Đài đã ký một hiệp ước hòa bình với Hòa Hảo, và cam kết hỗ trợ cho Bảo Đại. Phạm Công Tắc công khai liên kết chính với chính phủ Bảo Đại vào tháng Bảy năm 1949. Tuy nhiên, với các giáo phái, tôn giáo chứ không phải là do chính trị định hướng, và nuôi dưỡng đủa thứ quan điểm chính trị.[khác nhau]. Sự dấn thân là cho Đạo Cao Đài... |
Phật Giáo Hòa Hảo | Là một giáo phái vũ trang có khoảng từ 200.000 đến 1.000.000 thành viên. Trong Thế Chiến thứ II, các giáo phái, với sự hỗ trợ của Nhật, rao giảng một tín ngưỡng chống người nước ngoài, và năm 1945 tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Anh. Năm 1947, Huỳnh Phú Sổ, lãnh đạo của giáo phái, đã bị ám sát bởi Việt Minh, đã dẫn đến việc Hòa Hảo từ bỏ kháng chiến, và giáo phái quay ra hỗ trợ việc phục hồi Bảo Đại. Vẫn căng thẳng trong quan hệ với Pháp, và với các phe phái đối thủ Việt khác |
Tịnh Độ Cư Sĩ | Một phong trào tập trung chủ yếu vào cộng đồng người Hoa sống ở nước ngoài [tức ở Việt Nam], và ủng hộ Việt Minh một cách thụ động. |
Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam | Tổ chức xung quanh các giáo xứ Công giáo, Liên đoàn ảnh hưởng ở mức độ khác nhau trên một số khoảng 2.000.000 người Công giáo, chủ yếu ở Trung Bộ. Liên đoàn ủng hộ VNDCCH trong những năm 1945 và 1946, và thông qua cuộc đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Ngô Đình Diệm đã đưa Liên Đoàn vào Mặt trận Liên minh quốc gia [Liên Việt], nhưng Liên Đoàn đã chia tay với Mặt trận vì mong muốn của đa số là trở lại cuộc kháng chiến, và sự ghê tởm của số người còn lại bao gồm cả Diệm, là Bảo Đại không có khả năng phá vỡ vòng kiểm soát của Pháp trên toàn Việt Nam. |
Liên Khu Bình Xuyên | Một bộ máy xã hội đen ở Saigon, ban đầu đã chiến đấu như nđồng minh của Việt Minh, nhưng - như Hòa Hảo - đã bất mãn vi Việt Minh đã bắn một số lãnh đạo của họ. Dành một sự hỗ nhạt nhẽo cho Bảo Đại, và vẫn cảnh giác về người Pháp. |
Liên Hiệp Quốc Gia Việt Nam | Sự xuất hiện nhanh chóng của Mặt trận Liên minh Quốc gia thành lập vào Tháng Mười Hai, 1947, tại Hà Nội, họ cố gắng tập hợp sự ủng hộ của các bên khác nhau cho Bảo Đại tại Nam Kỳ, Trung Kỳ, và Bắc Kỳ. Nhưng thành công mà họ vui thích chỉ là một vấn đề hình thức hơn là chất lượng, và ảnh hưởng của họ khá hạn chế. |
Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội | Nhóm quốc gia theo hướng Nhật, Phục Quốc dưới Hoàng Thân Cường Để đầu tiên cố gắng đưa ra một giải pháp thay thế cho Việt Minh và Bảo Đại. Tháng Sáu năm 1947, và tháng Năm 1948, Hoàng Thân Cường Để khẩn cấp yêu cầu Tổng thống Hoa Kỳ viện trợ để chống Pháp, và kêu gọi hòa giải giữa Hồ Chí Minh và Bảo Đại. Phục Quốc chủ yếu sống lưu vong [ở Nhật], và không thể gây bất kỳ ảnh hưởng nào đáng kể trên các biến cố [chính trị] ở Việt Nam. |
Những Phong Trào do Pháp bảo Trợ | Với sự khuyến khích của Pháp, một số của các đảng phái Việt Nam được thành lập để cung cấp nhân sự cho một số chính phủ được thành lập bởi người Pháp. Họ bao gồm Đảng Dân chủ Đông Dương, Đảng Dân chủ Nam Kỳ, Mặt trận Bình Dân Đông Dương, và Phong trào Bình Dân Nam Kỳ. Nói chung, những đảng phái này ủng hộ chính sách của Pháp là duy trì Nam Kỳ riêng rẽ với Trung và Bắc Kỳ và giữ các mối quan hệ chặt chẽ với Pháp. Cuối cùng, những hỗ trợ tối ít ỏi đó mà họ đã tạo dựng chỉ để được ném đằng sau "giải pháp Bảo Đại". |
- Tiếp theo >>
Như gì đã nói ở trên cho thấy sự nghèo nàn của các phong trào Việt Nam quốc gia trong giai đoạn 1946-1950, chỉ có Việt Minh có thể được coi là một phong trào "quốc gia" tại thời điểm bắt đầu của cuộc chiến tranh với Pháp, và tiếng tăm của nó đã được xây dựng trong suốt những năm đấu tranh. Việt Minh nhấn mạnh tính ưu việt của hành động chính trị trong nhân dân và chuẩn bị cẩn thận các cơ sở như là điều kiện tiên quyết cho hành động quân sự. Sự chú ý cẩn thận của ho gồm những nỗ lực phi thường để khắc sâu những thái độ và thói quen vào bộ đội để giành được sự tôn trọng, và cuối cùng sự hợp tác của dân chúng. Trích dẫn từ lý thuyết của Việt Minh ngày 1948:
“Mười hai điều lệnh
“Đất Nước có gốc rễ từ Nhân Dân
“Trong cuộc đấu tranh kháng chiến và tái thiết quốc gia, lực lượng chính nằm trong nhân dân.Vì vậy, tất cả những người trong bộ đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng tiếp xúc hoặc sống với nhân dân phải nhớ và thực hiện các điều lệnh sau đây:
"Sáu điều cấm:
Không làm những gì có thể làm tổn hại đến đất đai và cây trồng hoặc làm hư hỏng nhà cửa và đồ dùng của người dân
Không được cố mua bán, mượn những gì mà mọi người không muốn bán hoặc cho mượn.
Không mang gà sống vào nhà người dân miền núi.
Không bao giờ thất lời hứa.
Không làm những hành vi phạm đến đức tin và phong tục tập quán của người dân (ví dụ như nằm xuống trước bàn thờ, để nâng cao chân trên lò sưởi, chơi nhạc trong nhà, vv.)
Không được làm hoặc nói những gì có thể làm cho mọi người tin rằng chúng ta đang giữ khinh miệt họ.
"Sáu điều cho phép:
Giúp dân trong công việc hàng ngày của họ (thu hoạch, lấy củi, chở nước, may vá, vv.)
Bất cứ khi nào có thể mua dùm hàng hóa (dao, muối, kim, sợi, bút, giấy, vv.) cho những người sống xa các chợ
Trong thời gian rảnh rỗi, để nói cho vui, những câu chuyện đơn giản, ngắn và hữu ích cho kháng chiến, nhưng không phản bội bí mật.
Dạy cho dân về chữ viết quốc gia và vệ sinh thường thức.
Nghiên cứu phong tục tập quán của từng khu vực để làm quen với họ để tạo ra một bầu không khí cảm thông đầu tiên, sau đó dần dần giải thích cho người dân giảm đi mê tín dị đoan của họ.
chứng minh cho dân thấy bạn là người đứng đắn, cần mẫn, và kỷ luật ".
"bài thơ kích thích
Mười hai điều lệnh nói trên
Có tính khả thi cho tất cả
Ai yêu nước mình,
Sẽ không bao giờ quên chúng.
Khi người dân có thói quen,
Tất cả mọi người đều như một
Với bộ đội tốt và dân tốt,
Tất cả mọi thứ sẽ được bao trùm với thành công.
Chỉ khi nào gốc bền vững, cây thời có thể sống lâu,
Và chiến thắng được xây dựng với những người từ cơ sở.
05 tháng 4 năm 1948 " 57/
Đánh giá về phe quốc gia Việt Nam mà Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào năm 1949, vào những ngày trước khi Mỹ tham gia vào chiến tranh Đông Dương, nhìn chung là sâu sắc. Một bài báo được gửi vào tháng Hai, năm 1949, George M. Abbott, một trong vài nhà ngoại giao Mỹ đã nói chuyện với Hồ mặt đối mặt, tóm tắt các vấn đề qua các điều sau đây:
“C. Quan Hệ Quốc Tế
1. Hoa Kỳ - Mối quan hệ sau chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Đông Dương có một khởi đầu tồi tệ với Tổng thống Roosevelt với quan điểm về ủy trị quốc tế cho các cường quốc nhưng không khả năng bảo vệ họ, tiếp theo là nhiệt tình quá mức của một số nhân viên O.S.S trong thời gian trước và sau khi Nhật đầu hàng. Niềm tin rằng chính sách của Hoa Kỳ là sẽ loại người Pháp ra khỏi Đông Dương vẫn còn tồn tại trong nhiều giới ở Đông Dương và ở Pháp. Chúng ta cũng đổ lỗi là đã cho phép Trung Quốc và Anh chiếm đóng nửa phía Bắc và phía Nam của đất nước để giải giới quân đội Nhật. Từ chối liên tục của chúng ta về việc cung cấp thiết bị và vũ khí cho quân đội Pháp hoạt động ở Đông Dương là một chủ đề đau đớn với hầu hết các sĩ quan quân đội Pháp. Một nguồn kích động khác là các xu hướng gần như phổ biến của các phóng viên người Mỹ đến thăm Đông Dương và viết những bài báo cực kỳ chỉ trích của người Pháp...
“Nếu trong những tuần gần đây người Pháp đã tích cực hỗ trợ đề xuất cho bốn cường quốc hợp tác trong khu vực Đông Nam Á để ngăn chặn sự lây lan của chủ nghĩa cộng sản, và đã nhiều thảo luận về tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương như là một pháo đài chống lại sự lây lan về phía nam của Cộng sản Trung Quốc
"Theo sự quan tâm của người Việt cho tới nay, họ đã được khuyến khích để tin rằng sau khi Nhật bại trận, chúng ta sẽ hỗ trợ cho họ có được độc lập. Rõ ràng rằng sự đồng cảm của chúng ta đã bị giảm đi vì những quan tâm chiến lược của chúng ta ở Âu Châu, sự yêu mến Hoa Kỳ đã giảm bớt. Tuy nhiên, uy tín của Hoa Kỳ vẫn còn cao, và ngay cả Hồ Chí Minh đã cẩn thận ngăn chặn bất kỳ tuyên truyền chống Mỹ công khai nào
“Không ai biết có bao nhiêu người cộng sản ở Đông Dương, nhưng số lượng đảng viên thực sự chắc chắn là nhỏ. Ước tính cao nhất là 20% của quân đội chiến đấu của Hồ Chí Minh và điều này bao gồm cảm tình viên.Tuy nhiên, số lượng chắc chắn là đang phát triển, và cùng lúc, những đơn vị quân đội không cộng sản đã liên tục bị thâm nhập bởi các thành viên [cộng sản] bí mật. Các đơn vị dưới quyền chỉ huy cộng sản nói chung là được trang bị tốt hơn. Do đó, đối với các nhà lãnh đạo có dự tính thay đổi phe nhóm không phải là một vấn đề dễ dàng.
"Một điểm khác là những thông tin cụ thể liên quan đến các đường dây liên lạc giữa Moscow và các trung tâm kiểm soát khu vực... Chắc chắn đường dây liên lạc thỏa đáng đó tồn tại kể từ khi những ấn phẩm của Moscow trong những lúc gần đây thường xuyên bị người Pháp bắt giữ...
“Một điều đặc biệt về cộng sản Việt Nam là họ có rất ít tuyên truyền chống Mỹ. Rõ ràng đây không phải là do sự thiếu hiểu biết về đường lối của đảng hiện nay. Dường như nó tiêu biểu cho một niềm hy vọng, một phần của Hồ Chí Minh là ông vẫn có thể được Mỹ hỗ trợ hay ít nhất là sự chấp nhận chính phủ Việt Minh đang dưới sự lãnh đạo của mình. Bằng chứng cho thấy niềm hy vọng này đã giảm bớt trong một chỉ thị địa phương của đảng ngày trong tháng 11 năm 1948, nói rằng hoạt động tuyên truyền chống Mỹ nên được tiến hành trong nội bộ đảng và bằng lối rĩ tai trong nhân dân nhưng chưa [tới lúc] đưa ra trên đài phát thanh, báo chí hay trong các bài phát biểu công cộng...
“Đối đầu với các lực lượng Pháp là khoảng 75.000 binh sĩ Việt Nam đủ mầu sắc chính trị khác nhau, phần lớn là dưới sự lãnh đạo của cộng sản. Có khá nhiều bằng chứng do Pháp cung cấp về các ủy viên chính trị cộng sản và đã được mở rộng đến cấp đại đội. Chắc chắn rằng yếu tố kỷ luật của cán bộ công sản là yếu tố lớn nhất trong việc duy trì sức sống và sự đoàn kết của kháng chiến. Trong việc này, họ đã hưởng lợi rất nhiều từ sự do dự và không có niềm tin và các hành động khủng bố của quân đội Pháp.
"Mặc dù thỉnh thoảng có vài vụ phản bội hay đào ngũ, không có dấu hiệu làm suy yếu quy mô khả năng hay tinh thần của kháng chiến Việt Nam. Trong nhiều vùng rộng lớn dưới sự kiểm soát của kháng chiến rất thiếu các đồ xa xỉ và thuốc men. Nhưng họ hoàn toàn tự cung tự cấp về những nhu cầu cơ bản và quản lý một cách khá tốt, theo như một vài bản báo cáo nhận đươc. Họ tiếp tục xây dựng một nguồn cung cấp tiếp liệu và tân binh mà giới hạn chỉ là con số các vũ khí có sẵn.
“Mặc dù có những tin đồn về một hiệp ước ký giữa Cộng sản Trung Quốc và Hồ Chí Minh, và đã có một viên tướng Cộng sản Trung Quốc và nhân viên của ông ta có mặt ở vùng Việt Bắc, có ít bằng chứng, như đã nêu ra, rằng Trung Quốc đã có bất kỳ sự giúp đỡ nào đáng kể cho kháng chiến. Các nguồn tin của Pháp cảm thấy rằng có rất ít nguy hiểm của một đạo quân thứ 5 Cộng sản Trung Quốc tại Nam Kỳ, hoặc do lời mời gọi từ phía Hồ Chí Minh với quân đội của kẻ thù lâu đời của đất nước vào Đông Dương thành hiện thực, mặc dù họ có chung sự liên kết cộng sản. Tuy nhiên tất cả các ý kiến tham khảo từ quân đội Pháp đều cảm thấy rằng một cuộc xâm lược quy mô lớn của Trung Cộng sẽ làm cho hầu hết Bắc Kỳ, nếu không phải là tất cả, không đứng vững về mặt quân sự.
"Trong nhiều tháng qua, các nhà quan sát cảm thấy rằng lực lượng kháng chiến đã không đưa ra nỗ lực tối đa của họ, có lẽ bởi vì các nhà lãnh đạo đang chờ đợi kết quả của cuộc đàm phán chính trị đang diễn ra giữa Phủ Cao Ủy, Chính phủ Pháp và các yếu tố Xuân-Bảo Đại. Nếu tiến trình này bi đổ vỡ, kháng chiến sẽ được tăng cường bởi sự gắn kết của các yếu tố trung lập hoặc thân Pháp. Nếu các cuộc đàm phán thành công, quân đội kháng chiến chắc chắn sẽ là yếu tố chi phối trong bất kỳ hình thức chính phủ tự trị nào của người Việt Nam..." 58. /
Báo cáo mở rộng về thông tin tình báo của Bộ Ngoại Giao [Mỹ] về "sự sắp xếp chính trị của phe Quốc gia Việt Nam" 59 / tháng Mười năm 1949, nhấn mạnh tầm quan trọng của Việt Minh:
"Liên minh Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội), hoặc Việt Minh, là tổ chức chính trị có ảnh hưởng nhất trong Chính phủ Việt Nam [VNDCCH].. Đó là nhóm chính trị duy nất có tổ chức mở rộng xuống tân đơn vị làng nhỏ nhất. Thành viên của nó bao gồm cả cá nhân và đảng phái thí dụ như Đảng Xã hội Việt Nam, Đảng Dân chủ Việt Nam, v.v… Là một Liên minh, nó tập trung với nhau một liên minh rộng rãi gồm nhiều khuynh hướng chính trị từ phe quốc gia ôn hòa đến người cộng sản giáo điều. Nó khá giống với Trung Hoa Quốc Dân Đảng trong thời gian 1924-1926, khi những người cộng sản và Tưởng Giới Thạch hợp tác trong phong trào dân tộc Trung Quốc.
“Ban Chấp hành Việt Minh, hoặc Tổng Bộ [Việt Minh], là điểm tập trung quyền lực thực sự trong lãnh thổ Việt Nam. Tờ báo chính phủ có ảnh hưởng, tờ Cửu Quốc, là cơ quan của Tổng Bộ và tiêu biểu đường lối của chính phủ. Một phần lớn của các thành viên Tổng Bộ được tin là thành viên trước đây của Đảng Cộng sản Đông Dương đã giải thể. Trong phong trào dân tộc đại chúng, những người cộng sản chắc chắn là yếu tố chính trị đoàn kết chặt chẽ nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người cộng sản, nhưng có uy tín lớn như một nhà lãnh đạo dân tộc giữa các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Ông có một nhân cách chính trị nổi bật ở Đông Dương. Ông cố giảm nhẹ các kết nối quá khứ cộng sản của mình, nhấn mạnh khía cạnh dân tộc của chương trình của mình, và là phổ biến được coi là một người đứng trên mọi đảng phái.
“Việt Minh kiểm soát toàn bộ phong trào dân tộc thông qua một loạt các tổ chức “phúc lợi quốc gia” như các hội phụ nữ, thanh niên, nông dân, binh sĩ, vv..., bao gồm hầu hết toàn bộ dân Việt Nam. Hoàng Quốc Việt, Tổng Bí thư Việt Minh, tuyên bố rằng tổ chức có một thành viên với tổng số 9.000.000 người..
Sự sụp đổ của Trung Hoa Quốc Gia vào năm 1949 tạo ảnh hưởng vang dội trong phong trào dân tộc Việt Nam. Các bên chủ yếu Quốc Dân Đảng theo định hướng Trung Hoa Quốc Dân Đảng - đã bị mất uy tín, và các phong trào lưu vong ở Trung Quốc bị phân tán. VNDCCH bắt đầu ngã sang khối cộng sản để mong tìm kiếm sự hỗ trợ vật chất, và đồng thời có phong trào nghiêng vềphía tả trong Việt Minh. Đến năm 1951, Đảng Cộng sản được "hợp pháp hóa." [mang tên] Đảng Lao Động Việt Nam sau đó đã trở thành quyền lực chính trị chi phối nước VNDCCH. Đảng Lao Động rõ ràng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, và tự hào tuyên bố đã có một đường lối không gián đoạn từ Đảng Cộng sản Đông Dương do Hồ Chí Minh sáng lập, bao gồm lãnh đạo của tất cả các "mặt trận" dân tộc lớn xuyên suốt đến 1951. Võ Nguyên Giáp đã giải thích vào năm 1961 rằng:
“Chiến tranh nhân dân giải phóng Việt Nam đã chiến thắng bởi vì chúng tôi đã có một Mặt trận Đoàn Kết Quốc Gia rộng lớn và...được tổ chức và lãnh đạo bởi Đảng của giai cấp công nhân: Đảng Cộng sản Đông Dương nay là đảng Lao Động Việt Nam. Dưới ánh sáng các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin...Đảng đã tìm thấy một giải pháp đúng cho các vấn đề...” 60/
Các sử gia chính thức của Đảng Lao Động đã đánh giá cao những tính toán cộng sản là những mốc khóa quan trọng trong lịch sử Việt Nam cho tới năm 1951:
"Các chính sách thành lập mặt trận dân chủ Đông Dương từ năm 1936 và 1939, mặt trận Việt Minh từ năm 1941 và 1951, và Liên Việt năm 1946-1951, quyết định ký Hiệp Định Sơ Bộ ngày 06 Tháng 3 năm 1946... [Hồ thích nghi với Pháp]... tất cả những ví dụ điển hình này là những ứng dụng thông minh vào các... chỉ đạo của Lenin. " 61 /
Năm 1951, Hồ Chí Minh giải thích về nguồn gốc Lênin của Việt Minh và vai trò của nó trong sự hình thành của VNDCCH và chiến tranh chống Pháp. Trong tháng hai, năm 1951, ngõ lời trong Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam (Lao Động), Hồ giải thích về diễn tập chính trị của ông trong những thập kỷ trước. Rà soát lại lịch sử của cuộc cách mạng Nga và Trung Quốc, ông đã chỉ ra rằng Việt Nam cũng đã cảm thấy những rung động của thay đổi, và giai cấp công nhân Việt Nam "... đã bắt đầu cuộc đấu tranh và cần một đội ngũ tiên phong, một ban lãnh đạo chung để dẫn dắt. Ngày 06 tháng Một năm 1930, Đảng ta ra đời... " Ông mô tả Đảng đã làm thế nào để mang lại sự hình thành của Việt Minh, và là nền tảng của VNDCCH. Sau đó, vào năm 1945, thực dân Pháp lại xuất hiện ở miền Nam Việt Nam và chính phủ phản động do Trung Quốc tài trợ dường như đã thành tiềm năng ở miền Bắc Việt Nam.
"Vào thời điểm đó, Đảng không thể chần chừ: do dự có nghĩa là thất bại. Đảng đã đưa ra quyết định nhanh chóng và có biện pháp – biện pháp đau đớn - để cứu vãn tình hình. Lo lắng lớn nhất là tuyên bố giải thể Đảng. Nhưng trong thực tế Đảng đã đi vào bí mật và mặc dù sống trong bí mật, Đảng vẫn tiếp tục lãnh đạo chính quyền và nhân dân...
“Phải đề cập đến [thỏa thuận với Pháp vào năm 1946] bởi vì họ được coi là cực hữu và gây ra nhiều tai tiếng. Tuy nhiên, theo ý kiến của các đồng chí và đồng bào của chúng ta ở miền Nam, họ đã đúng. Thật vậy, bởi vì các đồng chí và đồng bào của chúng ta đã khéo léo tận dụng những cơ hội để xây dựng và phát triển lực lượng của họ.
“Lenin nói rằng ngay cả khi phải thỏa hiệp với kẻ cướp mà thuận lợi cho cách mạng, ông cũng sẽ làm điều đó... " 62/
Hồ sau đó đã đi vào thảo luận về những điểm mạnh và yếu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mô tả tình hình thế giới trong khung một khối đồng nhất các quốc gia "dân chủ" chống lại sự dàn trận của Hoa Kỳ, và những thế lực phản động khác, và mô tả, như bộ phận của một cuộc xung đột lớn hơn, là chiến tranh của Việt Nam cùng với Lào và Campuchia nhằm chống Pháp và Hoa Kỳ. Ông kêu gọi "một đảng hợp pháp phù hợp với tình hình thế giới và trong nước - để lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân ta đến thắng lợi. Đó là đảng Lao Động Việt Nam. Về thành phần, đảng sẽ thu nhận những công nhân nhiệt tình và giác ngộ, nông dân, trí thức. Về lý thuyết, nó tuân thủ chủ nghĩa Marxism Leninism, về kỷ luật đảng có một kỷ luật sắt... "
Như thế, Việt Minh đã chấm dứt không còn là một Liên Minh quốc gia không cộng sản.
I. B Tham Khảo
Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Praeger, 1967, 2 vols), I, 172-174.
Ibid.
Dữ liệu chính trị về Việt Nam rút ra chủ yếu từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, sự sắp xếp chính trị của phe Quốc gia Việt Nam (Văn phòng nghiên cứu Tình Báo, Báo cáo số 3708, ngày 01 Tháng 10 năm 1949), passim
Ibid., trang 138 và kế tiếp
Ibid.
Ibid. trang 31-32
Ibid., trang 136
Ibid, trang 138
Bernard B. Fall, ed., flo Chi Minh on Revolution (New York: Praeger,1967 ), 130-131.
The Hitler-Stalin Pact was signed in August, 1939. On 26 September 1939, France outlawed the Communist Party. Ibid., and Buttinger, ~ cit., I, 224-226.
Ibid., 236-250.
Ibid., 242-244.
U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., 58.
Fall, ed., Ho Chi Mirili on Revolution, op. cit., 133-134
George Modelski, "The Viet Minh Complex," in Cyril E. Black and Thomas P. Thorton, eds., Communism and Revol ution (Princeton : Princeton University Press, 1964), 189-190. Cf. Bernard B. Fall, The Two Viet- Nains (New York: Praeger, 2nd Edition, 1963 ), 62.
Vo Nguyen Giap, People's War, Peo~le's Army (Hanoi, 1961), 75, quoted in ibid.
U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., 60.
Fall, The Two Viet-Nams, op. cit., 62-63.
19. U.S. Dept of State, Political Alignments..., Ope cit., 54-55
20.Ibid.
21.I. Milton Sacks, "Marxism in Vietnam," in Frank N. Trager, ed., Marxism in Southeast Asia (Stanford: Stanford University Press, 1959), 150.
22.Modelski, l oco cit., paraphrasing the official Vietnamese Communist Party history, Thiry Years of Struggle of the Party.
23.Bert Cooper, John Killigrevl, Norman La Charite, Case Studies in Insurgency and Revolutionary Warfare: Vietnam 1941-1954 (Washington: Special Operations Research Office, The American University, 1964), 87-88.
24.Modelski, Ope cit., 189, quoting Thirty Years...
Cooper, et al, 01). cit., 88-89. French sources estimated 50,000 Viet Minh in Tonkin as of August, 1944; U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., 61.
Cooper, et al, loco cit
Some French authors have been prone to credit the U.S. for Ho Chi Minh and the Viet Minh; e. g., Lucien Bodard, The Quicksand War (Boston: Little, Brown, 1967),221-222. The ranking American official in northern Vietnam in 1945, Brigadier General Philip E. Gallagher, has attested: "... throughout the months before the Japanese capitulation, O.S.S. officers and men operated behind Japanese lines, to arm, lead and train native guerrillas who were organized by the Viet Minh." (A situation report, undated, in the Gallagher Papers, quoted in Bert Cooper, John Killigrew, and Norman La Charite, Case Studies in Insurgency and Revolutionary Warfare : Vietnam 1941-1954 [Washington, D. C.: SpecialOperations Research Office, The American University, 1964]; 107.) But O.S.S. assistance to the Viet Minh-led guerrillas was quite limited, although it gave the Viet Minh the opportunity to proclaim that they were part of the Allied effort against the Japanese. Cf., Fall, Le Viet-Minh: La Republique Democratique du Viet-Nam [Paris: Librairie Armand Colin, 1962], 34. Fall, Two Viet-Nams, Op. cit., 66-71, details the case for the postwar American aid and comfort to the Viet Minh, which adds up to a more substantial charge but similarly is without foundation in the record.
Quoted in ibid., 63.
U.S. Dept of State, Political Alignments..., Ope cit., 66-67, quoting The Factual Record of the August Revolution (Hanoi, September, 1946).
Fall, ed., Ho Chi Minh on Revolution, Ope cit., 141-142.
Buttinger, Ope cit., I, 435-436.
U.S. Dept of State, Political Alignments..., Ope cit., 146-147.
Hammer, Ope cit., 104.
Marvin E. Gettleman, ed., Viet Naill (New York: Fawcett, 1965),57-59.
Buttinger, Ope cit., I, 325-327.
Ibid., 328-331; Hammer, Ope cit., 115-116.
Hammer, op. cit., 117, quoting Suprem~ Allied Command, Southeast Asia, Commission No.1, Saigon, Political History of French Indochina South of 160, 13 September - 11 October 1945.
U.S Dept of State,.Political Alignments..., op. cit., 73-74.
Hammer, op. cit., 117
Hammer, op. cit., 120.
Buttinger, op. cit., I, 337
Buttinger, op. cit., 351-354.
Ibid.
Buttinger, OF' cit., 356, 634.
Ibid; Sacks, 0p. cit., 157; Fall, ed., Ho on Revolution, op. cit., 146.
Sacks, op. cit., 158.
Ibid.
U.S. Dept (·f State, Political Alignments..., 77-78.
Hammer, op. cit., 150
Buttinger, OF' cit., 371-372.
Ibid., 399-401; U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., ~ George A.. Carver ~ Jr., "The Faceless Viet Cong," Foreign Affairs (Vol. 44, No.3, Aprll, 1966 ), 350.
Buttinger, Op. cit., I, 402-403.
U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., 81-82.
Fall, Two Viet-Nams, ~it., 131.
Hammer, op. cit., 179.
Pham Van Dong (presently Premier, then Vice President) announced in 1950 that promulgation of the 1946 Constitution had been postponed "because several of its provisions require for their application the cessation of the state of war," and in 1951, after Ho had openly aligned with the Sino-Soviet powers, the Viet Minh radio explained that "a gang of traitors" had been evolved in its formulation, and hence a "progressive character ·was lacking." During the "Rectification of Errors,1l in late 1956, after the peasant uprisings of that year, the DRV set up a constitutional reform committee. In December, 1958, Ho invited the public to submit recommendations on a new draft basic law, and the second Constitution was promulgated in 1960. Ibid., 178-181; U.S. Dept of the Army, Pamphlet 550-40, u.s. Army Area Handbook for Vietnam (Washington: Government Printing Office, 1962), 235.
Gettlemen, ed., op. cit., 88-89.
American Consulate General, Saigon, Despatch 34, February 12, 1949.
Op. cit., 90-91.
Vo Nguyen Giap, People's War,People ' s Army (Hanoi : Foreign Languages Publishing House, 1961), 35, also 67-108; Cf., rtLet Us Step Up The Theory-Formulating Task of The Party, ”Hoc Tap (No.9, September 1966), in Joint Publications Research Service, Translations from Hoc Tap" (No. 38,660, November 16, 1966), 2.
Ibid.
Fall, Ho on Revolution, 0p, cit., 206 ff.
(xem tiếp kỳ 10 )
I. C. HỒ CHÍ MINH: TITO của Á Châu
TÓM LƯỢC
Trong số các bài phê bình có tính thuyết phục nhất về chính sách của Mỹ đối với Việt Nam là Mỹ đã không nhận ra Hồ Chí Minh như một "Tito" tiềm năng ở Á Châu. Quan điểm này cho rằng Hồ đã luôn luôn quan tâm với độc lập và khả năng tồn tại của một Việt Nam có chủ quyền nhiều hơn so với việc phục vụ quyền lợi và mệnh lệnh của Moscow và Bắc Kinh. Với ủng hộ của Mỹ, các lập luận viết tiếp, Hồ sẽ phải đưa ra một số hình thức trung lập trong cuộc xung đột Đông-Tây và duy trì VNDCCH như một tường cản tự nhiên và bền vững ngăn sự bành trướng của Trung Quốc xuống phía Nam. Vì vậy, dù không phải là "màn che để Mỹ dùng che chắn cộng sản," Hồ đã sẽ phục vụ các mục đích lớn hơn cho chính sách của Mỹ ở Á Châu. Mặc dù trọng tâm của cuộc điều tra nghiên cứu này là về thời gian ngay sau Thế Chiến II, lúc mà việc hỗ trợ Hồ chống Nhật, chống thực dân là tương đối dễ dàng, [lý luận] thường cho rằng Mỹ đã bỏ qua một cơ hội khác sau Hội nghị Geneva 1954 - và thực sự, rằng [nếu] Hoa Kỳ chấp nhận Hồ và một Việt Nam cộng sản, đó có thể là con đường duy nhất cho hòa bình ở Đông Nam Á ngày nay. Lập luận lịch sử (1945-1954) có một tiếng chuông thuyết phục. Dưới ánh sáng của các chi phí hiện tại và hậu quả của sự tham gia của Hoa Kỳ tại Việt Nam [người dịch thêm: Tài liệu Bí Mật Ngũ Giác Đài được viết từ 6/1967 đến 1/1969 – xem http://en.wikipedia.org/wiki/Pentagon_Papers], bất kỳ cách nào đã làm xưa kia đều có thể có vẻ hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng có thể rằng một Việt Nam cộng sản năng động và thống nhất theo Hồ Chí Minh sẽ bành trướng mạnh mẽ, từ đó sẽ gây nên những vấn đề khó khăn không lường trước được, và trong một chừng mực nào đó có thể so sánh với những khó khăn hiện nay.
Nhiều tác giả đã đưa ra một phiên bản hay một giả thuyết "Tito" khác. Một số đưa ra luận cứ chính là: một chính sách khác của Mỹ có thể đưa Hồ vào thế không liên kết và chống Bắc Kinh. Nhiều tác giả khác lại nhấn mạnh về hệ quả tất yếu mà Hồ bị buộc phải phụ thuộc vào Bắc Kinh và Moscow là do sự chống đối hay thờ ơ của Mỹ. Cho dù Hồ là một người quốc gia hay là một người cộng sản không phải là vấn đề, tất cả các tác giả được trích dẫn dường như đồng ý rằng Hồ là một người cộng sản, và một nước Việt Nam cộng sản có thể sẽ thành hình dưới sự lãnh đạo của ông ta. Thay vào đó, lập luận trung tâm của họ là những gì họ nhận thức được rằng Hồ sẵn sàng tuân phục các mục tiêu, hình thức, và kỷ luật quốc tế cộng sản để đạt được độc lập và thống nhất của Việt Nam. Một vài tác giả ủng hộ công khai về một Việt Nam cộng sản chỉ trên cơ sở một chủ nghĩa “cộng sản dân tộc” đứng đầu là Hồ sẽ đủ mạnh để tồn tại bên cạnh Trung Quốc. Họ nhấn mạnh Hồ nỗ lực trong năm 1945 và 1946 để có được sự ủng hộ của phương Tây, và chỉ ra rằng ác cảm với Trung Quốc là một trụ cột của dân tộc Việt. Nhiều người thừa nhận rằng sự tương tự với Tito là không hoàn toàn phù hợp. Không giống như Tito, Hồ lên nắm quyền sau Thế Chiến mà không cần sự trợ giúp của các nhà nước cộng sản khác. Về cơ bản, không có sự tương tự như thế cho đến năm 1948, khi cuộc thử nghiệm với Tito có vẻ sẽ chạy suông sẽ. Tuy nhiên, các tác giả này đã chỉ ra rằng nếu Hoa Kỳ đã đạt được nhiều thuận lợi khi họ bỏ qua một bên sự ghê tởm của mình với cộng sản Tito trong những quan tâm ngăn chận Nga bành trướng ở Âu Châu, thì Hoa Kỳ cần phải sẵn sàng để thích ứng với cộng sản Hồ Chí Minh, về những mục tiêu tương tự ở Á Châu. Phê phán này thường kết thúc với lời buộc tội rằng mục đích của Mỹ ở Đông Nam Á là chỉ đơn giản và duy nhất là lo ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản. (Tab 1)
Một cuộc xét nghiệm về sự nghiệp chính trị của Hồ Chí Minh trong những năm 1950 có thể giúp ta cơ sở để thu hẹp phạm vi các ức đoán liên quan đến Hồ và chính sách của Mỹ. Từ cái nhìn đó, có điều hiển nhiên rằng người mà vào năm 1945 đã trở thành Chủ Tịch của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là một người chín chắn, một người cách mạng toàn tâm toàn trí, là người đã trải qua những khó khăn nghiêm trọng để phụng sự cho chính nghĩa Độc Lập cho Việt Nam ra khỏi tay Pháp. Năm mươi lăm tuổi vào năm 1945, ông đã là một người cộng sản được 25 năm - là một trong những thành viên sáng lập của Đảng Cộng sản Pháp và đại biểu Quốc tế cộng sản ở Á Châu trong mười lăm năm trước chiến tranh thế giới thứ II. Ông sinh ra ở Nghệ-An, một tỉnh truyền thống sinh sản ra những người đi làm cách mạng, có một người cha bị cầm tù bởi người Pháp vì các hoạt động dân tộc, và đã theo học một trường học ở Huế [Quốc Học], nơi được biết đến với chủ nghĩa dân tộc cực đoan giữa các học sinh của trường. Lưu vong khỏi Việt Nam từ 1910 đến 1940, bị cầm tù ở Hồng Kông và Trung Quốc, không gia đình, không nhà, không danh tiếng, không tài sản và bạn bè bên ngoài phạm vi hoạt động bí ẩn của Quốc Tế Cộng Sản, rõ ràng là ông đã cống hiến mình một cách vô vị lợi trong tất cả những năm cách mạng ở Việt Nam. Ruth Fischer, một cựu cộng sản Đức trước đây, một trong những người biết Hồ trong thời kỳ này, đã viết, "Chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh đã gây ấn tượng cho chúng tôi, những người cộng sản sinh ra và lớn ở Âu châu được nuôi dưỡng trong một loại màu xám của quốc tế cộng sản trừu tượng."
Đối với Hồ, bây giờ trở lại với Á Châu, Thế Chiến thứ II đã mở con đường mới [cho ông] để đạt được mục tiêu lâu dài của mình. Pháp mất uy tín tại Việt Nam thông qua việc hợp tác với Nhật của Vichy, và sau đó vào năm 1945 đã bị Nhật lật đổ hoàn toàn khỏi quyền. Trong khi đó, Hồ đã xây dựng Việt Minh, một tổ chức chính trị rộng lớn duy nhất, thành một tổ chức kháng chiến có khả năng và hửu hiệu chống cả Nhật hay Pháp. Hồ là nhà lãnh đạo duy nhất của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh với cả nước theo sau, ông được đảm bảo có sự trung thành rộng lớn hơn nữa của nhân dân Việt Nam. Vào tháng Tám năm 1945, ông lật đổ Nhật, đạt được sự thoái vị của Bảo Đại, thành lập VNDCCH, và tổ chức tiếp đón các lực lượng chiếm đóng của Đồng Minh - trong đó VNDCCH đóng vai trò như một chính phủ Việt Nam đương nhiệm. Chỉ trong vài tuần trong tháng 9 năm 1945, Việt Nam - lần đầu tiên và duy nhất trong lịch sử hiện đại của minh – thoát khỏi sự thống trị nước ngoài, và thống nhất từ Bắc chí Nam theo Hồ Chí Minh.
Hồ trở thành tâm điểm của lòng nhiệt thành dân tộc gợi lên bởi sự kiện này [cướp chính quyền trong tay Nhật] và [những sự kiện] sau đó. Mặc dù thừa nhận chính phủ VNDCCH nhưng các nhà lãnh đạo của các đảng đối thủ là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội không lãnh đạo được một cơ sở quần chúng nào, và kể từ khi họ liên kết chặt chẽ với Quốc dân Đảng Trung Quốc, đã chia sẻ hết lòng những chê bai chống Trung Quốc với nhân dân miền Bắc Việt Nam. Tại miền Nam Việt Nam, do mưu đồ của Pháp, và sự mất đoàn kết giữa những người Việt Nam đã loại trừ sự xuất hiện của một đối thủ để cạnh tranh với Hồ. Khi Pháp đưa vũ lực ra để khôi phục lại việc chiếm đóng Việt Nam, Hồ một lần nữa trở thành người đứng đầu của kháng chiến Việt, và Việt Minh đã trở thành những nhân vật quốc gia đóng vai chính. Do đó, Hồ Chí Minh, do cả hai [yếu tố]: uy tín riêng của mình và sự thiếu cạnh tranh, đã trở thành hiện thân của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam.
Hồ, tuy nhiên, nhận thấy cả chính mình, phong trào [Việt Minh], và chính phủ của ông chịu nhiều áp lực lớn. Trong nước, các đảng phái Việt được Trung Quốc ủng hộ tấn công sự thống trị của cộng sản trong chính phủ của ông. Vì lợi ích đoàn kết dân tộc, Hồ giải thể Đảng Cộng sản, tránh nghiêng về cộng sản, tuyên bố tổng tuyển cử, và đảm bảo các phe phái tranh vào chính phủ sẽ có đủ đại diện dựa theo tỷ lệ ủng hộ của dân chúng dành cho họ. Áp lực bên ngoài từ Pháp và Trung Quốc tỏ ra còn khó khăn hơn. Người Pháp lợi dụng sự suy yếu tương đối của Việt Minh ở miền Nam Việt Nam, và các bất đồng trong số những người Việt Nam có thể lật đổ chính phủ VNDCCH ở Sài Gòn, và lực lượng Việt Minh buộc phải tiến hành chiến tranh du kích. Trong nạn đói tàn phá miền Bắc Việt Nam, từng đám người Tàu bộ thuộc đám lãnh chúa Trung Quốc với đầu óc chiến lợi phẩm đã bất ngờ tấn công các [chính quyền] VNDCCH, thay thế các tổ chức chính quyền địa phương với các Ủy Ban do họ tài trợ và cướp bóc một cách có hệ thống. Hồ đã thất bại trong việc tìm kiếm viện trợ nước ngoài thậm chí không được cả Liên Xô giúp. Hồ cuối cùng (tháng Ba năm 1946) đã đàm phán với người Pháp, chấp nhận sự hiện diện quân Pháp ở Bắc Việt Nam trong một thời gian là năm năm đổi lại là các bảo đảm mơ hồ của Pháp để VNDCCH như một "nước tự do trong Liên hiệp Pháp". Khi Hồ bị các yếu tố ủng hộ Trung Quốc trong VNDCCH tấn công về chuyện này, ông tuyên bố:
"Các ộng ngu ngốc lắm. Các ông có thấy chuyện Trung Quốc ở lại là có nghĩa gì không? Đừng quên lịch sử mà lần chót mà người Trung Quốc đã đến, họ đã ở lại 1000 năm!
"Người Pháp là người nước ngoài. Họ còn yếu kém. Chủ nghĩa Thực Dân đang hấp hối. Không gì có thể đứng vững dưới áp lực thế giới cho nền độc lập. Họ có thể ở lại trong một thời gian, nhưng họ sẽ ra đi bởi vì người da trắng đã hết thời ở Á Châu. nhưng nếu người Trung Quốc ở lại bây giờ, họ sẽ không bao giờ ra đi.
"Đối với tôi, chẳng thà tôi ngửi cứt của Pháp thêm năm năm, còn hơn là ngửi cứt cho Tàu suốt cuộc đời còn lại của tôi."
Câu hỏi lịch sử chưa được giải quyết, tất nhiên, là ở mức độ nào mục tiêu dân tộc của Hồ vượt lên trên niềm tin cộng sản trong hoạt động của ông?. Dường như Hồ đặt điều trước [dân tộc] lên trên điều sau [cộng sản] không chỉ là vấn đề che đậy, mà ông đã thực hiện việc giải thể Đảng và sự hình thành [thay thế bằng] một “Hội [Nghiên Cứu] chủ nghĩa Mác”, nhưng đồng thời cũng có thể là kết quả của một sự nghi ngờ về chủ nghĩa cộng sản như một hình thức chính trị thích hợp cho Việt Nam. Bảo Đại được cho là đã nói rằng: "Tôi thấy Hồ Chí Minh bị đau khổ. Ông ta đã chiến đấu một trận chiến với chính mình. Ông ta đã có cuộc đấu tranh riêng của mình. Ông Hồ đã nhận ra rằng chủ nghĩa cộng sản không phải là tốt nhất cho đất nước, nhưng nó đã quá muộn... Cuối cùng, ông không thể vượt qua lòng trung thành của mình vào chủ nghĩa cộng sản”. Trong các cuộc đàm phán giữ nguyên trạng với Pháp ở Paris vào mùa thu năm 1946, Hồ kêu gọi người Pháp "cứu ông khỏi những kẻ cực đoan" trong Việt Minh bằng một số nhượng bộ có ý nghĩa cho độc lập của Việt Nam, và ông đã nói với Đại sứ Hoa Kỳ rằng ông không phải là cộng sản. Có lời đồn là ông là đã khẳng định tại thời điểm đó rằng Việt Nam chưa sẵn sàng cho chủ nghĩa cộng sản, và tự mô tả mình như là một người Mác Xít. Trả lời câu hỏi của một nhà báo, Hồ tuyên bố rằng ông có thể giữ trung lập như “Thụy Sĩ" trong cuộc đấu tranh quyền lực trên thế giới đang xảy ra giữa cộng sản và phương Tây. Nhưng những điều trên và những tuyên bố khác đều có thể [hợp lý] đến từ một người theo Lê Nin hay một người theo chủ nghĩa dân tộc toàn tâm toàn ý. Những tuyên bố và hành động của Hồ sau năm 1949 [Mao chiến thắng ở Trung Quốc], và những liên kết chặt chẽ xảy ra sau đó của ông với khối Trung-Xô, là để hỗ trợ xây dựng chủ nghĩa Lênin. Tuy nhiên, từ sau đó, lời Mỹ khẳng định “Hồ là một người cộng sản kiên định” có thể là lời tiên tri nay đã thành sự thật. (Tab 2)
Tuy nhiên vẫn còn vấn đề về việc Hồ trực tiếp kêu gọi Mỹ can thiệp vào Việt Nam, điều mà ngay cả một người Lênin-nít [như Hồ] có thể đã phải do dự. Chuyện này xảy ra (vào cuối 1945, đầu 1946) ngay sau khi Pháp tái chiếm bằng quân sự miền Nam Việt Nam, trong khi đó những lãnh chúa Trung Quốc Quốc Dân Đảng đã tập trung tại Hà Nội, và trước Hiệp Định ngày 6 năm 1946 ký với Pháp. Tuyệt vọng, Hồ đã hướng sang Hoa Kỳ, một trong số những cường quốc, yêu cầu “can thiệp ngay lập tức” vào Việt Nam.
Có ít nhất tám lần thư liên lạc từ Hồ gửi đến Tổng Thống Hoa Kỳ, hoặc Bộ Trưởng Ngoại Giao, từ tháng Mười năm 1945 đến tháng Hai năm 1946. Hồ trước đó đã chuyển tải, trong tháng tám và tháng chín năm 1945, thông qua nhóm O.S.S, đề nghị rằng Việt Nam được hưởng “cùng một quy chế như Philippines” được sự giám hộ trong một thời gian không xác định trước khi được độc lập. Với chiến sự bùng nổ ở Nam Việt Nam, tháng 9, tháng 10 năm 1945, ông bổ sung thêm các yêu cầu chính thức gửi cho Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc để can thiệp chống lại Pháp xâm lược, trích dẫn Hiến chương Đại Tây Dương, Hiến chương Liên Hợp Quốc, và một chính sách ngoại giao gửi cho Tổng thống Truman vào tháng Mười năm 1945, ủng hộ quyền dân tộc tự quyết. Liên lạc cuối cùng của Hồ Chí Minh với Mỹ trong tháng Chín năm 1946, khi ông đến thăm Đại sứ Hoa Kỳ ở Paris để yêu cầu một cách mơ hồ Hoa Kỳ hỗ trợ cho Việt Nam Độc Lập trong Liên hiệp Pháp.
Không có hồ sơ nào của Hoa Kỳ ghi nhận là có trả lời cho bất kỳ kêu gọi giúp đỡ nào của Hồ. Những chỉ thị còn tồn tại của một nhà ngoại giao Mỹ đã tiếp xúc với Hồ vào tháng Mười Hai năm 1946, cho thấy mối bận tâm của Mỹ với gốc gác cộng sản của ông và e ngại rằng ông có thể thiết lập một nước "do cộng sản thống trị, theo định hướng của Moscow." Hai tháng sau đó, khi chiến tranh Pháp-Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam xảy ra, Ngoại trưởng Marshall nhấn mạnh rằng chúng ta không mất cái nhìn thực tế rằng Hồ Chí Minh đã kết nối trực tiếp với Cộng sản và chúng ta phải rõ ràng rằng chúng ta không quan tâm đến việc nhìn thấy một chính quyền của đế quốc thực dân thay thế bởi ý thức hệ và các tổ chức chính trị bắt nguồn từ và bị kiểm soát bởi điện Kremlin ".
Trong tháng năm 1949, Ngoại trưởng Acheson thừa nhận rằng, có " khả năng trên lý thuyết “ là thành lập một nhà nước Cộng sản quốc gia theo mô hình của Nam Tư trong bất cứ vùng lãnh thổ nào mà Quân đội Liên Sô không vươn tới được, nhưng đã chỉ ra rằng:
"Câu hỏi liệu Hồ theo chủ nghĩa dân tộc nhiều hơn chủ nghĩa Cộng Sản không là không thích đáng. Tất cả các Stalin-nít tại các thuộc địa đều là người dân tộc chủ nghĩa. Với những thành quả cho mục đích quốc gia (như là độc lập) mục tiêu của họ nhất thiết là phải biến nhà nước thành lệ thuộc cho những mục tiêu của Cộng Sản và tàn nhẫn tiêu diệt không chỉ các nhóm đối lập, mà còn tất cả những yếu tố bị nghi ngờ là chệch hướng dù là nhỏ nhất..."
Trong những năm đầu của thập niên 1950, VNDCCH của Hồ đã nằm trong tầm với của quân Trung Quốc của Mao Trạch Đông, và Hồ đã công khai chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Bộ Trưởng Acheson tuyên bố rằng việc công nhận VNDCCH của khối [XHCN] “phải nên loại bỏ bất kỳ ảo tưởng nào về tính chất dân tộc chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh nhằm đến và cho biết. Hồ trong màu sắc thật sự của mình là kẻ thù chết người cho độc lập bản địa Việt Nam".
Tuy nhiên, hành vi của Hồ trong những năm 1949-1950 là thái độ ủng hộ một cách thuyết phục chính sách của Mỹ tại thời điểm đó, nó không nhất thiết giải thích được sự háo hức trước đó của Hồ là muốn Mỹ và Liên Hợp Quốc can thiệp vào Việt Nam, cũng không phủ nhận sự gia tăng giả thuyết một "Tito" khác áp dụng cho thời gian những năm 1945-1947. Trong thời gian đó, có thể nói được rằng Hoa Kỳ chỉ dành cho Hồ những lựa chọn ít ỏi. Ông ta đã không nhận những trả lời về những yêu cầu của mình. Sau năm 1946, không chỉ việc thông tin liên lạc trực tiếp giữa Hồ Chí Minh và Mỹ đã bị cắt đứt, còn có những tín hiệu hầu như không khuyến khích mà ông ta nhận được từ Mỹ. Trong khi đó chiến tranh Đông Dương đã bắt đầu một cách nghiêm trọng vào cuối năm 1946, thiết bị quân sự Mỹ đã được càc lực lượng Pháp sử dụng để đánh người Việt và Mỹ đã sắp xếp tín dụng cho nước Pháp được mua trị giá 160 triệu US$ các phương tiện vận chuyển và thiết bị công nghiệp hỗn hợp để sử dụng ở Đông Dương. Những bình luận công khai của Bộ Trưởng Ngoại Giao George C. Marshall trên cuộc chiến nổ ra vào tháng Giêng 1947 được giới hạn trong một hy vọng rằng "một cơ sở Thái Bình Dương để điều chỉnh những khó khăn có thể được tìm thấy," và trong vòng sáu tháng Kế hoạch Marshall đã ném thậm chí còn lớn hơn những khí tài của Mỹ vào tay Pháp.
Sự thật đơn giản là dường như Hoa Kỳ biết rất ít về những gì đã diễn ra bên ở Việt Nam và chắc chắn là có ít quan tâm về Việt Nam hơn là về Pháp. Biết ít và quan tâm ít hơn có nghĩa là những vấn đề thực sự và những lựa chọn khác nhau đã được nhận thức, nhưng lờ mờ. Ví dụ Mỹ có thể tự đặt câu hỏi - "chúng ta có phải thực sự phải hỗ trợ cho Pháp ở Đông Nam Á để hỗ trợ cho một nước Pháp không cộng sản trong nội bộ [nước Pháp] và ở Âu Châu?" Một câu hỏi chúng ta có thể tự hỏi là - "Nếu sự lựa chọn của Hoa Kỳ tại Việt Nam thực sự đi đến [chọn lựa giữa] chủ nghĩa thực dân Pháp hay Hồ Chí Minh, nên chăng Hồ tự động bị loại trừ?" Cũng vậy, "Nếu sự lựa chọn của Mỹ là Pháp, liệu Pháp có bất kỳ cơ hội thực sự nào để thành công, và nếu có thì với giá nào?"
Ngay cả trước khi chiến tranh thế giới II kết thúc, Washington đã đặt những quyết định số phận của Hồ Chí Minh vào trong tay của Pháp. Tuy nhiên có thể có lập luận là Hoa Kỳ có thể khẳng định rằng Paris sẽ mua chuộc Hồ và trao độc lập cho Đông Dương mà không gây nguy hiểm cho mối quan hệ cơ bản giữa Mỹ và Pháp ở Âu Châu. Cũng như Mỹ đã nhận ra tầm quan trọng hàng đầu của Âu Châu hơn bất kỳ chính sách theo đuổi nào ở các nơi khác, chính phủ Pháp có lẽ đã sớm nhận ra (nếu nó đã không làm như vậy) rằng không chuyện gì được làm mà nó có thể làm suy yếu nghiêm trọng đến việc Mỹ chấp nhận lợi ích chung trong sự phục hồi và an ninh chung của Âu Châu. Hơn nữa, việc này đã không đạt được một bộ phận đủ lớn của cộng đồng Pháp để hỗ trợ những nỗ lực thanh nhã của Hoa Kỳ nhằm kéo Pháp ra khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, cũng có thể là "thuyết Tito" nếu được Pháp đồng ý thì Pháp sẽ biện minh rằng mình không đủ khả năng. Không một chính phủ Pháp nào có thể đưa ra và làm sống sót một chính sách thực sự tự do đối với Hồ vào năm 1945 hoặc 1946 thậm chí là cộng sản Pháp sau đó đã ủng hộ việc chuộc lại quyền kiểm soát Đông Dương. Tuy nhiên, từ năm 1946, máu đổ đã làm chính sách Pháp thêm cứng rắn. Như trước đây, giải pháp thay thế Hồ không bao giờ được dự tính nghiêm túc.
Đại diện Pháp trái lại không cho rằng Hồ Chí Minh sở hữu thực sự một sức mạnh chính trị trong nhân dân Việt Nam. Trong khi việc gọi Hồ là một George Washington thứ hai có thể là quá đáng, nhưng không có nghi ngờ gì về việc ông ta được công nhận như là người lãnh tụ duy nhất của kháng chiến Việt Nam trong thời chiến, và là người đứng đầu của một phong trào chính trị mạnh nhất và có mặt trên toàn cõi Việt Nam. Cũng không nghi ngờ gì nếu thử nghiệm bằng cách đầu phiếu thì chỉ có Việt Minh của Hồ là có thể đạt được phiếu ở tận thôn ấp. Washington và Paris, tuy nhiên, không tập trung vào thực tế sức mạnh của Hồ Chí Minh, mà chỉ [tập trung] vào hậu quả của sự cai trị của ông này. Paris đã xem Hồ như là một mối đe dọa ngăn cản Pháp lấy lại đặc quyền kinh tế, văn hóa và chính trị ở Đông Dương. Hoa Kỳ, cảnh giác về nền tảng cộng sản được biết của Hồ, đã e ngại rằng Hồ sẽ dẫn dắt Việt Nam vào quỷ đạo của Liên Xô, và sau đó là Trung Quốc. Sau này Tổng thống Eisenhower đã nhận xét về việc Hồ sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tự do tại Việt Nam với số phiếu 80% chiếu rọi qua tầm nhìn tăm tối của chúng ta về Việt Nam nhưng chính sách của Mỹ vẫn không sáng sủa.
Trong dự đoán chót, hỗ trợ Hồ Chí Minh là sáng suốt lẫn nguy hiểm. Dù là cộng sản dân tộc chủ nghĩa hoặc [cộng sản] độc lập hoặc [cộng sản] trung lập có thể rõ ràng ngày nay, thì cái nhìn trong những 1945-1948 vẫn là mập mờ. Ngay cả việc nhìn thấy Tito thành công khẳng định độc lập của mình, Washington vẫn khó khăn nhảy vọt từ đó đến một trường hợp tương tự ở Á Châu. Dựa vào một Việt Nam "cộng sản dân tộc chủ nghĩa" như một bức tường thành cuối cùng chống lại Trung Cộng, thực sự, có thể được coi như một tính toán sáng suốt duy nhất trong lịch sử nước Mỹ. Nguy cơ cũng nằm ở đó. Sức mạnh thực tế của Hồ Chí Minh tại Việt Nam có thể nghiêm túc chống lại lợi ích của Mỹ cũng như chống lại các lợi ích của Trung Quốc. Hồ Chí Minh là một người cộng sản mà tài lãnh đạo và nghị lực là nổi tiếng, kỷ luật sắt và hiệu quả của Việt Minh, khả năng chiến đấu đã được chứng minh của quân đội của ông, một dân tộc Việt năng động dưới sự lãnh đạo của Hồ, [tất cả] có thể đưa đến một thời kỳ nguy hiểm của chủ nghĩa bành trướng của Việt Nam. Lào và Cam-pu-chia sẽ dễ dàng trở nên những chọn lựa cho Việt Nam. Hồ, trên thực tế, luôn luôn coi mình là lãnh đạo của toàn thể Đông Dương và đảng của ông ban đầu được gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương. Thái Lan, Malaysia, Singapore, và thậm chí Indonesia có thể là những chọn lựa tiếp theo. Nó có thể được xem là "thuyết domino" với Hồ thay vì của Mao. Và nó có thể đã được “domino” với Mao. Điều này có vẻ không hợp lý nhưng nó chỉ là một chút ít gì hơn một giấc mơ xấu so với những gì đã xảy ra với Việt Nam từ lâu nay. Con đường của sự thận trọng chứ không phải là con đường của rủi ro dường như là một lựa chọn khôn ngoan hơn. (Tab 3)
I.C. THẢO LUẬN
Tab 1 - Các phiên bản của giả thuyết "Tito Á Châu "
Tab 2 - Tiểu sử chính trị của Hồ Chí Minh 1890-1950
Tab 3 - Hồ Chí Minh liên lạc với Mỹ 1945-1946
I.C.1. Các phiên bản của giả thuyết "Tito Á Châu "
Sau đây là những trích dẫn từ những tác giả đã đưa ra giả thuyết rằng, với các kích thích kinh tế mà Hoa Kỳ hỗ trợ, Hồ Chí Minh có thể chấp nhận một chính sách đối ngoại không liên kết, hay ít nhất là chống Bắc Kinh. [Nếu] ngược lại, hệ quả là Hồ sẽ buộc phải chấp nhận sự phụ thuộc vào Moscow và Bắc Kinh bởi vì sự chống đối hay thờ ơ của Mỵ
Khái Quát
Không ai tranh luận rằng Hồ không phải là cộng sản hay một nước Việt Nam sẽ thành cộng sản dưới sự lãnh đạo của Hồ.
Thay vào đó, họ đã chỉ ra rằng Hồ đã chứng minh sự sẵn sàng phục tùng các mục tiêu và hình thức cộng sản để đạt được mục tiêu dân tộc. Họ chấp nhận một nước Việt Nam cộng sản, thực sự thậm chí còn ủng hộ nó, trên cơ sở chỉ có một chủ nghĩa cộng sản quốc gia đứng đầu là Hồ có đủ mạnh để duy trì sự độc lập của mình đối với Trung Quốc.
Họ nhấn mạnh về sự ác cảm đối với Trung Quốc trong lịch sử Việt Nam như là một trụ cột của chủ nghĩa dân tộc Việt và chỉ ra việc Hồ đã nỗ lực trong năm 1945 và 1946 để có được sự ủng hộ của phương Tây.
Không có một gần gũi thực sự song song có thể được rút ra từ nguồn gốc của Hồ Chí Minh và Tito, vì không giống như Tito, Hồ đã chiến đấu suốt con đường của mình lên nắm quyền trong sự cô lập hoàn toàn không có sự can thiệp của một quyền lực cộng sản bên ngoài. Tuy nhiên, có thể nói một cách chính xác rằng chính sách của Mỹ ở Âu Châu thường được hướng vào việc mở rộng sự chia rẽ giữa Tito và Moscow, trong khi ở Á Châu, chính sách của chúng ta đã có xu hướng là gắn buộc Hồ vào mối quan hệ gần gũi hơn giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
Vấn đề "Tito" đặt ra nhằm vào câu hỏi liệu chiến lược của Mỹ ở Á Châu là chống cộng Sản hay chống Trung Quốc. Từ khi để ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô ở Âu Châu, Mỹ đã gạt qua sự ghê tởm của mình đối với cộng sản của Tito, đã có lập luận rằng Mỹ cũng nên làm điều tương tự là nên từ bỏ sự chống đối của mình với Hồ để phục vụ cho lợi ích chiến lược lớn hơn ở Á Châu.
Tóm tắt
Isaacs Harold; trong cuốn “No Peace for Asia”
Năm 1947, Hồ đã được thúc đẩy bởi một chủ nghĩa dân tộc sâu sắc chính yếu là nhằm mục đích độc lập, và đã vô cùng thất vọng với chủ nghĩa cộng sản vì đã nhận được giúp đỡ rất ít hoặc không khuyến khích từ các đảng [cộng sản] nước ngoài. Thẳng thừng mà nói, chỉ có Mỹ là cường quốc duy nhất mà người Việt dân tộc chủ nghĩa có thể tìm đến với hy vọng, nhưng kể cả những lúc mà các hành động hỗ trợ của Mỹ cho Pháp đứng trái ngược với tuyên bố có tính nguyên tắc của mình là đặt sư ủng hộ lên quyền tự quyết [dân tộc] và chống lại chủ nghĩa thực dân..... c-11
Shaplen, Robert; trong “The Lost Revolution”
Đã có một khả năng mạnh mẽ trong năm 1945 và 1946 rằng chính sách Pháp và Mỹ có thể biến Hồ Chí Minh thành Tito, Việt Nam - mặc dù theo lãnh đạo cánh tả nhưng có thể là một bức tường thành chống lại sự bành trướng của Cộng sản Trung Quốc.Tuy nhiên, viễn ảnh khả năng Việt Nam trở thành một Nam Tư từ nay là xa vời ….. c-14
Zinn, Howard; Vietnam: “The Logic of Withdrawal”
Một chính phủ Cộng sản tại Việt Nam là con đường tốt nhất để cải thiện rất nhiều cho Việt Nam, Chế độ độc tài dưới Hồ Chí Minh sẽ thích hợp hơn bất kỳ chế độ độc tài [thuộc tầng lớp] ưu tú nào ở Nam Việt Nam. Nếu Mỹ muốn ngăn chận Trung Quốc, Hoa Kỳ.phải công nhận rằng Hồ Chí Minh sẽ phấn đấu để duy trì sự độc lập của mình, và do đó sẽ thực hiện những gì lực lượng quân sự của chúng ta không thể làm được …. C-18
Bator, Victor; Vietnam: “A Diplomatic Tragedy.”
1954: Trung Quốc là vấn đề quan trọng nhất mà Việt Nam phải đối mặt. Mối quan hệ chư hầu cho hai nơi tiềm năng cho phép VNDCCH dành được Độc Lập. Diệm đã ép buộc một cách cuồng tín ….c-20
Sacks, Milton; "Marxism in Southeast Asia."
1946-1949: Hồ đã cố gắng để bảo vệ tính trung lập, mặc dù điều này mâu thuẫn với mong muốn quốc tế hỗ trợ và công nhận cho VNDCCH ………. C-21
Buttinger, Joseph; “Vietnam: A Dragon Embattled”
1946-1947: Hồ nhận ra rằng ông không thể tập hợp người Việt đấu tranh cho độc lập với các biểu ngữ của chủ nghĩa cộng sản. Do đó, bộ mặt dân chủ mang lại chính nghĩa cho các chiến dịch cộng sản mạnh mẽ để đưa mọi người vào hang ngũ của Việt Minh và VNDCCH ……………..c-23
Kennedy, John F., quoted in Schlesinger, Arthur M., ed., “A Thousand Days.”
1951: Mỹ đã tham gia với Pháp trong một nỗ lực tuyệt vọng để bảo vệ đế chế [thực dân Pháp]. Mỹ không chỉ dựa trên vũ khí để ngăn chặn lực đẩy về phía nam của chủ nghĩa cộng sản, nhưng đã lo khai thác chủ nghĩa dân tộc •…………. c-24
Schlesinger, Arthur M.; “The Bitter Heritage”
Bức tường thành hiệu quả nhất chống lại nhà nước cộng sản hung hăng cũng có thể là một chủ nghĩa cộng sản dân tộc. Chính sách hợp lý của Mỹ nhằm ngăn chận Trung Quốc có thể là đã phải công nhận Việt Nam cộng sản vào năm 1954, thay vì ủng hộ một chế độ Sài Gòn run rẩy đứng đầu là là những quan lại hay tướng lãnh thuộc cánh hữu ….. c-25
Fall, Bernard B. “Viet-Nam Witness”
Cộng sản Việt Nam đã tiến hành cuộc cách mạng của họ mà không cần viện trợ từ nước ngoài, ngay cả từ Cộng sản Pháp........ c-26
Eden, Anthony, Earl of Avon; “Toward Peace in Indochina.”
Mối quan hệ Hồ-Bắc Kinh không phải là một hình ảnh song song của Tito-Moscow. Tuy nhiên, Hồ có nhiều điều để thắng nếu đạt được sự trung lập, và có nhiều nguy cơ nếu không duy trì các liên kết với Moscow, hoặc mở một con đường rút quân cho Mỹ …c-27
Fulbright, Senator J. William; “The Arrogance of Power”
Hồ Chí Minh là lãnh đạo duy nhất thực sự dân tộc của Việt Nam, ông ta cũng là một người cộng sản. Cộng sản Việt có lẽ là bức tường thành tiềm năng duy nhất chống lại sự thống trị của Trung Quốc. Do đó, Hoa Kỳ nên cố gắng đạt đến …. C-28
Reischauer Edwin 0.; "What Choices Do We Have In Vietnam?"
Hoa Kỳ đã có thể có một lập trường chống lại chủ nghĩa thực dân vào năm 1945, từ chối ủng hộ Pháp vào năm 1950, ủng hộ việc giải quyết Giơ-ne-vơ năm 1954, và từ chối tăng cam kết quân sự của mình vào năm 1961. Bốn Tổng Thống đã từ chối giải pháp để thúc đẩy chính nghĩa của Hồ Chí Minh xa hơn nữa, mà kết quả là có thể có được một nước Việt Nam dân tộc mãnh liệt độc lập đối với Trung Quốc. Hơn nữa, sự thân mật trong mối quan hệ của Hồ với Mỹ trong Thế Chiến II cho thấy một tiềm năng một mối quan hệ Mỹ-Việt Nam theo kiểu Tito và không có những hậu quả không may cho khu vực Đông Nam Á so với các quốc gia đang bị chiến tranh tàn phá hiện nay. Nhưng một Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đến nay xem như tốt hơn, từ quan điểm lâu dài của Mỹ, hiện trạng.. … c-29
Trích dẫn từ cuốn “No Peace for Asia” bởi Harold Isaacs, 1947, Trích dẫn cuốn “Viet Nam: History Documents, and Opinions on a Major World Crisis”, của Marvin E. Gettleman, ed., 1965, trang. 49-50, 53-55.
Hồ Chí Minh được sinh ra tại Vinh, ở miền bắc An Nam. "Quê hương của cách mạng," người Việt gọi nơi với những rừng núi thưa thớt và thung lũng, với dân số đông đúc dày đặc như thế. Từ một vùng mà đông đúc dân chúng phải bám vào đất đai để sinh sống đã sản sinh ra một tỷ lệ lớn khác thường các nhà lãnh đạo quốc gia lớn nhất Đông Dương. Là một cậu bé mười hai, Hồ bắt đầu sự nghiệp cách mạng của mình như kẻ làm liên lạc mang thông điệp từ làng này sang làng cho những người lớn tuổi đang âm mưu gì đó của mình. Hôm nay, ở tuối 55, ông thích nghĩ rằng mình là một người đã gạt sang một bên các đảng phái và cương lĩnh. Ông không nói bằng ngôn từ chính trị giai cấp nhưng với ngôn từ dân tộc. "Đảng của tôi là đất nước tôi," ông thích nói thế, chương trình của tôi là độc lập. "Trong các cuộc thảo luận dài, chúng tôi đã có một số vấn đề với phong trào Quốc Dân Đảng nói chung và ở Đông Dương nói riêng, ông sốt ruột dẹp sang một bên tất cả các mối nghi ngại." Độc lập là câu chuyện " chuyện gì sau sẽ làm sau. Nhưng độc lập phải đến đầu tiên và nếu còn bất cứ điều gì để làm thì tất cả sẽ sau này làm. "
Khi mà ta có thể đếm [Việt Nam]... ? Chắc chắn hiện nay không thể đếm được [bao nhiêu] người Trung Quốc. Trung Quốc vô cùng rộng lớn so với nước Cộng hòa Việt Nam bé nhỏ - và có lẽ sẽ đến một ngày khi Trung Quốc đã nhận ra năng lực của mình và đảm bảo vị trí của mình như là lãnh đạo của Á Châu. Vào ngày đó, Việt Nam có thể hưởng lợi,có lẽ, vì là hàng xóm của Trung Quốc.Tuy nhiên, Trung Quốc hiện nay quá yếu và bị tấn công dồn dập, do bởi các cuộc đấu tranh nội bộ và áp lực từ bên ngoài. Nó đã được cai trị bởi các loại của những người như ở miền bắc Đông Dương, bám vào đất như đỉa. Bởi vì họ đã đưa cánh tay kềm giữ người Pháp, họ tạm thời là hữu ích. Nhưng điều đó không thể kéo dài. Trung Quốc đã đàm phán giải quyết việc của mình với Pháp và có thể chỉ quan tâm đạt được kết quả riêng trực tiếp với mình. Từ những kết cuộc đó, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam còn rất ít để hưởng.
Có gì từ người Nga? Họ đã mang lại bất kỳ hỗ trợ chính trị mạnh mẽ cho người Việt Nam? Tôi đã không gặp bất cứ người Việt nào nghĩ như vậy, và tôi đã nói chuyện với nhiều người Cộng sản An Nam. Những người Cộng sản An Nam, cũng như tất cả các đồng chí quốc gia đều có một cảm giác đáng sợ về sự cô lập của họ. Họ thẳng thắn một cách bất thường và hoài nghi về người Nga. Thậm chí kẻ chính thống nhất trong số đó, như Trần Văn Giàu người tổ chức đảng với mái tóc bờm sờm, đã cho rằng Nga đã "vượt quá thỏa hiệp về ý thức hệ", và cho biết ông không chờ đợi sự giúp đỡ nào từ phía đó, bất kể lời nói xa gần có thể được. "Với người Nga là dân tộc Nga là đầu tiên và trên hết," Một người Cộng sản An Nam khác với những số cay đắng. "Họ sẽ quan tâm đến chúng tôi chỉ nếu chúng tôi phục vụ một số mục đích của họ. Ngay bây giờ, thật đáng tiếc, việc của chúng tôi dường như không để phục vụ bất cứ mục đích nào như thế. "
"Với Cộng sản Pháp thì sao?" Tôi hỏi. Anh khịt mũi ghê tởm."Những người Cộng sản Pháp", ông nói, "trước tiên họ là người Pháp và thực dân và sau đó là Cộng sản. Trên nguyên tắc, họ đứng về phía chúng tôi, nhưng trong thực tế? Ô hô, lại là một điều rất khác!" Một trong những người Cộng sản An Nam hàng đầu nói khinh khỉnh với Thorez, trong một bài phát biểu ở Paris đã cho biết ông ủng hộ của ngườiViêt để "cuối cùng đạt được nền độc lập của họ." Anh cười một cách cay đắng. "Một cụm từ cao su tinh vi, phải không bạn ? Bạn có thể kéo căng nó vào bất kỳ hình dạng hoặc bất kỳ ý nghĩa nào. Họ là bên đang chiếm ưu thế tại Pháp. Và hãy xem những gì người Pháp đang làm hiện nay ở Đông Dương."
"Giữa một số nhỏ người Cộng sản Pháp ở Đông Dương, các đồng chí người Việt đã học được một bài học đáng chú ý trong chính trị. Ở đây chỉ có hai mươi người trong nhóm Cộng sản Pháp ở Sài Gòn. "Trong số những người đó " người bạn Cộng sản Việt Nam đi cùng tôi nói "chỉ có một là đoàn kết với chúng tôi. Phần còn lại đứng sang một bên ". Nhóm Pháp chuẩn bị một.tài liệu của Đảng Cộng sản Đông Dương đề ngày 25 tháng 9 - hai ngày sau khi người Pháp đã bị nắm được quyền kiểm soát trong thành phố. Tôi có thể đọc các tài liệu đó, nhưng không được sao chép, vì vậy các ghi chú mà tôi đã thực hiện ngay sau đó là không đúng nguyên văn. Tuy nhiên, các điều chính yếu là như sau: Nó khuyên Cộng sản Việt Nam trước khi hành động quá vội vàng hãy chắc chắn rằng rằng cuộc đấu tranh của mình phải đáp ứng các yêu cầu của Liên Xô. Nó cũng cảnh cáo rằng bất kỳ "cuộc phiêu lưu hấp tấp” nào về độc lập cho Việt Nam có thể "không nằm trong đường lối" với quan điểm của Liên Xô. “Những quan điểm này có thể bao gồm Pháp như một đồng minh vững chắc của Liên Xô ở Âu Châu, trong trường hợp này, phong trào độc lập Việt Nam là một điều khó xử. Do đó, [chúng tôi] kêu gọi các đồng chí Việt Nam hảy giữ một chính sách "kiên nhẫn." đặc biệt khuyên họ chờ sau khi có kết quả của cuộc bầu cử ở Pháp, đến tháng sau, vào tháng Mười, khi sức mạnh cộng sản được nâng lên có thể đảm bảo cho Việt Nam một cách giải quyết tốt hơn. Trong khi đó, nó tha thiết đề xuất rằng một đặc phái viên được gửi không chỉ để liên lạc với Đảng Cộng sản Pháp mà còn cả [đảng Công Sản] Nga để tự mình làm quen với viễn cảnh của những sự kiện sắp tới ".
Tài liệu này được đưa ra với một sự thẳng thừng đáng chú ý và khác thường về khái niệm liên quan đến mối quan hệ giữa phong trào cách mạng và chính sách đối ngoại của Liên Xô. Nó rõ ràng đến như là một cú sốc đối với những người Cộng Sản Việt Nam, những người đã bị ném vào một sự bối rối đáng kể. Đã có một cuộc tranh luận căng thẳng trong nội bộ đảng và kết thúc bằng một quyết định giải thể toàn bộ đảng, chấm dứt hoạt động trong Việt Minh như một đơn vị riêng biệt nhưng có thể làm việc với nó [VM] hoàn toàn ltheo tính cách cá nhân. Bằng cách này dường đảng tìm cách tránh bất kỳ trách nhiệm nào tại một thời điểm mà trách nhiệm của mình là nặng nhất. Tôi không biết những gì đã xảy ra trong nội bộ họ một cách chi tiết nhưng tôi biết rằng những người Cộng sản An Nam mà tôi đã gặp là những người đã bị tổn thương sâu sắc với sự cay đắng khi bị đồng chí ý thức hệ của họ ở nước ngoài bỏ rơi. Từ đó họ kiếm cách ẩn mình trong một chủ nghĩa dân tộc thuần túy và đơn giản. Hồ Chí Minh đã làm cho một cụm từ không thành bất động khi ông nói: "đảng của tôi là đất nước tôi". Họ bị đè nén, cùng chung số phận với tất cả các nhà lãnh đạo Việt Nam quốc gia không cộng sản, bởi một cảm giác sợ hãi của sự cô đơn. Dường không có nơi nào hỗ trợ cho họ chống lại người Pháp, không từ Trung Quốc mà họ có thể cậy vào, cũng hoàn toàn không từ phía Nga mà họ mong đợi, cũng không có gì từ những người Cộng sản Pháp, những người đã đạt được sức mạnh to lớn trong lần bầu cử tháng mười nhưng không thực hiện bất kỳ thay đổi đáng chú ý nào trong vấn đề Đông Dương. Những gì sau đó là của Hoa Kỳ?
Người Việt dân tộc chủ nghĩa nói về Hoa Kỳ như người ta nói về một niềm hy vọng mà họ biết là tuyệt vọng nhưng tất cả cùng tuyệt vọng bám vào. Có thể nào tất cả các cụm từ tốt đẹp của Hiến chương Đại Tây Dương, của thỏa ước Liên Hiệp Quốc, của Tổng thống Roosevelt và những người kế nhiệm của ông thực sự không có nghĩa gì cả sao? Không có gì cả? Vậy thì cho phép chúng tôi [cúi đầu] tuân phục, tuân phục những mưu toan các cường quốc, tuân phục tất cả những thực tế tệ hại đau thương. Hoa Kỳ vẫn còn không thấy là họ sẽ khôn ngoan hơn vì lợi ích của vị trí của họ ở vùng Viễn Đông để chiến thắng giành sự hỗ trợ của nhân dân thay vì cứ bám vào hệ thống đế quốc thối rữa trong quá khứ? Dường như không phải vậy. Những chỉ dấu duy nhất mà người Việt thấy vai trò của Mỹ trong cuộc đấu tranh của họ là qua chuyện các vũ khí cho thuê, mượn mà người Pháp và người Anh đã dùng để chống người Việt và lời tuyên bố kinh hoàng về một thỏa thuận Mỹ cho phép Pháp vay $ 160,0000,000 để mua xe và những dụng cụ công nghiệp linh tinh để dùng ở Đông Dương. Đối với người Việt Nam, chuyện này giống như Mỹ đã đồng ý cho Pháp tái chiếm [Đông Dương]. Người Mỹ, dân chủ trong lời nói nhưng thực ra không một giúp đỡ nào, giống hệt người Nga trong ngôn từ cộng sản nhưng trên thực tế cũng không giúp gì.. "Chúng tôi dường như đứng khá một mình" Hồ Chí minh đơn giản nói. "Chúng tôi sẽ phải phụ thuộc vào chính chúng tôi."
Trích dẫn từ cuốn “Cuộc cách mạng bị quên lãng" của Robert Shaplen
Chương II – Hồ Chí Minh – Một cuộc chơi chưa thử nghiệm, pp. 27, 46-50
Tôi đã luôn được chia sẻ niềm tin bởi nhiều, nếu không phải là nhiều nhất, nhà quan sát ở Đông Dương cho rằng vào thời điểm này Pháp và Mỹ đã làm một sai lầm nghiêm trọng, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách Pháp đang chiếm ưu thế ở Paris, [sai lầm] đã không xử trí thực tế hơn với Hồ trong năm 1945 và năm 1946, khi có một khả năng mạnh mẽ rằng ông này có thể được "Tito" hóa trước cả Tito và chủ nghĩa Tito và toàn bộ các diễn biến sự kiện lúc đó đã có thể bị thay đổi và chận được rất nhiều máu đổ và ngày nay dù dưới bất một hình thức lãnh đạo tả phái nào, đều có thể là một bức tường ngăn chận [thành lập] bởi một khối trung lập mà các quốc gia Đông Nam Á Châu đã tìm kiếm, trên tất cả, để tránh sự thống trị của Cộng sản Trung Quốc. Một số quan chức Mỹ cao nhất đã nói riêng với tôi rằng họ hiện nay tin rằng nên phải đánh bạc với Hồ, thực tế, đã có một số đáng kể những người đã lần nữa nói về chuyện Việt Nam trở thành một Nam Tư ở Đông Nam Á, một khả năng mà dường như theo tôi bây giờ đã xa vợi.
***
(xem tiếp kỳ 11)
Ở Biarritz, nơi ông lần đầu tiên được nghỉ ngơi, ở Paris và sau đó tại hội nghị ở Fontainebleau, Hồ đã hưởng một thành công cá nhân rất lớn.Ông đã quyến rũ tất cả mọi người, đặc biệt là báo chí. Ông đã phân phát hoa hồng với các nữ phóng viên, đã ký tên bằng máu của mình cho một nam phóng viên Hoa Kỳ. Ông đã được so sánh với Khổng Tử, Đức Phật, Thánh Gioan Báp Tít, và với bất cứ ông nội/ ngoại già lẩm cẩm của bất cứ ai, và ông đã được ghi nhận như một nhà tu khổ hạnh, kể từ khi, trong số những chuyện khác, ông đã từ chối uống một ly [rượu]. Bất cứ nơi nào ông xuất hiện, hoặc là một nhạc viện cho đến một buổi tiêp tân hoành tráng, một buổi pic nic, một phiên họp báo ông đều xuất hiện trong bộ quần áo đơn giản với nhiều cúc áo của mình. "Ngay khi người nào đó đến tiếp cận với ông già ốm yếu này thì họ đều được chia sẽ sự ngưỡng mộ của tất cả những người chung quanh ông ta, những người mà ông đã sự thanh thoảng có được từ những kinh nghiệm" một phóng viên đã viết. Ghi nhận của mình là "khuôn mặt dày vò và đôi mắt màu xanh cháy bỏng một ánh sáng bên trong", một phóng viên khác tuyên bố rằng ông "che giấu một tâm hồn thép phía sau một cơ thể mỏng manh." Hóm hỉnh, lịch sự theo kiểu phương Đông, khéo léo, sự sâu sắc hỗn hợp và khôi hài trong quan hệ xã hội, tình yêu không hạn chế cho trẻ em, và trên tất cả là sự chân thành và sự đơn giản của ông dường như đã nắm bắt mọi người ngay tức khắc.
Thật không may, thành quả chuyến đi của Hồ là rất ít thành công. Lỗi lầm, nói chung giờ đây được mọi người thừa nhận, chủ yếu là của Pháp, trong khi hội nghị đang tiếp diễn, [Pháp] tiếp tục vi phạm tinh thần của mình bằng cách tiếp tục nuôi dưỡng ý tưởng tách riêng miền Nam ra khỏi Liên Bang Đông Dương....
Cuối cùng khi ông và Sainteny đã bay đi Paris để bắt đầu các cuộc đàm phán, Sainteny mô tả ông như "xanh xao, đôi mắt rực rỡ, và cở họng chặt chẽ " và ông trích dẫn lời Hồ nói rằng, khi chiếc máy bay đang đáp xuống, "Trên tất cả, không, đừng bỏ rơi tôi cho dù ông làm bất cứ điều gì". Khi hội nghị đã thành lãng phí trong bóng tối của thất bại, cho tới nay là bởi kết quả của các hoạt động của những kẻ cực đoan Việt Minh tại Hà Nội cũng như các cuộc diễn tập của Pháp ở Nam Kỳ, Hồ càng ngày càng trở nên mệt mõi. Sainteny đồng ý là ông nên trở về Hà Nội càng sớm càng tốt. "Nhưng tôi có thể làm được gì nếu tôi trở về nhà với tay không?" Hồ hỏi. "Đừng để tôi ra đi như thế," ông cầu xin Sainteny và Marius Moutet thuộc Đảng Xã Hội, Bộ trưởng Bộ Thuốc Địa. "Trang bị tôi dể chống lại những người đang tìm cách thay tôi, các ông sẽ không hối tiếc." Đó là một lời thú nhận đáng kể, đáng kể như những gì Hồ nói với Sainteny và Moutet vào một buổi tối khác, "Nếu chúng tôi phải chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu. Các ông sẽ giết chết mười người của chúng tôi và chúng tôi sẽ giết chết một của các, và cuối cùng chính các ông sẽ là những người mệt mõi vì nó."
Vào nửa đêm ngày 14 Tháng Chín 1946, dáng đi yếu đuối của Hồ Chí Minh, trong bộ áo chẽn quân sự của mình, bước ra khỏi khách sạn Royal-Monceau tại Paris (các phiên họp ở Fontainebleau đã kết thúc) và tản bộ đến nhà Moutet gần đó. Hồ và Moutet đã ký một giải pháp giữ nguyên trạng (modus Vivendi), trong khi đó nhấn mạnh nhượng bộ của Việt Nam (và một số người Pháp) là để bảo vệ quyền lợi Pháp ở Đông Dương, chỉ trì hoãn thỏa thuận về các vấn đề chính trị cơ bản, ít nhất nó đặt lên Pháp trách nhiệm khôi phục lại trật tự ở Nam Kỳ. Điều này không có gì nhiều hơn những điều đã được đồng ý vào mùa xuân nhưng đã mất hiệu lực từ lâu, nhưng Hồ đã công khai gọi giải pháp giữ nguyên trạng là "tốt hơn là không có gì.". Tuy nhiên, ông đã thì thầm với một nhân viên an ninh đi cùng khi ông trở lại khách sạn vào sáng sớm "Tôi vừa ký giấy tử hình cho tôi."
Mặc dù sứ mạng của mình bị thất bại, Hồ, trong tính cách quốc tế thực sự của mình, đã vui sống trong những ngày ở Paris, một thành phố mà ông đã luôn luôn yêu mến. Nhiều năm trước, đứng trên một cây cầu bắc qua sông Seine, ông đã nhận xét với một đồng chí Cộng sản "thật là một thành phố thật tuyệt vời, những cảnh vật thật tuyệt vời!" Khi người bạn đã trả lời rằng Moscow cũng đẹp, Hồ nói, "Moscow là anh hùng, Paris là niềm vui của cuộc sống." Trong thời gian hội nghị năm 1946, Hồ đã viếng lại một số nơi lai vãng cũ của mình và, giao tiếp xã hội với một số phóng viên nước ngoài, nói chuyện một cách thoải mái về chính mình và về [con đường] chính trị của ông. "Mọi người đều có quyền theo học thuyết của mình," ông nói."Tôi đã nghiên cứu và chọn Marx. Chúa Giêsu đã nói 2000 năm trước đây là ta nên yêu thương kẻ thù của chúng ta. Giáo điều đó đã không được thực hiện. Khi nào chủ nghĩa Mác sẽ thành hiện thực, tôi không thể trả lời.... Để đạt được một xã hội Cộng sản, phải có công nghiệp nặng và nền sản xuất nông nghiệp lớn là cần thiết... Tôi không biết khi nào sẽ được thực hiện [Cộng Sản] ở Việt Nam, nơi mà [trình độ] sản xuất còn thấp Chúng tôi chưa đứng được ở vị thế đáp ứng các điều kiện đó. "
Bản tự kiểm của Hồ liên quan đến sự phát triển của Đông Dương là một bản trung thực đáng chú ý về chủ nghĩa Mác. Trong thời gian đầu, chủ nghĩa Mác chưa là chi nhiều cho những kế hoạch của ông ta. Đó là là hợp lý, và một trong những các học giả sắc bén nhất về Đông Dương, Paul Mus, đã chỉ ra rằng nó đã được Hồ thu nhận như một vũ khí quan trọng của phương Tây, một kho vũ khí trong thực tế, như một người Á Châu, ông có thể chống lại ông chủ Pháp của mình. Hồ, như một người Mác-xít, đã nhanh chóng nhìn ra rõ sự việc là đất nước ông đã bị cướp bóc, bị cố tình giữ trong một nền kinh tế cơ hàn thiếu thốn bởi một chính quyền thực dân thiếu óc sáng kiến. Trong khi người Pháp khai thác cao su hoặc gạo hoặc bất cứ món gì khác mà họ muốn và bán nó trên thị trường quốc tế với một lợi nhuận cao, thì người Việt Nam vẫn còn sống trong một hệ thống lao đông chỉ xử dụng tay chân chứ không dùng tiền bạc, trong một ý nghĩa ý thức quốc tế. Thực sự hàng hóa đã được dùng để trao đổi trong sinh hoạt. Những điều kiện kinh tế như thế đã trở thành cơ sở cho sự tức giận của Hồ và đã kéo ông ta trở lại, gần như không thể thay đổi, với chủ nghĩa Mác và từ đó đã đi đến với chủ nghĩa cộng sản. “Hồ đã xây dựng trên những gì mà tất cả người Á Châu đã xây dựng cho mỗi mình tham gia ", Mus nói “Đó là một lối lý luận để theo kiểu phương Tây để đối phó với chúng ta”. Kể cả đó là một nghề chẳng hạn như luật sư, hay bác sĩ hay bất cứ nghề gì như, một người Á Châu phải tìm thấy logic này hoặc phải thua. Trước tiên Hồ tìm thấy lý luận này trong chủ nghĩa Mác và ông trở thành một Lênin, kể từ khi Lenin đã phải đối mặt ở Nga với cùng một vấn đề trống vắng về quyền lực ở nông thôn. Hồ đã thành công vì ông giữ mình thật sự với chủ nghĩa Lênin và Mác. Theo nghĩa này, đơn giản theo quan điểm của ông, ông đã thuộc về một thứ tình huynh đệ chân chính.”
Cùng với Sainteny, Mus là một trong những người Pháp người thừa nhận rằng nước Pháp và thế giới phương Tây đã bỏ lỡ một cơ hội thích hợp với Hồ vào năm 1946. Bản than Mus là một nhà thương thuyết Pháp đã gặp Hồ một năm sau đó và ông có cùng sự yêu mến lạ lùng như những người khác từng đã biết ông. Như một người Pháp, tôi không có lý do để yêu mến Hồ, bởi những gì ông đã làm". Mus lâu sau đó nói với tôi "nhưng tôi vẫn thích ông ấy. Tôi không sợ nói như vậy. Tôi thích ông ấy vì cái tâm mạnh mẽ của ông. Mặc dù ông ta là một diễn viên tuyệt vời - người ta không thể có đủ khả năng để ngây thơ với ông - ông ta luôn là người giữ lời. Ông chỉ tin rằng sự thật khi chính ông nhìn thấy nó. Nhưng ông ta là một người theo chủ nghĩa Mác và đó là chỗ khởi đầu khi chúng tôi gặp gỡ.”
Ông trích dẫn lời của Hồ nói với ông vào năm 1947 "Vũ khí duy nhất của tôi là sự tức giận....Tôi sẽ không giải giáp người của tôi cho đến khi tôi tin tưởng được các ông". Hồ sẵn sàng để đối thoại với Pháp mà Mus tin rằng ông chủ yếu đã xác định được nhu cầu của mình là được tư vấn Pháp và trên tất cả là cố vấn tài chính. "Học thuyết Mác-xít kêu gọi nhà nước vô sản sử dụng, ít nhất là tạm thời, kế toán của các nước tư bản chủ nghĩa tư sản", Mus nói. Bởi vì nền kinh tế bẩm sinh đã bị Ngân hàng Đông Dương áp đặt, Hồ biết rằng Việt Nam không thể đứng trên chính đôi chân của của mình, hoặc về tiền hay thương mại. Ông cũng biết ông không thể dựa vào thực dân Pháp. Cách tiếp cận chính trị của ông đã được thông qua Thủ Đô Pháp. Ông không tin rằng đây là cơ hội duy nhất của ông, nhưng ông đã xác định là phải chơi hết các khả năng. Ông dao động giữa tình cảm và quan hệ với Pháp, điều đã đưa đến hình ảnh chủ nghĩa Mác của mình và sự vỡ mộng mới mẻ của ông năm 1946. "Nếu chúng ta đã ủng hộ ông mạnh mẽ hơn thì" Mus nói thêm: "chúng ta có thể đã giành được thắng lợi.... Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nghiền nát ông ta phải đi đến chiến tranh Chúng tôi đã không đánh giá khó khăn như thế nào khi phải đánh nhau với ông ta... Nhưng chúng ta không được quên rằng ông ta thực sự muốn một thỏa thuận với Pháp tại thời điểm Fontainebleau bởi vì nó sẽ phục vụ ông ta. Phần động cơ đó của ông sau đó đã bị chết, tất nhiên, nhưng chúng ta nên hiểu rằng nó [đề nghị VN Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp] tồn tại vào thời điểm đó và ông ta đã thực sự thất vọng. "
Trích dẫn trong cuốn “ Vietnam: The Logic of Withdrawal, 1967”, bởi Howard. Zinn
Trang 101-102
Quan điểm lịch sử cho thấy rằng một nước Việt Nam thống nhất dưới thời Hồ Chí Minh là một lợi thế hơn là một chế độ độc tài ưu tú của miền Nam, cũng giống như chủ nghĩa Mao Trung Quốc với dù tất cả các lỗi lầm của mình là thích hợp hơn dưới sự cai trị của Tưởng, và Castro của Cuba thay vì Batista. Chúng ta không có sự lựa chọn tinh khiết nào vào lúc ấyi, mặc dù chúng ta không bao giờ đầu hàng bỏ qua những giá trị có thể định hình trong tương lai. Ngay bây giờ, đối với Việt Nam, một chính phủ Cộng sản có lẽ là con đường tốt nhất [vì nó] có sẵn với một gói toàn bộ các giá trị con người để tạo nên đạo đức chung của nhân loại ngày hôm nay; việc bảo tồn đời sống con người, quyền tự quyết, an ninh kinh tế, chấp dứt sự áp bức về chủng tộc và giai cấp, và.quyền tự do ngôn luận và báo chí mà dân chúng có giáo dục yêu cầu..
Trong cuộc tranh luận về Việt Nam, đã có ít hoặc không có cuộc thảo luận về chính xác là những gì sẽ là những hậu quả tàn khốc nếu người cộng sản thống nhất Việt Nam. Nó đã trở thành một bài viết liên quan đến niềm tin cho rằng những gì tốt hay xấu trong quan hệ quốc tế là vấn đề đếm xem có bao nhiêu nước đứng về phía Cộng sản, và con số khác về phía chúng ta. Có kẻ bị vỡ mặt và có kẻ có chum lông nhung trên chóp mũ [ý nói có người thắng người thua]. Và sự khác biệt là giá trị của một núi xác chết…
Chúng ta cần quen với ý tưởng rằng sẽ có hơn một nước Cộng sản trên thế giới, và rằng điều này không nhất thiết là xấu.. Chuyện bảo vệ an ninh “vật lý” của Hoa Kỳ là không hề giảm đi vì bản thân chuyện đó [các nước CS], vì trong mọi vấn đề quốc tế các quốc gia cộng sản cư xử rất giống với bất cứ các các quốc gia nào khác (đây là lý do tại sao họ là như vậy thường xuyên thất vọng về những người có cảm tình với họ), một số thân thiện, một số là thù địch. Mỗi nơi là một kết quả [pha trộn] duy nhất của lý thuyết Mác-xít và điều kiện địa phương. Càng có nhiều quốc gia Cộng Sản, sự đa dạng càng lớn hơn trong số đó. Đã nhiều năm nay kể từ khi các học giả trong lĩnh vực nghiên cứu Cộng sản đã bắt đầu lưu ý về ý niê/m "polycentrism," [đa trung tâm] nhưng các quan chức Mỹ vẫn thường hành động như thể chỉ có một trung tâm cộng sản trong thế giới …
Có một điều mà chúng ta đã phải học được cho tới này là các quốc gia Cộng sản cũng có những cảm xúc của dân tộc như bất cứ các quốc gia khác, họ khao khát độc lập và chống lại sự thống trị bởi bất kỳ quốc gia nào khác, dù là tư bản chủ nghĩa hay cộng sản. Điều này có nghĩa là một quốc gia cộng sản nhỏ nhưng họ có thể bảo vệ độc lập của mình bên cạnh một anh hàng xóm lớn hiệu quả và tốt hơn nhiều so với chế độ độc tài không cộng sản, bán phong kiến. Một Việt Nam cộng sản dưới Hồ Chí Minh được dự kiến là có thể giữ được nền độc lập của mình chắc chắn như Tito đã duy trì của độc lập của nước của ông ấy.
Ý tưởng "ngăn chặn" đã luôn luôn được xem là mập mờ: Mục đích của chúng ta để kiềm chế Trung Quốc, hay ngăn chận cộng sản? Và là cả hai thì chúng ta sẽ phải làm những gì làm gì nếu hai mục tiêu đó trở thành mâu thuẫn với nhau?
Đặt cơ sở toàn bộ chính sách Á Châu của chúng ta trên chuyện "ngăn chận" Trung Quốc [bành trướng] là một nguy cơ tiêu tốn hàng tỷ đô la và hàng ngàn sinh mạng trên ý tưởng rằng Trung Quốc có kế hoạch thôn tính các nước khác bằng quân sự - một giả thuyết không được hỗ trợ, hoặc bằng lời nói hoặc bằng lịch sử hành động của họ cho đến nay, và trường hợp [ngăn chận] Liên Xô hóa ra là sai lầm. Và để làm cho giả thuyết phạm một lỗi lầm gấp đôi, giả định rằng nếu Trung Quốc muốn mở rộng thì họ có thể [làm điều ấy].
Trích dẫn trong cuốn “ Vietnam: A Diplomatic Tragedy ”, bởi Victar Batar, 1965
Trang 226-227
Mặc dù vị trí địa lý cận kề nguy hiểm của Trung Quốc và sự phụ thuộc trước đó của Hồ Chí Minh về hỗ trợ quân sự của Trung Quốc, năm 1954, có khả năng là chính phủ Hồ Chí Minh đã có một số liên lạc ngoại giao nhằm đến một sự ổn định thực sự. Ông đã có trong chính phủ của ông những thành viên không phải là người theo chủ nghĩa Mác xít giúp đỡ cũng như Việt Nam ngàn năm lịch sử lấp đầy với những lần lần thành công trong nổ lực giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của Trung Quốc. "Câu hỏi quan trọng nhất đối với cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam," một người Việt nổi tiếng chống Diệm và chống cả Cộng Sản " là làm thế nào để sống còn. Tương lai của toàn thể dân tộc Việt Nam bị đe dọa bởi con số [hơn tỷ người] và tính năng động lớn lao như vậy (của Trung Quốc)".
Mối quan hệ hai mang của Bắc Việt Nam (Moscow và Bắc Kinh) tiềm nằng có thể tạo ra một một thế đứng độc lập hạn chế với cả hai. Cộng Sản Việt Nam đã quay sang Nga và các chư hầu Âu Châu của ho để tìm kiếm những giúp đỡ cần thiết sau [Hội Nghị Geneva] để phục hồi lại từ sự tàn phá của một cuộc nội chiến bảy năm. Với sự giúp đỡ này, Bắc Việt Nam ngày càng có thể độc lập với Trung Quốc. Ngay cả lãnh đạo và hàng không hề mất niềm tự hào độc lập, có thể nói một cách chắc chắn rằng Hồ Chí Minh, bây giờ là chính khách "đàn anh" của thế giới cộng sản, cũng không khác với những nhà lãnh đạo quốc gia khác: chắc chắn ông không muốn mình vui trong vai trò con rối..Dường như ông có đủ tài năng và sự tinh tế để di động giữa Scylla và Charybdis để cùng làm vừa lòng Trung Quốc và người Nga [“giữa Scylla và Charybdis” là thành ngữ Hy Lap chỉ tình trạng “đu giây” giữa hai phe]. Như vậy, một chính sách ngoại giao nhằn đạt đến một Việt Nam thật sự trung lập, ngay cả khi không được Bắc Kinh hoàn toàn chấp thuận, đã có thể đạt được thành công trong những năm 1955-1960. Tất nhiên, đối với sự cuồng tín không thể hòa giải của Diệm, bất kỳ liên hệ nào với Hồ Chí Minh đều sẽ bị nguyền rủa, nhưng chính sách của Mỹ không nhất thiết chỉ phải dành để phục vụ cho hệ thống thần kinh của Diệm, đặc biệt là kể từ khi có rất nhiều chống đối từ các đồng hương của ông ta.
Trích dẫn từ cuốn "Marxism in Vietnam" của Milton Sacks, trong “Marxism in Southeast Asia”, của Frank N. Trager, ed., 1959.
Trang 163-164
Trong cùng khoảng thời gian (1946-1949), chính phủ Hồ Chí Minh đã cẩn thận tìm cách duy trì mối quan hệ thân thiện với Thái Lan và chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Ngoài ra, một nỗ lực tuyên truyền được xác định là đã được thực hiện để tranh thủ sự cảm thông của các nước Đông Nam Á cho cuộc đấu tranh của Việt Nam. Trong tình hình phát triển chiến tranh lạnh đã đưa đến sự phân cực trong quan hệ quốc tế, lãnh đạo Việt Minh công khai từ chối đứng về phía nào và công bố một chính sách trung lập. Ngay cả khi báo chí Liên Xô và Cộng sản thế giới khẳng định rằng Hồ Chí Minh là Cộng sản hoặc nhấn mạnh rằng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một bộ phận trong "Mặt trận dân chủ thế giới " chống lại "chủ nghĩa đế quốc Mỹ”, chính phủ Việt Nam bản thân lại duy trì một sự im lặng kín đáo. Cộng sản Việt Nam đã không làm nổi bậc việc thân Liên Xô như thường lệ, cũng không đưa ra các cuộc tấn công chưởi rủa chống Mỹ như đã rất phổ biến trong phong trào Cộng sản thế giới. Vào cuối tháng 3 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục tố cáo về "sự thống trị của cộng sản" trong chính phủ mà ông đứng đầu là "tuyên truyền thuần túy chủ nghĩa đế quốc Pháp".
Trên thực tế, chính sách phủ nhận sự liên kết với chủ nghĩa cộng sản gây mâu thuẫn cho chính phủ Hồ Chí Minh giữa việc tăng cường quan hệ giữa các tổ chức quần chúng ở Việt Nam và các cơ quan của cộng sản quốc tế. Những người ủng hộ chính phủ Việt Minh cho rằng thực tế đây là cách duy nhất mà Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có thể nhận được một số công nhận quốc tế. Dù sao cuộc xung đột đã có mặt, và những tham gia trong các tổ chức phong trào là thêm khó khăn: ví dụ, khi đại diện của các tổ chức thanh niên Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tham dự cuộc họp khu vực của Liên đoàn Thanh niên Dân chủ tại Calcutta vào tháng Hai năm 1948. Kể từ khi cuộc họp này đã được sử dụng như một phương tiện để công khai nhấn mạnh chiến lược mới của Cộng sản ở Đông Nam Á đã dẫn đến cuộc khởi nghĩa Cộng sản ở Miến Điện, Malaysia và Indonesia, đại diện Việt Nam được đặt ở một vị trí khó xử. Họ có thể và nhấn mạnh trên niềm tự hào về "cuộc đấu tranh giải phóng" mà họ đã tiến hành.Tuy nhiên, cùng lúc, họ đã không phủ nhận những thành công hiển nhiên của chính sách liên minh với "giai cấp tư sản quốc gia" đang theo đuổi tại Việt Nam. Họ chỉ đơn giản là tránh được vấn đề được đặt ra trong chính sách mới nhấn mạnh sự tấn công vào các "tư sản dân tộc" là sự cần thiết của lãnh đạo đảng Cộng sản trong việc đấu tranh giải phóng, và là sự cần thiết trong mối quan hệ trực tiếp với phe Liên Xô.
Độ lệch trong chính sách chung của Cộng sản ở Đông Nam Á [đảng Cộng Sản Đông Dương] trong thời gian 1948-1949 có thể được mô tả như là biểu hiện của sự linh hoạt về chiến thuật của tài lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Việt Minh đã dẫn một cuộc đấu tranh vũ trang có hiệu quả cao chống lại người Pháp ở Việt Nam và được sự ủng hộ của nhiều người quốc gia Việt Nam đã tin vào những lời tuyên bố không Cộng sản của người phát ngôn cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Hơn thế nữa, chính phủ của họ đã đạt được những đánh giá cảm thông và hỗ trợ quốc tế từ những dư luận không cộng sản, chống chống thực dân. Để lãng phí các tài sản này, đơn giản chỉ cần phát ngôn ra những tuyên bố ý thức hệ tương xứng với tuyên bố của khối Cộng sản là sẽ trả một giá cao tại bất kỳ thời điểm nào.Tuy nhiên, xem ra cũng có thể thoải mái mà thấy rằng Hồ Chí Minh và một số nhà lãnh đạo Việt Minh khác đều muốn có biện pháp độc lập theo kiểu không liên kết với bất cứ khối nào, và hy vọng có thể tránh được sự phân cực không tránh khỏi của phong trào dân tộc ở Việt Nam vớ tất cả các hậu quả tiêu cực đang chờ đợi của nó.
Trích dẫn từ cuốn " Vietnam: A Dragon Embattled -. (Vol I: From Colonialism to the Viet Minh) " của Joseph Buttinger, 1967
Trang 406-408
Nhưng không ai biết rõ hơn Hồ Chí Minh rằng cuộc đấu tranh cho độc lập không thể được thực hiện dưới ngọn cờ của chủ nghĩa cộng sản. Việc thành lập một chế độ độc tài công khai của đảng của họ sẽ chỉ mang lại sự sụp đổ của toà nhà chính trị tài tình mà họ đang thống trị kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ phong trào toàn dân tộc. Chế độ càng phát triển về hướng độc đảng thì lại càng cần thiết phải có những thuyết phục hùng biện về dân chủ, và một thứ lễ nghi, và một bộ mặt lộng lẫy về dân chủ. Hiến Pháp được trình lên một Quốc Hội đã được tạo dựng cho mục đích này. Nó đã được thông qua với 240 thuận với 2 phiếu chống ngày 8 tháng 11 [1945].
Thật không may, thành quả chuyến đi của Hồ là rất ít thành công. Lỗi lầm, nói chung giờ đây được mọi người thừa nhận, chủ yếu là của Pháp, trong khi hội nghị đang tiếp diễn, [Pháp] tiếp tục vi phạm tinh thần của mình bằng cách tiếp tục nuôi dưỡng ý tưởng tách riêng miền Nam ra khỏi Liên Bang Đông Dương....
Cuối cùng khi ông và Sainteny đã bay đi Paris để bắt đầu các cuộc đàm phán, Sainteny mô tả ông như "xanh xao, đôi mắt rực rỡ, và cở họng chặt chẽ " và ông trích dẫn lời Hồ nói rằng, khi chiếc máy bay đang đáp xuống, "Trên tất cả, không, đừng bỏ rơi tôi cho dù ông làm bất cứ điều gì". Khi hội nghị đã thành lãng phí trong bóng tối của thất bại, cho tới nay là bởi kết quả của các hoạt động của những kẻ cực đoan Việt Minh tại Hà Nội cũng như các cuộc diễn tập của Pháp ở Nam Kỳ, Hồ càng ngày càng trở nên mệt mõi. Sainteny đồng ý là ông nên trở về Hà Nội càng sớm càng tốt. "Nhưng tôi có thể làm được gì nếu tôi trở về nhà với tay không?" Hồ hỏi. "Đừng để tôi ra đi như thế," ông cầu xin Sainteny và Marius Moutet thuộc Đảng Xã Hội, Bộ trưởng Bộ Thuốc Địa. "Trang bị tôi dể chống lại những người đang tìm cách thay tôi, các ông sẽ không hối tiếc." Đó là một lời thú nhận đáng kể, đáng kể như những gì Hồ nói với Sainteny và Moutet vào một buổi tối khác, "Nếu chúng tôi phải chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu. Các ông sẽ giết chết mười người của chúng tôi và chúng tôi sẽ giết chết một của các, và cuối cùng chính các ông sẽ là những người mệt mõi vì nó."
Vào nửa đêm ngày 14 Tháng Chín 1946, dáng đi yếu đuối của Hồ Chí Minh, trong bộ áo chẽn quân sự của mình, bước ra khỏi khách sạn Royal-Monceau tại Paris (các phiên họp ở Fontainebleau đã kết thúc) và tản bộ đến nhà Moutet gần đó. Hồ và Moutet đã ký một giải pháp giữ nguyên trạng (modus Vivendi), trong khi đó nhấn mạnh nhượng bộ của Việt Nam (và một số người Pháp) là để bảo vệ quyền lợi Pháp ở Đông Dương, chỉ trì hoãn thỏa thuận về các vấn đề chính trị cơ bản, ít nhất nó đặt lên Pháp trách nhiệm khôi phục lại trật tự ở Nam Kỳ. Điều này không có gì nhiều hơn những điều đã được đồng ý vào mùa xuân nhưng đã mất hiệu lực từ lâu, nhưng Hồ đã công khai gọi giải pháp giữ nguyên trạng là "tốt hơn là không có gì.". Tuy nhiên, ông đã thì thầm với một nhân viên an ninh đi cùng khi ông trở lại khách sạn vào sáng sớm "Tôi vừa ký giấy tử hình cho tôi."
Mặc dù sứ mạng của mình bị thất bại, Hồ, trong tính cách quốc tế thực sự của mình, đã vui sống trong những ngày ở Paris, một thành phố mà ông đã luôn luôn yêu mến. Nhiều năm trước, đứng trên một cây cầu bắc qua sông Seine, ông đã nhận xét với một đồng chí Cộng sản "thật là một thành phố thật tuyệt vời, những cảnh vật thật tuyệt vời!" Khi người bạn đã trả lời rằng Moscow cũng đẹp, Hồ nói, "Moscow là anh hùng, Paris là niềm vui của cuộc sống." Trong thời gian hội nghị năm 1946, Hồ đã viếng lại một số nơi lai vãng cũ của mình và, giao tiếp xã hội với một số phóng viên nước ngoài, nói chuyện một cách thoải mái về chính mình và về [con đường] chính trị của ông. "Mọi người đều có quyền theo học thuyết của mình," ông nói."Tôi đã nghiên cứu và chọn Marx. Chúa Giêsu đã nói 2000 năm trước đây là ta nên yêu thương kẻ thù của chúng ta. Giáo điều đó đã không được thực hiện. Khi nào chủ nghĩa Mác sẽ thành hiện thực, tôi không thể trả lời.... Để đạt được một xã hội Cộng sản, phải có công nghiệp nặng và nền sản xuất nông nghiệp lớn là cần thiết... Tôi không biết khi nào sẽ được thực hiện [Cộng Sản] ở Việt Nam, nơi mà [trình độ] sản xuất còn thấp Chúng tôi chưa đứng được ở vị thế đáp ứng các điều kiện đó. "
Bản tự kiểm của Hồ liên quan đến sự phát triển của Đông Dương là một bản trung thực đáng chú ý về chủ nghĩa Mác. Trong thời gian đầu, chủ nghĩa Mác chưa là chi nhiều cho những kế hoạch của ông ta. Đó là là hợp lý, và một trong những các học giả sắc bén nhất về Đông Dương, Paul Mus, đã chỉ ra rằng nó đã được Hồ thu nhận như một vũ khí quan trọng của phương Tây, một kho vũ khí trong thực tế, như một người Á Châu, ông có thể chống lại ông chủ Pháp của mình. Hồ, như một người Mác-xít, đã nhanh chóng nhìn ra rõ sự việc là đất nước ông đã bị cướp bóc, bị cố tình giữ trong một nền kinh tế cơ hàn thiếu thốn bởi một chính quyền thực dân thiếu óc sáng kiến. Trong khi người Pháp khai thác cao su hoặc gạo hoặc bất cứ món gì khác mà họ muốn và bán nó trên thị trường quốc tế với một lợi nhuận cao, thì người Việt Nam vẫn còn sống trong một hệ thống lao đông chỉ xử dụng tay chân chứ không dùng tiền bạc, trong một ý nghĩa ý thức quốc tế. Thực sự hàng hóa đã được dùng để trao đổi trong sinh hoạt. Những điều kiện kinh tế như thế đã trở thành cơ sở cho sự tức giận của Hồ và đã kéo ông ta trở lại, gần như không thể thay đổi, với chủ nghĩa Mác và từ đó đã đi đến với chủ nghĩa cộng sản. “Hồ đã xây dựng trên những gì mà tất cả người Á Châu đã xây dựng cho mỗi mình tham gia ", Mus nói “Đó là một lối lý luận để theo kiểu phương Tây để đối phó với chúng ta”. Kể cả đó là một nghề chẳng hạn như luật sư, hay bác sĩ hay bất cứ nghề gì như, một người Á Châu phải tìm thấy logic này hoặc phải thua. Trước tiên Hồ tìm thấy lý luận này trong chủ nghĩa Mác và ông trở thành một Lênin, kể từ khi Lenin đã phải đối mặt ở Nga với cùng một vấn đề trống vắng về quyền lực ở nông thôn. Hồ đã thành công vì ông giữ mình thật sự với chủ nghĩa Lênin và Mác. Theo nghĩa này, đơn giản theo quan điểm của ông, ông đã thuộc về một thứ tình huynh đệ chân chính.”
Cùng với Sainteny, Mus là một trong những người Pháp người thừa nhận rằng nước Pháp và thế giới phương Tây đã bỏ lỡ một cơ hội thích hợp với Hồ vào năm 1946. Bản than Mus là một nhà thương thuyết Pháp đã gặp Hồ một năm sau đó và ông có cùng sự yêu mến lạ lùng như những người khác từng đã biết ông. Như một người Pháp, tôi không có lý do để yêu mến Hồ, bởi những gì ông đã làm". Mus lâu sau đó nói với tôi "nhưng tôi vẫn thích ông ấy. Tôi không sợ nói như vậy. Tôi thích ông ấy vì cái tâm mạnh mẽ của ông. Mặc dù ông ta là một diễn viên tuyệt vời - người ta không thể có đủ khả năng để ngây thơ với ông - ông ta luôn là người giữ lời. Ông chỉ tin rằng sự thật khi chính ông nhìn thấy nó. Nhưng ông ta là một người theo chủ nghĩa Mác và đó là chỗ khởi đầu khi chúng tôi gặp gỡ.”
Ông trích dẫn lời của Hồ nói với ông vào năm 1947 "Vũ khí duy nhất của tôi là sự tức giận....Tôi sẽ không giải giáp người của tôi cho đến khi tôi tin tưởng được các ông". Hồ sẵn sàng để đối thoại với Pháp mà Mus tin rằng ông chủ yếu đã xác định được nhu cầu của mình là được tư vấn Pháp và trên tất cả là cố vấn tài chính. "Học thuyết Mác-xít kêu gọi nhà nước vô sản sử dụng, ít nhất là tạm thời, kế toán của các nước tư bản chủ nghĩa tư sản", Mus nói. Bởi vì nền kinh tế bẩm sinh đã bị Ngân hàng Đông Dương áp đặt, Hồ biết rằng Việt Nam không thể đứng trên chính đôi chân của của mình, hoặc về tiền hay thương mại. Ông cũng biết ông không thể dựa vào thực dân Pháp. Cách tiếp cận chính trị của ông đã được thông qua Thủ Đô Pháp. Ông không tin rằng đây là cơ hội duy nhất của ông, nhưng ông đã xác định là phải chơi hết các khả năng. Ông dao động giữa tình cảm và quan hệ với Pháp, điều đã đưa đến hình ảnh chủ nghĩa Mác của mình và sự vỡ mộng mới mẻ của ông năm 1946. "Nếu chúng ta đã ủng hộ ông mạnh mẽ hơn thì" Mus nói thêm: "chúng ta có thể đã giành được thắng lợi.... Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nghiền nát ông ta phải đi đến chiến tranh Chúng tôi đã không đánh giá khó khăn như thế nào khi phải đánh nhau với ông ta... Nhưng chúng ta không được quên rằng ông ta thực sự muốn một thỏa thuận với Pháp tại thời điểm Fontainebleau bởi vì nó sẽ phục vụ ông ta. Phần động cơ đó của ông sau đó đã bị chết, tất nhiên, nhưng chúng ta nên hiểu rằng nó [đề nghị VN Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp] tồn tại vào thời điểm đó và ông ta đã thực sự thất vọng. "
Trích dẫn trong cuốn “ Vietnam: The Logic of Withdrawal, 1967”, bởi Howard. Zinn
Trang 101-102
Quan điểm lịch sử cho thấy rằng một nước Việt Nam thống nhất dưới thời Hồ Chí Minh là một lợi thế hơn là một chế độ độc tài ưu tú của miền Nam, cũng giống như chủ nghĩa Mao Trung Quốc với dù tất cả các lỗi lầm của mình là thích hợp hơn dưới sự cai trị của Tưởng, và Castro của Cuba thay vì Batista. Chúng ta không có sự lựa chọn tinh khiết nào vào lúc ấyi, mặc dù chúng ta không bao giờ đầu hàng bỏ qua những giá trị có thể định hình trong tương lai. Ngay bây giờ, đối với Việt Nam, một chính phủ Cộng sản có lẽ là con đường tốt nhất [vì nó] có sẵn với một gói toàn bộ các giá trị con người để tạo nên đạo đức chung của nhân loại ngày hôm nay; việc bảo tồn đời sống con người, quyền tự quyết, an ninh kinh tế, chấp dứt sự áp bức về chủng tộc và giai cấp, và.quyền tự do ngôn luận và báo chí mà dân chúng có giáo dục yêu cầu..
Trong cuộc tranh luận về Việt Nam, đã có ít hoặc không có cuộc thảo luận về chính xác là những gì sẽ là những hậu quả tàn khốc nếu người cộng sản thống nhất Việt Nam. Nó đã trở thành một bài viết liên quan đến niềm tin cho rằng những gì tốt hay xấu trong quan hệ quốc tế là vấn đề đếm xem có bao nhiêu nước đứng về phía Cộng sản, và con số khác về phía chúng ta. Có kẻ bị vỡ mặt và có kẻ có chum lông nhung trên chóp mũ [ý nói có người thắng người thua]. Và sự khác biệt là giá trị của một núi xác chết…
Chúng ta cần quen với ý tưởng rằng sẽ có hơn một nước Cộng sản trên thế giới, và rằng điều này không nhất thiết là xấu.. Chuyện bảo vệ an ninh “vật lý” của Hoa Kỳ là không hề giảm đi vì bản thân chuyện đó [các nước CS], vì trong mọi vấn đề quốc tế các quốc gia cộng sản cư xử rất giống với bất cứ các các quốc gia nào khác (đây là lý do tại sao họ là như vậy thường xuyên thất vọng về những người có cảm tình với họ), một số thân thiện, một số là thù địch. Mỗi nơi là một kết quả [pha trộn] duy nhất của lý thuyết Mác-xít và điều kiện địa phương. Càng có nhiều quốc gia Cộng Sản, sự đa dạng càng lớn hơn trong số đó. Đã nhiều năm nay kể từ khi các học giả trong lĩnh vực nghiên cứu Cộng sản đã bắt đầu lưu ý về ý niê/m "polycentrism," [đa trung tâm] nhưng các quan chức Mỹ vẫn thường hành động như thể chỉ có một trung tâm cộng sản trong thế giới …
Có một điều mà chúng ta đã phải học được cho tới này là các quốc gia Cộng sản cũng có những cảm xúc của dân tộc như bất cứ các quốc gia khác, họ khao khát độc lập và chống lại sự thống trị bởi bất kỳ quốc gia nào khác, dù là tư bản chủ nghĩa hay cộng sản. Điều này có nghĩa là một quốc gia cộng sản nhỏ nhưng họ có thể bảo vệ độc lập của mình bên cạnh một anh hàng xóm lớn hiệu quả và tốt hơn nhiều so với chế độ độc tài không cộng sản, bán phong kiến. Một Việt Nam cộng sản dưới Hồ Chí Minh được dự kiến là có thể giữ được nền độc lập của mình chắc chắn như Tito đã duy trì của độc lập của nước của ông ấy.
Ý tưởng "ngăn chặn" đã luôn luôn được xem là mập mờ: Mục đích của chúng ta để kiềm chế Trung Quốc, hay ngăn chận cộng sản? Và là cả hai thì chúng ta sẽ phải làm những gì làm gì nếu hai mục tiêu đó trở thành mâu thuẫn với nhau?
Đặt cơ sở toàn bộ chính sách Á Châu của chúng ta trên chuyện "ngăn chận" Trung Quốc [bành trướng] là một nguy cơ tiêu tốn hàng tỷ đô la và hàng ngàn sinh mạng trên ý tưởng rằng Trung Quốc có kế hoạch thôn tính các nước khác bằng quân sự - một giả thuyết không được hỗ trợ, hoặc bằng lời nói hoặc bằng lịch sử hành động của họ cho đến nay, và trường hợp [ngăn chận] Liên Xô hóa ra là sai lầm. Và để làm cho giả thuyết phạm một lỗi lầm gấp đôi, giả định rằng nếu Trung Quốc muốn mở rộng thì họ có thể [làm điều ấy].
Trích dẫn trong cuốn “ Vietnam: A Diplomatic Tragedy ”, bởi Victar Batar, 1965
Trang 226-227
Mặc dù vị trí địa lý cận kề nguy hiểm của Trung Quốc và sự phụ thuộc trước đó của Hồ Chí Minh về hỗ trợ quân sự của Trung Quốc, năm 1954, có khả năng là chính phủ Hồ Chí Minh đã có một số liên lạc ngoại giao nhằm đến một sự ổn định thực sự. Ông đã có trong chính phủ của ông những thành viên không phải là người theo chủ nghĩa Mác xít giúp đỡ cũng như Việt Nam ngàn năm lịch sử lấp đầy với những lần lần thành công trong nổ lực giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của Trung Quốc. "Câu hỏi quan trọng nhất đối với cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam," một người Việt nổi tiếng chống Diệm và chống cả Cộng Sản " là làm thế nào để sống còn. Tương lai của toàn thể dân tộc Việt Nam bị đe dọa bởi con số [hơn tỷ người] và tính năng động lớn lao như vậy (của Trung Quốc)".
Mối quan hệ hai mang của Bắc Việt Nam (Moscow và Bắc Kinh) tiềm nằng có thể tạo ra một một thế đứng độc lập hạn chế với cả hai. Cộng Sản Việt Nam đã quay sang Nga và các chư hầu Âu Châu của ho để tìm kiếm những giúp đỡ cần thiết sau [Hội Nghị Geneva] để phục hồi lại từ sự tàn phá của một cuộc nội chiến bảy năm. Với sự giúp đỡ này, Bắc Việt Nam ngày càng có thể độc lập với Trung Quốc. Ngay cả lãnh đạo và hàng không hề mất niềm tự hào độc lập, có thể nói một cách chắc chắn rằng Hồ Chí Minh, bây giờ là chính khách "đàn anh" của thế giới cộng sản, cũng không khác với những nhà lãnh đạo quốc gia khác: chắc chắn ông không muốn mình vui trong vai trò con rối..Dường như ông có đủ tài năng và sự tinh tế để di động giữa Scylla và Charybdis để cùng làm vừa lòng Trung Quốc và người Nga [“giữa Scylla và Charybdis” là thành ngữ Hy Lap chỉ tình trạng “đu giây” giữa hai phe]. Như vậy, một chính sách ngoại giao nhằn đạt đến một Việt Nam thật sự trung lập, ngay cả khi không được Bắc Kinh hoàn toàn chấp thuận, đã có thể đạt được thành công trong những năm 1955-1960. Tất nhiên, đối với sự cuồng tín không thể hòa giải của Diệm, bất kỳ liên hệ nào với Hồ Chí Minh đều sẽ bị nguyền rủa, nhưng chính sách của Mỹ không nhất thiết chỉ phải dành để phục vụ cho hệ thống thần kinh của Diệm, đặc biệt là kể từ khi có rất nhiều chống đối từ các đồng hương của ông ta.
Trích dẫn từ cuốn "Marxism in Vietnam" của Milton Sacks, trong “Marxism in Southeast Asia”, của Frank N. Trager, ed., 1959.
Trang 163-164
Trong cùng khoảng thời gian (1946-1949), chính phủ Hồ Chí Minh đã cẩn thận tìm cách duy trì mối quan hệ thân thiện với Thái Lan và chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Ngoài ra, một nỗ lực tuyên truyền được xác định là đã được thực hiện để tranh thủ sự cảm thông của các nước Đông Nam Á cho cuộc đấu tranh của Việt Nam. Trong tình hình phát triển chiến tranh lạnh đã đưa đến sự phân cực trong quan hệ quốc tế, lãnh đạo Việt Minh công khai từ chối đứng về phía nào và công bố một chính sách trung lập. Ngay cả khi báo chí Liên Xô và Cộng sản thế giới khẳng định rằng Hồ Chí Minh là Cộng sản hoặc nhấn mạnh rằng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một bộ phận trong "Mặt trận dân chủ thế giới " chống lại "chủ nghĩa đế quốc Mỹ”, chính phủ Việt Nam bản thân lại duy trì một sự im lặng kín đáo. Cộng sản Việt Nam đã không làm nổi bậc việc thân Liên Xô như thường lệ, cũng không đưa ra các cuộc tấn công chưởi rủa chống Mỹ như đã rất phổ biến trong phong trào Cộng sản thế giới. Vào cuối tháng 3 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục tố cáo về "sự thống trị của cộng sản" trong chính phủ mà ông đứng đầu là "tuyên truyền thuần túy chủ nghĩa đế quốc Pháp".
Trên thực tế, chính sách phủ nhận sự liên kết với chủ nghĩa cộng sản gây mâu thuẫn cho chính phủ Hồ Chí Minh giữa việc tăng cường quan hệ giữa các tổ chức quần chúng ở Việt Nam và các cơ quan của cộng sản quốc tế. Những người ủng hộ chính phủ Việt Minh cho rằng thực tế đây là cách duy nhất mà Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có thể nhận được một số công nhận quốc tế. Dù sao cuộc xung đột đã có mặt, và những tham gia trong các tổ chức phong trào là thêm khó khăn: ví dụ, khi đại diện của các tổ chức thanh niên Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tham dự cuộc họp khu vực của Liên đoàn Thanh niên Dân chủ tại Calcutta vào tháng Hai năm 1948. Kể từ khi cuộc họp này đã được sử dụng như một phương tiện để công khai nhấn mạnh chiến lược mới của Cộng sản ở Đông Nam Á đã dẫn đến cuộc khởi nghĩa Cộng sản ở Miến Điện, Malaysia và Indonesia, đại diện Việt Nam được đặt ở một vị trí khó xử. Họ có thể và nhấn mạnh trên niềm tự hào về "cuộc đấu tranh giải phóng" mà họ đã tiến hành.Tuy nhiên, cùng lúc, họ đã không phủ nhận những thành công hiển nhiên của chính sách liên minh với "giai cấp tư sản quốc gia" đang theo đuổi tại Việt Nam. Họ chỉ đơn giản là tránh được vấn đề được đặt ra trong chính sách mới nhấn mạnh sự tấn công vào các "tư sản dân tộc" là sự cần thiết của lãnh đạo đảng Cộng sản trong việc đấu tranh giải phóng, và là sự cần thiết trong mối quan hệ trực tiếp với phe Liên Xô.
Độ lệch trong chính sách chung của Cộng sản ở Đông Nam Á [đảng Cộng Sản Đông Dương] trong thời gian 1948-1949 có thể được mô tả như là biểu hiện của sự linh hoạt về chiến thuật của tài lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Việt Minh đã dẫn một cuộc đấu tranh vũ trang có hiệu quả cao chống lại người Pháp ở Việt Nam và được sự ủng hộ của nhiều người quốc gia Việt Nam đã tin vào những lời tuyên bố không Cộng sản của người phát ngôn cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Hơn thế nữa, chính phủ của họ đã đạt được những đánh giá cảm thông và hỗ trợ quốc tế từ những dư luận không cộng sản, chống chống thực dân. Để lãng phí các tài sản này, đơn giản chỉ cần phát ngôn ra những tuyên bố ý thức hệ tương xứng với tuyên bố của khối Cộng sản là sẽ trả một giá cao tại bất kỳ thời điểm nào.Tuy nhiên, xem ra cũng có thể thoải mái mà thấy rằng Hồ Chí Minh và một số nhà lãnh đạo Việt Minh khác đều muốn có biện pháp độc lập theo kiểu không liên kết với bất cứ khối nào, và hy vọng có thể tránh được sự phân cực không tránh khỏi của phong trào dân tộc ở Việt Nam vớ tất cả các hậu quả tiêu cực đang chờ đợi của nó.
Trích dẫn từ cuốn " Vietnam: A Dragon Embattled -. (Vol I: From Colonialism to the Viet Minh) " của Joseph Buttinger, 1967
Trang 406-408
Nhưng không ai biết rõ hơn Hồ Chí Minh rằng cuộc đấu tranh cho độc lập không thể được thực hiện dưới ngọn cờ của chủ nghĩa cộng sản. Việc thành lập một chế độ độc tài công khai của đảng của họ sẽ chỉ mang lại sự sụp đổ của toà nhà chính trị tài tình mà họ đang thống trị kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ phong trào toàn dân tộc. Chế độ càng phát triển về hướng độc đảng thì lại càng cần thiết phải có những thuyết phục hùng biện về dân chủ, và một thứ lễ nghi, và một bộ mặt lộng lẫy về dân chủ. Hiến Pháp được trình lên một Quốc Hội đã được tạo dựng cho mục đích này. Nó đã được thông qua với 240 thuận với 2 phiếu chống ngày 8 tháng 11 [1945].
***
Nếu các nguyên tắc cao cả của Hiến Pháp này đã không ảnh hưởng gì đến sự tiến hóa chính trị của chế độ Hà Nội, sự bùng nổ của chiến tranh vài tuần sau đó không phải lý do mà sự thực hiện những lời hứa như ngay trong tên “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” của nó đã bị ngăn chặn. Những người Cộng sản đã xác định bản chất của chế độ [của họ] thậm chí đã lâu trước khi chiến tranh bùng nổ, và, như đã liên quan đến họ từ lâu, mục đích của Hiến Pháp không phải để tạo ra cơ sở cho một chế độ dân chủ: Theo luận điểm của họ, chế độ dân chủ mà họ thiết lập tại Việt Nam không kém gì so với "nền dân chủ nhân dân" của Đông Âu, trong thực tế, một " hình thức dân chủ cao hơn" hơn bất kỳ [hình thức] nước dân chủ phương Tây nào. Bên ngoài, và đặc biệt là những người tin rằng lý thuyết chính trị Cộng sản về cơ bản là không trung thực, khó tìm thấy, khó khăn để hiểu. Tuy nhiên, các nguyên tắc dân chủ của hiến pháp đã được đặt ra không chỉ đơn thuần là một phương tiện để ngụy trang cho việc tiến hành thiết lập nên một chế độ độc đảng độc tài Cộng sản. Những quyền tự do là dành cho toàn dân, việc chối bỏ chỉ dành cho những kẻ "phản động", "phản bội", "cộng tác viên", "gây rối", và "kẻ thù của nhân dân," hay bất cứ ai, nói một cách ngắn gọn, là "có các hoạt động chính trị mà những người Cộng sản coi là có hại cho sự nghiệp quốc gia, chính trị, tổ chức giám sát của Việt Minh và sau đó là [Mặt Trận] Liên Việt.
Ngay cả trước khi xung đột vũ trang lây lan trên cả nước, những người Cộng sản cảm thấy hoàn toàn hợp lý trong việc yêu cầu mà các đối thủ quốc gia thực hiện các quyền chính trị của họ chỉ để hỗ trợ của chế độ Việt Minh. Đối lập với Việt Minh là đồng nghĩa với hành động chống lại lợi ích của nhà nước. Không thể phủ nhận rằng những người Cộng sản đã đưa ra những cải cách cấp tiến dân chủ mà Việt Nam đã chưa bao giờ được biết đến trước kia, và họ thành lập những gì cũng gần như tất cả các loại tổ chức dân chủ được biết đến. Nhưng cũng không kém phần đúng là họ đã không hối hận khi bỏ tù hoặc thậm chí giết hại những người muốn hưởng dụng những cải cách này hoặc sử dụng các định chế này để chống lại Việt Minh.
Trích dẫn từ cuốn “A Thousand Days : John F. Kennedy in the White House” bởi Arthur M. Schlesinger, Houghton Mifflin Co., Boston, 1965,
trang. 321.
1951: "Ở Đông Dương", Kennedy cho biết, trên đường trở về Washington, "chúng ta đã liên minh mình với những nỗ lực tuyệt vọng của một chế độ Pháp để bám trên những tàn tích của đế chế.... Để kiểm soát chuyển dịch về phía nam của chủ nghĩa cộng sản là có ý nghĩa nhưng không chỉ trông chờ phụ thuộc vào sức mạnh của vũ khí. Việc làm là phải nên xây dựng một tình cảm bản địa không cộng sản mạnh mẽ trong các khu vực này và dựa vào đó như là một mũi nhọn của quốc phòng chứ không phải là dựa trên các quân đoàn của Tướng de Lattre. Làm điều này ra ngoài và bất chấp mục tiêu dân tộc bẩm sinh là đã báo trước sự thất bại." Chuyến đi đã cho Kennedy cả sự cảm thông mới cho các vấn đề của Á Châu và một sự hiểu biết mới về sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc trong thế giới kém phát triển.
Trích dẫn từ cuốn “The Bitter Heritage” ; 1967, bởi Arthur M. Schlesinger
Trang 75-76
… Hai cú đánh nặng nhất gần đây mà Bắc Kinh phải chịu đựng - sự hủy diệt của Đảng Cộng sản Indonesia và công bố độc lập của Triều Tiên - đã diễn ra mà không cần lợi ích bảo trợ hoặc tài hùng biện nào của Mỹ. Thật vậy,việc Mỹ can thiệp quá công khai thực sự có thể có ảnh hưởng làm nghẹt thở các lực lượng dân tộc địa phương hoặc chạy sang phía bên kia và do đó cuối cùng làm suy yếu việc ngăn chặn Trung Quốc.
Trong nhiều thập kỷ tương lai không thể dự đoán trước được gì, bức tường thành hiệu quả nhất chống lại một nhà nước cộng sản dân tộc hung hăng, trong một số trường hợp, cũng có thể chính là những nước cộng sản dân tộc chung quanh nó. Một chính sách hợp lý để ngăn chận Trung Quốc đã phải nhận ra rằng một nước Việt Nam cộng sản dưới Hồ có thể là một công cụ ngăn chặn tốt hơn là một chế độ Sài Gòn đang lung lay đứng đầu là các quan lại cánh hửu hay các tướng không quân. Nếu như Hồ đã nắm toàn cõi Việt Nam vào năm 1954, ông ta ngày nay có thể mời gọi Liên Xô hỗ trợ để tăng cường sức đề kháng của mình trước áp lực của Trung Quốc, và tình trạng này, tuy nhiên sẽ là điều kinh hoàng cho người dân miền Nam Việt Nam, rõ ràng lã sẽ tốt cho Hoa Kỳ hơn là tình thế mà chúng ta đang loạng choạng ngày hôm nay. Và bây giờ, than ôi, điều đó gần như đã quá muộn: lực đẩy của toàn bộ chính sách của Mỹ từ năm 1954, và hơn bao giờ hết kể từ khi vụ đánh bom phía Bắc bắt đầu, đã không tách Bắc Kinh và Hà Nội ra xa nhưng lại dẫn họ lại với nhau.
Trích dẫn từ “Viet-Nam Witness 1953-1966” bởi Bernard. B. Fall, July 1965
Trang 119-120
Điêu quan trọng phải nhớ rằng, không giống như bất kỳ phong trào cộng sản thành công nào khác, [cộng sản] Việt Nam đã chiến đấu theo cách của mình để nắm quyền cai trị trong sự cô lập hoàn toàn. Ở Đông Âu, quân đội Liên Xô luôn luôn hiện diện ở các nước do cộng sản tiếp quản, trong thực tế, họ là thành phần thiết yếu. Ở Trung Quốc, chuyện bàn giao hàng kho vũ khí to lớn của Nhật cho những người cộng sản bởi các lực lượng của Liên Xô ở Mãn Châu là có tầm quan trọng sống còn cho sự thành công quân sự của đảng Cộng Sản Trung Quốc (CCP), và sự hiện diện quân sự của Nga ở Bắc Triều Tiên đảm bảo việc tạo ra một "nền dân chủ nhân dân" ở đó. Tại Albania, những người theo phe Tito đóng vai trò của quân đội Liên Xô ở những nơi khác. Ở Việt Nam năm 1945, trái lại, VNDCCH đã không hỗ trợ nào như vậy từ Liên Xô hoặc ngay cả từ những người Cộng sản Trung Quốc (đóng dồn cục trên các vùng núi đồi ây BắcTrung Quốc); và kết nối với đảng Cộng Sản Pháp, lúc ấy chỉ mới lộ diện sau bốn năm bí mật, có thể đã không tồn tại với lý do đơn giản rằng những chuyến tàu đầu tiên sau chiến tranh mới từ Pháp sang đi Đông Dương cặp bến Sài Gòn vào cuối tháng 9 năm 1945 -- và đó là những tầu chuyển quân đưa đội lính tiên phong của lực lượng viễn chinh Pháp. Nói cách khác, Cộng sản Việt Nam hoàn toàn phải chơi cuộc cách mạng của họ một mình, và bằng nghe ngóng.
Trích dẫn từ “Toward. Peace in Indochina”, 1966, bởi Anthony Ed.en, Earl of Avon
Pages 22-24
Nếu Bắc Kinh bị ám ảnh bởi ấn tượng sai lạc của mình về ý định của Mỹ, thì ý kiến của Hà Nội có thể xem như ít khẳng định. Ý kiến của Moscow có ảnh hưởng lên miền Bắc Việt Nam để có thể cân bằng với Bắc Kinh trong một số thời điểm. Nếu sự hỗ trợ của Trung Quốc mạnh bạo hơn và tuyên bố kiên quyết hơn, thì một số nhà lãnh đạo cộng sản Hà Nội ldo Moscow đào tạo, bao gồm cả chính Hồ Chí Minh, hơn nữa, có thể với những bản năng lịch sử mạnh mẽ, tuy nhiên, sẽ rời xa các lãnh đạo. Có thể người Việt Nam sẽ không chấp nhận một số phận nào mà họ bị đưa ra phục vụ như một tiền đồn phía nam của đế quốc Trung Hoa, thậm chí trong chỉ một thời gian.
Có những rủi ro cho miền Bắc Việt Nam đứng giữa quan hệ cay đắng Trung-Xô ngày càng tăng. Gần đây, chính phủ Trung Quốc thậm chí đã bỏ qua tất cả các ngày kỷ niệm của tình hữu nghị với Việt Nam, đưa ra một chiến dịch khiếu nại chống lại nước Nga, trong khi làm dây dưa nguồn cung cấp của Liên Xô vào cuộc hành trình của mình. Đó không phải là điều ấm áp cho Hà Nội, họ đã không muốn cãi nhau với một trong hai quyền lực cộng sản lớn, nhưng có thể họ đã thấy rằng họ phải sống với những đòi hỏi cực kỳ của Trung Quốc ngày càng gai góc.
Điều song song đôi khi được rút ra giữa Thống Chế Tito với Moscow và Hồ Chí Minh với Bắc Kinh không phải là, tuy nhiên, gần nhau lặm Miền Bắc Việt Nam đang có chiến tranh và không có vị trí để cãi nhau với nhà cung cấp chính về vũ khí và vật tư. Ngay cả trong điều kiện ít khó khăn hơn, Trung Quốc vẫn sẽ là người hàng xóm lớn, cũng như là như anh lớn, là điều khó mà chối bỏ, nếu đó là một điều còn có thể mơ ước được. Tất cả như nhau, cuối cùng là có nhiều phạm vi có thể thỏa thuận với Hà Nội hơn là với Bắc Kinh, mặc dù các vết đường bi thảm của máu và đau khổ, hoặc có lẽ cũng vì nó…
Là Việt Nam, chứ không phải Trung Quốc, đã có những tổn thất về sinh mạng và tài sản, từ trường học đến đường sá giao thông. Một ngày nào đó, bằng cách nào đó chuyện này [chiến tranh VN] phải kết thúc. Hơn nữa, ngay cả miền Bắc có nhiều thắng lợi khi trở thành một phần của một đai gồm các quốc gia trung lập, hoặc ít nhất là trong một vòng đai ở phía Nam và Tây Nam của lãnh thổ của họ. Để có thể có được điều này, Hà Nội phải chấp nhận hai cái thoáng nhìn của thực tế, mặc dù họ không bao giờ tuyên bố công khai..Điều thứ nhất là Hoa Kỳ không thể bị đánh bại, điều thứ hai là việc Hoa Kỳ rút quân theo một biểu thời gian được thỏa thuận, sẽ không có một cơ hội xa xa nào, thậm chí chỉ một cuộc rút một phần quân Mỹ, trừ khi Bắc Việt cũng phải tham gia phần của họ, dù là một tham gia tiêu cực, để làm chuyện đó [rút quân] thành hiện thực.
Trich dẫn từ “The Arrogance of Power”, 1966, bởi Senator J. William Fulbright
Pages 111-114
Điểm trung tâm của thảm kịch Việt Nam là một thực tế rằng phong trào dân tộc mạnh mẽ nhất tại quốc gia đó lại là cộng sản. Chúng ta thường hay nghe rất nhiều về Hồ Chí Minh không chỉ là một tay sai cho Cộng sản Trung Quốc, mà cũng không ít hơn là một "âm mưu cộng sản quốc tế". Ông ta là một người cách mạng dân tộc chân thật, lãnh đạo cuộc nổi dậy của đất nước ông để chống thực dân Pháp. Ông cũng là một người cộng sản, và đó là lý do quan trọng tại sao kể từ ít nhất 1950 ông đã bị coi như là kẻ thù của Hoa Kỳ.
*****
Phác thảo này, dù được viết tắt nhiều, minh họa một thực tế quan trọng nhất - sự hợp nhất của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản trong Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Không có ý nghĩa gì để nói về Việt Minh dân tộc chủ nghĩa hơn cộng sản chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa hơn so với dân tộc chủ nghĩa, nó là cả hai. Việc hòa nhập [cả hai] là một bất hạnh từ quan điểm lợi ích và sở thích của Mỹ, nhưng nó cũng là một thực tế, một thực tế mà chúng ta có thể và phải theo nó đến tận cùng. Ngày nay thậm chí, sau tất cả những gì nước Mỹ đã làm để duy trì chính phủ miền Nam Việt Nam, chỉ có một chính trị gia có tên được biết cho đến tận người nông dân trên khắp Việt Nam: Hồ Chí Minh.
Điều quan trọng là phải rất rõ ràng ý nghĩa của chữ "dân tộc". Nó đã được mô tả tốt nhất bởi Hans Kohn như một "trạng thái của tâm hồn đối với quốc gia như là hình thức lý tưởng của tổ chức chính trị và tính chất dân tộc như là nguồn gốc của tất cả các năng lượng sáng tạo văn hóa và của cuộc sống kinh tế." Hiểu theo cách này, dân tộc không nhất thiết phải nhân đạo, dân chủ, xã hội xây dựng để đáp ứng những nhu cầu cá nhân. Nó chỉ đơn thuần là mạnh mẽ - mạnh mẽ trong một cảm giác có thể huy động lòng trung thành và hỗ trợ tích cực của một số lượng lớn những người bình thường. Khi một ai mô tả Hồ Chí Minh, Việt Minh hay Việt Cộng là "dân tộc", nó không phải là thể suy ra rằng họ được coi là thánh. Không phải như thế: " họ đã chứng mình nhiều lần họ là những người cuồng tín và tàn bạo, nhưng họ cũng đã biểu hiện rằng họ yêu nước, rằng họ đã đồng nhất mình với tổ quốc và những huyền bí của nó, với “trạng thái tâm hồn” có những hành xử trung thành, dũng cảm, và hy sinh nhiều hơn bất cứ người bình thường nào khác.
Với mục đích của chúng ta, tầm quan trọng của chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh là nó có liên quan với những gì Bernard Fall đã gọi " 2.000 năm Việt Nam không tin bất cứa thứ gì của Trung Quốc." Vì vậy cộng sản Việt Nam là một bức tường thành tiềm năng - có lẽ là bức tường tiềm năng duy nhất chống lại sự thống trị Việt Nam của Trung Quốc. Đó là lý do mà tôi tin rằng chúng ta nên cố gắng, nếu không phải là quá muộn, đến giải quyết việc với miền Bắc Việt Nam và Việt Cộng.
Trích dẫn từ "What Choices Do We Have in Vietnam?" by Edwin O. Reischauer Look, September 19, 1967,
trang 27
Giải pháp thay thế rõ ràng là cho phép Hồ và Việt Minh bị thống trị bởi cộng sản của ông tiếp nhận toàn bộ Việt Nam. Điều này đã xảy ra sớm nếu Hoa Kỳ đã rõ ràng vào năm 1945 rằng Hoa Kỳ không chấp nhận sự hồi sinh của chủ nghĩa thực dân ở Á Châu và sẽ không hỗ trợ gì cho nó. Điều đó vẫn sẽ xảy ra nếu chúng ta đã không viện trợ rộng rãi cho nỗ lực chiến tranh của Pháp sau năm 1949. Nó sẽ xảy ra nếu chúng ta đã sẵn sàng để hỗ trợ hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và nếu chúng ta đã không cố gắng xây dựng một chế độ thường trực theo Diệm ở miền Nam Việt Nam. Nó sẽ xảy ra nếu chúng ta đã không đều đặn tăng cam kết quân sự của chúng ta cho Nam Việt Nam trong các năm từ 1960 đến 1963. Nó sẽ xảy ra nếu chúng ta đã quyết định chống lại sự tham gia rộng rãi vào chiến tranh vào mùa đông 1964-1965. Như vậy, dưới mỗi người trong bốn Tổng Thống vừa qua của chúng ta, các quyết định đã rõ ràng, ngay cả khi không hoàn toàn thấu đáo, đã chối bỏ giải pháp hiển nhiên này.
Điều gì sẽ xảy ra nếu, tại bất kỳ những giây phút quyết định nào, chúng ta đã lựa chọn giải pháp thay thế trên? Nếu chúng ta đã rõ ràng ủng hộ chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thay vì thực dân Pháp vào năm 1945, có vẻ rõ ràng rằng Hồ, trong thời gian ngắn, đã có thể thiết lập một sự kiểm soát hửu hiệu trên toàn bộ Việt Nam. Ông ta có thể đã thiết lập cùng một loại cai trị độc tài, áp bức, Cộng sản, trên tất cả Việt Nam như ông đã thực sự làm ở miền Bắc. Ông có thể sẽ gặp cùng nhiều loại vấn đề ông gặp ở miền Bắc, và sự tiến bộ kinh tế của Việt Nam sẽ bị chậm lại, mặc dù, tất nhiên, không phải là chậm như trong một vùng bị chiến tranh tàn phá...
Xã hội và chính phủ Việt Nam thống nhất có thể sẽ không gì được chúng ta tán thành, nhưng chúng ta cũng không tìm thấy những gì chúng ta có thể chấp nhận được trong một xã hội và chính phủ Việt Nam chia rẽ. Rất có thể, một Việt Nam thống nhất dưới Hồ, tránh được sự tàn phá của chiến tranh, ít nhất về lâu dài có thể tiến đến một xã hội ổn định và công bằng vừa phải, còn hơn là một đất nước bị chia rẽ và chiến tranh tàn phá như chúng ta chúng ta biết ngày nay. Đối với chúng ta, tuy nhiên, câu hỏi là loại hình của Việt Nam sẽ có nghĩa gì trong chính trị quốc tế. Tôi tin rằng ta có thể an toàn mà giả định rằng có một Việt Nam rất dân tộc chủ nghĩa. Thêm vào đó, tôi tin rằng nó đã không còn bị Trung Quốc thống trị. Người Bản năng người Việt Nam là luôn e ngại người hàng xóm khổng lồ phía Bắc của họ. Trong khi họ vẫn luôn ngưỡng mộ và học tập Trung Quốc, trong hơn một ngàn năm, họ đã có một truyền thống dân tộc sâu sắc chống sự thống trị của nó. Nếu họ đã không có lý do cụ thể để sợ hãi hay phẫn nộ đối với chúng ta, nhiều khả năng là họ sẽ tập trung nỗi sợ hãi và oán giận vào Trung Quốc, dù nước này có là Cộng sản hay không.
Có khả năng lớn là một chế độ chế ngự bởi Cộng Sản của Hồ, nếu được chúng ta để cho họ chiếm tất cả Việt Nam khi cuộc chiến chấm dứt, sẽ đi đến một vị trí quan hệ với Trung Quốc không giống như Nam Tư của Tito đối với Liên Xô. Hồ, như Tito, đã có quan hệ thân mật trong thời chiến với chúng ta. Ông dường như đã dự kiến sẽ tiếp tục tình bạn với chúng ta và có nhiều hy vọng nhiều về viện trợ kinh tế từ chúng ta hơn là từ Trung Quốc. Ông và cộng sự của ông là những người nhiệt tâm dân tộc chủ nghĩa và có lẽ đã có nỗi sợ hãi và nghi ngờ đối với Trung Quốc sâu sắc hơn so với Tiệp Khắc đối với người Nga. Khi một nước Việt Nam thận trọng và được tôn trọng hơn đối với Trung Quốc so với Tito đối với Liên Xô, nó có thể kiên cường độc lập nhiều hơn. Cách mà Hà Nội đã tìm cách để duy trì sự độc lập đối với Bắc Kinh và Moscow, mặc dù sự phụ thuộc về quân sự với cả hai vì bị buộc vào bởi cuộc chiến tranh kéo dài với chúng ta, cho thấy rằng một Việt Nam Cộng sản đã độc lập mạnh mẽ như thế nào, nếu không bị tấn công, bởi những cần thiết bằng quân sự.
Một chế độ cộng sản ở toàn Việt Nam có là mối đe dọa nghiêm trọng cho nền hòa bình các nước láng giềng hoặc thế giới không? Tôi nghi ngờ điều đó. Cộng Sản đã chiếm trọn Việt Nam trong một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc có thể có vẻ đối phần còn lại của thế giới không gì khác hơn là một chiến thắng của phe Cộng Sản trên phe chống cộng sản đã nhiều lần diễn ra tại Việt Nam từ năm 1945. Thật là khó để tin rằng một Việt Nam thống nhất Cộng sản. Sẽ có bất kỳ một ảnh hưởng có hại trên Lào hơn là một Việt Nam chia rẽ bị chiến tranh tàn phá. Lào và Campuchia có thể đã rơi vào ảnh hưởng của Việt Nam, nhưng điều này ít nhất sẽ giữ họ ra khỏi sự kiểm soát của Trung Quốc. Hoặc, có thể, Campuchia với truyền thống thù địch với Việt Nam, sẽ quay lại tách xa khỏi sự iên kết với các quốc gia Cộng sản, nếu miền Nam Việt Nam, cũng đã thành Cộng sản. Thái Lan có thể ít bị ảnh hưởng bất lợi bởi một Việt Nam hoàn toàn cộng sản như nó đã có trong một thời gian dài chiến tranh ở đó. Trong khi đó, một Việt Nam thống nhất, mạnh mẽ dân tộc chủ nghĩa, trong khi ủng hộ trên đầu môi Cộng sản Trung Quốc, có thể được dùng như một đê điều hiệu quả hơn để ngăn ảnh hưởng và sức mạnh của Trung Quốc tiến về phía Nam hơn là buộc Bắc Việt Nam rơi vào thế phụ thuộc quân sự với Trung Quốc cộng với một Nam Việt Nam không ổn định. Và, tình hình chung tại Việt Nam và, Đông Nam Á, sẽ còn ít thỏa đáng rất nhiều so những gì chúng ta đang có ngày hôm nay, có thể đạt được, mà không cần bất kỳ chi phí khủng khiếp đã tăng rất cao.
Tiểu sử chính trị của HỒ CHÍ MINH, 1890-1950
MỤC LỤC và NỘI DUNG
1. Hình thành con người chính trị................................. C-32
2. Đại diện Quốc tế cộng sản...................................... C-35
3. Nhà tù và tối tăm................................................... C-36
4. Lãnh đạo thời kỳ chiến tranh .................................. C-38
5. Đứng đầu nhà nước................................................ C-38
6. Hồ, Một lần nữa là người dân tộc chủ nghĩa............. C-40
7. Nhận thức của Hoa Kỳ về Hồ................................. C-41
8: Hồ, Á Châu trung lập?........................................... C-46
9.. Hồ, người thực tế................................................. C-47
10. Trình tự về Hồ Chí Minh........................................ C-48
I. C. 2. Tiểu sử chính trị của HỒ CHÍ MINH, 1890-1950
Có hai giai đoạn trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH), trong đó bề ngoài có vẻ như ông cống hiến trọn vẹn mình cho chủ nghĩa dân tộc Việt. Giai đoạn đầu là những năm đầu của những năm 1920 khi Hồ Chí Minh là một người với khác vọng chống thực dân, nhưng chưa bị cuốn vào cuộc cách mạng cộng sản. Giai đoạn thứ hai 1945-1950 dường như mối bận tâm [vẫn là] dân tộc chủ nghĩa, khi Hồ cố gắng thương lượng với Pháp, kêu gọi Mỹ, Anh và Trung Quốc can thiệp vào Việt Nam, chối mình là một người cộng sản, và tránh bất cứ liên kết nào giữa VNDCCH và Điện Cẩm Linh. Phần còn lại của đời sống chính trị của Hồ Chí Minh cố hửu là một người làm cách mạng cộng sản, chống thực dân, dân tộc chủ nghĩa - lưu vong, theo các trường học ở Moscow, nhà tù, hoạt động bí mật, chiến tranh du kích, phe đảng chính trị. Trình tự về sự nghiệp của ông ta cho tới năm 1950 được đính kèm, (trang C-48 và tiếp theo).
1. Hình thành con người chính trị
Hồ Chí Minh sinh ra tên Nguyễn Văn Thành [đúng ra là Nguyễn Tất Thành] ngày 19 Tháng 5 năm 1890, ở [làng] Kim Liên phía bắc của tỉnh Nghệ An thuộc Trung Kỳ (nay thuộc về miền Bắc Việt Nam). Sớm trong cuộc đời Hồ đã có những oán giận cay đắng về sự hiện diện của Pháp tại Việt Nam, cha của ông đã bị bắt giam tại Côn Sơn do đã tham gia vào các hoạt động dân tộc chủ nghĩa. Giáo dục trung học của Hồ Chí Minh đã diễn ra trong một mảnh đất màu mỡ của chủ nghĩa dân tộc, đó là trường Quốc Học ở Huế. Việc học của ông chấm dứt khoảng 1910 trước khi ông nhận được bằng tốt nghiệp, nhưng [dù sao] ông vẫn có được một sự giáo dục nhiều hơn hầu hết đồng bào của mình. Quyết định ra đi làm việc như một cậu bé phụ việc trên một chiếc tầu viễn dương của Pháp vào năm 1912 đã được [tác giả] Bernard Fall xem là một quyết định chính trị quan trọng - đó là, Fall đã đánh giá Hồ, không giống như những người Quốc dân Đảng bảo thủ nhất, từ đó đã chọn phương Tây (chủ nghia cộng hòa, dân chủ, chủ quyền dân tộc, v.v…), thay vì phương Đông (chủ nghĩa quân phiệt, xã hội phong kiến, vv). 1 /
Nếu chuyến đi biển là một quyết định quan trọng hơn tất cả, nó có thể cho thấy rằng Hồ đã không đi theo con đường bình thường của chủ nghĩa dân tộc Việt. Sự kiện này đã xảy ra bởi Hồ đã tuyệt giao với cha mình là Nguyễn Tất Sắc, người đã giao cho ông một bức thư đê đưa cho Phan Chu Trinh, một người kỳ cựu dân tộc chủ nghĩa ở Paris. Sắc đã hy vọng là Phan sẽ dạy dỗ Hồ về chủ nghĩa dân tộc, nhưng Hồ không thể chấp nhận chủ trương “hợp tác hòa bình với người Pháp” của Phan, và đã rời bỏ Paris, sau đó ông cắt đứt quan hệ của mình với cha mình. 2/
Là một thanh niên Á Châu phải vật lộn để kiếm sống ở Âu Châu và Mỹ trước Thế Chiến I, Hồ đã tiếp xúc với sự kỳ thị chủng tộc của nền văn minh phương Tây và có lẽ đã tìm an toàn khi ông gia nhập Hội Những Lao Động Người Nước Ngoài mà dân gốc Trung Quốc chiếm ưu thế, một tổ chức bí mật, chống thực dân quan tâm tới việc cải thiện điều kiện làm việc của người lao động nước ngoài, nhưng ngày càng phát triển thành một lực lượng chính trị. Hồ sang Pháp từ London vào năm 1917 với cuộc chiến phía trước mặt, và cuộc cách mạng Nga Lênin ở phía sau. Tự xem mình một người tổ chức chính trị và người viết đủ các thể loại, Hồ đã ký các bài viết dưới tên Nguyễn Ái Quốc (có nghĩa là "Nguyễn- người yêu nước") - một bí danh mà tất cả các người Việt Nam đã biết ông cho đến khi được trở thành Hồ Chí Minh vào năm 1943. Là một người viết ở Paris, chủ nghĩa dân tộc chống thực dân là chủ đề chính cho tờ báo bí mật của mình – tờ Việt Nam Hồn. Hồ cũng viết một bài tố cáo chính sách thực dân Pháp được đọc rộng rãi tên là “Bản án cho hế độ thuộc địa Pháp”. Tài liệu này đã trở thành “thánh kinh cho những người dân tộc chủ nghĩa" tại Việt Nam 3 /
Bị cuốn vào lòng nhiệt thành yêu nước của hiệp ước đình chiến, Hồ đưa ra một chương trình tám điểm trình bày trong [hội nghị] Versailles:
"Thu hút bởi lời hứa của [chương trình] Mười Bốn Điểm của Woodrow Wilson, người phát ngôn của các dân tộc khác nhau đều muốn độc lập phải theo cùng các lãnh đạo Đồng Minh chiến thắng đến Paris vào năm 1919. Cùng với Ấn Độ, Hàn Quốc, người Ailen, và người Ả Rập, Hồ Chí Minh đến với một danh sách những bất bình của Việt Nam và lời biện hộ cho quyền tự chủ cho người Việt. Ông đến [hội nghị] Versailles trong bộ quần áo dạ tiệc được thuê để đưa ra những lời kêu gọi của mình. Tuy nhiên, các chính khách gặp nhau tại Paris đã không có thời gian dành cho các vấn đề của các dân tộc thuộc địa của đế quốc Pháp, và không gì được đưa ra từ đó" 4/
Đây là cú ném chính chót mà Hồ bị quăng ra khỏi chủ nghĩa dân tộc không cộng sản trước 1920, kể từ ngày đó ông bắt đầu ngày càng dấn thân vào vòng nhóm của Leon Blum, Marcel Cochin, Marius Moutet, và những khuôn mặt chính trị cánh tả khác, và trở thành thành viên của Đảng xã hội Pháp. Vào tháng Năm năm 1920, Hồ đã củu làm đại biểu tại Đại hội Đảng Xã Hội ở [thành phố]Tours, và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sau này trong cuộc sống Hồ nhớ lại những ngày đó mô tả "Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin" *( Bài viết vào tháng Tư, 1960, cho vấn đề Liên Xô xem xét lại phương Đông, dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Lenin. Từ đợt phát hành Mùa Thu, Hồ làm Cách mạng, 5-7)
"Sau Thế chiến thứ nhất, tôi kiếm sống ở Paris, khi thì làm thợ chỉnh sửa hình cho một nhiếp ảnh gia, khi là họa sĩ vẽ tranh cổ Trung Quốc (làm ở Pháp), tôi thường rải truyền đơn tố cáo tội ác của thực dân Pháp tại Việt-Nam.
"Vào thời điểm đó, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính, chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó, yêu thương và ngưỡng mộ Lenin vì ông là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào của mình, cho đến khi đó, tôi đã không đọc cuốn sách của ông.
"Lý do cho tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp là các 'quý bà và quý ông" - như tôi gọi các đồng chí của tôi tại thời điểm đó - đã tỏ ra đồng tình với tôi, đối với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Nhưng tôi chưa hiểu gì là đảng phái, công đoàn, cũng không biết chủ nghĩa xã hội hay cộng sản là gì.
Nhiều buổi bàn cãi sôi nổi sau đó đã diễn ra trong các chi bộ của Đảng Xã Hội, về vấn đề Đảng Xã Hội nên ở trong Đệ Nhị Quốc tế, nên thành lập Quốc Tế Hai-Rưỡi hay Đảng Xã hội cần tham gia Đệ Tam Quốc tế của Lê Nịn Tôi tham dự các cuộc họp thường xuyên, hai hoặc ba lần mỗi tuần, và luôn chăm chú lắng nghe các cuộc thảo luận.
Đầu tiên, tôi không thể hiểu được hết. Tại sao các cuộc thảo luận hăng như vậy? Với Đệ Nhị, Đệ Nhị rưỡi, hoặc Đệ Tam quốc tế, [với Quốc Tế nào] cuộc cách mạng có thể được tiến hành. Các lập luận sau đó để làm gì? Đối với Đệ Nhất Quốc Tế, chuyện gì đã xảy ra với nó?
"Những gì tôi muốn biết nhất -- và điều này chính xác là không được thảo luận trong các cuộc họp -- là: Quốc Tế [Cộng Sản] nào đứng về phía nhân dân các nước thuộc địa?
"Tôi đưa ra câu hỏi này -- quan trọng nhất trong quan điểm của tôi trong cuộc họp. Một vài đồng chí đã trả lời: Đó là thứ ba, không phải là quốc tế thứ hai. Và một đồng chí đã cho tôi cuốn " Luận điểm về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin xuất bản bởi [tờ báo] Nhân Đạo [L’Humanité], để đọc.
"Có những chữ chính trị khó hiểu trong luận cương này. Nhưng cứ đọc nó một lần rồi nhiều lần nữa, cuối cùng tôi có thể hiểu được phần chính của nó. Bao nhiêu cảm xúc, nhiệt tình, tầm nhìn rõ ràng, và tự tin đã tràn ngập trong tôi! Tôi đã vui mừng khôn xiết đến rơi nước mắt. Tuy chỉ một mình ngồi trong phòng, tôi hét to như thể trước một quần chúng đông đảo: "Kính thưa liệt sĩ, đồng bào! Đây là những gì chúng ta cần, đây là con đường giải phóng chúng ta!"
"Sau đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, trong Đệ Tam Quốc tế”.
"Trước kia, trong các cuộc họp của chi bộ, tôi chỉ ngồi nghe người ta nói; tôi đã có một niềm tin mơ hồ rằng ai cũng có lý cả, và không thể phân biệt được ai đúng ai sai. Nhưng kể từ khi đó, tôi cũng xông vào các cuộc tranh luận và thảo luận sôi nổi. Mặc dù tôi vẫn không đủ tiếng Pháp để nói hết suy nghĩ của tôi, tôi vẫn tấn công mạnh mẽ những lời lẽ chống lại Lenin và Đệ Tam Quốc tế với không ít cuồng nhiệt. Lý luận duy nhất của tôi là:.. “Nếu các bạn không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu bạn không đi với các dân tộc thuộc địa, loại cách mạng mà các bạn đang tiến hành là loại cách mạng gì?”
"Tôi không chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ tôi, tôi cũng đã đi đến chi bộ khác để nói lên “chỗ đứng” của tôi. Nay tôi phải nhắc thêm rằng các đồng chí Marcel Cachin, Vaillant Couturier, Monmousseau, và nhiều người khác đã giúp tôi mở rộng kiến thức. Cuối cùng, tại Đại hội Tours, tôi đã bỏ phiếu với họ gia nhập Đệ Tam Quốc tế.
"Lúc đầu, lòng yêu nước, chưa chưa phải là chủ nghĩa cộng sản, đã khiến tôi có niềm tin để theo Lênin, trong Đệ Tam Quốc tế. Từng bước, trong cuộc đấu tranh, bằng cách nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, song song với sự tham gia vào các hoạt động thực tế, dần dần tôi hiểu được thực tế là chỉ có Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là có thể giải phóng các dân tộc bị áp bức và người lao động trên khắp thế giới khỏi ách nô lệ.
"Có một truyền thuyết, ở nước tôi cũng như ở Trung Quốc, dựa trên cuốn sách 'Sách của khôn ngoan” kỳ diệu. Khi phải đối mặt với những khó khăn lớn, người ta mở nó và tìm thấy một cách để ra. Lê-nin không chỉ là cuốn " sách của khôn ngoan” kỳ diệu đó, mà còn là một la bàn cho cách mạng và nhân dân Việt Nam chúng tôi: nó cũng là mặt trời rạng rỡ chiếu sáng con đường của chúng tôi đến thắng lợi cuối cùng, đó là Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản".
(xem tiếp kỳ 12,
Ngay cả trước khi xung đột vũ trang lây lan trên cả nước, những người Cộng sản cảm thấy hoàn toàn hợp lý trong việc yêu cầu mà các đối thủ quốc gia thực hiện các quyền chính trị của họ chỉ để hỗ trợ của chế độ Việt Minh. Đối lập với Việt Minh là đồng nghĩa với hành động chống lại lợi ích của nhà nước. Không thể phủ nhận rằng những người Cộng sản đã đưa ra những cải cách cấp tiến dân chủ mà Việt Nam đã chưa bao giờ được biết đến trước kia, và họ thành lập những gì cũng gần như tất cả các loại tổ chức dân chủ được biết đến. Nhưng cũng không kém phần đúng là họ đã không hối hận khi bỏ tù hoặc thậm chí giết hại những người muốn hưởng dụng những cải cách này hoặc sử dụng các định chế này để chống lại Việt Minh.
Trích dẫn từ cuốn “A Thousand Days : John F. Kennedy in the White House” bởi Arthur M. Schlesinger, Houghton Mifflin Co., Boston, 1965,
trang. 321.
1951: "Ở Đông Dương", Kennedy cho biết, trên đường trở về Washington, "chúng ta đã liên minh mình với những nỗ lực tuyệt vọng của một chế độ Pháp để bám trên những tàn tích của đế chế.... Để kiểm soát chuyển dịch về phía nam của chủ nghĩa cộng sản là có ý nghĩa nhưng không chỉ trông chờ phụ thuộc vào sức mạnh của vũ khí. Việc làm là phải nên xây dựng một tình cảm bản địa không cộng sản mạnh mẽ trong các khu vực này và dựa vào đó như là một mũi nhọn của quốc phòng chứ không phải là dựa trên các quân đoàn của Tướng de Lattre. Làm điều này ra ngoài và bất chấp mục tiêu dân tộc bẩm sinh là đã báo trước sự thất bại." Chuyến đi đã cho Kennedy cả sự cảm thông mới cho các vấn đề của Á Châu và một sự hiểu biết mới về sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc trong thế giới kém phát triển.
Trích dẫn từ cuốn “The Bitter Heritage” ; 1967, bởi Arthur M. Schlesinger
Trang 75-76
… Hai cú đánh nặng nhất gần đây mà Bắc Kinh phải chịu đựng - sự hủy diệt của Đảng Cộng sản Indonesia và công bố độc lập của Triều Tiên - đã diễn ra mà không cần lợi ích bảo trợ hoặc tài hùng biện nào của Mỹ. Thật vậy,việc Mỹ can thiệp quá công khai thực sự có thể có ảnh hưởng làm nghẹt thở các lực lượng dân tộc địa phương hoặc chạy sang phía bên kia và do đó cuối cùng làm suy yếu việc ngăn chặn Trung Quốc.
Trong nhiều thập kỷ tương lai không thể dự đoán trước được gì, bức tường thành hiệu quả nhất chống lại một nhà nước cộng sản dân tộc hung hăng, trong một số trường hợp, cũng có thể chính là những nước cộng sản dân tộc chung quanh nó. Một chính sách hợp lý để ngăn chận Trung Quốc đã phải nhận ra rằng một nước Việt Nam cộng sản dưới Hồ có thể là một công cụ ngăn chặn tốt hơn là một chế độ Sài Gòn đang lung lay đứng đầu là các quan lại cánh hửu hay các tướng không quân. Nếu như Hồ đã nắm toàn cõi Việt Nam vào năm 1954, ông ta ngày nay có thể mời gọi Liên Xô hỗ trợ để tăng cường sức đề kháng của mình trước áp lực của Trung Quốc, và tình trạng này, tuy nhiên sẽ là điều kinh hoàng cho người dân miền Nam Việt Nam, rõ ràng lã sẽ tốt cho Hoa Kỳ hơn là tình thế mà chúng ta đang loạng choạng ngày hôm nay. Và bây giờ, than ôi, điều đó gần như đã quá muộn: lực đẩy của toàn bộ chính sách của Mỹ từ năm 1954, và hơn bao giờ hết kể từ khi vụ đánh bom phía Bắc bắt đầu, đã không tách Bắc Kinh và Hà Nội ra xa nhưng lại dẫn họ lại với nhau.
Trích dẫn từ “Viet-Nam Witness 1953-1966” bởi Bernard. B. Fall, July 1965
Trang 119-120
Điêu quan trọng phải nhớ rằng, không giống như bất kỳ phong trào cộng sản thành công nào khác, [cộng sản] Việt Nam đã chiến đấu theo cách của mình để nắm quyền cai trị trong sự cô lập hoàn toàn. Ở Đông Âu, quân đội Liên Xô luôn luôn hiện diện ở các nước do cộng sản tiếp quản, trong thực tế, họ là thành phần thiết yếu. Ở Trung Quốc, chuyện bàn giao hàng kho vũ khí to lớn của Nhật cho những người cộng sản bởi các lực lượng của Liên Xô ở Mãn Châu là có tầm quan trọng sống còn cho sự thành công quân sự của đảng Cộng Sản Trung Quốc (CCP), và sự hiện diện quân sự của Nga ở Bắc Triều Tiên đảm bảo việc tạo ra một "nền dân chủ nhân dân" ở đó. Tại Albania, những người theo phe Tito đóng vai trò của quân đội Liên Xô ở những nơi khác. Ở Việt Nam năm 1945, trái lại, VNDCCH đã không hỗ trợ nào như vậy từ Liên Xô hoặc ngay cả từ những người Cộng sản Trung Quốc (đóng dồn cục trên các vùng núi đồi ây BắcTrung Quốc); và kết nối với đảng Cộng Sản Pháp, lúc ấy chỉ mới lộ diện sau bốn năm bí mật, có thể đã không tồn tại với lý do đơn giản rằng những chuyến tàu đầu tiên sau chiến tranh mới từ Pháp sang đi Đông Dương cặp bến Sài Gòn vào cuối tháng 9 năm 1945 -- và đó là những tầu chuyển quân đưa đội lính tiên phong của lực lượng viễn chinh Pháp. Nói cách khác, Cộng sản Việt Nam hoàn toàn phải chơi cuộc cách mạng của họ một mình, và bằng nghe ngóng.
Trích dẫn từ “Toward. Peace in Indochina”, 1966, bởi Anthony Ed.en, Earl of Avon
Pages 22-24
Nếu Bắc Kinh bị ám ảnh bởi ấn tượng sai lạc của mình về ý định của Mỹ, thì ý kiến của Hà Nội có thể xem như ít khẳng định. Ý kiến của Moscow có ảnh hưởng lên miền Bắc Việt Nam để có thể cân bằng với Bắc Kinh trong một số thời điểm. Nếu sự hỗ trợ của Trung Quốc mạnh bạo hơn và tuyên bố kiên quyết hơn, thì một số nhà lãnh đạo cộng sản Hà Nội ldo Moscow đào tạo, bao gồm cả chính Hồ Chí Minh, hơn nữa, có thể với những bản năng lịch sử mạnh mẽ, tuy nhiên, sẽ rời xa các lãnh đạo. Có thể người Việt Nam sẽ không chấp nhận một số phận nào mà họ bị đưa ra phục vụ như một tiền đồn phía nam của đế quốc Trung Hoa, thậm chí trong chỉ một thời gian.
Có những rủi ro cho miền Bắc Việt Nam đứng giữa quan hệ cay đắng Trung-Xô ngày càng tăng. Gần đây, chính phủ Trung Quốc thậm chí đã bỏ qua tất cả các ngày kỷ niệm của tình hữu nghị với Việt Nam, đưa ra một chiến dịch khiếu nại chống lại nước Nga, trong khi làm dây dưa nguồn cung cấp của Liên Xô vào cuộc hành trình của mình. Đó không phải là điều ấm áp cho Hà Nội, họ đã không muốn cãi nhau với một trong hai quyền lực cộng sản lớn, nhưng có thể họ đã thấy rằng họ phải sống với những đòi hỏi cực kỳ của Trung Quốc ngày càng gai góc.
Điều song song đôi khi được rút ra giữa Thống Chế Tito với Moscow và Hồ Chí Minh với Bắc Kinh không phải là, tuy nhiên, gần nhau lặm Miền Bắc Việt Nam đang có chiến tranh và không có vị trí để cãi nhau với nhà cung cấp chính về vũ khí và vật tư. Ngay cả trong điều kiện ít khó khăn hơn, Trung Quốc vẫn sẽ là người hàng xóm lớn, cũng như là như anh lớn, là điều khó mà chối bỏ, nếu đó là một điều còn có thể mơ ước được. Tất cả như nhau, cuối cùng là có nhiều phạm vi có thể thỏa thuận với Hà Nội hơn là với Bắc Kinh, mặc dù các vết đường bi thảm của máu và đau khổ, hoặc có lẽ cũng vì nó…
Là Việt Nam, chứ không phải Trung Quốc, đã có những tổn thất về sinh mạng và tài sản, từ trường học đến đường sá giao thông. Một ngày nào đó, bằng cách nào đó chuyện này [chiến tranh VN] phải kết thúc. Hơn nữa, ngay cả miền Bắc có nhiều thắng lợi khi trở thành một phần của một đai gồm các quốc gia trung lập, hoặc ít nhất là trong một vòng đai ở phía Nam và Tây Nam của lãnh thổ của họ. Để có thể có được điều này, Hà Nội phải chấp nhận hai cái thoáng nhìn của thực tế, mặc dù họ không bao giờ tuyên bố công khai..Điều thứ nhất là Hoa Kỳ không thể bị đánh bại, điều thứ hai là việc Hoa Kỳ rút quân theo một biểu thời gian được thỏa thuận, sẽ không có một cơ hội xa xa nào, thậm chí chỉ một cuộc rút một phần quân Mỹ, trừ khi Bắc Việt cũng phải tham gia phần của họ, dù là một tham gia tiêu cực, để làm chuyện đó [rút quân] thành hiện thực.
Trich dẫn từ “The Arrogance of Power”, 1966, bởi Senator J. William Fulbright
Pages 111-114
Điểm trung tâm của thảm kịch Việt Nam là một thực tế rằng phong trào dân tộc mạnh mẽ nhất tại quốc gia đó lại là cộng sản. Chúng ta thường hay nghe rất nhiều về Hồ Chí Minh không chỉ là một tay sai cho Cộng sản Trung Quốc, mà cũng không ít hơn là một "âm mưu cộng sản quốc tế". Ông ta là một người cách mạng dân tộc chân thật, lãnh đạo cuộc nổi dậy của đất nước ông để chống thực dân Pháp. Ông cũng là một người cộng sản, và đó là lý do quan trọng tại sao kể từ ít nhất 1950 ông đã bị coi như là kẻ thù của Hoa Kỳ.
*****
Phác thảo này, dù được viết tắt nhiều, minh họa một thực tế quan trọng nhất - sự hợp nhất của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản trong Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Không có ý nghĩa gì để nói về Việt Minh dân tộc chủ nghĩa hơn cộng sản chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa hơn so với dân tộc chủ nghĩa, nó là cả hai. Việc hòa nhập [cả hai] là một bất hạnh từ quan điểm lợi ích và sở thích của Mỹ, nhưng nó cũng là một thực tế, một thực tế mà chúng ta có thể và phải theo nó đến tận cùng. Ngày nay thậm chí, sau tất cả những gì nước Mỹ đã làm để duy trì chính phủ miền Nam Việt Nam, chỉ có một chính trị gia có tên được biết cho đến tận người nông dân trên khắp Việt Nam: Hồ Chí Minh.
Điều quan trọng là phải rất rõ ràng ý nghĩa của chữ "dân tộc". Nó đã được mô tả tốt nhất bởi Hans Kohn như một "trạng thái của tâm hồn đối với quốc gia như là hình thức lý tưởng của tổ chức chính trị và tính chất dân tộc như là nguồn gốc của tất cả các năng lượng sáng tạo văn hóa và của cuộc sống kinh tế." Hiểu theo cách này, dân tộc không nhất thiết phải nhân đạo, dân chủ, xã hội xây dựng để đáp ứng những nhu cầu cá nhân. Nó chỉ đơn thuần là mạnh mẽ - mạnh mẽ trong một cảm giác có thể huy động lòng trung thành và hỗ trợ tích cực của một số lượng lớn những người bình thường. Khi một ai mô tả Hồ Chí Minh, Việt Minh hay Việt Cộng là "dân tộc", nó không phải là thể suy ra rằng họ được coi là thánh. Không phải như thế: " họ đã chứng mình nhiều lần họ là những người cuồng tín và tàn bạo, nhưng họ cũng đã biểu hiện rằng họ yêu nước, rằng họ đã đồng nhất mình với tổ quốc và những huyền bí của nó, với “trạng thái tâm hồn” có những hành xử trung thành, dũng cảm, và hy sinh nhiều hơn bất cứ người bình thường nào khác.
Với mục đích của chúng ta, tầm quan trọng của chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh là nó có liên quan với những gì Bernard Fall đã gọi " 2.000 năm Việt Nam không tin bất cứa thứ gì của Trung Quốc." Vì vậy cộng sản Việt Nam là một bức tường thành tiềm năng - có lẽ là bức tường tiềm năng duy nhất chống lại sự thống trị Việt Nam của Trung Quốc. Đó là lý do mà tôi tin rằng chúng ta nên cố gắng, nếu không phải là quá muộn, đến giải quyết việc với miền Bắc Việt Nam và Việt Cộng.
Trích dẫn từ "What Choices Do We Have in Vietnam?" by Edwin O. Reischauer Look, September 19, 1967,
trang 27
Giải pháp thay thế rõ ràng là cho phép Hồ và Việt Minh bị thống trị bởi cộng sản của ông tiếp nhận toàn bộ Việt Nam. Điều này đã xảy ra sớm nếu Hoa Kỳ đã rõ ràng vào năm 1945 rằng Hoa Kỳ không chấp nhận sự hồi sinh của chủ nghĩa thực dân ở Á Châu và sẽ không hỗ trợ gì cho nó. Điều đó vẫn sẽ xảy ra nếu chúng ta đã không viện trợ rộng rãi cho nỗ lực chiến tranh của Pháp sau năm 1949. Nó sẽ xảy ra nếu chúng ta đã sẵn sàng để hỗ trợ hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và nếu chúng ta đã không cố gắng xây dựng một chế độ thường trực theo Diệm ở miền Nam Việt Nam. Nó sẽ xảy ra nếu chúng ta đã không đều đặn tăng cam kết quân sự của chúng ta cho Nam Việt Nam trong các năm từ 1960 đến 1963. Nó sẽ xảy ra nếu chúng ta đã quyết định chống lại sự tham gia rộng rãi vào chiến tranh vào mùa đông 1964-1965. Như vậy, dưới mỗi người trong bốn Tổng Thống vừa qua của chúng ta, các quyết định đã rõ ràng, ngay cả khi không hoàn toàn thấu đáo, đã chối bỏ giải pháp hiển nhiên này.
Điều gì sẽ xảy ra nếu, tại bất kỳ những giây phút quyết định nào, chúng ta đã lựa chọn giải pháp thay thế trên? Nếu chúng ta đã rõ ràng ủng hộ chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thay vì thực dân Pháp vào năm 1945, có vẻ rõ ràng rằng Hồ, trong thời gian ngắn, đã có thể thiết lập một sự kiểm soát hửu hiệu trên toàn bộ Việt Nam. Ông ta có thể đã thiết lập cùng một loại cai trị độc tài, áp bức, Cộng sản, trên tất cả Việt Nam như ông đã thực sự làm ở miền Bắc. Ông có thể sẽ gặp cùng nhiều loại vấn đề ông gặp ở miền Bắc, và sự tiến bộ kinh tế của Việt Nam sẽ bị chậm lại, mặc dù, tất nhiên, không phải là chậm như trong một vùng bị chiến tranh tàn phá...
Xã hội và chính phủ Việt Nam thống nhất có thể sẽ không gì được chúng ta tán thành, nhưng chúng ta cũng không tìm thấy những gì chúng ta có thể chấp nhận được trong một xã hội và chính phủ Việt Nam chia rẽ. Rất có thể, một Việt Nam thống nhất dưới Hồ, tránh được sự tàn phá của chiến tranh, ít nhất về lâu dài có thể tiến đến một xã hội ổn định và công bằng vừa phải, còn hơn là một đất nước bị chia rẽ và chiến tranh tàn phá như chúng ta chúng ta biết ngày nay. Đối với chúng ta, tuy nhiên, câu hỏi là loại hình của Việt Nam sẽ có nghĩa gì trong chính trị quốc tế. Tôi tin rằng ta có thể an toàn mà giả định rằng có một Việt Nam rất dân tộc chủ nghĩa. Thêm vào đó, tôi tin rằng nó đã không còn bị Trung Quốc thống trị. Người Bản năng người Việt Nam là luôn e ngại người hàng xóm khổng lồ phía Bắc của họ. Trong khi họ vẫn luôn ngưỡng mộ và học tập Trung Quốc, trong hơn một ngàn năm, họ đã có một truyền thống dân tộc sâu sắc chống sự thống trị của nó. Nếu họ đã không có lý do cụ thể để sợ hãi hay phẫn nộ đối với chúng ta, nhiều khả năng là họ sẽ tập trung nỗi sợ hãi và oán giận vào Trung Quốc, dù nước này có là Cộng sản hay không.
Có khả năng lớn là một chế độ chế ngự bởi Cộng Sản của Hồ, nếu được chúng ta để cho họ chiếm tất cả Việt Nam khi cuộc chiến chấm dứt, sẽ đi đến một vị trí quan hệ với Trung Quốc không giống như Nam Tư của Tito đối với Liên Xô. Hồ, như Tito, đã có quan hệ thân mật trong thời chiến với chúng ta. Ông dường như đã dự kiến sẽ tiếp tục tình bạn với chúng ta và có nhiều hy vọng nhiều về viện trợ kinh tế từ chúng ta hơn là từ Trung Quốc. Ông và cộng sự của ông là những người nhiệt tâm dân tộc chủ nghĩa và có lẽ đã có nỗi sợ hãi và nghi ngờ đối với Trung Quốc sâu sắc hơn so với Tiệp Khắc đối với người Nga. Khi một nước Việt Nam thận trọng và được tôn trọng hơn đối với Trung Quốc so với Tito đối với Liên Xô, nó có thể kiên cường độc lập nhiều hơn. Cách mà Hà Nội đã tìm cách để duy trì sự độc lập đối với Bắc Kinh và Moscow, mặc dù sự phụ thuộc về quân sự với cả hai vì bị buộc vào bởi cuộc chiến tranh kéo dài với chúng ta, cho thấy rằng một Việt Nam Cộng sản đã độc lập mạnh mẽ như thế nào, nếu không bị tấn công, bởi những cần thiết bằng quân sự.
Một chế độ cộng sản ở toàn Việt Nam có là mối đe dọa nghiêm trọng cho nền hòa bình các nước láng giềng hoặc thế giới không? Tôi nghi ngờ điều đó. Cộng Sản đã chiếm trọn Việt Nam trong một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc có thể có vẻ đối phần còn lại của thế giới không gì khác hơn là một chiến thắng của phe Cộng Sản trên phe chống cộng sản đã nhiều lần diễn ra tại Việt Nam từ năm 1945. Thật là khó để tin rằng một Việt Nam thống nhất Cộng sản. Sẽ có bất kỳ một ảnh hưởng có hại trên Lào hơn là một Việt Nam chia rẽ bị chiến tranh tàn phá. Lào và Campuchia có thể đã rơi vào ảnh hưởng của Việt Nam, nhưng điều này ít nhất sẽ giữ họ ra khỏi sự kiểm soát của Trung Quốc. Hoặc, có thể, Campuchia với truyền thống thù địch với Việt Nam, sẽ quay lại tách xa khỏi sự iên kết với các quốc gia Cộng sản, nếu miền Nam Việt Nam, cũng đã thành Cộng sản. Thái Lan có thể ít bị ảnh hưởng bất lợi bởi một Việt Nam hoàn toàn cộng sản như nó đã có trong một thời gian dài chiến tranh ở đó. Trong khi đó, một Việt Nam thống nhất, mạnh mẽ dân tộc chủ nghĩa, trong khi ủng hộ trên đầu môi Cộng sản Trung Quốc, có thể được dùng như một đê điều hiệu quả hơn để ngăn ảnh hưởng và sức mạnh của Trung Quốc tiến về phía Nam hơn là buộc Bắc Việt Nam rơi vào thế phụ thuộc quân sự với Trung Quốc cộng với một Nam Việt Nam không ổn định. Và, tình hình chung tại Việt Nam và, Đông Nam Á, sẽ còn ít thỏa đáng rất nhiều so những gì chúng ta đang có ngày hôm nay, có thể đạt được, mà không cần bất kỳ chi phí khủng khiếp đã tăng rất cao.
Tiểu sử chính trị của HỒ CHÍ MINH, 1890-1950
MỤC LỤC và NỘI DUNG
1. Hình thành con người chính trị................................. C-32
2. Đại diện Quốc tế cộng sản...................................... C-35
3. Nhà tù và tối tăm................................................... C-36
4. Lãnh đạo thời kỳ chiến tranh .................................. C-38
5. Đứng đầu nhà nước................................................ C-38
6. Hồ, Một lần nữa là người dân tộc chủ nghĩa............. C-40
7. Nhận thức của Hoa Kỳ về Hồ................................. C-41
8: Hồ, Á Châu trung lập?........................................... C-46
9.. Hồ, người thực tế................................................. C-47
10. Trình tự về Hồ Chí Minh........................................ C-48
I. C. 2. Tiểu sử chính trị của HỒ CHÍ MINH, 1890-1950
Có hai giai đoạn trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH), trong đó bề ngoài có vẻ như ông cống hiến trọn vẹn mình cho chủ nghĩa dân tộc Việt. Giai đoạn đầu là những năm đầu của những năm 1920 khi Hồ Chí Minh là một người với khác vọng chống thực dân, nhưng chưa bị cuốn vào cuộc cách mạng cộng sản. Giai đoạn thứ hai 1945-1950 dường như mối bận tâm [vẫn là] dân tộc chủ nghĩa, khi Hồ cố gắng thương lượng với Pháp, kêu gọi Mỹ, Anh và Trung Quốc can thiệp vào Việt Nam, chối mình là một người cộng sản, và tránh bất cứ liên kết nào giữa VNDCCH và Điện Cẩm Linh. Phần còn lại của đời sống chính trị của Hồ Chí Minh cố hửu là một người làm cách mạng cộng sản, chống thực dân, dân tộc chủ nghĩa - lưu vong, theo các trường học ở Moscow, nhà tù, hoạt động bí mật, chiến tranh du kích, phe đảng chính trị. Trình tự về sự nghiệp của ông ta cho tới năm 1950 được đính kèm, (trang C-48 và tiếp theo).
1. Hình thành con người chính trị
Hồ Chí Minh sinh ra tên Nguyễn Văn Thành [đúng ra là Nguyễn Tất Thành] ngày 19 Tháng 5 năm 1890, ở [làng] Kim Liên phía bắc của tỉnh Nghệ An thuộc Trung Kỳ (nay thuộc về miền Bắc Việt Nam). Sớm trong cuộc đời Hồ đã có những oán giận cay đắng về sự hiện diện của Pháp tại Việt Nam, cha của ông đã bị bắt giam tại Côn Sơn do đã tham gia vào các hoạt động dân tộc chủ nghĩa. Giáo dục trung học của Hồ Chí Minh đã diễn ra trong một mảnh đất màu mỡ của chủ nghĩa dân tộc, đó là trường Quốc Học ở Huế. Việc học của ông chấm dứt khoảng 1910 trước khi ông nhận được bằng tốt nghiệp, nhưng [dù sao] ông vẫn có được một sự giáo dục nhiều hơn hầu hết đồng bào của mình. Quyết định ra đi làm việc như một cậu bé phụ việc trên một chiếc tầu viễn dương của Pháp vào năm 1912 đã được [tác giả] Bernard Fall xem là một quyết định chính trị quan trọng - đó là, Fall đã đánh giá Hồ, không giống như những người Quốc dân Đảng bảo thủ nhất, từ đó đã chọn phương Tây (chủ nghia cộng hòa, dân chủ, chủ quyền dân tộc, v.v…), thay vì phương Đông (chủ nghĩa quân phiệt, xã hội phong kiến, vv). 1 /
Nếu chuyến đi biển là một quyết định quan trọng hơn tất cả, nó có thể cho thấy rằng Hồ đã không đi theo con đường bình thường của chủ nghĩa dân tộc Việt. Sự kiện này đã xảy ra bởi Hồ đã tuyệt giao với cha mình là Nguyễn Tất Sắc, người đã giao cho ông một bức thư đê đưa cho Phan Chu Trinh, một người kỳ cựu dân tộc chủ nghĩa ở Paris. Sắc đã hy vọng là Phan sẽ dạy dỗ Hồ về chủ nghĩa dân tộc, nhưng Hồ không thể chấp nhận chủ trương “hợp tác hòa bình với người Pháp” của Phan, và đã rời bỏ Paris, sau đó ông cắt đứt quan hệ của mình với cha mình. 2/
Là một thanh niên Á Châu phải vật lộn để kiếm sống ở Âu Châu và Mỹ trước Thế Chiến I, Hồ đã tiếp xúc với sự kỳ thị chủng tộc của nền văn minh phương Tây và có lẽ đã tìm an toàn khi ông gia nhập Hội Những Lao Động Người Nước Ngoài mà dân gốc Trung Quốc chiếm ưu thế, một tổ chức bí mật, chống thực dân quan tâm tới việc cải thiện điều kiện làm việc của người lao động nước ngoài, nhưng ngày càng phát triển thành một lực lượng chính trị. Hồ sang Pháp từ London vào năm 1917 với cuộc chiến phía trước mặt, và cuộc cách mạng Nga Lênin ở phía sau. Tự xem mình một người tổ chức chính trị và người viết đủ các thể loại, Hồ đã ký các bài viết dưới tên Nguyễn Ái Quốc (có nghĩa là "Nguyễn- người yêu nước") - một bí danh mà tất cả các người Việt Nam đã biết ông cho đến khi được trở thành Hồ Chí Minh vào năm 1943. Là một người viết ở Paris, chủ nghĩa dân tộc chống thực dân là chủ đề chính cho tờ báo bí mật của mình – tờ Việt Nam Hồn. Hồ cũng viết một bài tố cáo chính sách thực dân Pháp được đọc rộng rãi tên là “Bản án cho hế độ thuộc địa Pháp”. Tài liệu này đã trở thành “thánh kinh cho những người dân tộc chủ nghĩa" tại Việt Nam 3 /
Bị cuốn vào lòng nhiệt thành yêu nước của hiệp ước đình chiến, Hồ đưa ra một chương trình tám điểm trình bày trong [hội nghị] Versailles:
"Thu hút bởi lời hứa của [chương trình] Mười Bốn Điểm của Woodrow Wilson, người phát ngôn của các dân tộc khác nhau đều muốn độc lập phải theo cùng các lãnh đạo Đồng Minh chiến thắng đến Paris vào năm 1919. Cùng với Ấn Độ, Hàn Quốc, người Ailen, và người Ả Rập, Hồ Chí Minh đến với một danh sách những bất bình của Việt Nam và lời biện hộ cho quyền tự chủ cho người Việt. Ông đến [hội nghị] Versailles trong bộ quần áo dạ tiệc được thuê để đưa ra những lời kêu gọi của mình. Tuy nhiên, các chính khách gặp nhau tại Paris đã không có thời gian dành cho các vấn đề của các dân tộc thuộc địa của đế quốc Pháp, và không gì được đưa ra từ đó" 4/
Đây là cú ném chính chót mà Hồ bị quăng ra khỏi chủ nghĩa dân tộc không cộng sản trước 1920, kể từ ngày đó ông bắt đầu ngày càng dấn thân vào vòng nhóm của Leon Blum, Marcel Cochin, Marius Moutet, và những khuôn mặt chính trị cánh tả khác, và trở thành thành viên của Đảng xã hội Pháp. Vào tháng Năm năm 1920, Hồ đã củu làm đại biểu tại Đại hội Đảng Xã Hội ở [thành phố]Tours, và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sau này trong cuộc sống Hồ nhớ lại những ngày đó mô tả "Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin" *( Bài viết vào tháng Tư, 1960, cho vấn đề Liên Xô xem xét lại phương Đông, dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Lenin. Từ đợt phát hành Mùa Thu, Hồ làm Cách mạng, 5-7)
"Sau Thế chiến thứ nhất, tôi kiếm sống ở Paris, khi thì làm thợ chỉnh sửa hình cho một nhiếp ảnh gia, khi là họa sĩ vẽ tranh cổ Trung Quốc (làm ở Pháp), tôi thường rải truyền đơn tố cáo tội ác của thực dân Pháp tại Việt-Nam.
"Vào thời điểm đó, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính, chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó, yêu thương và ngưỡng mộ Lenin vì ông là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào của mình, cho đến khi đó, tôi đã không đọc cuốn sách của ông.
"Lý do cho tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp là các 'quý bà và quý ông" - như tôi gọi các đồng chí của tôi tại thời điểm đó - đã tỏ ra đồng tình với tôi, đối với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Nhưng tôi chưa hiểu gì là đảng phái, công đoàn, cũng không biết chủ nghĩa xã hội hay cộng sản là gì.
Nhiều buổi bàn cãi sôi nổi sau đó đã diễn ra trong các chi bộ của Đảng Xã Hội, về vấn đề Đảng Xã Hội nên ở trong Đệ Nhị Quốc tế, nên thành lập Quốc Tế Hai-Rưỡi hay Đảng Xã hội cần tham gia Đệ Tam Quốc tế của Lê Nịn Tôi tham dự các cuộc họp thường xuyên, hai hoặc ba lần mỗi tuần, và luôn chăm chú lắng nghe các cuộc thảo luận.
Đầu tiên, tôi không thể hiểu được hết. Tại sao các cuộc thảo luận hăng như vậy? Với Đệ Nhị, Đệ Nhị rưỡi, hoặc Đệ Tam quốc tế, [với Quốc Tế nào] cuộc cách mạng có thể được tiến hành. Các lập luận sau đó để làm gì? Đối với Đệ Nhất Quốc Tế, chuyện gì đã xảy ra với nó?
"Những gì tôi muốn biết nhất -- và điều này chính xác là không được thảo luận trong các cuộc họp -- là: Quốc Tế [Cộng Sản] nào đứng về phía nhân dân các nước thuộc địa?
"Tôi đưa ra câu hỏi này -- quan trọng nhất trong quan điểm của tôi trong cuộc họp. Một vài đồng chí đã trả lời: Đó là thứ ba, không phải là quốc tế thứ hai. Và một đồng chí đã cho tôi cuốn " Luận điểm về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin xuất bản bởi [tờ báo] Nhân Đạo [L’Humanité], để đọc.
"Có những chữ chính trị khó hiểu trong luận cương này. Nhưng cứ đọc nó một lần rồi nhiều lần nữa, cuối cùng tôi có thể hiểu được phần chính của nó. Bao nhiêu cảm xúc, nhiệt tình, tầm nhìn rõ ràng, và tự tin đã tràn ngập trong tôi! Tôi đã vui mừng khôn xiết đến rơi nước mắt. Tuy chỉ một mình ngồi trong phòng, tôi hét to như thể trước một quần chúng đông đảo: "Kính thưa liệt sĩ, đồng bào! Đây là những gì chúng ta cần, đây là con đường giải phóng chúng ta!"
"Sau đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, trong Đệ Tam Quốc tế”.
"Trước kia, trong các cuộc họp của chi bộ, tôi chỉ ngồi nghe người ta nói; tôi đã có một niềm tin mơ hồ rằng ai cũng có lý cả, và không thể phân biệt được ai đúng ai sai. Nhưng kể từ khi đó, tôi cũng xông vào các cuộc tranh luận và thảo luận sôi nổi. Mặc dù tôi vẫn không đủ tiếng Pháp để nói hết suy nghĩ của tôi, tôi vẫn tấn công mạnh mẽ những lời lẽ chống lại Lenin và Đệ Tam Quốc tế với không ít cuồng nhiệt. Lý luận duy nhất của tôi là:.. “Nếu các bạn không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu bạn không đi với các dân tộc thuộc địa, loại cách mạng mà các bạn đang tiến hành là loại cách mạng gì?”
"Tôi không chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ tôi, tôi cũng đã đi đến chi bộ khác để nói lên “chỗ đứng” của tôi. Nay tôi phải nhắc thêm rằng các đồng chí Marcel Cachin, Vaillant Couturier, Monmousseau, và nhiều người khác đã giúp tôi mở rộng kiến thức. Cuối cùng, tại Đại hội Tours, tôi đã bỏ phiếu với họ gia nhập Đệ Tam Quốc tế.
"Lúc đầu, lòng yêu nước, chưa chưa phải là chủ nghĩa cộng sản, đã khiến tôi có niềm tin để theo Lênin, trong Đệ Tam Quốc tế. Từng bước, trong cuộc đấu tranh, bằng cách nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, song song với sự tham gia vào các hoạt động thực tế, dần dần tôi hiểu được thực tế là chỉ có Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là có thể giải phóng các dân tộc bị áp bức và người lao động trên khắp thế giới khỏi ách nô lệ.
"Có một truyền thuyết, ở nước tôi cũng như ở Trung Quốc, dựa trên cuốn sách 'Sách của khôn ngoan” kỳ diệu. Khi phải đối mặt với những khó khăn lớn, người ta mở nó và tìm thấy một cách để ra. Lê-nin không chỉ là cuốn " sách của khôn ngoan” kỳ diệu đó, mà còn là một la bàn cho cách mạng và nhân dân Việt Nam chúng tôi: nó cũng là mặt trời rạng rỡ chiếu sáng con đường của chúng tôi đến thắng lợi cuối cùng, đó là Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản".
(xem tiếp kỳ 12,
2. Đại Diện Quốc Tế Cộng Sản
Sau đó vào năm 1920 Hồ Chí Minh cũng tham dự Hội nghị Baku (Hội nghị đầu tiên của nhân dân vùng Viễn Đông) trong chuyến thăm đầu tiên tới Nga. Nó cũng có khả năng rằng ông đã tham gia Hội nghị của người lao động của vùng Viễn Đông vào năm 1922 tại Moscow đã quan tâm với việc thiết lập chủ nghĩa cộng sản ở vùng Viễn Đông. Ông trở lại Pháp và
"Hồ Chí Minh ở lại Pháp cho đến 1923, khi Đảng Cộng sản Pháp đã chọn ông làm đại biểu để tham dự Đại hội Quốc tế nông dân (Krestintern) tại Moscow vào tháng mười... ông đã không rời khỏi Liên Xô sau cuộc họp, ở lại đó một năm, nghiên cứu cộng sản, kỹ thuật, tổ chức của nó, mẻ đầu tiên. Ông đã biết về chủ nghĩa cộng sản nhiều đến tuyệt vời và gần-tuyệt vời trong giai đoạn này, hơn như lúc trước đây ông đã gặp các nhà lãnh đạo phong trào cánh tả ở Paris.” 5/
Năm 1924, Hồ đã trở thành một sinh viên tại trường Đại học Công nhân Phía Đông và nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và các chiến thuật của Bolshevik. 6/
Năm 1925, ông đi cùng Michael Borodin, đại biểu Quốc tế cộng sản cho Quốc Dân Đảng đến Quảng Châu, Trung Quốc, như một người thông dịch tiếng Trung cho lãnh sự quán Liên Xô. Sau một vài tháng, Hồ đã tổ chức Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. 7/ Học viện chính trị và quân sự Whampoa tại Quảng Châu, là nơi đã thu hút những người cách mạng, đặc biệt là Việt Nam, là trung đào tạo của Hồ về cách mạng và chủ nghĩa Mác. Hồ bị cáo buộc là có những hiểu hiện chính trị tàn nhẫn trong việc tố giác một đối thủ dân tộc chủ nghĩa là Phan Bội Châu, một người Việt Nam yêu nước và lý tưởng nổi tiếng, Hồ được cho là đã nhận được 100.000 đồng [Đông Dương] của công an cho sự phản bội của mình. Hồ cũng đã thiết lập một hệ thống mật vụ nổi tiếng là tàn hại các tổ chức quốc gia chủa nghĩa Việt. Ông và trợ lý của ông, một người tên Lâm Đức Thụ, yêu cầu hai bức ảnh cho mỗi thí sinh vào Học viện Whampoa... Sau khi tốt nghiệp, nếu sinh viên tham gia Đoàn Thanh Niên của Hồ, họ sẽ trở lại Việt Nam trong vòng bí mật. Nếu sinh viên nào có biểu hiện sẽ tham gia một đảng khác, Thụ sẽ bán bức ảnh kia cho lãnh sự quán Pháp, mà sau đó sinh viên này bị bắt tại biên giới. Vì vậy, Hồ phát triển các tổ bí mật của mình, trong khi làm suy yếu phe đối lập quốc gia. 8 / Tại Whampoa vào năm 1926, Hồ đã viết rằng "[cuối cùng] chỉ có đảng cộng sản là có thể bảo đảm được cuộc sống no đủ của người Việt Nam." 9 /
Năm 1927, Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) chia tay với những người cộng sản, và Borodin đã buộc phải quay trở lại Moscow. Hồ Chí Minh trở về Moscow với anh ta, nhưng trước khi khởi hành ông đã bàn giao việc lãnh đạo Liên đoàn Thanh niên cho một trợ lý đáng tin cậy, ông này đã bị bắt trong vòng một năm sau đó. Các lãnh đạo Liên đoàn sau đó đã hạ Thụ đang sống xa hoa ở Hồng Kông bằng tiền máu của Pháp. Thụ triệu tập một cuộc họp ở Hồng Kông vào năm 1929 mà kết quả các đại biểu Việt Nam đã bỏ ra về trong sự ghê tởm, và đã hình thành Đảng Cộng sản Đông Dương tại Bắc Kỳ. Lãnh đạo lưu vong của Liên đoàn thừa nhận sự cần thiết phải tổ chức một đảng cộng sản, nhưng trong thực tế, không muốn đi chệch khỏi đường lối chính trị của Hồ Chí Minh là xây dựng một đảng cách mạng dân tộc với định hướng xã hội chủ nghĩa. 10 / Như Đảng Cộng sản Đông Dương đã tăng trưởng trong sức mạnh, đoàn Thanh Niên đã thông qua cái tên "An Nam Cộng sản Đảng."
Sau khi rời khỏi Trung Quốc năm 1927, Hồ Chí Minh đi Moscow, Berlin, và vào năm 1929 đến Thái Lan làm việc bí mật với 30.000 di dân Việt. Hồ trở về Hồng Kông vào tháng Giêng 1930, và giải quyết sự mất đoàn kết giữa nhiều phe phái Cộng Sản Đông Dương. Một đảng mới được thành lập, với một ủy ban trung ương tại Hải Phòng, đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong tháng Mười, 1930, dưới áp lực của Quốc tế cộng sản, nó được đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bao gồm Campuchia và Lào; Ủy ban Trung ương đã được chuyển vào Saigon. 11 / Ngay sau đó Cảnh sát Pháp đàn áp gần như tiêu diệt các tổ chức cộng sản, một số phụ tá cho Hồ Chí Minh như Phạm Văn Đồng, Giáp và những người khác, đã bị đày đi Côn Sơn với thời gian phạt tù dài.
3. Nhà tù và tối tăm
Hồ, người đã bị Pháp kết án tử hình vắng mặt đã bị bắt ở Hồng Kông vào năm 1931 bởi người Anh. Bernard Fall đã viết về khoản này:
"Về pháp lý, tuy nhiên, trong thế giới lịch sự của Hong Kong luật Anglo-Saxon chiếm ưu thế. Bảo vệ bởi Sir Stafford Cripps trước Tòa án Cơ mật của Anh, Hồ đã được Tòa phán là thuộc đối tượng không chịu dẫn độ khi ông ta là một người tị nạn chính trị.. Tuy nhiên, người Anh cũng không muốn [chứa chấp] ông ta và ông này đã được xem như là một người đã được đánh dấu. Ông đã bí mật rời khỏi Hồng Kông để vào một nơi heo hút trong tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc.
"Bằng cách nào đó, chỉ một năm sau, Hồ đã có mặt ở Thượng Hải, nơi nước ngoài duy nhất ở Á Châu có một cộng đồng đáng kể người Việt có thể được tìm thấy. Ông đã tuyệt vọng tìm cách liên hệ với bộ máy Quốc tế cộng sản, mà lúc này rất thận trọng che giấu hoạt động của mình ở Trung Quốc... Cũng dễ hiểu vi những gì Đảng Cộng sản Trung Quốc còn để lại ở ngoài vùng của Mao Trạch Đông là không thể quãng bá sự hiện diện của nó trên toàn Thượng Hải. Nhưng có thể có một lý do là Hồ Chí Minh cũng khó khăn tìm ra những người Cộng sản: Lý do tại sao Hồ được người Anh thả cũng là điều mà những người Cộng Sản có đầu óc nghi ngờ có thể nuốt được. Đối với việc bộ máy Cộng sản đang trổi dậy từ khi bị đánh nát trong những năm 1930, đây là một việc làm bình thường nhằm cô lập Hồ Chí Minh như một kẻ phá hoại tiềm năng cho đến khi những gì ông đã nói và làm trong khi bị Anh giam giữ được biết rõ.
"Cuối cùng, Hồ đã liên lạc được và đầu năm 1934 bộ máy Cộng sản đã ngầm đưa ông trở lại Moscow, nơi một nhóm khá lớn các học viên Việt Nam đã đến trước để du học trong nhiều lĩnh vực, từ kỹ thuật đến việc kích động và tuyên truyền. Dĩ nhiên ông quay lại tiếp tục học món sau.
Đầu tiên Hồ tham gia Học Viện Về các Vấn Đề quốc gia và Thuộc Địa ở Moscow, và sau đó là "trường đại học” nổi tiếng cho các nhà lãnh đạo cao cấp của Cộng sản, trường Đảng Lenin. Moscow, năm 1935-1938, cũng cung cấp một nền giáo dục khác xa: các cuộc thanh trừng của Stalin. Sẽ rất thú vị nếu ta có thể biết những gì Hồ cảm giác được khi nhìn thấy một số bạn bè thân nhất của mình bị buộc tội, bị kết án, và xử tử vì những tội ác mà họ không hề vi phạm. Điều đáng chú ý rằng Hồ, là một thành viên nổi tiếng của nhóm Quốc tế cộng sản, không bị thanh lọc cùng với hàng trăm hàng ngàn người ít quan trọng hơn ông đã thành nạn nhân của bệnh cuồng diên của Stalin. " 12/
Hồ sơ về quãng đời của Hồ trong giai đoạn 1933-1939 ngược lại là tối tăm [không biết chuyện gi đã xảy ra], phong trào cộng sản tại Việt Nam được dẫn dắt bởi Trần Văn Giàu và những người khác trong những năm ấy.
Hồ nổi lên từ những năm rút kín của mình vào năm 1939, một năm khó khăn. Hồ, như một người cộng sản kỷ luật phải tuân theo hướng dẫn chiến thuật của Đảng là dự định bảo vệ Liên Xô thành cơ sở của phong trào quốc tế, ngay cả khi điều này đã đưa ông vào một mâu thuẫn tạm thời với mục tiêu dài hạn của Việt Nam. Trong giai đoạn trước thế chiến thứ II, Fall đã viết:
".. Có lẽ sau đó Hồ đã trung thành vô điều kiện với Stalin, và Stalin biết điều đó. Chuyện này đã trở nên đặc biệt rõ ràng khi chủ nghĩa phát xít bắt đầu xuất hiện như một mối đe dọa và các đảng cộng sản quyết định vào năm 1936 áp dụng các chính sách "mặt trận dân tộc”, với các nền dân chủ phương Tây.
"Chính sách này là một viên thuốc đắng cho các chính phủ Cộng sản như ở thuộc địa Đông Dương, nó có nghĩa là phải bỏ chuyện ủng hộ độc lập đi để hoàn toàn ủng hộ một chính sách hợp tác với chế độ thực dân Pháp. Hồ, trở về với căn cứ Cộng sản ở miền Bắc Trung Quốc vào năm 1937, nghiến răng và nuốt hận miễn cưỡng tuân theo những thay đổi bất thường chi ly nhất để báo cáo những thành quả của mình trước Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản vào năm 1939, đã chứng minh sự thành công của ông.
"Có lẽ đấy là lúc sa cơ thấp nhất của Hồ. Ông đã công khai thề thốt về tất cả những gì ông theo đuổi, nay đã hợp tác với Pháp, những người mà ông ghét nhất, và đã phải bán rẽ những người đồng minh Trốt Kít, những người thỉnh thoảng đôi khi giúp phe Cộng Sản đánh bại những ứng cử viên do Pháp tài trợ trong các cuộc bầu cử tại Nam Kỳ (một thuộc địa Pháp, sau đó một phần của Liên bang Đông Dương, là một vùng [được Pháp] bảo hộ, được hưởng quyền đại diện trong cơ quan lập pháp [Quốc Hội Pháp]) Và điều tồi tệ nhất vẫn chưa kết thúc. Không được Quốc tế cộng sản cho phép mình lộ diện một quá sớm để trở lại Việt Nam, ông chỉ làm việc như một liên lạc viên tầm thường trong lộ quân 8 Cộng sản Trung Quốc, đang đánh nhau Nhật". 13/
4. Lãnh Đạo thời chiến
Năm 1940, Hồ đã được báo cáo là có mặt ở Liễu Châu, tỉnh Quãng Châu, ở miền Nam Trung Quốc, tham gia đào tạo du kích dưới sự bảo trợ của các lãnh chúa địa phương. Ngay sau đó, Hồ, với những tàn dư còn sống sót của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD) đã vượt biên giới vào Việt Nam, và năm 1941 bắt đầu tổ chức một phong trào kháng chiến trên quy mô lớn. ĐCSĐD chuẩn bị và ủng hộ một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại Chủ nghĩa Đế Quốc Pháp và phát xít Nhật. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh tổ chức Việt Minh như một phong trào dân tộc Việt Nam kháng chiến. Chương trình Việt Minh tập trung vào sự hợp tác với các nước đồng minh đánh bại Nhật và giải phóng Đông Dương. Trong quá trình công việc của mình, Hồ đã bị bắt tháng 5 năm 1942 bởi phe Quốc Gia Trung Quốc, trong những tình hống đầy bí ẩn, và tháng 6 năm 1943, Hồ lại được thả ra một cách bí ẩn. Hồ bắt liên lạc lại với Việt Minh, vào lại Việt Nam, và đã lãnh đạo Việt Minh lên nắm quyền vào tháng Tám, năm 1945.
Hồ, cho đến thời điểm ông trở thành Chủ Tịch nước VNDCCH, chắc chắn là một người cộng sản trong ý nghĩa rằng ông đã trải qua 25 năm trong vòng tay kỷ luật và ý thức hệ của Đảng, và rằng ông đã là một đại diện của Quốc tế Cộng sản. Ông cũng là một người làm cách mạng dân tộc chủ nghĩa, nguyên nhân đã đòi hỏi ông phải chịu nhiều năm khó khăn, tù đày, lưu vong, và bị cô lập bí ẩn. Ghi chú trong “Nhật ký trong tù”, ông đã viết:
"Người ra khỏi tù có thể xây dựng một quốc gia.
Bất hạnh là một bài kiểm tra mức trung thành thiên hạ
Phản đối bất công là những người thật xứng đáng.
Khi cửa tù mở ra, rồng thực sự sẽ bay cao. " 14/
4. Đứng đầu cả Nước
Bất cứ là gì khác, ông Hồ là một nhà lãnh đạo và tổ chức tuyệt hảo, một tay vận động lôi kéo sắc sảo những người khác, đã thành công đan kết một cách thức để vượt qua mớ âm mưu quốc tế phức tạp ở Trung Quốc để tạo quyền lực chính trị cho bản thân và những người theo mình trong ĐCSĐD và Việt Minh. Ông lên nắm quyền nước VNDCCH dưới sự bảo trợ của quân Đồng minh, và sự đồng tình của nhân dân. Ông đã không thành lập một chính phủ cộng sản, mặc dù bên cạnh mình trong Chủ Tịch Đoàn, ông đã sắp xếp nhiều phụ tá cộng sản để nắm giữ danh mục nội vụ, quốc phòng, tài chính, tuyên truyền, giáo dục, và thanh thiếu niên. Những người cộng sản, mặc dù trực thuộc Trung ương, chỉ là một thiểu số, và toàn thể nội các được đại diện đầy đủ với những thành viên độc lập [không đảng phái] và một số khác của các đảng phái quốc gia không cộng sản. 15/
Tháng Mười Một 1945, Hồ giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương và thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác, nhưng tới năm 1951 mà Đảng Cộng sản một lần nữa khẳng định bản thân một cách công khai trong chính trường VNDCCH. Hồ có vẻ như đã tung toàn bộ năng lượng của mình vào Việt Minh, mà ông mô tả trong năm 1945 là có:
"… hàng triệu thành viên từ tất cả các tầng lớp xã hội: trí thức, nông dân, công nhân, doanh nhân, binh lính, và từ tất cả các dân tộc trong cả nước..." 15/
Sau đó, ông chuyển sang cắt giảm số lượng ghế cộng sản trong nội các chính phủ, và mặt khác là để tăng cường tính iên minh của nó.
Hồ, Việt Minh và chính phủ VNDCCH đã nhấn mạnh bản sắc của họ với nhân dân, và những mục tiêu yêu nước, dân chủ và dân tộc của họ, như đã nói trên là không thể là cộng sản. Bài viết của Hồ Chí Minh của thời kỳ này là nói rõ: 16/
"Tháng Mười, 1945: Chúng ta phải nhận ra rằng tất cả các cơ quan Chính phủ, từ Trung ương đến các cấp độ xã, của người công chức, để nói rằng họ được chỉ định để làm việc vì lợi ích của toàn thể nhân dân.
"Năm 1945: Chúng ta không thích cũng không ghét người Pháp. Ngược lại, chúng ta tôn trọng họ như những người đầu tiên truyền bá những lý tưởng cao cả của Tự do, Bình Đẳng và Tình Huynh Đệ.
"Năm 1945: thực dân... đã đi ngược lại với những lời hứa về dân chủ và tự do mà các lực lượng Đồng Minh đã tuyên bố. Họ đã tự phá hoại nguyên tắc của cha ông của họ về Tự Do và Bình Đẳng. Kết quả là, vì chính nghĩa, vì công bằng của thế giới, và vì Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam mà đồng bào chúng ta trong cả nước đã vùng lên đấu tranh, và quyết tâm vững chắc giữ gìn nền Độc Lập của chúng ta.
"Tháng Giêng 1946: Với viễn tượng một chiến thắng dành hoàn toàn độc lập và để mang đến sự hợp tác chặt chẽ giữa các đảng phái chính trị khác nhau để tăng cường hơn nữa sức mạnh của Chính phủ, nay đặt tên là Chính phủ Liên Hiệp Tạm Thời. Vào thời điểm này, nếu tất cả các bên đoàn kết với nhau, Chính phủ có thể vượt qua những khó khăn.
Mục tiêu chính trị: Thực hiện tốt cuộc bầu cử... để thống nhất các cơ quan hành chính khác nhau theo nguyên tắc dân chủ…
Mục tiêu kinh tế: cố gắng phát triển nông nghiệp, khuyến khích chăn nuôi trồng trọt và dự trữ giống má để kiểm soát nạn đói…
Mục tiêu quân sự: Để thống nhất các lực lượng vũ trang khác nhau…
"Tháng 10 năm 1946: Chúng ta phải cho Chính phủ và nhân dân Pháp và thế giới bên ngoài thấy là nhân dân Việt Nam đã sở hữu tất cả các điều kiện cần thiết để được độc lập và tự do, và và việc công nhận quyền tự do và độc lập của chúng ta đó là một điều cần thiết...
"Tháng 12 năm 1946: Hỡi đồng bào! Hãy đứng lên ! Đàn ông và phụ nữ, già và trẻ, bất kể tín ngưỡng, đảng phái chính trị, hoặc quốc tịch, tất cả người Việt Nam phải đứng lên chống lại thực dân Pháp để cứu Tổ quốc…
"Tháng 4 năm 1948: gốc rẽ của Đất Nước là Dân. Trong kháng chiến và trong tái thiết Đất Nước, sức mạnh chính là ở người dân …”.
6. Hồ chống những người Quốc Gia
Sự chân thành của một Hồ Chí Minh dân tộc chủ nghĩa, trước sau, dường như là không thể đặt vấn đề, [sự chân thành] cũng vậy đối với Stalin, hay Harry Truman. Trong số những người dân tộc chủ nghĩa, Hồ là ưu tú nhất. Hồ đã dẫn các lực lượng [của mình] ra đón tiếp Đồng minh khi họ vào Đông Dương để chấp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật. Hồ đứng đầu VNDCCH năm 1945-1946, khi độc lập và hòa bình đoàn kết dân tộc dường đã ở trong tầm tay. Hồ được long dân, được kính trọng, thậm chí được tôn thờ. Ông đã giao trồng một hình ảnh có tính toán để hấp dẫn nông dân: tuổi đáng kính, thắt lưng buộc bụng, mộc mạc, và khiêm nhường. Ông nhấn mạnh "Bác Hồ" trong khi giới thiệu bản thân, và đó là một "Bác Hồ" mà các vùng nông thôn đã gọi ông ta. Không có bất cứ người Việt Nam được biết đến rộng rãi, hay được tôn kính nhiều như thế. 19/ Hơn nữa, không giống như bất kỳ đối thủ nào của mình, ông đã có một tổ chức chính trị kỷ luật tầm cỡ quốc gia, đã được đào tạo về nghệ thuật làm cách mạng, và giỏi về kỹ thuật huy động dư luận và kích động chính trị. Sự thật, từ đó, Hồ đã đạt một tầm cỡ như vào những năm 1945 hoặc 1946, là một hiện thân của dân tộc Việt. 20/
Vấn đề lịch sử, tất nhiên, là ở mức độ nào mà mục tiêu dân tộc của Hồ đã có thể thay đổi niềm tin cộng sản của ông. Đối vớ hiều nhà quan sát thời đó cho rằng dường như Hồ đặt chủ nghĩa dân tộc lên trên chủ nghĩa cộng sản không chỉ là một vấn đề che đậy, như ông đã thực hiện đồng thời việc giải thể Đảng và việc hình thành ra Hiệp Nghiên Cứu Mác-xít, mà còn là một kết luậnđầy nghi ngờ về tính hợp lệ của việc xem cộng sản như một hình thức chính trị phù hợp cho Việt Nam. Sainteny, người đàm phán cho Pháp về Hiệp Định ngày 6 năm 1946 với Hồ đã viết rằng: "các đề nghị, hành động, thái độ của ông, cá tính thật hay giả của ông, tất cả đều hướng đến một thuyết phục rằng ông đã tìm thấy một giải pháp bằng vũ lực làm đáng sợ...". Bảo Đại được biết đã nói rằng:" Tôi thấy Hồ Chí Minh đau khổ. Ông đã chiến đấu một trận chiến với bản thân. Hồ đã có cuộc đấu tranh cho riêng mình. Ông đã nhận ra rằng chủ nghĩa cộng sản không phải là tốt nhất cho đất nước của mình, nhưng đã quá muộn. Cuối cùng, ông không thể vượt qua lòng trung thành của mình với cộng sản." 21/ Trong cuộc đàm phán cho giải pha’p “giữ nguyên ” (Vivendi modus) với Pháp ở Paris vào mùa thu năm 1946, Hồ kêu gọi người Pháp "cứu ông ta khỏi những kẻ cực đoan" trong Việt Minh vì một số nhượng bộ có ý nghĩa cho độc lập Việt Nam. 22 / Trả lời câu hỏi của một nhà báo, Hồ tuyên bố rằng ông có thể giữ [Việt Nam] trung lập "như Thụy Sĩ" trong cuộc đấu tranh quyền lực thế giới đang phát triển giữa cộng sản và phương Tây. 23 /
Hoa Kỳ nghĩ thế nào về Hồ
Cá nhân, Hồ là người dễ mến, và đặc biệt quyến rũ với người Mỹ. Những tuyên bố công khai của Hồ gây tiếng vang tốt với những tình cảm chống thực của hầu hết người Mỹ, và ông có hình ảng một người hấp dẫn, mong manh, khiêm tốn, khổ hạnh, nhưng hài hước và có tính quốc tế. 24 / Tướng Gallagher sĩ quan cao cấp của Mỹ khi tiếp xúc với Hồ năm 1945, đã rất ấn tượng với quyết tâm và sự cống hiến của Hồ cho dân tộc. Khi trở về, ông nói với các quan chức Bộ Ngoại giao rằng "Hồ đã sẵn sàng hợp tác với Vương quốc Anh, Liên Xô, hay Hoa Kỳ và thậm chí có thể chấp nhận sự giám hộcủa Pháp nếu việc này phải chịu kiểm soát của các quốc gia khác".
"Khi được hỏi mức độ cộng sản của Việt Minh là như thế nào, Tướng Gallagher trả lời rằng họ thông minh và thành công đưa ra ấn tượng họ không phải là cộng sản Thay vào đó, họ nhấn mạnh quan tâm của họ về độc lập và lòng yêu nước của người Việt Nam. Tổ chức và kỷ thuật tuyên truyền của họ là tuyệt vời, Tướng Gallagher đã chỉ ra, có vẻ như có chỉ dấu một số ảnh hưởng của Nga. Tướng Gallagher nói rằng nhóm thiểu số Cao Đài chắc chắn là Cộng sản. Theo ông, tuy nhiên, Việt Minh không nên được dán nhãn là hoàn toàn cộng sản giáo điều cố chấp." (From Memorandum of Conversation, by Mr. Richard L. Sharp, of the Division of Southeast Affairs, Department of State, dated January 30, 1946.)
Ngày 11 Tháng Chín 1946, Đại sứ Hoa Kỳ ở Paris có một viếng thăm của Hồ:
"Tôi trân trọng báo cáo rằng thể theo yêu cầu của ông, tôi đã có một cuộc viếng thăm Chủ Tịch Hồ của nước Cộng hòa Việt Nam. Ông đã khẳng định những tin tức được công bố trên báo chí địa phương rằng cuộc đàm phán Fontainebleau giữa đại diện Việt Nam và đại diện người Pháp thực tế đã bị phá vỡ và đoàn đại biểu Việt Nam sẽ trở về Đông Dương... trong vài ngày tới... ông nói rằng ông và đảng của ông mong muốn một Việt Nam "độc lập" trong "Liên Hiệp Pháp"… Ông ta nói là họ mong muốn giúp đỡ từ phía chúng ta nhưng không nói rõ là những gì. Ông đã nhân dịp này để nói rằng ông không phải là cộng sản.
"Từ những nhận xét nói chung mập mờ của ông, tôi gọp chung ra ý rằng ông muốn chúng ta vào cuộc chơi và ông sẽ rất hài lòng nếu ông có thể sử dụng chúng ta cách này hay cách khác trong các cuộc đàm phán tương lai của mình với nhà cầm quyền Pháp.
"Tôi bày tỏ sự quan tâm của chúng ta về Đông Dương và nhân dân Đông Dương, nhưng không đưa ra cam kết nào” 25 / [phần gạch đít là thêm vào].
Phó Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Acheson, một lần, không hoàn toàn bị thuyết phục bởi các đại diện của Hồ Chí Minh. Trong Tháng Mười Hai năm 1946, ông điện cho một nhà ngoại giao Mỹ tại Hà Nội những hướng dẫn:
"Giả sử bạn sẽ gặp Hồ tại Hà Nội và hãy đưa ra tóm tắt về suy nghĩ của chúng ta sau đây như một hướng dẫn:
"Hãy ghi nhớ rõ là Hồ là một nhân viên của cộng sản quốc tế, không có bằng chứng chứng minh là ông không lệ thuộc MOSCOW, tình hìnhchi’nh trị lẫn lộn ở Pháp và sự hỗ trợ mà Hồ nhận được từ đảng Cộng sản Pháp. Điều ít mong muốn nhất là tình huống thành lập một Đông Dương Cộng Sản, định hướng Moscow dưới quan điểm của Bộ [Ngoại Giao]. Quan tâm đến những thông tin liên quan đến những yếu tố chống Cộng mạnh ở Việt Nam. Báo cáo đầy đủ, liên tục hay yêu cầu Bộ nhắc nhở Paris …
"Nếu Hồ đấu tranh chống lại việc không thực hiện lời hứa của Pháp về cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ, không quy trách nhiệm cho Việt Nam là không tuân thủ về hiệp định, nếu bạn xem có thể khuyên bảo được thì đưa ra câu hỏi liệu cuộc trưng cầu dân ý sau một thời gian dài rối loạn như vậy có thể đạt được một kết quả đáng giá và liệu ông chịu xem xét một thỏa hiệp cho Nam Kỳ thông qua đàm phán.
"Có thể nói rằng người dân Mỹ đã hoan nghênhnhững thành tựu của Đông Dương trong nỗ lực thực hiện nguyện vọng về quyền tự chủ lớn hơn trong khuôn khổ thể chế dân chủ và nó sẽ là điều đáng tiếc nếu những quan tâm và cảm thông này bị tan vỡ bởi một chính quyền Việt Nam không khoan nhượng và bạo lực bất kỳ xu hướng nào.
"Co thể thông báo cho Hồ [Đại sứ Mỹ, Paris] tình hình thảo luận với Pháp cùng một sự thẳng thắn tương tự...
"Tránh tạo ấn tượng là Chính Phủ Mỹ chính thức can thiệp ở thời điểm này. Đưa ra công khai bất kỳ chuyện gì sẽlà điều không may." 26 /
Trả lời bức điện của Bộ trưởng Acheson, báo cáo sau đây đã được gửi tới Washington vào ngày 17 tháng 12 năm 1946 - ngay trước khi chiến sự bùng nổ tại Hà Nội:
"Sau cuộc trò chuyện với các quan chức Pháp và Việt Nam, các lãnh sự Trung Quốc, Anh và Hoa Kỳ, lãnh sự Mỹ tại Hà Nội Abbot Moffat, hiện nay đang có mặt ở Đông Nam Á, đã đưa ra những quan điểm được sự đồng tình của Lãnh sự Sài Gòn suốt những dòng sau đây:
"Chính phủ Việt Nam kiểm soát một nhóm nhỏ Cộng sản có thể có liên lạc gián tiếp với Moscow và trực tiếp với Diên An. Một nhóm quốc gia sử dụng kỹ thuật của Cộng sản và với một kỷ luật mà họ đã quen thuộc. Giới địa chủ thì bảo thủ và những cố gắng để để cộng sản hóa đất nước đứng thứ yếu và [họ] chờ đợi sự thành công của một nhà nước quốc gia. Rõ ràng một số lãnh đạo, như Hồ Chí Minh, đã xem việc hợp tác với Pháp là thiết yếu, những người như Giáp (Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc Quốc phòng) sẽ cố tránh sự hợp tác vì lo ngại sự thống trị của Pháp nhưng không có thể loại bỏ ảnh hưởng và viện trợ của Pháp.
Tình cảm dân tộc của người Việt Nam là sâu đậm và chống Pháp, và họ có thể dễ dàng quay ra chống tất cả da trắng. Ảnh hưởng Pháp không chỉ quan trọng như là một thuốc giải độc đối với ảnh hưởng của Liên Xô, nhưng cũng để bảo vệ Việt Nam và Đông Nam Á chống chủ nghĩa đế quốc của Trung Quốc trong tương lai. Chậm trễ trong việc đạt giải quyết sẽ làm giảm khả năng ảnh hưởng cơ bản nhất của Pháp.
"Sự trung thực của cả hai bên quan chức Pháp và Việt Nam là đáng được đặt câu hỏi liên quan đến những sự cố gần đậy. 0 'Sullivan (Phó Lãnh Sự Mỹ tại Hà Nội) tin rằng Việt Nam chịu trách nhiệm cho vụ việc ngày 20 tháng mười một, nhưng dường như rõ ràng rằng với nếu là một chỉ huy Pháp khác ở Hải Phòng mà không phải là Đại Tá Debes, một người nổi tiếng tham nhũng và tàn bạo và chính ông này đã thừa nhận rằng ông không thể kiểm soát đám lính hung hăng của mình, thì chuyện lộn xộn đã được dừng lại ở lúc những đụng chạm ban đầu.
"Theo người Pháp, người Việt Nam đã phóng to các yêu cầu của mình sau mỗi thỏa thuận và không thực tế và lý luận suông đến nỗi tất cả các cuộc hội thoại đều không hiệu quả. Người Việt Nam cảm thấy rằng người Pháp đã chối bỏ trên từng thỏa thuận và đang cố gắng để thiết lập lại sự chiếm đóng... Tuy nhiên, cả hai nói rằng gần như họ có cùng một mục tiêu, mặc dù Giáp nói rằng Việt Nam phản đối một liên bang Đông Dương chính trị nhưng ủng hộ một hiệp hội cùng lo chung các vấn đề kinh tế. Moffat đã đề cập đến ba rắc rối Pháp rõ ràng cơ bản: (a) hoàn thành mất lòng tin lẫn nhau, (b) thất bại của Pháp nhằm giải quyết những quan điểm riêng của họ về tình trạng “tự do trong Liên Hiệp Pháp”, (c) Hiểu biết va thái độ gần như trẻ con của phía Việt Nam về những vấn đề kinh tế và mơ hồ dò dẫm về 'độc lập'. Không thể đạt được hiệp định dự a trên những. Những quyền hạn và mối quan hệ căn bản của Việt Nam với Pháp trước tiên phải được thành lập. Không phải chỉ những gương mặt mới là cần thiết nhưng những định chế trung lập hay thậm chí là hòa giải có thể xem là cần thiết. (*U.S. Department of State Telegram, from Washington, 17 December 1946.)
Thế đứng chính thức của Mỹ cơ bản vẫn không thay đổi sau đó. Một vài tháng sau đó, sau khi chiến đấu nổ ra ở miền Bắc Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Marshall phát biểu rằng:
"Tiếp đến (u) không thể né tránh một thực tế là xu hướng của thời đại là đế quốc thực dân trong nghĩa của thế kỷ XIX là sẽ nhanh chóng trở thành chuyện của quá khứ. (u)Người Anh ở Ấn Độ và Miến Điện và người Hà Lan ở Indonesia là những ví dụ xuất sắc của xu hướng này, và Pháp chính mình đã thức rõ về nó cả trong Hiến pháp và trong các hiệp định với Việt Nam.(u) Mặt khác, chúng ta không mất tầm nhìn thực tế rằng Hồ Chí Minh đã kết nối trực tiếp với Cộng sản và phải rõ ràng rằng chúng tai không quan tâm đến việc nhìn thấy các chính quyền đế quốc thực dân được thay thế bởi ý thức hệ và tổ chức chính trị bắt nguồn từ điện Cẩm Linh và chịu sự kiểm soát của nó.(u) Thực tế vẫn còn đo, tuy nhiên, tình trạng còn tồn tại này ở Đông Dương không còn cần để xem xét, và nếu bao giờ được coi là nó, thì sẽ coi đấy có tích cách địa phương.
Vào tháng năm 1949, Dean Acheson, lúc ấy là Bộ Trưởng Ngoại Giao, chỉ thị cho các đại diện Mỹ tại Hà Nội để cảnh báo các nhóm Việt Nam quốc gia chống lại việc chấp nhận bất kỳ một một liên minh nào với Hồ và Việt Minh:
"... Bạn có thể đưa những đường lối sau đây đại diện cho sự đồng thuận của Hoa Kỳ:
"Dưới ánh sáng đào tạo con người của Hồ đã được biết đến, không cần giả định khác có thể có thêm, nhưng ông này là cộng sản hoàn toàn bao lâu mà (1) ông không rõ ràng phủ nhận các liên hệ với Moscow và học thuyết Cộng Sản và (2) cá nhân vẫn là chủ đề cho lời khen ngợi và hỗ trợ của Cộng Sản Quốc Tế. Hơn nữa, Mỹ không ấn tượng gì với tính cách dân tộc của lá cờ đỏ sao vàng. Câu hỏi liệu Hồ nhiều dân tộc chủ nghĩa hơn cộng s?n chủ nghĩa là không cần thiết. Tất cả các Stalinists tại các khu vực thuộc địa là những người quốc gia chủ nghĩa. Khi mục tiêu quốc gia (tức là độc lập) thành công, mục tiêu [kế tiếp] của họ là trở thành nhà nước lệ thuộc Cộng Sản và họ sẽ tiêu diệt tàn nhẫn không chỉ các nhóm đối lập, nhưng tất cả các yếu tố bị nghi ngờ thậm chí chỉ là sai lệch nhỏ. Trên cơ sở những ví dụ ở Đông Âu, chúng ta phải giả định [có khản năng sẽ xảy ra] như vậy. Đó là mục tiêu [của chúng ta là chấp nhận] Hồ và những người của ông ta nếu gộp chung có chính phủ Bảo Đại. Gộp họ chung với nhau để đạt được sự hòa giải giữa các yếu tố chính trị kình chống nhau và sự thống nhất quốc gia. Vấn đề thống nhất quốc gia sẽ trì hoãn việc giải quyết Việt Nam là quốc gia độc lập hay vệ tinh cộng sản cho đến khi hoàn cảnh thậm chí có thể còn kém thuận lợi chop he quốc gia hơn bây giờ. Tất nhiên, trên lý thuyết ta phải thừa nhận việc tồn tại khả năng thiết lập một nhà nước Cộng sản dân tộc chủ nghĩa theomô hình Nam Tư trong vùng vượt xa tầm vươn tới của quân đội Liên Xô. Tuy nhiên, Mỹ chỉ có thể đưa vào tính toán khả năng như thế khi nào mọi con đường ngăn chận sự kiểm soát của Điện Cẩm Linh đều xem như bi đóng chặc. Hơn nữa, khi Việt Nam nằm ngoài tầm với của quân đội Liên Xô, cũng sẽ không có nghĩa là ra khỏi tầm với của những đao phủ và lực lượng vũ trang Trung Quốc.
Hồ, Trung Lập Á Châu?
Thật sự, Hồ có thể không bao giờ khác hơn một Lênin xảo quyệt, luôn tìm cách thích nghi để đi với Pháp hay Mỹ trong khi lo tập hợp sức mạnh của mình. Lời nói và hành động của ông sau năm 1949 chứng minh cho cho việc xây dựng: tháng 1 năm 1950, VNDCCH tuyên bố mình là "chính phủ hợp pháp của toàn bộ nhân dân Việt Nam", 29 / gia nhập Khối Trung-Xô, và bắt đầu tấn công Mỹ "đế quốc" và "can thiệp chủ nghaĩ” 30/ Sớm trong năm 1951, VNDCCH hợp pháp hóa Đảng Lao Động, rõ ràng là cộng sản.
Vẫn còn, tuy nhiên, những nghi ngờ không giải tỏa được liên quan đến sự ưa thích trước đó của Hồ danh cho chủ nghĩa Trung Lập, hoặc thậm chí liên kết với phương Tây. Có thể nói rằng, Hồ có thể ưa thích bất cứ điều gì, nhưng ông chỉ có một lựa chọn chật hẹp. Không có người Tây phương có uy tín nào được biết là có phỏng vấn Hồ, mặti đối mặt, từ nỗ lực chết yểu trong năm 1947 cho đến cuối 1954 để thương thuyết một giải pháp cho Nam Kỳ. 32 / Hồ không cách nào trực tiếp giao tiếp với Hoa Kỳ sau năm 1946, và các tín hiệu ông nhận được từ Mỹ khó có thể được xem là khuyến khích.33 / Tới năm 1947, thiết bị quân sự Mỹ đã được sử dụng bởi các lực lượng Anh và Pháp để chống lại Việt Nam, và Mỹ đã sắp xếp tín dụng trị giá $ 160 triệu để Pháp mua xe và thiết bị công nghiệp linh tinh để sử dụng ở Đông Dương. 34/ Bộ trưởng Ngoại Giao George C. Marshall vào tháng Giêng 1947, tuyên bố công khai về Việt Nam được giới hạn trong niềm hy vọng rằng "một cơ sở hòa bình để điều chỉnh những khó khăn có thể được tìm thấy," 35 / và kế hoạch của Marshall cho Âu Châu chắc chắn đã ném nguồn lực của Mỹ sau lưng Pháp. Nhưng những bảo đảm từ Nga cũng không cụ thể mạnh mẽ hơn. Trong khi Sovets phán xét mạnh mẽ các thế lực thuộc địa khác nhiều hơn so với Pháp, có khả năng là tiềm năng thành hình một chính phủ Cộng sản Pháp đã bóp nghẹt thậm chí sự ủng hộ Hồ lời nói, lơ luôn việc công nhận và viện trợ. 36/
9. Hồ, con người thực dụng
Là một người chính trị thực dụng, Hồ đã phải có ấn tượng rằng VNDCCH đã không nổi lên như một ưu tiên so với Pháp trong chính sách đối ngoại của Mỹ, khi Việt Nam khẳng định tuyên bố hỗ trợ Liên Xô về mối bận tâm của Nga với Âu Châu. Năm 1946, ông đặt hoàn cảnh của mình trong những câu nói như: "Chúng ta dường như đứng khá một mình, chúng ta sẽ phải phụ thuộc vào chính chúng ta. 37 / Sau 1947, các sự kiện đã hội tụ để làm tan sự cô lập của Hồ trong khi triển vọng ủng hộ Hồ của Mỹ lại mờ đi, và biến mất vào năm 1950,, Mao Tse Tung – người Hồ đã trải qua tám năm làm việc với - đã đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác, và cuối năm 1949, đã ở vị thế để hỗ trợ trực tiếp Hồ xuyên qua biên giới phía bắc, 38 / Đối mặt với mối đe dọa quân sự ngày càng nghiêm trọng, Hồ nhanh chóng đi vào quỹ đạo của Khối [cộng sản]. Từ mật khu trên rừng Việt Minh tố cáo “chương trình Marshall hóa thế giới" của Mỹ, lưu ý rằng Nga phản đối "Marshallization” 39 / Năm 1949, sau khi Hoa Kỳ đã công khai hoan nghênh sự hình thành "nhà nước mới và thống nhất của Việt Nam" của Bảo Đại, Hồ gửi các đại biểu đến một hội nghị ở Bắc Kinh. Liu Shao-Chi, trong bài phát biểu, tuyên bố rằng chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể dẫn “phong trào giải phóng dân tộc” 40 / Hồ và Mao trao đổi thông điệp hữu nghị và kẻ trung lập Tito đã bị tấn công bởi các đài phát thanh Việt Minh. Tháng Giêng, 1950, Hồ tuyên bố chỉ có VNDCCH là chính phủ hợp pháp của Việt Nam, Mao giang tay chính thức công nhận, và Stalin theo lập tức ngay sau đó. 41 / Số phận đã được định đoạt: Bộ trưởng Ngoại Giao Dean Acheson của Hoa Kỳ tuyên bố trong tháng Hai 1950, những công nhận đó "đã loại bỏ bất kỳ ảo tưởng nào về con người dân tộc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh nhằm mục đích và đã tố cáo Hồ trong màu sắc thực sự của mình là kẻ thù sinh tử của nền độc lập bản địa ở Đông Dương." 42 / Hồ trả lời vào tháng Tám năm 1950, các lô hàng đầu tiên của Mỹ trợ giúp các lực lượng Pháp tại Việt Nam trong các ngôn ngữ sắc nét sau đây.
"Kể từ khi bắt đầu chiến tranh, Mỹ đã cố gắng giúp đỡ kẻ cướp Pháp, nhưng bây giờ họ đã được cải tiến thêm một bước nữa để can thiệp trực tiếp tại Việt Nam Như vậy chúng ta có bây giờ là một đối thủ chính - kẻ cướp Pháp và một đối thủ lớn hơn - chủ nghĩa can thiệp Mỹ…
"Về phía chúng ta, một vài năm kháng chiến đã mang lại đất nước của chúng ta một thành công lớn nhất trong lịch sử của Việt Nam – sự công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như một bình đẳng trong gia đình dân chủ thế giới bởi hai nước lớn nhất trong thế giới là Liên Xô và Trung Quốc dân chủ -- và các nước dân chủ mới. Điều đó có nghĩa rằng chúng ta chắc chắn thuộc về khối dân chủ chống đế quốc của 800 triệu người ". 43/
(xem tiếp kỳ 13,
Sau đó vào năm 1920 Hồ Chí Minh cũng tham dự Hội nghị Baku (Hội nghị đầu tiên của nhân dân vùng Viễn Đông) trong chuyến thăm đầu tiên tới Nga. Nó cũng có khả năng rằng ông đã tham gia Hội nghị của người lao động của vùng Viễn Đông vào năm 1922 tại Moscow đã quan tâm với việc thiết lập chủ nghĩa cộng sản ở vùng Viễn Đông. Ông trở lại Pháp và
"Hồ Chí Minh ở lại Pháp cho đến 1923, khi Đảng Cộng sản Pháp đã chọn ông làm đại biểu để tham dự Đại hội Quốc tế nông dân (Krestintern) tại Moscow vào tháng mười... ông đã không rời khỏi Liên Xô sau cuộc họp, ở lại đó một năm, nghiên cứu cộng sản, kỹ thuật, tổ chức của nó, mẻ đầu tiên. Ông đã biết về chủ nghĩa cộng sản nhiều đến tuyệt vời và gần-tuyệt vời trong giai đoạn này, hơn như lúc trước đây ông đã gặp các nhà lãnh đạo phong trào cánh tả ở Paris.” 5/
Năm 1924, Hồ đã trở thành một sinh viên tại trường Đại học Công nhân Phía Đông và nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và các chiến thuật của Bolshevik. 6/
Năm 1925, ông đi cùng Michael Borodin, đại biểu Quốc tế cộng sản cho Quốc Dân Đảng đến Quảng Châu, Trung Quốc, như một người thông dịch tiếng Trung cho lãnh sự quán Liên Xô. Sau một vài tháng, Hồ đã tổ chức Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. 7/ Học viện chính trị và quân sự Whampoa tại Quảng Châu, là nơi đã thu hút những người cách mạng, đặc biệt là Việt Nam, là trung đào tạo của Hồ về cách mạng và chủ nghĩa Mác. Hồ bị cáo buộc là có những hiểu hiện chính trị tàn nhẫn trong việc tố giác một đối thủ dân tộc chủ nghĩa là Phan Bội Châu, một người Việt Nam yêu nước và lý tưởng nổi tiếng, Hồ được cho là đã nhận được 100.000 đồng [Đông Dương] của công an cho sự phản bội của mình. Hồ cũng đã thiết lập một hệ thống mật vụ nổi tiếng là tàn hại các tổ chức quốc gia chủa nghĩa Việt. Ông và trợ lý của ông, một người tên Lâm Đức Thụ, yêu cầu hai bức ảnh cho mỗi thí sinh vào Học viện Whampoa... Sau khi tốt nghiệp, nếu sinh viên tham gia Đoàn Thanh Niên của Hồ, họ sẽ trở lại Việt Nam trong vòng bí mật. Nếu sinh viên nào có biểu hiện sẽ tham gia một đảng khác, Thụ sẽ bán bức ảnh kia cho lãnh sự quán Pháp, mà sau đó sinh viên này bị bắt tại biên giới. Vì vậy, Hồ phát triển các tổ bí mật của mình, trong khi làm suy yếu phe đối lập quốc gia. 8 / Tại Whampoa vào năm 1926, Hồ đã viết rằng "[cuối cùng] chỉ có đảng cộng sản là có thể bảo đảm được cuộc sống no đủ của người Việt Nam." 9 /
Năm 1927, Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) chia tay với những người cộng sản, và Borodin đã buộc phải quay trở lại Moscow. Hồ Chí Minh trở về Moscow với anh ta, nhưng trước khi khởi hành ông đã bàn giao việc lãnh đạo Liên đoàn Thanh niên cho một trợ lý đáng tin cậy, ông này đã bị bắt trong vòng một năm sau đó. Các lãnh đạo Liên đoàn sau đó đã hạ Thụ đang sống xa hoa ở Hồng Kông bằng tiền máu của Pháp. Thụ triệu tập một cuộc họp ở Hồng Kông vào năm 1929 mà kết quả các đại biểu Việt Nam đã bỏ ra về trong sự ghê tởm, và đã hình thành Đảng Cộng sản Đông Dương tại Bắc Kỳ. Lãnh đạo lưu vong của Liên đoàn thừa nhận sự cần thiết phải tổ chức một đảng cộng sản, nhưng trong thực tế, không muốn đi chệch khỏi đường lối chính trị của Hồ Chí Minh là xây dựng một đảng cách mạng dân tộc với định hướng xã hội chủ nghĩa. 10 / Như Đảng Cộng sản Đông Dương đã tăng trưởng trong sức mạnh, đoàn Thanh Niên đã thông qua cái tên "An Nam Cộng sản Đảng."
Sau khi rời khỏi Trung Quốc năm 1927, Hồ Chí Minh đi Moscow, Berlin, và vào năm 1929 đến Thái Lan làm việc bí mật với 30.000 di dân Việt. Hồ trở về Hồng Kông vào tháng Giêng 1930, và giải quyết sự mất đoàn kết giữa nhiều phe phái Cộng Sản Đông Dương. Một đảng mới được thành lập, với một ủy ban trung ương tại Hải Phòng, đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong tháng Mười, 1930, dưới áp lực của Quốc tế cộng sản, nó được đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bao gồm Campuchia và Lào; Ủy ban Trung ương đã được chuyển vào Saigon. 11 / Ngay sau đó Cảnh sát Pháp đàn áp gần như tiêu diệt các tổ chức cộng sản, một số phụ tá cho Hồ Chí Minh như Phạm Văn Đồng, Giáp và những người khác, đã bị đày đi Côn Sơn với thời gian phạt tù dài.
3. Nhà tù và tối tăm
Hồ, người đã bị Pháp kết án tử hình vắng mặt đã bị bắt ở Hồng Kông vào năm 1931 bởi người Anh. Bernard Fall đã viết về khoản này:
"Về pháp lý, tuy nhiên, trong thế giới lịch sự của Hong Kong luật Anglo-Saxon chiếm ưu thế. Bảo vệ bởi Sir Stafford Cripps trước Tòa án Cơ mật của Anh, Hồ đã được Tòa phán là thuộc đối tượng không chịu dẫn độ khi ông ta là một người tị nạn chính trị.. Tuy nhiên, người Anh cũng không muốn [chứa chấp] ông ta và ông này đã được xem như là một người đã được đánh dấu. Ông đã bí mật rời khỏi Hồng Kông để vào một nơi heo hút trong tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc.
"Bằng cách nào đó, chỉ một năm sau, Hồ đã có mặt ở Thượng Hải, nơi nước ngoài duy nhất ở Á Châu có một cộng đồng đáng kể người Việt có thể được tìm thấy. Ông đã tuyệt vọng tìm cách liên hệ với bộ máy Quốc tế cộng sản, mà lúc này rất thận trọng che giấu hoạt động của mình ở Trung Quốc... Cũng dễ hiểu vi những gì Đảng Cộng sản Trung Quốc còn để lại ở ngoài vùng của Mao Trạch Đông là không thể quãng bá sự hiện diện của nó trên toàn Thượng Hải. Nhưng có thể có một lý do là Hồ Chí Minh cũng khó khăn tìm ra những người Cộng sản: Lý do tại sao Hồ được người Anh thả cũng là điều mà những người Cộng Sản có đầu óc nghi ngờ có thể nuốt được. Đối với việc bộ máy Cộng sản đang trổi dậy từ khi bị đánh nát trong những năm 1930, đây là một việc làm bình thường nhằm cô lập Hồ Chí Minh như một kẻ phá hoại tiềm năng cho đến khi những gì ông đã nói và làm trong khi bị Anh giam giữ được biết rõ.
"Cuối cùng, Hồ đã liên lạc được và đầu năm 1934 bộ máy Cộng sản đã ngầm đưa ông trở lại Moscow, nơi một nhóm khá lớn các học viên Việt Nam đã đến trước để du học trong nhiều lĩnh vực, từ kỹ thuật đến việc kích động và tuyên truyền. Dĩ nhiên ông quay lại tiếp tục học món sau.
Đầu tiên Hồ tham gia Học Viện Về các Vấn Đề quốc gia và Thuộc Địa ở Moscow, và sau đó là "trường đại học” nổi tiếng cho các nhà lãnh đạo cao cấp của Cộng sản, trường Đảng Lenin. Moscow, năm 1935-1938, cũng cung cấp một nền giáo dục khác xa: các cuộc thanh trừng của Stalin. Sẽ rất thú vị nếu ta có thể biết những gì Hồ cảm giác được khi nhìn thấy một số bạn bè thân nhất của mình bị buộc tội, bị kết án, và xử tử vì những tội ác mà họ không hề vi phạm. Điều đáng chú ý rằng Hồ, là một thành viên nổi tiếng của nhóm Quốc tế cộng sản, không bị thanh lọc cùng với hàng trăm hàng ngàn người ít quan trọng hơn ông đã thành nạn nhân của bệnh cuồng diên của Stalin. " 12/
Hồ sơ về quãng đời của Hồ trong giai đoạn 1933-1939 ngược lại là tối tăm [không biết chuyện gi đã xảy ra], phong trào cộng sản tại Việt Nam được dẫn dắt bởi Trần Văn Giàu và những người khác trong những năm ấy.
Hồ nổi lên từ những năm rút kín của mình vào năm 1939, một năm khó khăn. Hồ, như một người cộng sản kỷ luật phải tuân theo hướng dẫn chiến thuật của Đảng là dự định bảo vệ Liên Xô thành cơ sở của phong trào quốc tế, ngay cả khi điều này đã đưa ông vào một mâu thuẫn tạm thời với mục tiêu dài hạn của Việt Nam. Trong giai đoạn trước thế chiến thứ II, Fall đã viết:
".. Có lẽ sau đó Hồ đã trung thành vô điều kiện với Stalin, và Stalin biết điều đó. Chuyện này đã trở nên đặc biệt rõ ràng khi chủ nghĩa phát xít bắt đầu xuất hiện như một mối đe dọa và các đảng cộng sản quyết định vào năm 1936 áp dụng các chính sách "mặt trận dân tộc”, với các nền dân chủ phương Tây.
"Chính sách này là một viên thuốc đắng cho các chính phủ Cộng sản như ở thuộc địa Đông Dương, nó có nghĩa là phải bỏ chuyện ủng hộ độc lập đi để hoàn toàn ủng hộ một chính sách hợp tác với chế độ thực dân Pháp. Hồ, trở về với căn cứ Cộng sản ở miền Bắc Trung Quốc vào năm 1937, nghiến răng và nuốt hận miễn cưỡng tuân theo những thay đổi bất thường chi ly nhất để báo cáo những thành quả của mình trước Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản vào năm 1939, đã chứng minh sự thành công của ông.
"Có lẽ đấy là lúc sa cơ thấp nhất của Hồ. Ông đã công khai thề thốt về tất cả những gì ông theo đuổi, nay đã hợp tác với Pháp, những người mà ông ghét nhất, và đã phải bán rẽ những người đồng minh Trốt Kít, những người thỉnh thoảng đôi khi giúp phe Cộng Sản đánh bại những ứng cử viên do Pháp tài trợ trong các cuộc bầu cử tại Nam Kỳ (một thuộc địa Pháp, sau đó một phần của Liên bang Đông Dương, là một vùng [được Pháp] bảo hộ, được hưởng quyền đại diện trong cơ quan lập pháp [Quốc Hội Pháp]) Và điều tồi tệ nhất vẫn chưa kết thúc. Không được Quốc tế cộng sản cho phép mình lộ diện một quá sớm để trở lại Việt Nam, ông chỉ làm việc như một liên lạc viên tầm thường trong lộ quân 8 Cộng sản Trung Quốc, đang đánh nhau Nhật". 13/
4. Lãnh Đạo thời chiến
Năm 1940, Hồ đã được báo cáo là có mặt ở Liễu Châu, tỉnh Quãng Châu, ở miền Nam Trung Quốc, tham gia đào tạo du kích dưới sự bảo trợ của các lãnh chúa địa phương. Ngay sau đó, Hồ, với những tàn dư còn sống sót của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD) đã vượt biên giới vào Việt Nam, và năm 1941 bắt đầu tổ chức một phong trào kháng chiến trên quy mô lớn. ĐCSĐD chuẩn bị và ủng hộ một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại Chủ nghĩa Đế Quốc Pháp và phát xít Nhật. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh tổ chức Việt Minh như một phong trào dân tộc Việt Nam kháng chiến. Chương trình Việt Minh tập trung vào sự hợp tác với các nước đồng minh đánh bại Nhật và giải phóng Đông Dương. Trong quá trình công việc của mình, Hồ đã bị bắt tháng 5 năm 1942 bởi phe Quốc Gia Trung Quốc, trong những tình hống đầy bí ẩn, và tháng 6 năm 1943, Hồ lại được thả ra một cách bí ẩn. Hồ bắt liên lạc lại với Việt Minh, vào lại Việt Nam, và đã lãnh đạo Việt Minh lên nắm quyền vào tháng Tám, năm 1945.
Hồ, cho đến thời điểm ông trở thành Chủ Tịch nước VNDCCH, chắc chắn là một người cộng sản trong ý nghĩa rằng ông đã trải qua 25 năm trong vòng tay kỷ luật và ý thức hệ của Đảng, và rằng ông đã là một đại diện của Quốc tế Cộng sản. Ông cũng là một người làm cách mạng dân tộc chủ nghĩa, nguyên nhân đã đòi hỏi ông phải chịu nhiều năm khó khăn, tù đày, lưu vong, và bị cô lập bí ẩn. Ghi chú trong “Nhật ký trong tù”, ông đã viết:
"Người ra khỏi tù có thể xây dựng một quốc gia.
Bất hạnh là một bài kiểm tra mức trung thành thiên hạ
Phản đối bất công là những người thật xứng đáng.
Khi cửa tù mở ra, rồng thực sự sẽ bay cao. " 14/
4. Đứng đầu cả Nước
Bất cứ là gì khác, ông Hồ là một nhà lãnh đạo và tổ chức tuyệt hảo, một tay vận động lôi kéo sắc sảo những người khác, đã thành công đan kết một cách thức để vượt qua mớ âm mưu quốc tế phức tạp ở Trung Quốc để tạo quyền lực chính trị cho bản thân và những người theo mình trong ĐCSĐD và Việt Minh. Ông lên nắm quyền nước VNDCCH dưới sự bảo trợ của quân Đồng minh, và sự đồng tình của nhân dân. Ông đã không thành lập một chính phủ cộng sản, mặc dù bên cạnh mình trong Chủ Tịch Đoàn, ông đã sắp xếp nhiều phụ tá cộng sản để nắm giữ danh mục nội vụ, quốc phòng, tài chính, tuyên truyền, giáo dục, và thanh thiếu niên. Những người cộng sản, mặc dù trực thuộc Trung ương, chỉ là một thiểu số, và toàn thể nội các được đại diện đầy đủ với những thành viên độc lập [không đảng phái] và một số khác của các đảng phái quốc gia không cộng sản. 15/
Tháng Mười Một 1945, Hồ giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương và thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác, nhưng tới năm 1951 mà Đảng Cộng sản một lần nữa khẳng định bản thân một cách công khai trong chính trường VNDCCH. Hồ có vẻ như đã tung toàn bộ năng lượng của mình vào Việt Minh, mà ông mô tả trong năm 1945 là có:
"… hàng triệu thành viên từ tất cả các tầng lớp xã hội: trí thức, nông dân, công nhân, doanh nhân, binh lính, và từ tất cả các dân tộc trong cả nước..." 15/
Sau đó, ông chuyển sang cắt giảm số lượng ghế cộng sản trong nội các chính phủ, và mặt khác là để tăng cường tính iên minh của nó.
Hồ, Việt Minh và chính phủ VNDCCH đã nhấn mạnh bản sắc của họ với nhân dân, và những mục tiêu yêu nước, dân chủ và dân tộc của họ, như đã nói trên là không thể là cộng sản. Bài viết của Hồ Chí Minh của thời kỳ này là nói rõ: 16/
"Tháng Mười, 1945: Chúng ta phải nhận ra rằng tất cả các cơ quan Chính phủ, từ Trung ương đến các cấp độ xã, của người công chức, để nói rằng họ được chỉ định để làm việc vì lợi ích của toàn thể nhân dân.
"Năm 1945: Chúng ta không thích cũng không ghét người Pháp. Ngược lại, chúng ta tôn trọng họ như những người đầu tiên truyền bá những lý tưởng cao cả của Tự do, Bình Đẳng và Tình Huynh Đệ.
"Năm 1945: thực dân... đã đi ngược lại với những lời hứa về dân chủ và tự do mà các lực lượng Đồng Minh đã tuyên bố. Họ đã tự phá hoại nguyên tắc của cha ông của họ về Tự Do và Bình Đẳng. Kết quả là, vì chính nghĩa, vì công bằng của thế giới, và vì Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam mà đồng bào chúng ta trong cả nước đã vùng lên đấu tranh, và quyết tâm vững chắc giữ gìn nền Độc Lập của chúng ta.
"Tháng Giêng 1946: Với viễn tượng một chiến thắng dành hoàn toàn độc lập và để mang đến sự hợp tác chặt chẽ giữa các đảng phái chính trị khác nhau để tăng cường hơn nữa sức mạnh của Chính phủ, nay đặt tên là Chính phủ Liên Hiệp Tạm Thời. Vào thời điểm này, nếu tất cả các bên đoàn kết với nhau, Chính phủ có thể vượt qua những khó khăn.
Mục tiêu chính trị: Thực hiện tốt cuộc bầu cử... để thống nhất các cơ quan hành chính khác nhau theo nguyên tắc dân chủ…
Mục tiêu kinh tế: cố gắng phát triển nông nghiệp, khuyến khích chăn nuôi trồng trọt và dự trữ giống má để kiểm soát nạn đói…
Mục tiêu quân sự: Để thống nhất các lực lượng vũ trang khác nhau…
"Tháng 10 năm 1946: Chúng ta phải cho Chính phủ và nhân dân Pháp và thế giới bên ngoài thấy là nhân dân Việt Nam đã sở hữu tất cả các điều kiện cần thiết để được độc lập và tự do, và và việc công nhận quyền tự do và độc lập của chúng ta đó là một điều cần thiết...
"Tháng 12 năm 1946: Hỡi đồng bào! Hãy đứng lên ! Đàn ông và phụ nữ, già và trẻ, bất kể tín ngưỡng, đảng phái chính trị, hoặc quốc tịch, tất cả người Việt Nam phải đứng lên chống lại thực dân Pháp để cứu Tổ quốc…
"Tháng 4 năm 1948: gốc rẽ của Đất Nước là Dân. Trong kháng chiến và trong tái thiết Đất Nước, sức mạnh chính là ở người dân …”.
6. Hồ chống những người Quốc Gia
Sự chân thành của một Hồ Chí Minh dân tộc chủ nghĩa, trước sau, dường như là không thể đặt vấn đề, [sự chân thành] cũng vậy đối với Stalin, hay Harry Truman. Trong số những người dân tộc chủ nghĩa, Hồ là ưu tú nhất. Hồ đã dẫn các lực lượng [của mình] ra đón tiếp Đồng minh khi họ vào Đông Dương để chấp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật. Hồ đứng đầu VNDCCH năm 1945-1946, khi độc lập và hòa bình đoàn kết dân tộc dường đã ở trong tầm tay. Hồ được long dân, được kính trọng, thậm chí được tôn thờ. Ông đã giao trồng một hình ảnh có tính toán để hấp dẫn nông dân: tuổi đáng kính, thắt lưng buộc bụng, mộc mạc, và khiêm nhường. Ông nhấn mạnh "Bác Hồ" trong khi giới thiệu bản thân, và đó là một "Bác Hồ" mà các vùng nông thôn đã gọi ông ta. Không có bất cứ người Việt Nam được biết đến rộng rãi, hay được tôn kính nhiều như thế. 19/ Hơn nữa, không giống như bất kỳ đối thủ nào của mình, ông đã có một tổ chức chính trị kỷ luật tầm cỡ quốc gia, đã được đào tạo về nghệ thuật làm cách mạng, và giỏi về kỹ thuật huy động dư luận và kích động chính trị. Sự thật, từ đó, Hồ đã đạt một tầm cỡ như vào những năm 1945 hoặc 1946, là một hiện thân của dân tộc Việt. 20/
Vấn đề lịch sử, tất nhiên, là ở mức độ nào mà mục tiêu dân tộc của Hồ đã có thể thay đổi niềm tin cộng sản của ông. Đối vớ hiều nhà quan sát thời đó cho rằng dường như Hồ đặt chủ nghĩa dân tộc lên trên chủ nghĩa cộng sản không chỉ là một vấn đề che đậy, như ông đã thực hiện đồng thời việc giải thể Đảng và việc hình thành ra Hiệp Nghiên Cứu Mác-xít, mà còn là một kết luậnđầy nghi ngờ về tính hợp lệ của việc xem cộng sản như một hình thức chính trị phù hợp cho Việt Nam. Sainteny, người đàm phán cho Pháp về Hiệp Định ngày 6 năm 1946 với Hồ đã viết rằng: "các đề nghị, hành động, thái độ của ông, cá tính thật hay giả của ông, tất cả đều hướng đến một thuyết phục rằng ông đã tìm thấy một giải pháp bằng vũ lực làm đáng sợ...". Bảo Đại được biết đã nói rằng:" Tôi thấy Hồ Chí Minh đau khổ. Ông đã chiến đấu một trận chiến với bản thân. Hồ đã có cuộc đấu tranh cho riêng mình. Ông đã nhận ra rằng chủ nghĩa cộng sản không phải là tốt nhất cho đất nước của mình, nhưng đã quá muộn. Cuối cùng, ông không thể vượt qua lòng trung thành của mình với cộng sản." 21/ Trong cuộc đàm phán cho giải pha’p “giữ nguyên ” (Vivendi modus) với Pháp ở Paris vào mùa thu năm 1946, Hồ kêu gọi người Pháp "cứu ông ta khỏi những kẻ cực đoan" trong Việt Minh vì một số nhượng bộ có ý nghĩa cho độc lập Việt Nam. 22 / Trả lời câu hỏi của một nhà báo, Hồ tuyên bố rằng ông có thể giữ [Việt Nam] trung lập "như Thụy Sĩ" trong cuộc đấu tranh quyền lực thế giới đang phát triển giữa cộng sản và phương Tây. 23 /
Hoa Kỳ nghĩ thế nào về Hồ
Cá nhân, Hồ là người dễ mến, và đặc biệt quyến rũ với người Mỹ. Những tuyên bố công khai của Hồ gây tiếng vang tốt với những tình cảm chống thực của hầu hết người Mỹ, và ông có hình ảng một người hấp dẫn, mong manh, khiêm tốn, khổ hạnh, nhưng hài hước và có tính quốc tế. 24 / Tướng Gallagher sĩ quan cao cấp của Mỹ khi tiếp xúc với Hồ năm 1945, đã rất ấn tượng với quyết tâm và sự cống hiến của Hồ cho dân tộc. Khi trở về, ông nói với các quan chức Bộ Ngoại giao rằng "Hồ đã sẵn sàng hợp tác với Vương quốc Anh, Liên Xô, hay Hoa Kỳ và thậm chí có thể chấp nhận sự giám hộcủa Pháp nếu việc này phải chịu kiểm soát của các quốc gia khác".
"Khi được hỏi mức độ cộng sản của Việt Minh là như thế nào, Tướng Gallagher trả lời rằng họ thông minh và thành công đưa ra ấn tượng họ không phải là cộng sản Thay vào đó, họ nhấn mạnh quan tâm của họ về độc lập và lòng yêu nước của người Việt Nam. Tổ chức và kỷ thuật tuyên truyền của họ là tuyệt vời, Tướng Gallagher đã chỉ ra, có vẻ như có chỉ dấu một số ảnh hưởng của Nga. Tướng Gallagher nói rằng nhóm thiểu số Cao Đài chắc chắn là Cộng sản. Theo ông, tuy nhiên, Việt Minh không nên được dán nhãn là hoàn toàn cộng sản giáo điều cố chấp." (From Memorandum of Conversation, by Mr. Richard L. Sharp, of the Division of Southeast Affairs, Department of State, dated January 30, 1946.)
Ngày 11 Tháng Chín 1946, Đại sứ Hoa Kỳ ở Paris có một viếng thăm của Hồ:
"Tôi trân trọng báo cáo rằng thể theo yêu cầu của ông, tôi đã có một cuộc viếng thăm Chủ Tịch Hồ của nước Cộng hòa Việt Nam. Ông đã khẳng định những tin tức được công bố trên báo chí địa phương rằng cuộc đàm phán Fontainebleau giữa đại diện Việt Nam và đại diện người Pháp thực tế đã bị phá vỡ và đoàn đại biểu Việt Nam sẽ trở về Đông Dương... trong vài ngày tới... ông nói rằng ông và đảng của ông mong muốn một Việt Nam "độc lập" trong "Liên Hiệp Pháp"… Ông ta nói là họ mong muốn giúp đỡ từ phía chúng ta nhưng không nói rõ là những gì. Ông đã nhân dịp này để nói rằng ông không phải là cộng sản.
"Từ những nhận xét nói chung mập mờ của ông, tôi gọp chung ra ý rằng ông muốn chúng ta vào cuộc chơi và ông sẽ rất hài lòng nếu ông có thể sử dụng chúng ta cách này hay cách khác trong các cuộc đàm phán tương lai của mình với nhà cầm quyền Pháp.
"Tôi bày tỏ sự quan tâm của chúng ta về Đông Dương và nhân dân Đông Dương, nhưng không đưa ra cam kết nào” 25 / [phần gạch đít là thêm vào].
Phó Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Acheson, một lần, không hoàn toàn bị thuyết phục bởi các đại diện của Hồ Chí Minh. Trong Tháng Mười Hai năm 1946, ông điện cho một nhà ngoại giao Mỹ tại Hà Nội những hướng dẫn:
"Giả sử bạn sẽ gặp Hồ tại Hà Nội và hãy đưa ra tóm tắt về suy nghĩ của chúng ta sau đây như một hướng dẫn:
"Hãy ghi nhớ rõ là Hồ là một nhân viên của cộng sản quốc tế, không có bằng chứng chứng minh là ông không lệ thuộc MOSCOW, tình hìnhchi’nh trị lẫn lộn ở Pháp và sự hỗ trợ mà Hồ nhận được từ đảng Cộng sản Pháp. Điều ít mong muốn nhất là tình huống thành lập một Đông Dương Cộng Sản, định hướng Moscow dưới quan điểm của Bộ [Ngoại Giao]. Quan tâm đến những thông tin liên quan đến những yếu tố chống Cộng mạnh ở Việt Nam. Báo cáo đầy đủ, liên tục hay yêu cầu Bộ nhắc nhở Paris …
"Nếu Hồ đấu tranh chống lại việc không thực hiện lời hứa của Pháp về cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ, không quy trách nhiệm cho Việt Nam là không tuân thủ về hiệp định, nếu bạn xem có thể khuyên bảo được thì đưa ra câu hỏi liệu cuộc trưng cầu dân ý sau một thời gian dài rối loạn như vậy có thể đạt được một kết quả đáng giá và liệu ông chịu xem xét một thỏa hiệp cho Nam Kỳ thông qua đàm phán.
"Có thể nói rằng người dân Mỹ đã hoan nghênhnhững thành tựu của Đông Dương trong nỗ lực thực hiện nguyện vọng về quyền tự chủ lớn hơn trong khuôn khổ thể chế dân chủ và nó sẽ là điều đáng tiếc nếu những quan tâm và cảm thông này bị tan vỡ bởi một chính quyền Việt Nam không khoan nhượng và bạo lực bất kỳ xu hướng nào.
"Co thể thông báo cho Hồ [Đại sứ Mỹ, Paris] tình hình thảo luận với Pháp cùng một sự thẳng thắn tương tự...
"Tránh tạo ấn tượng là Chính Phủ Mỹ chính thức can thiệp ở thời điểm này. Đưa ra công khai bất kỳ chuyện gì sẽlà điều không may." 26 /
Trả lời bức điện của Bộ trưởng Acheson, báo cáo sau đây đã được gửi tới Washington vào ngày 17 tháng 12 năm 1946 - ngay trước khi chiến sự bùng nổ tại Hà Nội:
"Sau cuộc trò chuyện với các quan chức Pháp và Việt Nam, các lãnh sự Trung Quốc, Anh và Hoa Kỳ, lãnh sự Mỹ tại Hà Nội Abbot Moffat, hiện nay đang có mặt ở Đông Nam Á, đã đưa ra những quan điểm được sự đồng tình của Lãnh sự Sài Gòn suốt những dòng sau đây:
"Chính phủ Việt Nam kiểm soát một nhóm nhỏ Cộng sản có thể có liên lạc gián tiếp với Moscow và trực tiếp với Diên An. Một nhóm quốc gia sử dụng kỹ thuật của Cộng sản và với một kỷ luật mà họ đã quen thuộc. Giới địa chủ thì bảo thủ và những cố gắng để để cộng sản hóa đất nước đứng thứ yếu và [họ] chờ đợi sự thành công của một nhà nước quốc gia. Rõ ràng một số lãnh đạo, như Hồ Chí Minh, đã xem việc hợp tác với Pháp là thiết yếu, những người như Giáp (Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc Quốc phòng) sẽ cố tránh sự hợp tác vì lo ngại sự thống trị của Pháp nhưng không có thể loại bỏ ảnh hưởng và viện trợ của Pháp.
Tình cảm dân tộc của người Việt Nam là sâu đậm và chống Pháp, và họ có thể dễ dàng quay ra chống tất cả da trắng. Ảnh hưởng Pháp không chỉ quan trọng như là một thuốc giải độc đối với ảnh hưởng của Liên Xô, nhưng cũng để bảo vệ Việt Nam và Đông Nam Á chống chủ nghĩa đế quốc của Trung Quốc trong tương lai. Chậm trễ trong việc đạt giải quyết sẽ làm giảm khả năng ảnh hưởng cơ bản nhất của Pháp.
"Sự trung thực của cả hai bên quan chức Pháp và Việt Nam là đáng được đặt câu hỏi liên quan đến những sự cố gần đậy. 0 'Sullivan (Phó Lãnh Sự Mỹ tại Hà Nội) tin rằng Việt Nam chịu trách nhiệm cho vụ việc ngày 20 tháng mười một, nhưng dường như rõ ràng rằng với nếu là một chỉ huy Pháp khác ở Hải Phòng mà không phải là Đại Tá Debes, một người nổi tiếng tham nhũng và tàn bạo và chính ông này đã thừa nhận rằng ông không thể kiểm soát đám lính hung hăng của mình, thì chuyện lộn xộn đã được dừng lại ở lúc những đụng chạm ban đầu.
"Theo người Pháp, người Việt Nam đã phóng to các yêu cầu của mình sau mỗi thỏa thuận và không thực tế và lý luận suông đến nỗi tất cả các cuộc hội thoại đều không hiệu quả. Người Việt Nam cảm thấy rằng người Pháp đã chối bỏ trên từng thỏa thuận và đang cố gắng để thiết lập lại sự chiếm đóng... Tuy nhiên, cả hai nói rằng gần như họ có cùng một mục tiêu, mặc dù Giáp nói rằng Việt Nam phản đối một liên bang Đông Dương chính trị nhưng ủng hộ một hiệp hội cùng lo chung các vấn đề kinh tế. Moffat đã đề cập đến ba rắc rối Pháp rõ ràng cơ bản: (a) hoàn thành mất lòng tin lẫn nhau, (b) thất bại của Pháp nhằm giải quyết những quan điểm riêng của họ về tình trạng “tự do trong Liên Hiệp Pháp”, (c) Hiểu biết va thái độ gần như trẻ con của phía Việt Nam về những vấn đề kinh tế và mơ hồ dò dẫm về 'độc lập'. Không thể đạt được hiệp định dự a trên những. Những quyền hạn và mối quan hệ căn bản của Việt Nam với Pháp trước tiên phải được thành lập. Không phải chỉ những gương mặt mới là cần thiết nhưng những định chế trung lập hay thậm chí là hòa giải có thể xem là cần thiết. (*U.S. Department of State Telegram, from Washington, 17 December 1946.)
Thế đứng chính thức của Mỹ cơ bản vẫn không thay đổi sau đó. Một vài tháng sau đó, sau khi chiến đấu nổ ra ở miền Bắc Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Marshall phát biểu rằng:
"Tiếp đến (u) không thể né tránh một thực tế là xu hướng của thời đại là đế quốc thực dân trong nghĩa của thế kỷ XIX là sẽ nhanh chóng trở thành chuyện của quá khứ. (u)Người Anh ở Ấn Độ và Miến Điện và người Hà Lan ở Indonesia là những ví dụ xuất sắc của xu hướng này, và Pháp chính mình đã thức rõ về nó cả trong Hiến pháp và trong các hiệp định với Việt Nam.(u) Mặt khác, chúng ta không mất tầm nhìn thực tế rằng Hồ Chí Minh đã kết nối trực tiếp với Cộng sản và phải rõ ràng rằng chúng tai không quan tâm đến việc nhìn thấy các chính quyền đế quốc thực dân được thay thế bởi ý thức hệ và tổ chức chính trị bắt nguồn từ điện Cẩm Linh và chịu sự kiểm soát của nó.(u) Thực tế vẫn còn đo, tuy nhiên, tình trạng còn tồn tại này ở Đông Dương không còn cần để xem xét, và nếu bao giờ được coi là nó, thì sẽ coi đấy có tích cách địa phương.
Vào tháng năm 1949, Dean Acheson, lúc ấy là Bộ Trưởng Ngoại Giao, chỉ thị cho các đại diện Mỹ tại Hà Nội để cảnh báo các nhóm Việt Nam quốc gia chống lại việc chấp nhận bất kỳ một một liên minh nào với Hồ và Việt Minh:
"... Bạn có thể đưa những đường lối sau đây đại diện cho sự đồng thuận của Hoa Kỳ:
"Dưới ánh sáng đào tạo con người của Hồ đã được biết đến, không cần giả định khác có thể có thêm, nhưng ông này là cộng sản hoàn toàn bao lâu mà (1) ông không rõ ràng phủ nhận các liên hệ với Moscow và học thuyết Cộng Sản và (2) cá nhân vẫn là chủ đề cho lời khen ngợi và hỗ trợ của Cộng Sản Quốc Tế. Hơn nữa, Mỹ không ấn tượng gì với tính cách dân tộc của lá cờ đỏ sao vàng. Câu hỏi liệu Hồ nhiều dân tộc chủ nghĩa hơn cộng s?n chủ nghĩa là không cần thiết. Tất cả các Stalinists tại các khu vực thuộc địa là những người quốc gia chủ nghĩa. Khi mục tiêu quốc gia (tức là độc lập) thành công, mục tiêu [kế tiếp] của họ là trở thành nhà nước lệ thuộc Cộng Sản và họ sẽ tiêu diệt tàn nhẫn không chỉ các nhóm đối lập, nhưng tất cả các yếu tố bị nghi ngờ thậm chí chỉ là sai lệch nhỏ. Trên cơ sở những ví dụ ở Đông Âu, chúng ta phải giả định [có khản năng sẽ xảy ra] như vậy. Đó là mục tiêu [của chúng ta là chấp nhận] Hồ và những người của ông ta nếu gộp chung có chính phủ Bảo Đại. Gộp họ chung với nhau để đạt được sự hòa giải giữa các yếu tố chính trị kình chống nhau và sự thống nhất quốc gia. Vấn đề thống nhất quốc gia sẽ trì hoãn việc giải quyết Việt Nam là quốc gia độc lập hay vệ tinh cộng sản cho đến khi hoàn cảnh thậm chí có thể còn kém thuận lợi chop he quốc gia hơn bây giờ. Tất nhiên, trên lý thuyết ta phải thừa nhận việc tồn tại khả năng thiết lập một nhà nước Cộng sản dân tộc chủ nghĩa theomô hình Nam Tư trong vùng vượt xa tầm vươn tới của quân đội Liên Xô. Tuy nhiên, Mỹ chỉ có thể đưa vào tính toán khả năng như thế khi nào mọi con đường ngăn chận sự kiểm soát của Điện Cẩm Linh đều xem như bi đóng chặc. Hơn nữa, khi Việt Nam nằm ngoài tầm với của quân đội Liên Xô, cũng sẽ không có nghĩa là ra khỏi tầm với của những đao phủ và lực lượng vũ trang Trung Quốc.
Hồ, Trung Lập Á Châu?
Thật sự, Hồ có thể không bao giờ khác hơn một Lênin xảo quyệt, luôn tìm cách thích nghi để đi với Pháp hay Mỹ trong khi lo tập hợp sức mạnh của mình. Lời nói và hành động của ông sau năm 1949 chứng minh cho cho việc xây dựng: tháng 1 năm 1950, VNDCCH tuyên bố mình là "chính phủ hợp pháp của toàn bộ nhân dân Việt Nam", 29 / gia nhập Khối Trung-Xô, và bắt đầu tấn công Mỹ "đế quốc" và "can thiệp chủ nghaĩ” 30/ Sớm trong năm 1951, VNDCCH hợp pháp hóa Đảng Lao Động, rõ ràng là cộng sản.
Vẫn còn, tuy nhiên, những nghi ngờ không giải tỏa được liên quan đến sự ưa thích trước đó của Hồ danh cho chủ nghĩa Trung Lập, hoặc thậm chí liên kết với phương Tây. Có thể nói rằng, Hồ có thể ưa thích bất cứ điều gì, nhưng ông chỉ có một lựa chọn chật hẹp. Không có người Tây phương có uy tín nào được biết là có phỏng vấn Hồ, mặti đối mặt, từ nỗ lực chết yểu trong năm 1947 cho đến cuối 1954 để thương thuyết một giải pháp cho Nam Kỳ. 32 / Hồ không cách nào trực tiếp giao tiếp với Hoa Kỳ sau năm 1946, và các tín hiệu ông nhận được từ Mỹ khó có thể được xem là khuyến khích.33 / Tới năm 1947, thiết bị quân sự Mỹ đã được sử dụng bởi các lực lượng Anh và Pháp để chống lại Việt Nam, và Mỹ đã sắp xếp tín dụng trị giá $ 160 triệu để Pháp mua xe và thiết bị công nghiệp linh tinh để sử dụng ở Đông Dương. 34/ Bộ trưởng Ngoại Giao George C. Marshall vào tháng Giêng 1947, tuyên bố công khai về Việt Nam được giới hạn trong niềm hy vọng rằng "một cơ sở hòa bình để điều chỉnh những khó khăn có thể được tìm thấy," 35 / và kế hoạch của Marshall cho Âu Châu chắc chắn đã ném nguồn lực của Mỹ sau lưng Pháp. Nhưng những bảo đảm từ Nga cũng không cụ thể mạnh mẽ hơn. Trong khi Sovets phán xét mạnh mẽ các thế lực thuộc địa khác nhiều hơn so với Pháp, có khả năng là tiềm năng thành hình một chính phủ Cộng sản Pháp đã bóp nghẹt thậm chí sự ủng hộ Hồ lời nói, lơ luôn việc công nhận và viện trợ. 36/
9. Hồ, con người thực dụng
Là một người chính trị thực dụng, Hồ đã phải có ấn tượng rằng VNDCCH đã không nổi lên như một ưu tiên so với Pháp trong chính sách đối ngoại của Mỹ, khi Việt Nam khẳng định tuyên bố hỗ trợ Liên Xô về mối bận tâm của Nga với Âu Châu. Năm 1946, ông đặt hoàn cảnh của mình trong những câu nói như: "Chúng ta dường như đứng khá một mình, chúng ta sẽ phải phụ thuộc vào chính chúng ta. 37 / Sau 1947, các sự kiện đã hội tụ để làm tan sự cô lập của Hồ trong khi triển vọng ủng hộ Hồ của Mỹ lại mờ đi, và biến mất vào năm 1950,, Mao Tse Tung – người Hồ đã trải qua tám năm làm việc với - đã đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác, và cuối năm 1949, đã ở vị thế để hỗ trợ trực tiếp Hồ xuyên qua biên giới phía bắc, 38 / Đối mặt với mối đe dọa quân sự ngày càng nghiêm trọng, Hồ nhanh chóng đi vào quỹ đạo của Khối [cộng sản]. Từ mật khu trên rừng Việt Minh tố cáo “chương trình Marshall hóa thế giới" của Mỹ, lưu ý rằng Nga phản đối "Marshallization” 39 / Năm 1949, sau khi Hoa Kỳ đã công khai hoan nghênh sự hình thành "nhà nước mới và thống nhất của Việt Nam" của Bảo Đại, Hồ gửi các đại biểu đến một hội nghị ở Bắc Kinh. Liu Shao-Chi, trong bài phát biểu, tuyên bố rằng chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể dẫn “phong trào giải phóng dân tộc” 40 / Hồ và Mao trao đổi thông điệp hữu nghị và kẻ trung lập Tito đã bị tấn công bởi các đài phát thanh Việt Minh. Tháng Giêng, 1950, Hồ tuyên bố chỉ có VNDCCH là chính phủ hợp pháp của Việt Nam, Mao giang tay chính thức công nhận, và Stalin theo lập tức ngay sau đó. 41 / Số phận đã được định đoạt: Bộ trưởng Ngoại Giao Dean Acheson của Hoa Kỳ tuyên bố trong tháng Hai 1950, những công nhận đó "đã loại bỏ bất kỳ ảo tưởng nào về con người dân tộc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh nhằm mục đích và đã tố cáo Hồ trong màu sắc thực sự của mình là kẻ thù sinh tử của nền độc lập bản địa ở Đông Dương." 42 / Hồ trả lời vào tháng Tám năm 1950, các lô hàng đầu tiên của Mỹ trợ giúp các lực lượng Pháp tại Việt Nam trong các ngôn ngữ sắc nét sau đây.
"Kể từ khi bắt đầu chiến tranh, Mỹ đã cố gắng giúp đỡ kẻ cướp Pháp, nhưng bây giờ họ đã được cải tiến thêm một bước nữa để can thiệp trực tiếp tại Việt Nam Như vậy chúng ta có bây giờ là một đối thủ chính - kẻ cướp Pháp và một đối thủ lớn hơn - chủ nghĩa can thiệp Mỹ…
"Về phía chúng ta, một vài năm kháng chiến đã mang lại đất nước của chúng ta một thành công lớn nhất trong lịch sử của Việt Nam – sự công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như một bình đẳng trong gia đình dân chủ thế giới bởi hai nước lớn nhất trong thế giới là Liên Xô và Trung Quốc dân chủ -- và các nước dân chủ mới. Điều đó có nghĩa rằng chúng ta chắc chắn thuộc về khối dân chủ chống đế quốc của 800 triệu người ". 43/
(xem tiếp kỳ 13,
"...Hồ Chí Minh liền gửi đi một loạt thư sang Mỹ, Trung Quốc, và các cường quốc khác, phủ nhận quyền của Pháp đại diện cho Việt Nam tại Liên Hợp Quốc hoặc tại các diễn đàn quốc tế, và tố cáo Pháp "xâm lược" Việt Nam..."
Tiểu sử Hồ Chi Minh
LIÊN LẠC GIỮA HỒ CHI MINH VÀ HOA KỲ 1945-1946
MỤC LỤC VÀ NỘI DUNG
Lý Lịch................................................... c- 58
Tóm tắt................................................. c- 63
LÝ LỊCH
Liên lạc đầu tiên của Hồ Chí Minh với Hoa Kỳ là thông qua cơ quan O.S.S được trao trách nhiệm làm việc với Việt Minh. Người Mỹ tìm thấy Hồ vui tính, và hợp tác. Một viên chức Mỹ sau đó báo cáo kinh nghiệm của mình với Hồ đến Robert Shaplen:
"Có rất nhiều khía cạnh quanh câu chuyện quan hệ của Hồ Chí Minh với phương Tây trong và sau Thế chiến thứ hai. Hãy bắt đầu với câu chuyện tiết lộ phần nào ngây thơ bởi một cựu trung úy trẻ của quân đội Hoa Kỳ - tôi chỉ nêu tên anh ta như là John - năm 1945 đã nhảy dù xuống Tổng hành dinh của Hồ nằm ở một khu rừng gần làng Kim Lung ở Việt Bắc với nhiệm vụ thiết lập một đường giây ngầm để giúp người của Đồng minh [chủ yếu là Phi công bị Nhật bắn rơi] đào thoát tìm về tự do. Kim Lung nằm cạnh bìa một khu rừng nhiệt đới mưa rất nhiều, bụi rậm dày đặc. Giữa dãy núi rừng chập chùng là những thung lũng nhỏ, và cạnh một con suối nằm ở lung chừng đồi vào là khu trại của Hồ Chí Minh, gồm bốn túp lều, nằm cô lập. Những túp lều to khoảng mười hai sãi [feet] vuông, nằm trên bốn cọc tre cao khoảng bốn sãi, và căn của Hồ cũng trống trải như những căn khác.
"Trong cái nôi cách mạng thô sơ này, sâu trong lãnh thổ Nhật [Nhật chiếm Đông Dương], John đã có một kinh nghiệm độc đáo sống và làm việc với Hồ trong vài tháng và thấy Hồ hoàn toàn hợp tác trong việc cho du kích của mình hổ trợ để các đợt trinh sát và tấn công, trong đó có việc giải cứu một số người Pháp bị tập trung gần biên giới Trung Quốc. John sử dụng đài truyền tin di động của mình để giúp Hồ liên lạc sơ bộ với các nhà thương thuyết Pháp đang ở Côn Minh, Trung Quốc, và những người sẽ sớm đi vào thảo luận về tương lai của Đông Dương sau chiến tranh với Hồ tại Hà Nội, nhưng John mình đã đặt mình vào một vai trò trực tiếp hơn trong các vấn đề của Việt Nam bằng cách giúp Hồ viết một sơ bản Tuyên ngôn Độc Lập [của Việt Nam].
"Ông ấy cứ mãi yêu cầu nếu tôi có thể nhớ ngôn ngữ của bản Tuyên Ngôn [Độc Lập] của chúng ta", John nói: "Tôi là một người Mỹ bình thường, tôi không nhớ nhưng tôi có thể điện về Côn Minh và nhận được một bản sao gửi xuống cho tôi, tất nhiên, nhưng những điều ông thực sự muốn là hương vị của vấn đề [Độc lập]. Càng thảo luận.về chuyện đó [Bản Tuyên Ngôn], mới thấy có lẽ như ông thực sự biết về nó nhiều hơn tôi đã biết. Về thực tế, ông biết nhiều về hầu như tất cả mọi thứ hơn là tôi đã biết, nhưng khi tôi nghĩ rằng yêu cầu của ông là quá khó, tôi liền nói ngay với ông. Điều kỳ lạ là ông đã lắng nghe. Ông là một người hết sức ngọt ngào. Nếu tôi phải chọn ra một chất lượng mà ông già nhỏ con đang ngồi trên một ngọn đồi của mình trong rừng, thì đó là sự dịu dàng của ông.
"Ông ấy và John đã chúc mừng rượu lẫn nhau và chia sẻ gan hổ hầm. John thừa nhận là mình đã ngây thơ sẵn sàng tin rằng Hồ không phải là một người cộng sản. Tuy nhiên, ngay cả khi ông là thế John vẫn cảm thấy chắc chắn rằng Hồ đã chân thành trong mong muốn hợp tác với phương Tây, đặc biệt là với Pháp và Hoa Kỳ. Một số người của Hồ gây ấn tượng cho John khi họ đi quanh hùng hổ nhiệt tình la hét "độc lập, nhưng 75% trong số họ không biết ý nghĩa của chữ ấy là gì" John đã viết trong nhật ký của mình và John vẫn còn hai lá thư bằng tiếng Anh mà Hồ gửi cho ông khi còn trong rừng. Một trong số đó, được viết ngay sau khi Nhật đầu hàng, khi mà Việt Minh đã gần như sắp nắm quyền kiểm soát phong trào dân tộc, đọc như sau:
Trung Úy [John] thân mến,
Tôi cảm thấy yếu hơn kể từ khi bạn rời nơi đậy. Có thể tôi phải tuân theo lời khuyên của bạn mà di chuyển đến nơi khác, nơi mà thức ăn được dễ dàng kiếm được, để cải thiện sức khỏe của tôi...
Tôi gửi cho bạn một chai rượu, hy vọng bạn thích nó.
Xin vui lòng gửi cho tôi những tin tức nước ngoài mà bạn có
… Xin vui lòng gửi đến Trung Ương của anh những điện tín sau đây
Đại Việt [một nhóm quốc gia chống Việt Minh] đã lên kế hoạch để thực hiện khủng bố rộng rãi chống Pháp và đổ trách nhiệm lên vai của VML [Việt Minh League]. Việt Minh đã ra lệnh cho 2 triệu thành viên và tất cả dân chúng theo dõi và ngăn chặn kế hoạch tội ác của Đại Việt khi nào có thể. Việt Minh tuyên bố trước thế giới mục đích của nó nhắm là độc lập dân tộc. Sẽ chiến đấu bằng chính trị - nếu cần thiết sẽ là những phương tiện quân sự. Nhưng không bao giờ dùng tới những hành vi phạm tội và không lương thiện.
Ký tên - Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc, Liên Đoàn Việt Minh
Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc của Việt Minh khẩn cầu nhà chức trách Mỹ thông báo cho Liên Hợp Quốc như sau đây. Chúng tôi đã chiến đấu người Nhật bên cạnh Liên Hợp Quốc. Bây giờ Nhật đã đầu hàng. Chúng tôi khẩn xin Liên Hợp Quốc thực hiện lời hứa long trọng của họ rằng tất cả các quốc gia sẽ được dân chủ và độc lập. Nếu Liên Hiệp Quốc quên lời hứa long trọng của họ và không cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, chúng tôi sẽ tiếp tục tranh đấu cho đến khi chúng tôi đạt được nó.
Ký tên - Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc, Liên Đoàn Việt Minh
Cảm ơn bạn về tất cả những gì khó khăn mà tôi đã gây ra cho bạn.... Những lời chúc tốt đẹp nhất!
Trân trọng, Hồ [Sic]." * (Robert Shaplen, The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1965), 28-30.)
Những trình bày tương tự cũng được chuyển đến Mỹ qua những người Việt Nam ở Côn Minh (xem biên bản ghi nhớ của Tướng Donovan, Giám đốc của O.S.S, đính kèm)
Trong tháng mười, chiến tranh giữa các lực lượng Việt Nam và Pháp bắt đầu ở miền Nam Việt Nam. Hồ Chí Minh liền gửi đi một loạt thư sang Mỹ, Trung Quốc, và các cường quốc khác, phủ nhận quyền của Pháp đại diện cho Việt Nam tại Liên Hợp Quốc hoặc tại các diễn đàn quốc tế, và tố cáo Pháp "xâm lược" Việt Nam. Hồ, trong bức điện tín ngày 17 Tháng Mười năm 1945, kêu gọi Tổng thống Truman lưu ý về "sự kiện" mà Ủy ban Tư vấn Liên Hợp Quốc về Viễn Đông được thành lập mà đã bỏ qua Việt Nam như là một thành viên, và Pháp đã không có quyền trở thành một thành viên, và rằng VNDCCH có đủ điều kiện là một quốc gia theo Hiến chương Đại Tây Dương. Yêu cầu Hoa Kỳ truyền đạt ý kiến của mình lên Liên Hiệp Quốc. Hồ đe dọa rằng sự vắng mặt của Việt Nam sẽ mang lại sự bất ổn ở vùng Viễn Đông. Các điện tín được Nhà Trắng chuyền đến Bộ Ngoại Giao và nơi đây ghi nhận “SEA [Bộ Tư Lệnh Đông Nam Á] cho rằng không một hành động nào được thực hiện...” Trong vòng một tuần, Hồ Chí Minh đưa ra lời kêu gọi thông qua Đài phát thanh Hà Nội đến Truman, Attlee, và De Gaulle và tuyên bố rằng" Chính phủ Việt Nam Quốc Gia" dự định tổ chức một phổ thông đầu phiếu để đưa ra một Hiến Pháp cho Đông Dương. (Quan điểm của Pháp là bản thân họ sẽ không phản đối, nhưng muốn được đảm bảo rằng Hồ đại diện cho toàn bộ nhân dân Đông Dương). Hồ nhiều lần đề cập đến bài phát biểu của Tổng thống Truman nhân Ngày Hải Quân về chính sách đối ngoại [của mình] vào ngày 27 Tháng Mười năm 1945, và yêu cầu áp dụng các nguyên tắc trong bài phát biểu đó cho Việt Nam và VNDCCH. Trong bài diễn văn đó, Tổng thống Truman không đề cập đến Đông Dương trong bất kỳ kiểu nào, nhưng đoạn văn sau đây rõ ràng khuấy lên hy vọng của Hồ Chí Minh:
"Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ dựa vững chắc trên các nguyên tắc cơ bản về sự công bình và công lý. Thực hiện những nguyên tắc đó, chúng ta chắc chắn phải tuân thủ theo những gì chúng ta tin là đúng, và chúng ta không cho phép chúng ta chấp nhận bất kỳ thỏa hiệp nào với cái ác.
"Nhưng chúng ta biết rằng chúng ta không thể nào đạt được một thế giới hoàn hảo chỉ qua một đêm. Chúng ta không để việc tìm kiếm một sự hoàn hảo làm cản trở sự hợp tác quốc tế được phát triển mau chóng. Chúng ta phải được chuẩn bị tốt nhất với những gì chúng ta có thể để hoàn thành trách nhiệm của mình, trong khuôn khổ các nguyên tắc cơ bản của chúng ta, mặc dù chúng ta nhận ra rằng chúng ta phải hoạt động trong một thế giới không hoàn hảo.
"Hãy để tôi nhắc lại các nguyên tắc cơ bản của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ rằng:
"1 - Chúng ta không tìm kiếm việc mở rộng lãnh thổ hay một lợi thế ích kỷ. Chúng ta không có kế hoạch xâm lược chống lại các nước khác, dù lớn hay nhỏ.. Chúng ta không có mục tiêu nào xung đột với các mục tiêu hòa bình của bất kỳ quốc gia nào khác.
"2 - Chúng ta tin rằng quyền tự quyết và chính phủ tự trị đã bị tước đoạt bằng vũ lực cuối cùng sẽ trở lại với tất cả các dân tộc.
"3 - Chúng ta sẽ không phê duyệt những thay đổi về lãnh thổ ở bất cứ phần thân thiện nào của thế giới, trừ khi phù hợp với mong muốn được tự do bày tỏ của người có liên quan.
"4- Chúng ta tin rằng tất cả các dân tộc đang chuẩn bị một chính phủ tự quyết phải được phép lựa chọn hình thức chính quyền theo cách mà họ muốn một cách tự do mà không có sự can thiệp từ bất kỳ nước ngoài nào. Đó là sự thật cho Âu Châu, Á Châu, cho Châu Phi. cũng như ở [các nước] ở Tây bán cầu.
"5. Bằng cách phối hợp hành động và hợp tác với các đồng minh chiến tranh của chúng ta, chúng ta sẽ giúp các quốc gia địch bị đánh bại thành lập chính phủ hòa bình dân chủ với sự tự do lựa chọn của mình. Chúng ta sẽ cố gắng để đạt được một thế giới mà trong đó chủ nghĩa phát xít Đức, chủ nghĩa phát xít và xâm lược quân sự không thể tồn tại.
“6- Chúng ta sẽ không công nhận bất kỳ chính phủ áp đặt nào lên bất kỳ quốc gia nào bởi sức mạnh của bất kỳ thế lực nước ngoài nào. Trong một số trường hợp, có thể không thể ngăn chặn được việc áp đặt bằng vũ lưc một chính phủ như vậy.. Nhưng Hoa Kỳ sẽ không nhận bất kỳ chính phủ như thế.
"7 - Chúng ta tin rằng tất cả các quốc gia phải có quyền tự do [đi lại] ở các vùng biển và quyền bình đẳng về giao thông trên các dòng sông và đường thủy biên giới và trên các con sông và đường thủy đi qua nhiều quốc gia.
"8- Chúng ta tin rằng tất cả các nước được chấp nhận trong Liên Hiệp Quốc có quyền tiếp cận thương mại và các nguyên liệu thô của thế giới một cách bình đẳng.
"9- Chúng ta tin rằng các quốc gia có chủ quyền của Tây bán cầu, không có sự can thiệp từ bên ngoài Tây bán cầu, phải làm việc với nhau như những người hàng xóm tốt tìm ra giải pháp cho các vấn đề chung của họ.
"10- Chúng ta tin rằng sự hợp tác kinh tế giữa tất cả các quốc gia lớn và nhỏ, là điều cần thiết để cải thiện điều kiện sống trên toàn thế giới, và để thành lập Tự Do từ sự sợ hãi và Tự Do từ sự cần thiết.
"11 - Chúng ta sẽ tiếp tục phấn đấu để thúc đẩy tự do ngôn luận và tự do tôn giáo trên khắp các nơi yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
"12 - Chúng ta tin rằng việc bảo tồn hòa bình giữa các quốc gia đòi hỏi Tổ chức Liên Hợp Quốc gồm tất cả quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới cùng nhau, sẵn sàng sử dụng vũ lực nếu cần, để đảm bảo hòa bình." * (*Public Papers of the Presidents of the United States (Harry S. Truman, April-December 1945), 433-434.)
Hồ Chí Minh chuyển đến Bộ Trưởng Ngoại Giao [Mỹ] bảng Tuyên Ngôn Độc lập của VNDCCH, quyết định thoái vị Bảo Đại, báo cáo tổng quát về chính sách ngoại giao của VNDCCH, và trình bày thế đứng của mình trong cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Ông đã trích dẫn Hiến chương Đại Tây Dương như "nền tảng tương lai của Việt Nam" và Hiến Chương San Francisco để xóa bỏ sự áp bức thuộc địa. Hồ kêu gọi một "sự can thiệp ngay lập tức" và đệ trình những yêu cầu - một trong những điều đó, điều quan trọng chính là Liên Hiệp Quốc phải công nhận độc lập của Việt Nam. Một lần nữa, trong tháng mười một, ông đã đưa ra ba điểm: (1) người Pháp đã bỏ qua tất cả các điều ước quốc tế vào cuối chiến tranh và đã tấn công Sài Gòn trong tháng Chín, (2) người Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Liên Hiệp Quốc, nhưng sẽ chống lại bất kỳ quân Pháp nào vào lãnh thổ Việt Nam; và (3) bất kỳ đổ máu nào sẽ là trách nhiệm của người Pháp. Hai tuần sau, Hồ kêu gọi Tổng thống Truman và UNRRA [The United Nations Relief and Rehabilitation Administration tức Cơ Quan Cứu Trợ Nhân Đạo Liên Hiệp Quốc] hỗ trợ để chống nạn đói gây ra bởi lũ lụt, hạn hán, và xung đột với Pháp. Cũng trong tháng mười một, Hồ viết cho Bộ Trưởng Ngoại Giao [Mỹ] yêu cầu thiết lập quan hệ văn hóa với Mỹ bằng cách gửi năm mươi sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ, và phàn nàn về sự vắng mặt của đại diện Việt Nam tại Hội nghị Washington cho vùng Viễn Đông. Xuất phát từ việc Truman bổ nhiệm Tướng Marshall làm đại diện đặc biệt ở Trung Quốc, đầu năm 1946 Hồ Chí Minh một lần nữa kêu gọi sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ nhằm đưa ra một giải pháp trước mắt cho vấn đề Việt Nam. Ngày 16 Tháng Hai 1946, một giọng văn khó chịu xuất hiện: Hồ viết một lần nữa gửi Tổng thống Truman ngụ ý có sự "đồng lõa, hoặc ít nhất, thông đồng của các cường quốc dân chủ lớn" với sự xâm lăng của Pháp, nhưng Hồ vẫn xin Mỹ có một "bước quyết định" để hỗ trợ cho Việt Nam độc lập, chỉ yêu cầu được hưởng như những gì đã được "ân cần cấp cho Philippines". Hồ phát sóng khẩn cấp dến Mỹ, Trung Quốc, Nga, và Anh yêu cầu Tứ Cường "can thiệp" để ngăn chặn đổ máu và đưa vấn đề Đông Dương ra trước Liên Hiệp Quốc.
Chuyện đã trở nên rất rõ, tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn không phải làm gì để hỗ trợ Việt Minh. Giả sử những kêu gọi của Hồ Chí Minh là chân thành, thời gian thuận lợi nhất đối với Mỹ để can thiệp vào Việt Nam là trong mùa thu năm 1945, và triển vọng hành động của Mỹ đã bị mờ đi giống như việc VNDCCH đàm phán với Pháp tiến hành trong tháng hai, tháng ba năm 1946. Nghịch lý thay, khả năng [lúc ấy] là cộng sản sẽ lên nắm quyền ở Pháp sẽ thêm ưu đãi cho Hồ Chí Minh để đàm phán với Pháp, và [đồng thời] kích thích Mỹ hỗ trợ cho Pháp mạnh hơn. Cuối cùng, Mỹ đã không ủng hộ Việt Minh chống chủ nghĩa thực dân (mặc dù Hoa Kỳ đã áp lực Pháp nhượng bộ cho dân tộc Việt), vì lợi ích của mình dường như là tham gia trực tiếp hơn trong việc củng cố Pháp như là một phần quan trọng để giúp [Mỹ] hổ trợ phục hồi Âu Châu. Mặt khác, Hồ Chí Minh tiếp tục hy vọng có một nước Pháp mới, phá vỡ các chính sách thực dân cũ của nó dưới một chính phủ Xã Hội hay Cộng Sản.
Trao đổi giữa Hồ Chí Minh với Hoa Kỳ chấm dứt sau Hiệp Định tháng 6 năm 1946 với Pháp, mặc dù Hồ Chí Minh đã thăm Đại sứ quán Mỹ tại Paris vào ngày 11 tháng Chín năm 1946.
(Xem tiếp kỳ 14,
"...Lý do mà đại diện Pháp, tướng Allesandri, thất bại trong việc đại diện cho Pháp trong buổi lễ chấp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Hà Nội là vì người Việt trưng tất cả những lá cờ các nước trong Liên Hiệp Quốc trừ lá cờ của Pháp tại nơi hành lễ..."
TÓM LƯỢC
Thời điểm | Sự việc | Trang | |
22 tháng 8/1945 | Biên bản ghi nhớ gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao từ Giám đốc O.S.S báo cáo thái độ hào phóng của Pháp đối với Đông Dương (dựa trên khẳng định của chính Sainteny) và mong muốn của người Việt Nam được hưởng chế độ bảo hộ bởi Mỹ (dựa trên những xác nhận của đại diện của Việt Minh và Đồng Minh Hội) | C-66 | |
29 tháng 9/1945 | Điện tín từ Đại sứ quán Mỹ, Trùng Khánh, gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, ngày 18 Tháng Mười, 1945. Tóm tắt thư từ của Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống Mỹ, bày tỏ sự cảm thông ở cái chết của Đại Tá Peter Dewey, Tư lệnh O.S.S ở Sài Gòn. Yêu cầu Tổng Thống thông báo trước việc di chuyển của các công dân Mỹ [ở VN], nhưng đánh giá cao việc Mỹ đứng lên cho công lý và hòa bình quốc tế | C-69 | |
17 tháng 10/1945 | Điện tín, Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman. Kêu gọi VNDCCH trở thành thành viên của Ủy ban Tư Vấn Liên Hợp Quốc Cho Vùng Viễn Đông. Trích dẫn Hiến chương Đại Tây Dương để thúc đẩy đòi hỏi của mình được làm thành viên phó cho [phái đoàn] Pháp | C-71 | |
22 tháng 10/1945 | Thư, Hồ Chí Minh gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, kêu gọi sự can thiệp trực tiếp của Liên Hợp Quốc. Hấp dẫn đối với Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Liên Hợp Quốc, và cảnh báo chiến tranh mở rộng trong khu vực Viễn Đông, Hồ kêu gọi hành động của Liên Hợp Quốc can thiệp với Pháp, bao gồm một "Ủy ban Điều Tra.".. | C-80 | |
23 tháng 10/1945 | Đại sứ Mỹ ở Paris báo cáo về những bài viết của báo chí về lời kêu gọi của Hồ trên đài phát thanh gửi cho Tổng thống Truman và các nhà lãnh đạo phương Tây khác, thông báo kế hoạch tổ chức tổng tuyển cử. Chính phủ Pháp tuyên bố sẽ không phản đối về nguyên tắc một tổng tuyển cử nếu Hồ Chí Minh đại diện cho tất cả Đông Dương và chứ không đơn thuần là Việt Minh | C-75 | |
01 tháng 11/1945 | Thư từ Hồ Chí Minh gửi James Byrnes, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đề nghị gửi một đoàn đại biểu 50 thanh niên Việt sang Mỹ để thúc đẩy quan hệ hữu nghị văn hóa và học tập tại các trường đại học Mỹ … | C-90 | |
05 tháng 11/1945 | Thông điệp, Philip D. Sprouse, lãnh sự Mỹ, Côn Minh, gửi Bộ trưởng Ngoại giao. Gộp chung với lá thư ngày 22 tháng 10 của Hồ, khảo sát tình hình tại Việt Nam dựa trên các báo cáo của Đại tá Nordlinger, Mỹ, và báo cáo về việc Hồ và Bảo Đại tìm cách đến thăm Tưởng Giới Thạch | C-76 | |
08 tháng 11/1945 | Đại sứ quán Mỹ, Trùng Khánh tóm tắt bức thư của Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống Truman và Tưởng Giới Thạch nhấn mạnh việc mất chủ quyền của Pháp, VNDCCH lấy lại chủ quyền, và sự xâm lược của Pháp để tái chiếm nó. Khẳng định Pháp chịu trách nhiệm khi tiếp tục chiến tranh xâm lược ở Viễn Đông | C-84 | |
23 tháng 11/1945 | Điện tín từ Đại sứ quán Mỹ, Trùng Khánh, diễn giải các thư từ Hồ Chí Minh gủi Tổng Thống Truman và Tổng giám đốc của UNRRA, mô tả nạn đói ở Bắc Việt Nam, và kêu gọi cứu trợ | C-87 | |
26 tháng 11/1945 | Thông báo từ Đại sứ quán Hoa Kỳ, Trùng Khánh, gộp chung lá thư 1 tháng 11, lá thư của 28 Tháng Mười của Hồ gửi Tưởng Giới Thạch đôn đốc Tưởng ngăn chặn các hành động của Anh-Pháp-Nhật tại Nam Kỳ; và điện tín không ghi ngày gửi Bộ trưởng Ngoại giao phản đối rằng Pháp không có quyền nói chuyện thay cho Việt Nam trong các Hội đồng quốc tế, và kêu gọi tất cả các quốc gia tự do trên thế giới giúp ngăn chặn chiến tranh ở Nam Việt Nam | C-89 | |
18 tháng 01/1946 | Điện tín từ Đại sứ quán Mỹ, Trùng Khánh, ngày 13 tháng hai 1946, diễn giải lá thư của Hồ gửi Tổng Thống Truman, ngày 18 Tháng 1 năm 1946, nhắc nhở rằng hòa bình là không thể chia cắt và yêu cầu Tổng thống can thiệp để giải quyết ngay lập tức vấn đề Việt Nam. Telegram mô tả thư giống hệt từ Tướng Marshall, cùng một ngày | C-93 | |
16 tháng 02/1946 | Thư có chữ ký của Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Hoa Kỳ trích dẫn các nguyên tắc mà Hoa Kỳ ủng hộ trước, trong và sau chiến tranh, và cả Liên Hợp Quốc, kêu gọi Mỹ viện trợ cho Việt Nam đối mặt với xâm lược Pháp. Hồ yêu cầu cho Việt Nam được hưởng những gì như Philippines được hưởng "như Philippines, mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với HOA KỲ." | C-95 | |
18 tháng 02/1946 | Thư từ VNDCCH gửi các chính phủ Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô, và Anh, kêu gọi họ quan tâm đến việc Vichy-Pháp hợp tác với Nhật ở Đông Dương, và các chính sách đã dẫn đến nạn đói trong dân chúng Việt Nam. Một lần nữa vào ngày 09 tháng 3 1945, người Pháp đã chấp nhận Nhật chiếm giữ chính quyền. Ngược lại, cuộc kháng chiến Việt Nam đã chiến đấu Nhật trong những năm qua, và vào tháng Tám, năm 1945, lật đổ chế độ Nhật [Nippon], và thành lập VNDCCH dựa trên những nguyên tắc đề ra bởi Tôn Dật Tiên và Tổng thống Truman. Những bước phát triển rất ấn tượng đã đạt được của VNDCCH ở miền Bắc Việt Nam, nhưng ở miền Nam Việt Nam, Pháp xâm lược đã áp đặt. VNDCCH khẩn trương kêu gọi sự can thiệp của Đồng Minh để ngăn chặn chiến tranh, và đưa vấn đề Đông Dương ra trước Liên Hợp Quốc. | C-98 | |
27 tháng 02/1946 | Điện tín của phụ tá trưởng của Phòng Các Vấn Đề Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (Landon), gửi Bộ trưởng Ngoại giao, từ Hà Nội, nhận được ở Washington ngày 27 Tháng Hai. Tóm tắt về tình trạng các cuộc đàm phán giữa Pháp (Sainteny) và VNDCCH. Báo cáo rằng Hồ Chí Minh trao hai lá thư để gửi cho Tổng thống Hoa Kỳ, khẳng định rằng người Việt sẽ chiến đấu cho đến khi có can thiệp của Liên Hợp Quốc vào Việt Nam. Yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ Việt Nam độc lập "theo ví dụ của Philippines." | C-101 | |
11 tháng 09/1946 | Biên bản ghi nhớ cuộc trò chuyện với Hồ Chí Minh do Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Mỹ, Paris, ngày 12 tháng chín 1946. Hồ mô tả việc liên lạc với O.S.S. của mình, từ chối mình có kết nối cộng sản và chỉ ra rằng ông hy vọng có được viện trợ từ Hoa Kỳ. Ông đề cập cụ thể những hỗ trợ kinh tế, nhưng gợi ý viện trợ quân sự và hải quân, thí dụ như, ông ta đề cập đến căn cứ hải quân tại Vịnh Cam Ranh. | C-102 |
22 Tháng 08 năm 1945 Bản ghi nhớ gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Đại diện O.S.S ở Côn Minh đã gửi những thông tin liên quan đến thái độ của Pháp đối với Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương. Chính Phủ Lâm Thời cũng đã là chủ đề của hai bản ghi nhớ ngày 21-08-1945. Chính phủ Pháp đã quyết định chấp nhận một đường lối ngoại giao “thụ động” đối với vấn đề tái chiếm Đông Dương bởi vì họ không có khả năng trở lại đó với một quân đội hùng hậu. Một Ủy Ban gồm ba người đã được chính phủ Pháp ở Paris chỉ định, một người là xếp DGER [cơ quan Tình Báo của Pháp] ở Côn Minh, Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa và Toàn Quyền Đông Dương. Nhiệm vụ của họ là liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam và thương thảo với họ cho có lợi cho Đông Dương, theo lời Thiếu Tá Sainteny là người đại diện cho Ủy Ban tại Hà Nội. Chính sách của Pháp là một chính phủ mỡ rộng với [Pháp] như là cố vấn cho Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương thành lập bởi Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Minh, [hai phe này] đã cùng nhau lập ra Ủy Ban Cứu Quốc. (Việt Minh là đảng 100% cộng sản với khoảng 20% thành viên tích cực chính trị là người bản xứ. Quốc Dân Đảng gồm 6 đảng nhỏ và một số thành viên độc lập). Ủy Ban Pháp được giao trách nhiệm thương thuyết thẳng với lãnh đạo Đông Dương và lấy quyết định nhằm kiếm một phương cách hành động (modus operendi) tốt nhất. Ủy Ban có toàn quyền ký hiệp ước nhân danh nước Pháp. Ủy Ban sau đó báo cáo lại Paris và nơi đây dành đặc quyền sửa đổi những tiểu tiết trong toàn bộ thỏa thuận. Lãnh đạo Việt Nam ở Côn Minh và những người đại diện Ủy Ban Giải Phóng Quốc Gia mới [thành lập] ở Hà Nội đã đưa ra mong muốn là Việt Nam được đặt dưới sự bảo hộ của Hoa Kỳ và hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ can thiệp với Liên Hiệp Quốc để loại Pháp cũng như Trung Quốc ra khỏi việc chiếm đóng Việt Nam. Theo nguồn tin đáng tin cậy từ Pháp và Việt Nam cho biết Ủy Ban Trung Ương [Việt Minh] đang thảo luận với giới chức quân sự Nhật ở địa phương để mua lại vũ khí đạn dược, với chủ ý là sẽ dùng chúng, nếu một khi Pháp hay Trung Hoa cố tình chiếm đóng các vùng [của VN]. Đông Dương sợ rằng khi người Tàu chiếm đóng họ sẽ ở lại chiếm đất lập nghiệp [squatter], cướp bóc, hiếp dâm, trộm cắp. Người Pháp nhất trí với ý này [nhưng] cho tới nay chỉ muốn những quyền hành chánh là để dành riêng cho họ. Lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc và Ủy Ban Cứu Quốc ở Hà Nội đưa ra tuyên bố như sau vào ngày 15 tháng Tám: “Nếu người Pháp nhắm trở lại Đông Dương với ý định cai trị Đất Nước này, và hành xử một lần nữa như kẻ áp bức, các dân tộc Đông Dương sẽ chiến đấu cho đến khi sự tái chiếm đó chấm dứt. Mặt khác, nếu họ đến đây như những người bạn nhằm thiết lập thương mại, công nghiệp mà không một ý đồ về quyền hành nào khác, họ sẽ được chào đón như bất cứ các nước nào khác. Ủy Ban Trung Ương cũng muốn thông báo với Hoa Kỳ là nhân dân Đông Dương trước hết là Đông Dương Độc Lập và, hy vọng rằng Hoa Kỳ là nước vô địch về Dân Chủ sẽ hổ trợ họ để đạt nền Độc Lập theo những phương cách sau: (1) ngăn cản hay không yểm trợ cho Pháp trở lại Đông Dương; (2) kiểm soát [quân] Tàu để những chuyện cướp phá, trộm cắp được giữ ở mức tối thiểu; (3) gửi những cố vấn kỷ thuật để khai thác đất đai; và (4) phát triển những công nghiệp mà Đông Dương có khả năng lo toan. “Tóm lại nhân dân Đông Dương muốn được đặt dưới cùng một chế độ như Phi Luật Tân trong một thời gian vô hạn định” Đại diện Pháp ở Côn Minh, Thiếu Tá Sainteny, hiện đang nhận những giúp đỡ vật chất từ Đội Liên Lạc Vùng Viễn Đông [SLFEO – Section Liaison Francaise Extrême Orient] ở Calcutta để sắp xếp và sẵn sàng nhân sự để tái nhập vào Đông Dương. Nhóm của họ sửa soạn để sẳn sàng lên đường sáng ngày 17 thàng Tám. Tuy nhiên, khi đến phi trường họ đụng độ với người Trung Hoa và quân cảnh Mỹ gác các phi cơ và cấm họ rời phi trường. Trong những cuộc nói chuyện sau này về ngày đó, Sainteny nói rằng ông ta nghĩ rằng người Pháp bị người Mỹ phản bội. Ông ta nhấn mạnh thêm rằng chính người Mỹ ở Trung Quốc đã từ lâu bị người Tàu chơi xấu dù rằng không có chủ tâm. Khi được hỏi về ý định của ông kể từ này về sau, ông ngập ngừng nói là người Pháp không có gì để làm ngoại trừ phải chờ lệnh từ Trùng Khánh. Bộ phận tình báo DGER của Pháp đã đưa toán xâm nhập đi Hải Phòng dưới sự chỉ huy của Đại Úy Blanchard. Ông này liên lạc với Trung Tá Kamiya, cựu liên lạc viên giữa Bộ Chỉ Huy Nhật và chính quyền của Đô Đốc Decoux. Kamiya giữ toán này lại ở Hải Phòng, chỉ giao cho việc lo chuyển tin về những dữ kiện đầu hàng [của Nhật] và tin tức thời tiết về cho Bộ Tư Lệnh của Pháp tạo Côn Minh. Báo cáo từ Kandy nói rằng Đại Tá Roos, chỉ huy của SLFEO ở Calcutta, hiện nay đang có mặt ở Saigon để phụ giúp việc Nhật đầu hàng trong nhóm nhân viên đại diện Anh Quốc. Cùng với Đại Tá Roos là Đại Tá Fay, cựu tùy viên quân sự của Pháp ở Côn Minh mà vai trò chính xác để làm gì vẫn chưa được biết, nhưng ông ta là thành phần nhân viên của Lord Mountbatten. Ký tên William J. Donovan Giám Đốc |
Mật - EC-1925-C Trùng Khánh chuyển qua “War”…[không rõ là gì] Điện tín này phải được Ngày 18 Tháng 10, 1946 chú giải trước khi chuyền cho bất cứ ai (Mật) Gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, Washington 1820 18 tháng 10, 10 a.m. Những gì tiếp sau đâu là tóm tắt một bức thư viết tại Hà Nội ngày 29 tháng Chín gửi Tổng Thống Hoa Kỳ bởi Hồ ký tên là “Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời của nước Cộng Hòa Việt Nam”. Lá thư được giao cho Tướng Mỹ Gallagner, đứng đầu Nhóm Liên Lạc Bộ Tư Lệnh Chiến Đấu Trung Quốc [Chinese Combat Command Liaison Group] với quân đội Trung Hoa ở miền Bắc Đông Dương và được chuyển tới Sứ Quán Hoa Kỳ qua các kênh của Quân Đội. Đài phát thanh Saigon đưa tin Trung Tá Peter Dewoy của Hoa Ky bị giết, theo cuộc điều tra đang tiến hành của Pháp là có đụng độ giữa các lực lượng Việt Nam quốc gia và kẻ xâm lược Pháp ở Nam Kỳ … Vì Saigon đang nằm trong tay của lực lượng Pháp-Anh nên chưa thể điều tra ngay nhưng chúng tôi thành thật hy vọng đó không phải là sự thật. Nhưng nếu đó là một sự cố có thật thì [lý do] tại vì tình trạng hỗn loạn không rõ ràng, hay trường hợp đáng tiếc đã xảy ra, hay là do sự khiêu khích của Pháp hay Anh. Không kể bất cứ gì, chuyện này nay đã buộc chúng tôi phải hành động sâu hơn và chúng tôi sẽ tích cực kiếm cho ra thủ phạm để trừng phạt chúng một cách kín đáo. Nhiều biện pháp đã được đưa ra hầu ngăn chận những trường hợp tương tự. Chúng tôi cam đoan với ngài là chúng tôi vô cùng đau đớn cho cái chết của bất cứ công dân Mỹ nào ở đất nước này như những người thân yêu quí nhất của họ. Chúng tôi chỉ yêu cầu các vị đại diện cho ngài ở nước này [VN] báo trước cho chúng tôi việc đi lại của các công dân [Mỹ] của ngài và phải cẩn thận khi “vượt qua” những chỗ đang đánh nhau. Như thế sẽ tránh được những sự cố và giúp [chúng ta] chào đón những điều vui vẻ (gửi cho Bộ và đồng thời cho Paris) Chúng tôi cam đoan với ngài lòng ngưỡng mộ và tình hửu nghị mà chúng tôi cảm nghĩ về người Mỹ và những người đại diện [cảa Mỹ] ở đây. Đó là những cảm tình huynh đệ thật sự mà chúng tôi dành cho bản thân người Mỹ mà còn xem bộ quân phục của Mỹ là chứng cớ là Hoa Kỳ đứng về phía công bằng và hòa bình thế giới và “khối cai quản”. Tôi xin gửi đến Ngài Tổng Thống và nhân dân Mỹ lời chào kính trọng và ngưỡng mộ (HẾT TÓM TẮT] Ký tên Robertson |
Office Memorandom United States Government Ngày 15 tháng 11, 1945 Nhận: FE - ông Vincent Gửi : SEA – ông Muffot Vấn đề: Điện tín gửi Tổng Thống Truman của Hồ Chí Minh SEA cho rằng không cần có hành động gì liên quan đến điện tín đính kèm do Hồ Chí Minh gửi Tổng Thống yêu cầu có thành viên của cái gọi là “Cộng Hòa Việt Nam” trong Ủy Ban Tham Vấn Vùng Viễn Đông. Ký tên SEA: ALMoffat |
[Liên qua đến tài liệu sau]
Điện Tín Tòa Bạch Cung Washington 1 N RA. 349 via RCa Hà Nội, gửi qua Côn Minh, 17 tháng 10 năm 1945 Ông Hồ Chí Minh Chủ Tịch của Tạm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gửi Tổng Thống Truman, Washington Việc thành lập Ủy Ban Tham Vấn cho Vùng Viễn Đông được người Việt nức lòng đón nhận trên nguyên tắc. STOP. Quan tâm đến, thứ nhất là tầm quan trọng kinh tế và chiến lược của Việt Nam, thứ hai là Việt Nam ước mong tha thiết nhất và nhất trí mong được hợp tác với các nền dân chủ để xây dựng và củng cố nền hòa bình và thịnh vượng của Thế Giới; chúng tôi kêu gọi sự lưu ý của các quốc gia Đồng Minh về những điểm sau HAI CHẤM Thứ nhất, sự vắng mặt của Việt Nam và sự hiện diện của người Pháp trong Uỷ Ban Tham Vấn sẽ dẫn đến kết luận là Pháp đại diện cho Việt Nam trong Ủy Ban. STOP. Sự đại diện đó là không có cơ sở dù là chỉ một ngày hay đương nhiên. STOP. Trên pháp lý, việc Việt Nam thuộc Pháp từ nay không còn nữa. CHẤM PHẨY. Bảo Đại đã hủy bỏ hiệp ước với Pháp ký năm 1884 và 1863. PHẨY. Bảo Đại đã tự ý thoái vị và nhường chính quyền lại cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. PHẨY. Chính phủ Lâm Thời phê chuẩn việc hủy bỏ các Hiệp Ước 1884 và 1863. STOP. Trên thực tế, ngày 9 tháng Ba Pháp đã trao chính quyền lại cho Nhật đã xé bỏ mọi liên hệ hành chánh với Việt Nam, kể từ ngày 18 tháng Tám 1945, chính phủ lâm thời trên thực tế là một chính quyền độc lập trên mọi phương diện, những sự cố gần đây ở Saigon do Pháp gây ra đã khuấy động nỗi bất bình toàn diện dẫn tới cuộc chiến dành độc lập. Thứ hai, Pháp không còn xứng đáng khi họ bán đứng một cách dơ bẩn Đông Dương cho Nhật và phản bội Đồng Minh. Thứ ba, Việt Nam đủ tiêu chuẩn theo như Hiến Chương Đại Tây Dương và theo như những thỏa thuận hòa bình sau đó, và do thiện ý và không nao núng đứng về phía Dân Chủ [Việt Nam] phải có đại diện trong Ủy Ban Tham Vấn. STOP. Chúng tôi nghĩ rằng sự có mặt của Việt Nam trong Ủy Ban sẽ mang lại những cống hiến có hiệu quả cho những giải pháp cho các vấn đề còn tồn tại ở Viễn Đông, ngược lại, sự vắng mặt của nó sẽ mang lại xáo trộn và và tính tạm bợ cho những giải pháp dù có đạt được. Vì thế chúng tôi tha thiết yêu cầu được góp phần trong Ủy Ban Tham Vấn về Viễn Đông. STOP. Chúng tôi rất biết ơn Ngài Tổng Thống, Thủ Tướng Attlee [Anh], Thủ Tướng Stalin, Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch trong việc chuyển những khao khát của chúng tôi lên Liên Hiệp Quốc. Trân Trọng Hồ Chí Minh |
Bộ Ngoại Giao Điện Tín Đến Action: NOE Info: EP-1720-G Paris Điện tín này phải được ngày 23 Tháng 10, 1945 chú giải trước khi chuyền nhận lúc 12:48 AM ngày 24 cho bất cứ ai ([Phổ biến] giới hạn) Gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, Washington 619G, 23 tháng 10, 7:PM Nhiều tờ báo đăng tải một tin tức giống nhau cho tin rằng Hồ Chí Minh, chủ tịch của Việt Minh, đã gửi qua đài phát thanh Hà Nội đến Tổng Thống Truman, Thủ Tướng Attlee và Tướng Degaulle và thông báo “Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam” sẽ tổ chức tổng tuyển cử trong vòng hai tháng để lập ra Hiến Pháp Đông Dương. Những bài báo đăng tiếp “các nhóm người Pháp trong chính quyền” lưu ý rằng dường như là Việt Minh không có khả năng tổ chức tổng tuyển cử. Tuy nhiên, chính phủ Pháp sẽ không phản đối một tổng tuyển cử như thế nếu Hồ Chí Minh đại diện cho toàn Đông Dương chứ chỉ không là Việt Minh. Chỉ có những tiếp xúc giữa Pháp với Việt Minh, nguồn tin trên kết luận, xảy ra chỉ để ngăn chận được đổ máu và sẽ là không chính xác nếu nói đó là những thương thuyết thật sự. Ký tên, Caffery |
- Tiếp theo >>
Số 38 TỔNG LÃNH SỰ HOA KỲ (Mật) Côn Minh, Trung Quốc, ngày 24 tháng 10 năm 1945 Vấn đề: Thư từ lãnh đạo Việt Nam; Tình Hình Đông Dương Gửi Ngài Bộ Trưởng Ngoại Giao, Washington Liên quan đến thông tư của Tổng Lãnh sự số 27 tháng 9 năm 1945 về tình hình Đông Dương, tôi được vinh dự gửi kèm theo đây: (a) bản sao bức thư của Hồ Chí Minh “Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao vào ngày 22 tháng 10 năm 1945; (b) bản dịch của bức thư đề ngày 22 tháng 10 năm 1945 gửi bởi HSIAO Wen, thuộc Sở Các Vấn Đề Nước Ngoài chuyên lo giúp các Lực Lượcng Trung Hoa đang đóng ở Việt Nam, gửi Tướng Chin Cheng, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh của Trung Hoa; và (c) bản dịch của bức thư đề ngày 23 tháng 10 năm 1945 gửi bởi Hồ Chí Minh (gọi theo Tây phương là HU Chih-Ming) và YUAN Yung-jui ( Cựu hoàng Bảo Đại) gửi Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch. Nguồn gốc của những thư tín này là do hai sĩ Quan Hoa Kỳ mang đến Côn Minh ngày 24 tháng 10 năm 1945, [hai người này] đã làm việc ở Hà Nội từ nữa sau của tháng 10 trong nhóm G-5 lo về việc đào thoát cho những tù binh bị bắt. Đại Tá Stephen Nordlinger, sĩ quan chỉ huy nhóm, cho tôi biết rằng ông đang mang theo để gửi đến Washington lá thư gốc để giao cho Bộ Trưởng Ngoại Giao qua phương cách nào thuận lợi nhất ngay khi ông đến đó. Những lá thư gốc gửi Tướng Cheng Chen và Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch trong các bì thư được niêm phong bởi người gửi đến tướng Cheng đã được nơi đây [Tổng Lãnh Sự] gửi chuyền đến Đại Sứ Quán ở Trùng Khánh để gửi về Hoa Kỳ qua các đường liên lạc của Quân Đội. Những sĩ quan mang thư đến Côn Minh cho biết là họ không được Hồ Chí Minh cho biết trong thư có gì và nội dung thông tin gửi tướng Cheng và Tổng Tư Lệnh nhất thiết chỉ có thẩm quyền Trung Hoa được biết mà thôi. Tòa Tổng Lãnh Sự được yêu cầu thông dịch những thư này trong chừng mực mà có thể tin rằng những thư này có những thông tin có tính cách quân sự mà giới thẩm quyền quân đội Hoa Kỳ quan tâm. Tóm lược những nội dung: Trong thư gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao này, Hồ Chí Minh nói rằng ông đã chuyển nhiều tài liệu liên quan đến tình hình Đông Dương hiện nay (những tài liệu đó đã được gửi đi trong một chuyến gửi riêng), ông cũng nói đến việc Pháp áp bức người Việt Nam và mong muốn của Việt Nam về việc thực hiện những “nguyên tắc của Hiến Chương Đại Tây Dương và Hiến Chương San Francisco”. Ông kết án người Pháp về những xáo trộn đang xảy ra ở Nam Kỳ và kêu gọi một “can thiệp ngay tức khắc” của Liên Hiệp Quốc e rằng hậu quả sẽ tràn ra khắp vùng Viễn Đông. Ông này đưa ra bốn yêu cầu: (1) Tình hình [Đông Dương] phải được bàn thảo ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy Ban Tham Vấn Vùng Viễn Đông; (2) Đại biểu Việt Nam phải được tham dự để trình bày quan điểm của “Chính phủ Việt Nam”; (3) một ủy ban điều tra phải được gửi đến Đông Dương; (4) Liên Hiệp Quốc phải công nhận Độc Lập cho Việt Nam. Những viên chức trong Bộ Ngoại Giao Trung Quốc [Chinese Oversea Affaires] phát biểu rằng Hồ Chí Minh và Bảo Đại mong muốn được bí mật gặp Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch và yêu cầu gửi một phi cơ đến Hà Nội cho việc này. Trong những bức thư gửi Tổng Tư Lệnh, lãnh đạo Việt Nam mong muốn được đối xử trân trọng và trả lời cho họ. Hết phần tổng kết. Những sĩ quan Hoa Kỳ mô tả tình hình Đông Dương như sau: Tình hình đang bị phức tạp hơn do vấn đề lương thực, lại càng nặng hơn do việc quân đội Trung Quốc không mang thực phẩm theo với họ. Ước tính có khoảng 100 ngàn lính Trung Quốc hiện nay ở Đông Dương và họ đã lấy một lượng lớn lương thực ở Hải Phòng dùng để làm giảm sự khốn khổ [nạn đói]. Pháp đưa ra mong muốn chuyển vận gạo từ Saigòn ra để giao cho các đại lý gạo ở Hà Nội và Hải Phòng mang ra bán, đó là cách hay nhất để phân phối. Hồ Chí Minh sẳn sàng cho phép việc phân phối đó nhưng xem đó là một quà biếu của nhân dân Pháp chứ không phải của chính phủ Pháp. Lũ lụt đã tàn phá 50% mùa màng ở phía Bắc trong khi ở Saigon lượng thóc lúa lại dư thừa. Trung Quốc lại muốn nổ lực vận chuyển bằng đường bộ từ Saigon, dĩ nhiên sẽ rất chậm, tính như tình trạng giao thông hiện nay. Phía Việt Nam đáng kết án là đã quá đáng vì họ đã giết từ 20 đến 30 người Pháp, đàn bà và trẻ em, bị bắt giữ con tin ở Saigon, và đã bắt làm con tin nhiều người Pháp khác ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế và Vinh. Ở Hà Nội những đội [Tự Vệ] võ trang liên tục sục kiếm những nhà của người Pháp để kiếm vũ khí cất dấu và cảnh những người đàn ông Pháp bị bắt đứng dựa tường dưới sự canh giữ của những người Viêt võ trang, trong khi những người khác lùng sục trong nhà là những cảnh thường thấy. Người Mỹ rất được người Việt Nam yêu chuộng, họ [VN] làm tất cả các thứ để thuyết phục người Mỹ về chánh nghĩa của họ. Vẫn còn những chứng cớ hiển nhiên về tình cảm phò Vichy ở vùng Hà Nội, những người Pháp không bị bắt giữ như tù nhân ở thành phố sẽ bị nghi ngờ là có liên hệ với kháng chiến [Pháp]. Lý do mà đại diện Pháp, tướng Allesandri, thất bại trong việc đại diện cho Pháp trong buổi lễ chấp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Hà Nội là vì người Việt trưng tất cả những lá cờ các nước trong Liên Hiệp Quốc trừ lá cờ của Pháp tại nơi hành lễ. Phía Việt Nam từ chối treo cờ Pháp trên cơ sở là Pháp đã hợp tác với Nhật ở Đông Dương và Trung Quốc ủng hộ Việt Nam về chuyện này. Tình cảm chống Pháp được thể hiện qua những cuộc biểu tình khổng lồ thường xuyên xảy ra ở Hà Nội. Người Việt Nam chiếm tất cả các bin đinh hành chánh và các cơ sở công ích ở toàn vùng [Hà Nội]. Họ trương lên những bích chương và biểu ngữ khắp nơi trong thành phố, một vài chỗ đọc thấy “Hãy giết bọn Pháp” và một vài nơi bằng tiếng Anh cho con mắt người Mỹ thấy. Người Pháp có thể quay lại Đông Dương, dĩ nhiên, nhưng đó là một điều sai lầm trừ khi họ đã được sửa soạn vào lại với sức mạnh đầy đủ để đè bẹp kháng chiến Việt Nam trong một thời gian ngắn. Nếu người Pháp trở lại Việt Nam mà không có một lực lượng áp đảo và không có Không Quân yểm trợ đáng nể thì cuộc chiến sẽ đẫm máu và lâu dài. Người Việt chỉ có vũ khí nhẹ - sung tiểu liên, súng trường và lựu đạn ném tay và không thể chống cự với khí giới hạng nặng. Những vũ khí này do Hoa Kỳ và Nhật cung cấp cho họ; vũ khí Mỹ được giao cho họ để đánh Nhật trước khi Nhật đầu hàng. Những lộn xộn hiện này chỉ xảy ra chủ yếu là ở Hà Nội, Hải Phòng và Vinh – Huế, Saigon chừng mực nào đó khá hơn vì sự có mặt của một số lớn quân Anh. Lào và Cambodge hầu như không bị ảnh hưởng bởi Việt Nam. Lực lượng chiếm đóng Trung Hoa thì thận trọng và đôi khi, trong một số trường hợp, theo lời yêu cầu của người Mỹ, họ phải buộc người Việt Nam thả những người tù chính trị Pháp. Họ không cho Việt Nam vũ khí dù họ [VN] rất muốn có càng nhiều vũ khí càng tốt cho họ. Tuy thế, người Tàu đưa vào bù nhìn riêng của họ là Nguyễn Hải Thần là một thành viên của Liên Minh Cách Mạng Việt Nam, bảo trợ bởi Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Được biết là ông này đã lưu vong từ hai mươi lăm năm qua. Ông này cộng tác với phong trào độc lập nhưng không có ghế nào trong chính phủ. Đại Tá Nordlinger, nguồn của hầu hết các tin tức đương thời cho biết rằng ông sẽ tiến hành đi Washington sớm và sẽ gọi Bộ Ngoại Giao liên quan đến việc chuyển giao thư của Hồ Chí Minh gủi Bộ Ngoại Giao. Trân Trọng Ký tên, Philip D. Sprouse Lãnh Sự Hoa Ky Đính kèm: Thư của Hồ Chí Minh gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao ngày 22 tháng 10 năm 1945 Bản dịch lá thư do Hsiao Wen gửi tướng Cheng Chen ngày 22 tháng 10 năm 1945 Bản dịch lá thư của Hồ Chí Minh và Bảo Đại gửi Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch ngày 22 tháng 10 năm 1945 Bản gốc và bản in gửi Bộ Bản sao gửi Đại Sứ Quán, Trùng Khánh 800 PDSprouse/ pds |
CHÍNH PHỦ LÂM THỜI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA Hà Nội ngày 22 tháng 10 năm 1945 Bộ Trưởng Ngoại Giao [VN] Gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao [Hoa Kỳ], Washington, D.C. Thưa Ngài, Tình hình Việt Nam đã đạt một mức độ nguy hiểm, và đòi hỏi một sự can thiệp tức khắc từ phía Liên Hiệp Quốc. Tôi ước mong rằng thư này sẽ mang lại cho Ngài thêm một số ánh sáng trong ba tuần qua vào trong ánh sáng của Thế Giới. Trước tiên, tôi trân trọng gửi đến Chính Phủ của Ngài một số dữ kiện được ghi nhận, trong số đó có Tuyên Ngôn Độc Lập của chúng tôi, Sắc Lệnh Hoàng Triều của Cựu Hoàng Bảo Đại, tuyên bố của chính phủ chúng tôi về chính sách ngoại giao và một thông cáo xác định thái độ của chúng tôi về những sự cố ở Nam Kỳ. Như những tài liệu này sẽ trình bày cho Ngài, nhân dân Việt Nam từ mấy năm nay đã biết rằng những gì đã xảy ra sẽ tự nhiên đưa quốc gia Việt Nam vào tình trạng ngày hôm nay. Sau 80 năm bị Pháp đàn áp và nhiều cuộc kháng chiến thất bại mặc dù kiên cường, cuối cùng chúng tôi được thấy Pháp thua trận ở Âu Châu, tiếp theo là phản bội Đồng Minh để theo Đức và Nhật. Mặc dù có những trục trặc với Đồng Minh vào thời đó, người Việt Nam đã để qua một bên mọi bất đồng về chính trị, đoàn kết dưới Liên Đoàn Việt Minh và bắt đầu cuộc chiến đấu tàn nhẫn với người Nhật. Trong khi đó, Hiến Chương Đại Tây Dương đã được đúc kết, định ra mục tiêu của chiến tranh của Đồng Minh và đặt cơ sở để làm việc cho Hòa Bình. Những nguyên tắc cao quý của nền công lý và bình đẳng Thế Giới đã được đưa ra trong Bản Hiến Chương đó đã kêu gọi mạnh mẽ người Việt và đã góp phần là cho kháng chiến Việt Minh trong vùng chiến tranh thành một phong trào kháng Nhật trên toàn quốc, [việc này] đã thành một tiếng vang rất lớn cho nỗi khát khao Dân Chủ của nhân dân. Hiến Chương Đại Tây Dương đã được xem như cơ sở cho một Việt Nam trong tương lai. Một chương trình xây dựng quốc gia đã được phát thảo sau đó và thấy rằng nó phù hợp với Hiến Chương San Francisco và nó đã được thực hiện từ mấy năm nay: tiếp tục chiến đấu chống Nhật, giành lại Độc Lập ngày 19 tháng Tám, tự nguyện thoái vị của Cựu Hoàng Bảo Đại, phụ giúp Đồng Minh tước khí giới của người Nhật, bổ nhiệm một Chính Phủ Lâm Thời với nhiêm vụ thi hành Hiến Chương Đại Tây Dương và Hiến Chương San Francisco và giúp [việc thi hành các hiến chương này] được thực hiện bởi các quốc gia khác. Đứng trên thực tế, việc thi hành Hiến Chương Đại Tây Dương và Hiến Chương San Francisco bao hàm việc xóa bỏ chủ nghĩa Đế Quốc và mọi hình thức áp bức. Tiếc thay đây là những điều trái ngược cho một số người Pháp, và với nước Pháp họ đã che đậy sự thực về Đông Dương, thay vì đi vào những thương thuyết hòa bình họ đã đưa ra sự xâm lăng hung bạo với tất cả … [không đọc được] của một nước văn minh. Hơn nữa, thuyết phục đươc Anh quốc là người muốn người Pháp trở lại nắm quyền ở Việt Nam, họ đã được, trước nhất từ Bộ Chỉ Huy Anh ở Đông Nam Á, sau đó là Luân Đôn, một công nhận ngầm cho họ chịu trách nhiệm về chủ quyền và về hành chánh trên Việt Nam. Người Anh đã làm cho hiểu rằng họ đã thỏa thuận cho Pháp được tái lập chính quyền, kết quả là sẽ có một hợp tác Pháp-Việt sẽ đẩy mạnh việc giải ngũ và giải giới Nhật. Nhưng những biến cố sau đó đã chứng minh rằng đó chỉ là những lý lẽ đầy ngụy biên. Toàn thể nước Việt sẽ đứng lên muôn người như một chống lại xâm lược của Pháp. Những đợt bắn sẻ đầu tiên của Pháp được tung ra sáng sớm ngày 23 tháng Chín đã nhanh chóng trở thành một chiến tranh thực sự đã gây ra nhiều tổn thất nặng nề cho cả đôi bên. Việc đem vào tăng cường những toán lính Pháp quan trọng trên những tầu chiến mạnh nhất còn lại của họ đã mở rộng thêm vùng chiến tranh. Cuộc chiến tàn sát còn đang xảy ra ở Đông Dương [trong tài liệu họ viết là Nam Dương – Indonesia], nhiều hành vi dã man của người Pháp đã được ghi nhận mỗi ngày, chúng tôi chờ đợi sự bùng nổ của một xung đột lớn ở Viễn Đông. Vì vậy, tình hình Nam Kỳ đòi hỏi một sự can thiệp ngay tức khắc. Việc thành lập Ủy Ban Tham Vấn Vùng Viễn Đông được đón nhận với niềm vui ở đây như là một bước đi đầu tiên hiệu quả nhằm vào một giải pháp cân bằng cho những vấn đề còn tồn tại. Nhân Dân Việt Nam chỉ yêu cầu được hoàn toàn độc lập và được tôn trọng bằng sự thật và công bằng xin được đưa ra trước Ngài những khát khao sau đây: Sự cố xảy ra ở Nam Việt Nam phải được đưa ra ngay trong buổi bàn thảo đầu tiên của lập Ủy Ban Tham Vấn Vùng Viễn Đông Phái đoàn đại biểu của Việt Nam phải được chấp nhận để trình bày những quan điểm của Việt Nam Một Ủa Ban Điều Tra phải được gửi đến Nam Kỳ Độc Lập hoàn toàn của Việt Nam phải được Liên Hiệp Quốc công nhận. Nhân đây tôi xin gửi đến Ngài những lời chúc lành nhất của tôi. Trân trọng Chủ Tịch Hồ Chí Minh |
Đính kèm Sô. 2 vào thông tư số 3 Đề ngày 24 tháng 10, 1945 từ Côn Minh BẢN DỊCH Phân Bộ Những Vấn Đề Quốc Tế Quân Đoàn Tiền Phương Hà Nội ngày 22 tháng 10, 1945 Ngài Bộ Trưởng Chen Thưa Ngài Tôi vinh dự báo cáo rằng tất cả các viên chức và dân chúng trong nhiều đảng và phe nhóm ở Đông Dương đã nhất trí liên hiệp với nhau. Tôi đã được tiếp cận bởi Ông Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương và ông Yuan Yung-jui [Nguyễn Vĩnh Thụy] là Cựu Hoàng Pao Ta [Bảo Đại] của Việt Nam với yêu cầu sắp xếp cho họ bí mật đến Trùng Khánh để nhờ Ngài giới thiệu họ gặp Ngài Chủ Tịch Chiang [Tưởng Giới Thạch] và giúp họ một thông dịch viên. Với sự ưng thuận của Ngài, tôi trân trọng xin một chiếc máy bay được gửi đến Đông Dương để tôi có thể đi kèm với các ông Hồ và Nguyễn trên chuyến đi Trùng Khánh của họ. Kèm đây là những lá thư của các ông Hồ và Nguyễn. Xin Ngài cho những chỉ thị để hướng dẫn để tôi khởi sự. Tôi vinh dự được làm, thưa Ngài, kẻ phục vụ ngoan ngoãn của Ngài. Ký tên, Đóng dấu, HSIAO WEN |
Đính kèm Số. 2 vào thông tín số 3 Đề ngày 24 tháng 10, 1945 từ Côn Minh BẢN DỊCH Hà Nội ngày 22 tháng 10, 1945 Ngài Chủ Tịch Tưởng Giới Thạch Thông qua Bộ Trưởng Chen Thưa Ngài Tôi vinh dự thông báo rằng chúng tôi – Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương và Cố Vấn Cao Cấp Yuan Yung-jui [Cựu Hoàng Đế Bảo Đại] – ước mong đến Trùng Khánh để kính chào ngưỡng mộ Ngài và gặp Bộ Trưởng Chen. Nếu chuyện này được Ngài đồng ý, chúng tôi sẽ cám ơn Ngài đã chiếu cố trả lời cho chúng tôi. Tôi vinh dự được làm, thưa Ngài, kẻ phục vụ ngoan ngoãn của Ngài Ký tên, HỒ CHÍ MINH HSIAO WEN |
Điện tín này phải được ngày 23 Tháng 10, 1945 chú giải trước khi chuyền nhận lúc 12:48 AM ngày 24 cho bất cứ ai (MẬT) Bộ Ngoại Giao, Washington Số 1948, ngày 8 tháng 11, 6 p.m Cụ thể tiếp theo đây lá thư gửi Tổng Thống Truman bởi Hồ Chí Minh ký tên là “Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương”: lá thư đã được đưa cho Tướng Gallagher và được chuyển tiếp đến Sứ Quán [Hoa Kỳ] thông qua đường dây của Quân Đội (số 1820 của Sứ Quán ngày 18 Tháng 10 gửi Bộ Ngoại Giao đồng gửi Paris). Tôi mong muốn đưa ra đây những tin tức về tình hình Việt Nam: Khi Nhật vào Đông Dương tháng Chín nằm 1940 đến tháng 11 năm 1941, Pháp, theo Nghị Định Thư Tháng Bảy 1941 và hiệp ước quân sự bí mật ngày 8 tháng 12, 1941 đã chối bỏ chủ quyền [Việt Nam cho Nhật] và đã đứng vào thế chống lại Đồng Minh. Trước sự săn đuổi của Nhật ngày 9 Tháng 3, 1945 người Pháp hoặc chạy trốn hoặc đầu hàng cho Nhật trái với những gì đã ký kết trong những Hiệp Ước Tháng Ba 1874 và Tháng Sáu 1884, do đó hủy bỏ mọi ràng buộc về Pháp lý và hành chánh với nhân dân Đông Dương. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập ngày 19 tháng Tám, 1945 sau khi Độc Lập của toàn Nước đã giật lại từ tay Nhật. Sau khi Nhật đầu hàng, trong khi Chính Phủ Lâm Thời với đầy đủ khả năng của một Chính Phủ độc lập đang tiến hành chương trình xây dựng lại [Đất Nước] phù hợp với các Hiến Chương Đại Tây Dương và San Francisco, Pháp đã cố tình phớt lờ tất cả những hiệp ước Hòa Bình ký kết với Liên Hiệp Quốc khi Thế Chiến II chấm dứt , đã phản bội tấn công chúng tôi ở Saigon ngày 25 tháng 9 và chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (gửi Bộ Ngoại Gia cùng lúc gửi cho Paris) Nhân Dân Việt Nam mong muốn hợp tác với Liên Hiệp Quốc trong việc xây dựng lên một thế giới hòa bình lâu bền và, vì đã phải chịu quá nhiều đau khổ dưới sự thống trị trực tiếp của người Pháp và còn nhiều hơn nữa với sự đổi chác giữa Pháp và Nhật năm 1941, đã nhất quyết không cho phép người Pháp trở lại Đông Dương. Nếu quân đội Pháp vào, dù từ Trung Quốc nơi mà họ đã đến để chạy trốn người Nhật hay ở những nơi khác, đặt chân đến bất cứ nơi nào ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ chiến đấu chống họ trong bất cứ trường hợp nào. Vì lẽ đó, nếu xảy ra xáo trộn, đổ máu hay có xung đột lớn vì những lý do đã nêu ở đoạn (2) nổ ra ở Viễn Đông thì toàn bộ trách nhiệm phải gắn lên cho Pháp (hết phần nội dung của thư ) Một bức thư giống hệt đã được gửi cho Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạnh cùng đường dây của Quân Đội. Sứ Quán sẽ không gửi thư này cho Tổng Tư Lệnh trừ khi có yêu cầu của Bộ. |
(Xem tiếp kỳ 15
"...Pháp đã xâm lược một dân tộc yêu chuộng Hòa Bình là một đe dọa trực tiếp cho hòa bình thế giới. Nó cũng ám chỉ có sự đồng lõa hay hay ít nhất có sự bao che của các nước dân chủ lớn. Hoa Kỳ phải giữ lời hứa của mình..."
LTS: Đây là phần cuối của bản dịch "Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần 1: Hoa Kỳ và Việt Nam". Quý độc giả có thể tải toàn bộ tài liệuBiMatNguGiacDai Phan I về để tuy nghi
---- Hết Pentagone Papers Part I---
Nguyễn Quốc Vĩ dịch
|
-------