Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

“Bí Mật Ngũ Giác Đài" Phần I: Hoa Kỳ và Việt Nam 1940 - 1950” (Kỳ 1)

-Nguồn: 1,"...Vào đầu năm 1950, có hai việc, một là giải pháp Bảo Đại có vẻ mang lại kết quả và một là sự liên kết rõ ràng của Bắc Việt với Liên Xô và Cộng sản Trung Quốc khiến cho Mỹ can thiệp trực tiếp vào Việt Nam..."

Quý bạn đọc có thể tải toàn bộ tài liệu "Bi mật Ngũ Giác Đài" tại đường lên kết

"Bí mật ngũ giác đài - phần I: 1940-1950"
“Bí Mật N gũ Giác Đài Phần I: Hoa Kỳ và Việt Nam 1940 - 1950” (Kỳ 1)(Nguyễn Quốc Vĩ dịch)
 Lời tòa soạn:

Thông Luận vừa nhận bản dich tập tài liệu Pentagon Papers của một thân hữu và xin giới thiệu tập tài liệu này đến với bạn đọc trong 15 kỳ. Tài liệu được dịch ở đây xuất phát từ thư khố của chính phủ Hoa Kỳ (Pentagon Papers Part I, http://www.archives.gov/research/pentagon-papers/), và đã được chính quyền Hoa Kỳ chính thức giải mật và phát hành vào ngày 13 tháng 6 năm 2011. Tài liệu này xuất hiện lần đầu tiên trên tờ The New York Times do ông Daniel Ellsberg tiết lộ cho ký giả Neel Sheehan vào ngày 13 tháng 6 năm 1971. Và ấn bản đầu tiên của quyển sách dầy 678 trang này do nhà xuất bản Bantam Books phát hành vào tháng 7 năm 1971. Ông D.Ellsberg làm việc tại Ngũ Giác Đài từ tháng 8 năm 1964 dưới quyền chỉ huy của Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert McNamara. Sau khi mãn hạn làm việc tại Viêt nam, ông Ellsberg làm việc cho RAND và tại đây ông soạn thảo tập tài liệu mà ngày nay người ta gọi là Pentagon Papers. Ông suýt bị kết án khi phát tán tài liệu này vì tội làm gián điệp nhưng sau đó Tòa án bãi bỏ mọi tội trang vì FBI đã vi phạm luật khi nghe lén ông để tìm bằng chứng kết tội mà không có lệnh tòa án. Sinh mạng của ông Ellsberg cũng được treo giá, nhưng ông đã may mắn thoát hiểm. Tài liệu này đã gián tiếp khiến cho Hoa kỳ phải mau chóng chấm dứt sự can thiệp của họ tại Việt Nam.

Ông Daniel Ellsberg, 40 năm sau
Thư của người dịch
Tôi vừa dịch vừa đánh vật với tài liệu 270 trang “Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I” (Pentagon Papers Part I) suốt mấy tháng với sự giúp sức của ông Google và đã hoàn tất, khiêm tốn nhưng đủ cho tôi trả lời cho tôi về một giai đoạn của lịch sử đau thương của Dân Tộc. Suốt mấy mươi năm, sinh ra chiến tranh đã có, lớn lên vác súng đánh nhau như bao thế hệ khác mà vẫn không thể hiểu tại sao cho tường tận. “Tại sao lại có Việt Nam Quốc Gia, Việt Nam Cộng Sản và họ đã đánh nhau suốt hơn hai mươi năm, hàng triệu người chết, hàng chục ngàn gia đình ly tán?” một câu hỏi mà suốt mấy mươi năm với tôi vẫn chưa bao giờ có một lời giải thỏa đáng, dù là bé tí. Hai mươi bảy ngàn trang tài liệu được viết trong khoảng từ tháng 7/1967 đến tháng 2/1969 nghĩa là lúc chiến tranh ở miền Nam với sự tham dự của người Mỹ đang diễn ra sôi động… “Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I” chỉ là phần đầu.
Kết luận mà tôi rút ra cho tôi là đau khổ của Dân Tộc Việt Nam từ Thế Chiến II là do chủ nghĩa Thực Dân ăn sâu vào trong đầu dân Pháp sau hơn 80 năm đô hộ và bóc lột Việt Nam, vào thời điểm đó, kẻ thực dân đại diện là De Gaulle. Dù ông này là anh hùng của dân Pháp cũng không ngăn tôi gọi ông ta là tên thực dân đầu têu đã làm cho dân tộc tôi đau khổ bao nhiêu năm và sẽ còn tiếp tục đau khổ vì đưa đẩy của lịch sử đã tròng lên đầu các lãnh đạo hiện nay chiếc vòng Kim Cô chưa sao thoát đươc. Một kết luận nữa cho riêng tôi là, ít nhất những qua gì ghi lại trong “Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I” ông Hồ Chí Minh rất xứng đáng được coi là một lãnh tụ tuy cộng sản nhưng cực kỳ dân tộc chủ nghĩa, dành mọi tâm trí, thủ đoạn và ưu tiên cho Độc Lập của Việt Nam. Chỉ rất tiếc và rất đau, chính vì sự ngoan cố của Thực Dân chỉ muốn tiếp tục vai trò chủ nhân ông của Đất Nước cộng thêm với thế chính trị của Mỹ sau Thế Chiến là ưu tiên cho đồng minh của mình dù đồng minh ấy là thứ chủ nghĩa thực dân mà chính Mỹ cũng không muốn. Không ít hơn tám lần Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã liên lạc với Tổng Thống Mỹ Roosevelt và sau đó là Truman sẳn sàng hợp tác toàn diện với Mỹ và chỉ mong một điều mà Dân Tộc ta đã qua bao nhiêu lần vùng dậy mà không đạt được: Độc Lập. Mười ba liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng bị chém đầu, hai vì Vua yêu nước bị đi đày… nỗi đau dân tộc quá lớn, khát khao Độc Lập quá lớn. Ông Hồ Chí Minh, với kinh nghiệm sống, đã sống và chứng nghiệm thực tiển cuộc sống ở các quốc gia hàng đầu của Tư Bản lẫn Cộng Sản chắc chắn đã thấy Cộng Sản không thể nào thích hợp cho Việt Nam. Mọi bước đi chính trị của ông đều theo hướng đó: Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp hay ít nhất là được hưởng chế độ giám hộ (ủy trị) do Mỹ chịu trách nhiệm như trường hợp của Phi Luật Tân. Nhưng than ôi, thực dân nào chịu nhả thuộc địa béo bở của mình, Mỹ lấn cấn thế đồng minh với Pháp, ưu tiên ngăn làn sóng đỏ ở Âu Châu đành cho cuộc đời đưa đẩy theo bước chân của Pháp… Vừa lúc Trung Hoa Cộng Sản đánh bại Trung Hoa Quốc Gia năm 1949, ông Hồ đành phải ngã vào vòng tay của người anh em cộng sản Tàu và Liên sô, chủ yếu là Tàu Mao để nhận vũ khí đạn dược và các phương tiện chiến tranh làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng chấm dứt chế độ Thực Dân ở Đông dương và kích động cuộc khởi nghĩa vũ trang chống thực dân Pháp ở Algerie… Vì nhận nên phải mang nợ, mang nợ nên phải “nghe lời”, nghe lời rồi rập khuông từ chính sách đến quần áo, điệu nhảy, lời hát; nghe lời nên đã sinh ra 6 đợt Cải Cách Ruộng Đất Kinh Hoàng mà dư chấn đầu tiên là cả triệu người bỏ quê hương mồ mã tổ tiên để đi vào Nam. Rồi đến khi “hết nghe lời”, mười năm biên giới chiến chinh làm bài tập xương máu để trả bài học cho “người anh” cộng sản.
Phải chi, “Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I” cũng đã nhiều lần “phải chi”, ngay sau khi Thế Chiến II chấm dứt, người Pháp chấp nhận đề nghị của Hồ Chí Minh là Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp như người Anh đã trả Độc Lập cho Ấn Độ và giữ họ trong Khối Thịnh Vượng Chung, thì có lẽ, nếu có chiến tranh xảy ra là một thứ chiến tranh giữa quốc gia với quốc gia (Tàu Cộng với Đồng Minh hay Liên Hiệp Pháp trong đó có Việt Nam). Người Mỹ đã biết rất rõ Hồ Chí Minh và Việt Minh là ai và họ cũng đã tính nếu Việt Nam thành cộng sản thì cũng là thứ Cộng Sản yêu nước dân tộc chủ nghĩa độc lập với đàn anh Tàu Cộng tương tự như Tito của Nam Tư cộng sản đối với đàn anh Liên sô … Và họ sẳn sàng chấp nhận như thế vì cái mà họ muốn là ngăn chận làn sóng cộng sản từ Tàu tràn xuống phía Nam. Ngày nay họ vẫn tiếp tục chính sách ngăn chận, lần này không phải cộng sản mà Tàu là chính …
Không trách được vì sao nên cớ sự (Ông Hồ ngả về khối Cộng Sản), vì cớ sự khởi đầu là do Thực Dân không muốn cho ta Độc Lập, nhưng rồi cũng vỡ đầu bêu trán ở Điện Biên Phủ chạy đi, nhưng để lại cái thế Quốc, Cộng làm dân tôi thêm hai mươi năm nội chiến từng ngày, chịu bao nhiêu là đau khổ mất mát …
Qua “Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I” tôi còn được thấy thêm phe người Việt “quốc gia” với cái muốn thật to nhưng cái tài không lớn. Cái này người Mỹ nói chứ không phải tôi.
Khi bỏ công dịch, tôi mong ba chuyện:
Một, cho tôi cái nhìn khách quan qua các chứng cớ lịch sử mà “Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I” là một “thứ thiệt” không chịu mấy màn che của hỉ nộ ái ố, của kẻ mù rờ chân voi.
Hai, để đồng bào tôi thấy sự thực là dân tộc ta, nhược tiểu yếu kém về mọi phương diện trừ tình yêu Tổ Quốc vĩ đại, phải chịu thân phận con chốt cho các cường quốc trong bàn cờ chia chác tài nguyên, thị trường.
Ba, lãnh đạo Việt Nam đọc để thấy chuyện đời là một màn chơi với những quy luật và thế trận của nó, tiếp tục lấy Tổ Quốc làm trọng vì đó là cái tinh túy nhất của những người làm và đi theo cách mạng chỉ mưu cầu cho độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc. Họ cần phải thấy “không ai mãi mãi là bạn, không ai mãi mãi là thù”, phải thấy nước nào cũng xem quyền lợi của nước họ là tối thượng mà bỏ qua trong trong tâm trí mấy chữ “anh em” và càng cảnh giác hơn nữa với những danh từ hoa mỹ.
Sau khi dịch và hiểu “Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I”, tôi sẳn sàng gọi ông Hồ Chí Minh là Bác với tất cả kính trọng và thương mến, ít nhất là trong khung thời gian mà “Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I” 1940-1950 đã đề cập đến.
“Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần II” nói về chiến tranh Việt Pháp 1950-54 là cố gắng sắp đến của tôi
Ghi chú thêm: trong tài liệu chữ “nationalist” được dùng rất nhiều nhưng chưa có nghĩa Quốc Gia trong nghĩa Quốc Gia đánh nhau với Cộng Sản như trong chiến tranh ở Miền Nam sau này. Như phong trào Việt Minh là “quốc gia” gồm cả phe Cộng Sản lẫn quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt v.v… chữ “nationalist” ở đây được hiểu là “dân tộc chủ nghĩa”. Cho nên xin quí vị độc giả lưu ý chỗ này.
Paris, tháng Mười, đầu Thu 2011
Nguyễn Quốc Vĩ

Phần I: Việt Nam và Hoa Kỳ, 1940-1950

A. Chính sách của Mỹ, 1940-1950
B. Các nhân vật và sức mạnh của Việt Minh
C. Hồ Chí Minh: một Tito của Á Châu?

Phần I
Việt Nam và Mỹ
1940 - 1950
Lời mở đầu
Phần nghiên cứu này nói về chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong hai thập kỷ (1940-50) của Thế Chiến II và hậu quả của nó. Nó được chia thành ba mục. Mục A mô tả chính sách của Mỹ đối với Đông Dương, và cuộc chiến đang xảy ra giữa Pháp và Việt Minh theo cách nhìn của Washington. Mục B phân tích tính chất và sức mạnh của Việt Minh cũng như xem xét vai trò của Cộng Sản Việt Nam trong Việt Minh. Phần C thảo luận về cơ đồ chính trị của Hồ Chí Minh hầu đánh giá tiềm năng cho một thế đứng trung lập trong cuộc xung đột Đông – Tây. Mỗi chuyên khảo được hỗ trợ bởi các bản đồ và biểu đồ dưới đây..
Mục A. Chính sách của Mỹ, 1940-1950
Mục B. Các nhân vật và sức mạnh của Việt Minh
Mục C. Hồ Chí Minh: một Tito của Á Châu?
Bản đồ và Biểu đồ (Xem “tabs” mầu xanh)
Nam Kỳ, An Nam, Bắc Kỳ
Quan hệ Pháp-Việt Nam
Quốc Dân Đảng Việt Nam
Đảng Cộng Sản, 1921-1931
Đảng Cộng sản, 1931-1945
Chính trị ở miền Bắc Việt Nam năm 1945
Những chính phủ Việt Nam, 1945-1949
Những phong trào chính trị ở Việt Nam, 1947-1950
Mức độ kiểm soát của Việt Minh, năm 1949
Hồ Chí Minh theo trình tự thời gian
Nam Kỳ, An Nam, Bắc Kỳ


1.A Giải mật theo Sắc Lệnh Chính Phủ số 13526, Phần 3.3 NND số dự án: NND 63316. Bởi: NWD ngày: 2011

TOP SECRET – Tối Mật

Chính sách Mỹ, 1940-1950
Tóm Lược
Đã có những sai lầm đáng kể trong chính sách của Mỹ đối với Đông Dương trong thập niên Thế Chiến II và những hậu quả gây nên bởi chúng. Một số sử gia đã ghi nhận rằng chính việc chống chủ nghĩa thực dân đã điều khiển các chính sách và hành động của Mỹ cho đến năm 1950, khi việc ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trở thành chủ đạo.
Ví dụ, Bernard Fall (trong cuốn sách phát hành năm 1967, sau khi ông qua đời mang tựa “Những suy ngẫm cuối cho một cuộc chiến” - Last Reflections on a War, ông phân loại chính sách của Mỹ đối với Đông Dương gồm sáu giai đoạn: "(1) Chống-Vichy, 1940-1945; (2) Ủng hộ-Việt Minh, 1945-1946; (3) không can thiệp từ 1946 đến tháng 6 năm 1950; (4) Ủng hộ Pháp, 1950 - Tháng 7 năm 1954; (5) can thiệp dân sự: 1954 - tháng 11 năm 1961; (6) can thiệp trực tiếp và toàn diện 1961. Bình luận rằng “bốn giai đoạn đầu tiên là những giai đoạn mà ít người kể cả những chuyên gia biết đến”, Fall còn đưa ra luận thuyết rằng Tổng thống Roosevelt đã xác định là “phải loại bỏ người Pháp khỏi Đông Dương bằng mọi giá” và đã làm áp lực trên Đồng Minh ủy thác việc quản trị Đông Dương cho một tổ chức Quốc Tế cho đến khi các quốc gia ở đó (Việt, Miên, Lào) sẳn sàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về nền Độc Lập của mình.
Thái độ chống Thực Dân một cách ngoan cố này, theo ông Fall, là đã đưa đến việc lạnh nhạt từ chối giúp đỡ phe kháng chiến Việt Nam chống Pháp và [từ chối] một đường lối nhằm nâng đỡ Hồ Chí Minh và Việt Minh như là một giải pháp để thay thế cho việc tái lập gông cùm của Pháp. Tuy nhiên, trong khi những lý lẽ đang diễn biến thì Roosevelt qua đời, và ý chính đó trở nên mờ nhạt; vào cuối năm 1946, ý đồ chống chủ nghĩa Thực Dân đã đột biến thành toan tính trung lập hóa Đông Dương. Theo Fall, có thể “đây là một chính sách có chủ ý và ngược lại cũng có thể vì sự thiếu vắng một chính sách rõ ràng về Đông Dương vào lúc đó. Việc này quả thật không rõ lắm. Hoa Kỳ, bận tâm về châu Âu, đã ngưng không coi Đông Dương là một yếu tố ngoại giao cho đến khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ”. Năm 1950, đường lối chống cộng sản đã được khẳng định, và nó như một cú trở mặt xoay chiều đáng lưu ý. Hoa Kỳ tung những nguồn lực kinh tế và quân sự vào giúp Pháp trong cuộc chiến chống lại Việt Minh – Nhiều nhà bình luận, nổi bật trong số đó là các sử gia Việt Minh - đã mô tả chính sách của Mỹ là liên tục dung túng và trợ giúp Pháp tái lập nền đô hộ của họ tại Đông Dương đồng thời bất chấp nguyện vọng của dân tộc Việt Nam.
Chẳng có ý kiến nào trên đây thật sự chính xác với tài liệu ghi chép: [đơn thuần] là Hoa Kỳ rất ít quan tâm đến Đông Dương, ít có chủ tâm hơn là giả sử như thế. Tính bất nhất chính là đặc trưng của Hoa Kỳ về đường lối trong Thế Chiến II và đó là nguồn gốc của nhiều sự hiểu lầm tiếp theo sau đó. Một mặt người Mỹ đã nhiều lần lập đi lập lại với Pháp là tài sản của họ (ở ĐD) sau chiến tranh sẽ được trao trả lại cho họ. Một mặt khác Hoa Kỳ lại công khai ủng hộ Hiến Chương Đại Tây Dương về quyền Dân Tộc Tự Quyết và cá nhân TT Roosevelt đã cực lực cỗ võ cho một Đông Dương độc lập. TT Roosevelt đã xem Đông Dương là một thí dụ rõ ràng nhất là phải thay thế cái chủ nghĩa Thực Dân xấu xa bằng một Cơ Quan quốc tế được ủy nhiệm để quản lý, thay vì giao nó lại cho Pháp. TT Roosevelt đã thảo luận đề nghị trên với Đồng Minh ở Cairo, Teheran, ở Hội Nghị Yalta và đã được sự đồng ý của Tưởng Giới Thạch và Stalin; Thủ Tướng Churchill thì còn do dự.
Tại một thời điểm, theo nghiên cứu của Fall, Tổng Thống đã đề nghị với tướng De Gaulle là hãy nhờ những cố vấn người Phi Luật Tân giúp Pháp xây dựng một chính sách "tiến bộ hơn ở Đông Dương "- Tướng De Gaulle nghe đề nghị và "im lặng trầm ngâm" tiếp theo đó.
Cuối cùng, chính sách của Mỹ không được dẫn dắt bởi các nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương, cũng không phải quyết sách chống chủ nghĩa thực dân của Tổng thống, nhưng lại do mệnh lệnh của chiến lược quân sự, và thái độ cố chấp của người Anh trên vấn đề thuộc địa. Hoa Kỳ, vì đang tập trung lực lượng của mình trong cuộc chiến với Nhật, nên phải chấp nhận vai trò chủ đạo của quân đội Anh ở Đông Nam Á, chia Đông Dương làm hai tại vĩ tuyến 16 mục đích để người Anh (phía Nam) và người Trung Hoa (phía Bắc) chiếm đóng. Bộ Tư Lệnh Mỹ phối hợp với Anh và Trung Hoa, họ được lệnh tránh gây cái nhìn lẫn lộn là đứng chung phe với Pháp, nhưng đồng thời lại cho phép tiến hành các hoạt động ở Đông Dương trong các chiến dịch đánh Nhật. Xuất phát từ đường lối của TT Roosevelt, Hoa Kỳ đã cung cấp một số viện trợ khiêm tốn cho Pháp và cả Việt Minh - lực lượng kháng chiến ở Việt Nam sau tháng ba năm 1945, nhưng từ chối cung cấp phương tiện chuyển vận cho quân đội Pháp “tự do” [để phân biệt với chính quyền Vichy theo Đức ở Pháp]. Bị cả Anh và Pháp ép phải làm rõ ý định của Mỹ liên quan đến chính trị của Đông Dương, F.D.R. đã bảo lưu ý kiến và cho rằng "đó là vấn đề sau chiến tranh."
Khái niệm về ủy thác (trusteeship) của Tổng thống thành hình sớm khoảng tháng Ba năm 1943, khi Mỹ phát hiện ra rằng người Anh lo ngại chính sách về Khối Thịnh Vượng Chung [Commonwealth] của họ có thể bị ảnh hưởng, nên đã không muốn tham gia trong bất kỳ tuyên bố nào trên “trusteeships”, và thay vào đó đã coi mọi tuyên bố ủng hộ độc lập dân tộc là vượt quá lời lẽ mơ hồ của Hiến chương Đại Tây Dương là "(i)tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc để lựa chọn hình thức của chính phủ theo đó họ sẽ sống(i)”. Vấn đê quá nhạy cảm đến nỗi người Anh, trong Hội Nghị Dumbarton Oaks năm 1944 nhằm đàm phán các kế hoạch chi tiết cho các nước trên Thế Giới sau chiến tranh, đã luồn lách trong vấn đề thuộc địa, và đồng thời tránh được chuyện “ủy thác”. Vào những lúc chính phải làm quyết định, những lúc mà Tổng thống đã có thể có ảnh hưởng đến quá trình các sự việc liên quan đến sự ủy nhiệm – trong quan hệ với Anh, trong khung của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, trong việc chỉ đạo các chỉ huy Đồng Minh – nhưng ông đã tránh không làm như vậy; vì thế, mặc dù trên đầu lưỡi là ủng hộ chuyện ủy thác và chống chủ nghĩa thực dân, trong thực tế TT Roosevelt đã đưa Đông Dương vào một tình trạng tương xứng với Myanmar, Malaysia, Singapore và Indonesia là những vùng đất bỏ hoang được tự do chinh phục và giao hoàn lại cho kẻ đã chinh phục nó trước đây. Chính sách “không can thiệp” vào Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận sự trở lại Pháp. Vào ngày 03 tháng Tư năm 1945, được Tổng thống Roosevelt phê duyệt, Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ Stettinius ban hành một tuyên bố, như là kết quả của cuộc đàm phán Yalta [Pháp không được mời], Mỹ sẽ xem xét việc ủy thác chỉ sau chiến tranh [chấm dứt] trên những "vùng lãnh thổ lấy lại từ kẻ thù," và những "vùng lãnh thổ có thể tự nguyện được đặt dưới sự ủy thác".
Theo nội dung bản Tuyên Bố, và theo những văn bản giải thích tiếp theo của Bộ Ngoại Giao Mỹ, Đông Dương rơi vào loại thứ hai này. Mang tư cách bị “ủy thác”, Đông Dương sau đó đã trở thành một việc do Pháp quyết định.
Một thời gian ngắn sau khi Tổng thống Truman nhậm chức. Hoa Kỳ đảm bảo với Pháp là sẽ không bao giờ đặt câu hỏi "thậm chí chỉ là ám chỉ” đến chủ quyền của Pháp tại Đông Dương. “(italique)Chính sách của Hoa Kỳ là thúc đẩy Pháp thực hiện những đường lối tiến bộ với các nước Đông Dương nhưng chờ đợi việc Pháp định rõ khi nào thì các nước đó sẳn sàng thành những nước Độc Lập. Quyết định đó phải được minh định trước khi sự ủy nhiệm quản lý Đông Dương được hình thành, và với sự đồng ý của Chính phủ Pháp(italique)". Những hướng dẫn này được thành lập vào tháng Sáu 1945 - trước khi chiến tranh kết thúc – trở thành nét cơ bản cho các chính sách của Mỹ về sau này.
Với hổ trợ của Anh, lực lượng quân sự Pháp đã tái chiếm miền Nam Việt Nam vào tháng Chín năm 1945. Hoa Kỳ bày tỏ thất vọng về việc chiến tranh du kích đã bùng nổ sau đó trong khi đó vẫn không có ý định phản đối việc tái chiếm của Pháp. "(italique)chính sách của chính phủ này là không hỗ trợ người Pháp chiếm lại Đông Dương bằng vũ lực và mong muốn của Hoa Kỳ là thấy việc tái lập của Pháp sẽ được thành hình trên cơ sở như Pháp đã tuyên bố là có sự đồng ý của nhân dân các nước Đông Dương trong những chuyễn biến tương lai(italique)”. Hoa Kỳ, suốt mùa Thu và mùa Đông năm 1945-46, đã nhiều lần nhận được yêu cầu của Hồ Chí Minh gửi đến, muốn Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam nhưng theo tài liệu ghi lại, Hoa Kỳ đã không có một trả lời nào. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã dứt khoát từ chối việc hổ trợ quân đội Pháp, thí dụ như cấm các tầu treo cờ Hoa kỳ được xử dụng vào việc chuyên chở quân lính và khí cụ chiến tranh đến Việt Nam. Ngày 6 tháng 3, 1946 Pháp và Hồ Chí Minh ký kết một Hiệp ước cho phép Pháp được vào miền Bắc Việt Nam, đổi lại Pháp công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia độc lập nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Đến tháng 6 năm 1946, việc chiếm đóng Việt Nam bởi các nước Đồng Minh chính thức chấm dứt, và Hoa Kỳ đã công nhận với Pháp rằng tất cả Đông Dương đã trở lại trong vòng kiểm soát của Pháp. Từ đó trở đi, các chính sách của Hoa Kỳ trên mọi vấn đề với Việt Nam đã được xử lý trong bối cảnh mối quan hệ của Hoa Kỳ với Pháp. (Tab 1)
Vào cuối năm 1946, chiến tranh Pháp-Việt Minh đã bắt đầu một cách nghiêm trọng. Một biểu đồ (trang A37 ff) tóm lược các biến cố chính liên quan tới Pháp và Việt Nam trong những năm 1946-1949, trình bày lại diễn tiến các sự kiện quan trọng suốt con đường mà Pháp, một mặt, không đạt được bất kỳ thỏa thuận nào lâu dài với Hồ Chí Minh, và, mặt khác, xây dựng con bài "Bảo Đại” như một giải pháp thay thế. Trong những năm này Hoa Kỳ tiếp tục coi cuộc xung đột cơ bản vẫn là một vấn đề do Pháp phải giải quyết. Hoa Kỳ, thông qua những người đại diện của họ tại Pháp than phiền về triển vọng của một cuộc chiến tranh kéo dài, và kêu gọi Pháp nên có những nhượng bộ có ý nghĩa đối với dân Việt. Tuy nhiên, Hoa Kỳ, bị cản trở bởi quá trình Cộng Sản của Hồ Chí Minh, luôn từ chối ủng hộ Hồ Chí Minh hoặc Việt Minh. Do đó, chính sách của Mỹ bị xoáy vòng vào giải pháp Bảo Đại của Pháp. Không có lúc nào [cho thấy] Hoa Kỳ đã sửa soạn một chính sách can thiệp trực tiếp một cách công khai. Làm như vậy sẽ có đụng chạm với Anh vì quan điểm của nước này cho Đông Dương là độc quyền của Pháp, và là tiếp tay cho những đảng phái chính trị cực đoan của Pháp cả cánh tả lẫn cánh hữu. Hoa Kỳ đặc biệt e ngại rằng nếu can thiệp [vào Đông Dương] sẽ tăng cường vị trí chính trị của Cộng sản Pháp. Hơn nữa, vào những năm 1946, 1947 Pháp và Anh chuyển hướng thành một liên minh chống Liên Sô ở Âu Châu và Hoa Kỳ ngần ngại thực hiện một đường lối mà tiềm năng là gây chia rẽ [liên minh này]. Hoa Kỳ coi số phận Đông Dương là rất nhẹ so với việc phục hồi tái thiết nền kinh tế của châu Âu và an ninh chung trước nguy cơ bị Cộng Sản thống trị.
Cũng không phải như đã nghĩ là Hoa Kỳ không sẵn sàng hành động trong những trường hợp như thế. Thí dụ, trong vụ tranh chấp 1945-1946 trên thuộc địa của Hà Lan (Dutch) ở Indonesia, Mỹ đã tích cực can thiệp chống lại đồng minh Hà Lan của mình. Tuy nhiên trong trường hợp này sự can thiệp được phối hợp chung với Vương quốc Anh ( họ kiên định từ chối một hành động tương tự ở Đông Dương ) và chống lại Hà Lan (Netherland), một đồng minh ở Âu Châu kém quan trọng hơn so với Pháp. Một phe nhóm lớn hơn [làm bạn với Indonesia hơn là với Hà Lan] và vớichi phí dự kiến thấp hơn, [ở đây] Mỹ có thể và đã chứng tỏ quyết tâm hành động chống lại chủ nghĩa thực dân.
Kết quả là chính sách của Hoa Kỳ thường được đánh đậm với hai chữ “Trung Lập”. Tuy vậy, nó cũng phù hợp với chính sách trì hoãn của Pháp theo ý muốn công bố bởi Bộ Trưởng Ngoại Giao thời Tổng thống Roosevelt vài ngày 3 tháng 4 1945. Đó là một chính sách nặng tính do dự như từng đã xảy ra trong những thời chiến tranh của Mỹ. Hơn nữa, vào thời điểm đó, dưới mắt nhiều người Đông Dương là một trong những khu vực trên thế giới sau chiến tranh có những xáo trộn mà Hoa Kỳ có thể tận hưởng sự yên bình khi tránh xa chúng.
Tháng hai 1947, khởi đầu cuộc chiến (Đông Dương), Đại sứ Hoa Kỳ tại Paris được chỉ thị phải trấn an Thủ Tướng Pháp Ramadier “những tình cảm thân thiện nhất” dành cho Pháp và quan tâm của Hoa Kỳ trong việc hỗ trợ Pháp khôi phục lại sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự.
"Mặc dù có thể phát sinh bất kỳ hiểu lầm nào trong trong tâm trí của người Pháp về thế đứng của chúng tôi trong vấn đề Đông Dương, họ phải đánh giá cao rằng chúng tôi có đã công nhận là Pháp có chủ quyền hoàn toàn trong khu vực đó và chúng tôi không mong muốn xuất hiện những gì được xem là nỗ lực phá hoại vị trí đó của Pháp và Pháp cũng nên biết mong muốn của chúng tôi là có ích cho Pháp và chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ bất kỳ con đường nào mà chúng ta thấy thích hợp để tìm ra giải pháp cho vấn đề Đông Dương. Đồng thời chúng tôi không thể nhắm mắt làm ngơ thực tế là có hai mặt của vấn đề này và các báo cáo của chúng tôi cho thấy một là sự thiếu hiểu biết của Pháp về phía bên kia (ở Sài Gòn hơn ở Paris) và hai là cái nguy hiểm của sự tồn tại của một chế độ thuộc địa và các phương pháp đã lỗi thời của nó trong khu vực. Hơn nữa, cũng không có lối thoát cho một thực tế rằng xu hướng thời đại đang xảy ra là chủ nghĩa Thực Dân như trong thế kỷ XIX đang nhanh chóng trở thành chuyện của quá khứ. Hành động của Anh ở Ấn Độ và Miến Điện và Hà Lan ở Indonesia là những ví dụ nổi bật của khuynh hướng này và Pháp tự than cũng đã thể hiện rõ điều này cả trong Hiến Pháp và cả trong các hiệp định với Việt Nam. Mặt khác, chúng ta cũng không mất cái nhìn thực tế rằng Hồ Chí Minh đã trực tiếp gia nhập Cộng sản và đương nhiên chúng ta không muốn nhìn thấy chính quyền đế quốc thực dân được thay thế bằng những lý thuyết và các tổ chức chính trị sinh ra và kiểm soát bởi điện Kremlin...
Thành thật mà nói, chúng tôi không có giải pháp cho vấn đề để đề nghị [với Pháp]. Vấn đề cơ bản là hai bên phải tự giải quyết với nhau và qua các báo cáo của bạn [Pháp] và của những người Đông Dương, chúng tôi cảm thấy rằng cả hai bên đã cố gắng để giữ cho cánh cửa mở rộng để giải quyết các vấn đề một cách nào đó. Chúng tôi đánh giá sự kiện là Việt Nam bắt đầu cuộc chiến hiện nay ở Đông Dương vào ngày 19 và hành động này quả đã gây khó khăn hơn cho Pháp để thông qua một chính sách cởi mở và hoà giải. Tuy nhiên chúng tôi hy vọng rằng Pháp sẽ cố gắng bằng mọi cách cởi mở hơn để tìm ra một giải pháp. "
Hoa Kỳ lo ngại khi thấy Pháp lừng khừng tiến hành giải pháp Bảo Đại lúc thế này lúc thế kia, đòi hỏi Pháp phải triển khai những thỏa thuận liên tiếp với ông này [Bảo Đại] thành một giải pháp hiệu quả để thay thế Hồ Chí Minh và Việt Minh. Càng ngày Hoa Kỳ càng cảm thấy Pháp không muốn nhượng những quyền lực chính trị cho phiá Việt Nam và việc này sẽ đưa đến chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh, từ đó sẽ biến thành cuộc chiến với Đế Quốc Liên Xô. Các nhà ngoại giao Mỹ được chỉ thị phải ”thuyết phục và/ hay áp lực có tính toán một cách tốt nhất để Pháp nhanh chóng công nhận nguyên tắc một nước Việt Nam độc lập”. Pháp cũng được thông báo là Hoa Kỳ sẽ viện trợ tài chánh cho một chính phủ không phải là bù nhìn cho Pháp, “nhưng [Hoa Kỳ] sẽ không tiến hành thay đổi chính sách đang có trừ khi có những tiến bộ thực sự nhằm đến việc thành lập một chính phủ không Cộng Sản căn cứ trên sự hợp tác của phe Quốc Gia của nước đó [Việt]”
Năm 1948, tuy nhiên, Mỹ vẫn không chắc chắn rằng Hồ và Việt Minh đã liên minh với điện Kremlin. Bộ Ngoại Giao thẩm định Hồ Chí Minh trong tháng 7 năm 1948, chỉ ra rằng:
”Tin từ Bộ Ngoại Giao chỉ ra rằng Hồ Chí Minh là Cộng sản. Lý lịch nổi tiếng và lâu năm của ông trong cộng sản Quốc tế ở độ tuổi hai mươi và ba mươi, là được liên tục hỗ trợ bởi Cộng Sản Pháp qua báo Nhân Đạo kể từ năm 1945, bởi lời khen ngợi cho ông của Đài phát thanh Moscow (trong sáu tháng qua đài này đã dành mọi cố gắng để đánh động sự quan tâm ngày càng tăng đến Đông Dương) và thực tế ông ta đã được gọi là "cộng sản hàng đầu" trong những ấn phẩm gần đây của Nga cũng như tờ “Lao Động Hàng Ngày” trong bất kỳ kết luận nào khác đều đã như thể lấy ước muốn làm sự thực.
“Bộ Ngoại Giao không có bằng chứng nào về sự liên hệ trực tiếp giữa Hồ Chí Minh và Moscow ", nhưng vẫn tin rằng nó hiện hữu, Bộ cũng không thể đánh giá mức độ ảnh hưởng hay vai trò chỉ đạo mà Moscow đang áp đặt lên Hồ. Chúng tôi có cảm tưởng là Hồ đã được dành cho hay đang giữ một vai trò với một biên độ rộng lớn. Bộ cho rằng khi thực hiện những mục tiêu ngắn hạn ở Đông Dương, Liên Xô đã (a) kềm chân được một số lượng lớn quân đội Pháp, (b) gây tiêu hao nhanh chóng cho nền kinh tế Pháp do đó có xu hướng làm chậm sự phục hồi và làm tiêu tan hỗ trợ ECA cho Pháp, và (c) phủ nhận với Thế Giới về ý tưởng thường cho rằng sự sung túc dư thừa của Đông Dương là sẵn có, từ đó duy trì những điều kiện của rối loạn và thiếu thốn thuận lợi cho cộng sản bành trướng. Hơn nữa, Hồ dường như hoàn toàn có khả năng duy trì và nắm giữ Đông Dương mà không cần có hỗ trợ từ bên ngoài bằng cách tiếp tục áp lực lên các chính quyền bù nhìn cho Pháp ".
Vào mùa thu của 1948, Sở Nghiên Cứu Tình Báo của Bộ Ngoại Giao đã tiến hành một cuộc khảo sát về ảnh hưởng của cộng sản ở Đông Nam Á và đã có bằng chứng là âm mưu đạo diễn của Kremlin đã được tìm thấy trong hầu như tất cả các nước ngoại trừ Việt Nam:
"Kể từ ngày 19 -12-1946, đã có những cuộc đụng độ liên tục giữa các lực lượng Pháp và chính phủ dân tộc của Việt Nam. Chính phủ này là một liên minh trong đó những người cộng sản nắm giữ các chức vụ quan trọng. Mặc dù Pháp thừa nhận ảnh hưởng của chính phủ này nhưng họ có nhất quyết không đối thoại với người đứng đầu là Hồ Chí Minh, với lý do ông này là một người cộng sản.
"Cho đến nay, báo đài Việt Nam không tỏ ra chống Hoa Kỳ. Trong khi ấy báo chí Pháp ở các thuộc địa lại quay ra chống Mỹ một cách mạnh mẽ, và thoải mái tố Hoa Kỳ là đế quốc ở Đông Dương tới mức tưởng chừng như Mỹ được xếp hạng cùng tần số với Moscow. Mặc dù truyền thông Việt Nam theo dõi chặc chẽ thái độ của Hoa Kỳ nhưng cho đến nay vẫn chưa có gì thay đổi. Cũng không thấy có sự rạn nứt trong chính phủ liên hiệp [mặt trận Việt Minh] của Việt Nam …
"Đánh giá. Nếu Moscow có âm mưu can thiệp vào khu vực Đông Nam Á thì tình hình ở Đông Dương là một sự bất thường cho đến nay. Có thể giải thích là:
1.Không có chỉ thị cứng nhắc được ban hành bởi Moscow
2.Chính phủ Việt Nam cho rằng nó không có thành phần thuộc cánh Hữu cần phải được thanh lọc.
3.Cộng Sản Việt Nam không có lợi ích gì để theo đuổi các chính sách đối ngoại của Moscow.
4.Một sự miễn trừ đặc biệt nào đó đã được Moscow dành cho chính phủ Việt Nam
"Trong số này, những khả năng đầu tiên và thứ tư dường như rất có thể."
(xem Tab 2).
Sự sụp đổ của chính phủ Trung Hoa Quốc Gia trong năm 1949 đã đào sâu thêm những lo âu của Hoa Kỳ về viễn ảnh bành trướng của Cộng Sản trong vùng Viễn Đông, và Hoa Kỳ đẩy nhanh các biện pháp để chống lại mối đe dọa gây ra bởi Mao ở Trung Quốc.
Hoa Kỳ tìm cách xây dựng và xử dụng các công cụ về chính sách tương tự như những gì đã được đưa ra để chống Liên Xô ở Âu Châu: tổ chức an ninh chung, viện trợ kinh tế và hổ trợ quân sự. Thí dụ như Quốc Hội trong đoạn văn mở đầu của Đạo Luật được thông qua vào năm 1949 liên quan đến chương trình đầu tiên về viện trợ quân sự đã ghi rằng để “tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập các quốc gia tự do và các dân tộc tự do trong một định chế liên minh phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, xây dựng một chương trình hành động tự lực tự cường và hợp tác lẫn nhau để phát triển kinh tế và xã hội, gìn giữ những quyền căn bản và những giá trị của Tự Do và cũng để bảo vệ an ninh và độc lập của họ...”. Nhưng việc đàm phán cho một tổ chức như thế giữa các quyền lực và các tổ chức chính trị khác nhau của vùng Viễn Đông là một vấn đề vốn có nhiều phức tạp hơn các vấn đề mà các nước trong khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đối diện và đã thành công. Hoa Kỳ khẳng định rằng động lực cho một tổ chức an ninh chung tại Á Châu là phải do người Á Châu quyết định, nhưng vào cuối năm 1949, họ [Hoa Kỳ] cũng công nhận rằng hoạt động đó [tổ chức an ninh chung] là cần thiết cho Đông Dương. Do đó, trong những tháng cuối năm 1949, quá trình diễn biến về chính sách của Hoa Kỳ đã chung cuộc là nhằm ngăn chặn sự phát triển của cộng sản ở Á Châu bằng một tổ chức an ninh chung nếu người Á Châu sẳn sàng, hợp tác với các đồng minh lớn [của Hoa Kỳ] ở Âu Châu và các nước trong Khối Thịnh Vượng Chung [Commonwealth] nếu có thể, nhưng song phương nếu cần thiết. Chính sách dựa trên cơ sở cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950-53 đó đã hình thành Hiệp Ước Liên Phòng Đông Nam Á tổ chức năm 1954 và dần dần sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam ngày càng sâu hơn.
Tháng Giêng và tháng Hai năm 1950 là những tháng quan trọng. Người Pháp đã có những bước cụ thể đầu tiên đối với việc chuyển giao công quyền cho chính phủ Quốc Gia của Bảo Đại. Hồ Chí Minh đã phủ nhận tính hợp pháp của chính phủ này và tuyên bố Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là "chính phủ hợp pháp duy nhất của nhân dân Việt Nam" và được Bắc Kinh và Moscow chính thức công nhận. Ngày 29 tháng 1 năm 1950 Quốc hội Pháp đã thông qua Luật Chuyển Giao Quyền Tự Quyết cho Chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Ngày 1 tháng năm 1950 Bộ Trưởng Ngoại Giao [Hoa Kỳ] Acheson đưa ra tuyên bố công khai sau đây:
"Việc Kremlin công nhận phong trào cộng sản Hồ Chí Minh đã xảy ra như một sự bất ngờ. Việc Liên Xô công nhận phong trào này phải "nên loại bỏ bất cứ ảo tưởng nào về cái gọi là bản chất "dân tộc" của Hồ Chí Minh và nêu rõ mầu sắc thật sự của Hồ là kẻ thù sinh tử cho nền Độc Lập của các nước Đông Dương.
"Mặc dù mất thì giờ trong nỗ lực bao trùm việc chuyển giao quyền tự quyết từ tay Pháp cho các Chính Phủ hợp pháp của Lào, Cam-pu-chia và Việt Nam, chúng tôi có mọi lý do để tin rằng những Chính Phủ hợp pháp này sẽ tiến hành phát triển thành một chính phủ ổn định đại diện cho chủ nghĩa dân tộc thật sự của hơn 20 triệu nhân dân Đông Dương.
Việc chuyển giao chủ quyền cho Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia đã được Pháp tiến hành được một thời gian. Tiếp theo sự phê chuẩn của [Quốc Hội] Pháp được dự kiến trong vòng một vài ngày, là con đường rộng mở đưa đển việc công nhận các chính phủ hợp pháp bởi các nước trên Thế Giới, những nước đã có chính sách hỗ trợ các dân tộc trước đây bị thuộc địa dược hưởng một nền độc lập chân chính …
Phê chuẩn chính thức của Pháp về nền Độc Lập cho Việt Nam đã được công bố ngày 02 tháng hai 1950. Trong cùng một ngày, Tổng thống Truman đã phê duyệt việc Hoa Kỳ công nhận Bảo Đại. Trong mấy tuần tiếp theo Pháp đưa ra yêu cầu [Hoa Kỳ] viện trợ cho Đông Dương. Ngày 8 tháng năm 1950, Bộ trưởng Ngoại giao thông báo rằng:
"Chính phủ Hoa Kỳ nhận thức rằng không một nền Độc Lập dân tộc, không một nền Dân Chủ nào có thể tồn tại trong bất kỳ khu vực nào bị chi phối bởi chủ nghĩa đế quốc Liên Xô và từ tình hình đó phải đảm bảo viện trợ kinh tế và thiết bị quân sự cho Liên Bang Đông Dương và Pháp, để hỗ trợ họ khôi phục lại sự ổn định và giúp cho các nước này theo đuổi việc phát triển Đất Nước trong hòa bình và dân chủ."
Từ sau đó, Hoa Kỳ ngày càng tham gia sâu vào cuộc chiến tranh đang bùng phát nhưng không có thể nói rằng sự mở rộng viện trợ là một sự quay lưng trở mặt [của Hoa Kỳ] nhanh chóng khi thay đổi đường lối chỉ bởi vì các biến cố năm 1950. Đúng hơn có lẽ đây là một sự tháo gỡ của một chuỗi gắn kết bởi các quyết định về đường lối của Mỹ xuất phát từ việc xác định vào năm 1945 rằng nước Pháp nên quyết định về tương lai chính trị cho phe Quốc Gia Việt. Chẳng phải vì O.S.S. đã viện trợ ít ỏi cho Việt Minh năm 1945, cũng chẳng phải việc Mỹ đồng thời từ chối giúp Pháp về khí tài chiến tranh mà cho rằng Mỹ ủng hộ của Hồ Chí Minh. Trái lại Hoa Kỳ đã cảnh giác với Hồ và thà rằng chấp nhận chủ nghĩa Thực Dân còn ít sợ hơn là bị kiểm soát bởi Moscow. Thái độ ngần ngại là thái độ của Hoa Kỳ đối với Hồ suốt đến năm 1948 nhưng Hoa Kỳ không ngừng gây áp lực để Pháp thích ứng với chủ nghĩa Quốc Gia "chính hiệu" trong một Việt Nam độc lập. Vào đầu năm 1950, có hai việc, một là giải pháp Bảo Đại có vẻ mang lại kết quả và một là sự liên kết rõ ràng của Bắc Việt với Liên Xô và Cộng sản Trung Quốc khiến cho Mỹ can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. (Tab 3)
Thảo Luận

Tập bảng
1 - Đông Dương trong chính sách Mỹ thời chiến, 1941-1950
2 - Hoa Kỳ trung lập trong chiến tranh Pháp-Việt Minh, 1946-1949
3 - Nguồn gốc của sự tham gia của Hoa Kỳ tại Việt Nam
I. A. 1
Mục Lục
Trang

1. Đông Dương trong chính sách Mỹ thời chiến, 1941-1945  A-10
a. Khái niệm Ủy trị của Roosevelt                                         A-12
(1) Sự ưu việt của chiến lược quân sự                                  A-14
(2) Thất bại của đề xuất Ủy Trị                                            A-19
(3) Quyết định giao Đông Dương lại cho Pháp                      A-20
b. Truman và việc chiếm đóng Đông Dương năm 1945        A-20
(đón xem kỳ 2)
Nguyễn Quốc Vĩ dịch
 2,
A.  CHÍNH SÁCH CỦA HOA KỲ, 1940-1950
1.Đông Dương trong chính sách thời chiến Hoa Kỳ, 1941-1945

Trong khoảng thời gian giữa sự sụp đổ của Pháp vào năm 1940, và trận tấn công [của Nhật] vào Trân Châu Cảng vào tháng Mười Hai năm 1941, Hoa Kỳ đã theo dõi với sự lo ngại ngày càng tăng về sức mạnh quân sự Nhật đưa vào Đông Dương. Lúc đầu, Hoa Kỳ kêu gọi Vichy từ chối các yêu cầu cho phép Nhật xử dụng những căn cứ quân sự tại đây [Đông Dương], nhưng không thể cung cấp gì nhiều hơn là một sự bảo đảm hỗ trợ mơ hồ, chẳng hạn như một tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ cho Đại sứ Pháp vào ngày 6 tháng Tám năm 1940 rằng:
"Chúng tôi đã làm và đang làm mọi thứ có thể trong khuôn khổ chính sách đã thành lập của chúng tôi để giữ cho tình hình vùng Viễn Đông ổn định, chúng tôi đã dần dần thực hiện các bước khác nhau, mục đích là để gây áp lực trên kinh tế Nhật, rằng hạm đội của chúng tôi đang đồn trú ở Hawaii, và rằng những diễn biến mà chúng tôi đang theo đuổi, như đã được nêu ra ở trên, là đưa ra một dấu hiệu rõ ràng về ý định và hành động của chúng tôi trong tương lai. “ (*)
Đại sứ Pháp trả lời rằng:
"Theo ý kiến của ông, cụm từ “trong khuôn khổ các chính sách đã thiết lập của chúng tôi” gắn kết đến sự miễn cưỡng rõ ràng của Chính phủ Mỹ trong việc xem xét việc sử dụng quân đội ở vùng Viễn Đông cụ thể tại thời điểm này, có nghĩa là rằng Hoa Kỳ sẽ không sử dụng quân đội hay hải quân nhằm hỗ trợ bất kỳ vị trí nào để chống lại mọi toan tính xâm lược của Nhật tại Đông Dương. Đại sứ [sợ rằng] rằng Chính phủ Pháp, dưới áp lực hiển hiện của Chính phủ Nhật, buộc sẽ phải nhượng bộ …”
Những lo sợ của Đại sứ Pháp đã thành sự thật. Trong năm 1941, tuy nhiên, Nhật đã vượt qua việc sử dụng các căn cứ và đưa ra đòi hỏi một sự hiện diện tương đương để chiếm đóng ở Đông Dương. Tổng thống Roosevelt đã bày tỏ sự cảnh báo cao độ của Mỹ đến Đại sứ Nhật, trong một cuộc hội thoại được ghi lại bởi Quyền Bộ Trưởng Ngoại Giao Welles như sau:
“Rồi Tổng Thống đã tiến tới nói rằng hành động này của Nhật đã tạo ra một vấn đề bức xúc cho Hoa Kỳ … giá phải trả cho một cuộc chiếm đóng bằng quân sự là khổng lồ và tự nó không thể tạo thuận lợi cho dân chúng trong vùng bị chiếm đóng trong việc sản xuất thực phẩm và nguyên liệu theo như Nhật đòi hỏi. Ngay cả khi Nhật có được các nguồn tiếp liệu tại Đông Dương một cách hòa bình, chẳng những họ muốn có được một số lượng lớn về tiếp liệu [thực phẩm và nguyên liệu], họ cũng muốn có được các thứ trong tình cảnh hoàn toàn an ninh và không phải kéo theo những chi phí cho một quân đội chiếm đóng. Hơn nữa, trên quan điểm quân sự, Tổng Thống nói, trong thưc tế chắc chắn Chính phủ Nhật không thể không có chút ý nghĩ rằng Trung Quốc, Anh, Hà Lan hay Hoa Kỳ đều có những ý đồ về lãnh thổ ở Đông Dương mà [cho rằng] không thể có mối đe dọa nào, dù nhỏ bé nhất, là Nhật sẽ bị tấn công. Do đó chính phủ này chỉ có thể giả định rằng việc Nhật chiếm đóng Đông Dương là có mục đich mở rộng bành trướng [việc chiếm đóng] và điều này nhất thiết đã tạo ra một mối quan tâm đặc biệt nghiêm trọng cho Hoa Kỳ …
“…Tổng thống tuyên bố rằng Chính phủ Nhật phải ngưng không được chiếm đóng Đông Dương bằng quân đội và hải quân, hoặc nếu thực sự đã có những khởi sự được bắt đầu, nếu chính phủ Nhật ngưng và rút hết các lực lượng này, Tổng thống có thể đảm bảo với chính phủ Nhật rằng ông sẽ làm tất cả mọi thứ trong quyền hạn của mình để có được từ các chính phủ Trung Quốc, Anh, Hoà Lan, và tất nhiên cả chính Hoa Kỳ cùng ra một tuyên bố long trọng và có tính ràng buộc ký với Nhật cùng cam kết, coi Đông Dương là một quốc gia trung lập cùng một cách thức như nước Thụy Sĩ mà các cường quốc đã công nhận là quốc gia Trung Lập. Ông cũng nói rằng điều này ngụ ý rằng không ai trong số các cường quốc có liên quan được có bất cứ bất kỳ hành động quân sự nào nhằm xâm lược Đông Dương hay duy trì việc kiểm soát lãnh thổ này và sẽ không có những cố gắng nhằm đánh đuổi những người Gaullist hoặc lực lượng Pháp Tự Do trên phần đất của họ [tóm lại là Nhật phải rút đi và tình trạng statu quo: Pháp vẫn chiếm đóng Đông Dương]. (*)
(*) Bản ghi nhớ lời trao đổi giữa Sumner Welles, Bộ Trưởng Ngoại Giao ngày 24 tháng 7 năm 1941; đề nghị của Tổng thống cho [Đông Dương] trung lập được trao cho Nhật trong một ghi chú ngày 08 tháng tám 1941.
Cùng ngày, Bộ Trưởng Ngoại Giao Cordell Hull chỉ thị Sumner Welles gặp Đại sứ Nhật, và
“Làm rõ sự kiện Nhật chiếm đóng Đông Dương có thể là một bước quan trọng trong việc kiểm soát khu vực biển miền Nam [Biển Đông], bao gồm các tuyến đường thương mại tối quan trọng của Hoa Kỳ để kiểm soát các sản phẩm như cao su, thiếc và những nguyên vật liệu khác. Đây là vấn đề sống còn của Hoa Kỳ. Bộ Trưởng cho rằng, nếu chúng ta không đưa vấn đề này ra vào thời điểm này thì người của chúng ta sẽ không hiểu được ý nghĩa những chuyển động này ở Đông Dương. Bộ Trưởng cũng nhấn mạnh trên một điểm khác: không có một lý thuyết nào mà Đông Dương có thể bị tràn ngập các lực lượng vũ trang, máy bay, vân vân, cho việc phòng thủ của Nhật. Thay vào đó, [cái lý thuyết] duy nhất liên quan đến Đông Dương là mối quan hệ cận kề của nó với vùng biển Nam và giá trị [chiến lược] của nó đối với những hành vi xâm lược nhằm vào nó [Đông Dương] ". (*)
(*) Bản ghi nhớ bởi Cecil W. Gray, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, 24 Tháng 7, 1942.
Trong một thông cáo báo chí ngày 02 Tháng 8 năm 1941, Bộ Trưởng Ngoại Giao Welles lên án "các mục tiêu bành trướng" của Nhật và công kích Vichy:
"Trong hoàn cảnh này, chính phủ này [Hoa Kỳ] bị thúc đẩy để đặt câu hỏi liệu chính phủ Pháp của Vichy trong thực tế đã đề xuất chưa việc duy trì một chính sách công khai nhằm bảo vệ cho nhân dân Pháp các vùng lãnh thổ cả trong và ngoài nước từ lâu đã thuộc chủ quyền của Pháp?
"Chính phủ này, vững tâm với tình hữu nghị truyền thống với Pháp, đã vô cùng thông cảm với mong muốn của nhân dân Pháp là duy trì và bảo quản nguyên vẹn lãnh thổ của họ. Trong quan hệ với chính phủ Pháp Vichy và với các nhà chức trách địa phương trong lãnh thổ Pháp, Hoa Kỳ sẽ điều chỉnh [chính sách] qua những kết quả mà những nhà chức trách đã nỗ lực thực hiện để bảo vệ các vùng lãnh thổ này từ sự thống trị và kiểm soát của những cường quốc đang tìm kiếm cách mở rộng vùng cai trị của họ bằng vũ lực và chinh phục, hay bằng sự đe dọa. "
Vào đêm trước của trận Trân Châu Cảng, như là một phần của nỗ lực để được Nhật đồng ý cho một hiệp ước không xâm lược, Mỹ một lần nữa đề nghị trung lập hóa Đông Dương để đổi lại việc Nhật rút khỏi nơi đó. Những biến cố ngày 07 tháng 12 năm 1941 đặt vấn đề tương lai của Đông Dương vào toàn bộ một bối cảnh hoàn toàn khác những chiến lược của Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ II.
Khái niệm Ủy trị của Roosevelt
Chính sách của Mỹ về Đông Dương trong Thế Chiến II là rõ ràng. Một mặt, Mỹ hiển nhiên ủng hộ việc Pháp Tự Do tuyên bố rằng mọi thuộc địa của Pháp là thuộc họ. Đầu thời kỳ chiến tranh Mỹ đã nhiều lần bày tỏ hoặc ám chỉ ý định sẽ giúp Pháp khôi phục lại đế chế của Pháp ở nước ngoài sau khi chiến tranh. Những cam kết của Hoa Kỳ gồm tuyên bố chính thức về thỏa thuận Pháp-Nhật ngày 2 Tháng Tám, 1941; thư của Tổng thống gửi cho [Thống Chế] Petain tháng Mười Hai, năm 1941; tuyên bố về Tân Đảo [New Caledonia] ngày 02 tháng 3 năm 1942 ; một ghi nhớ với Đại sứ Pháp ngày 13 Tháng Tư, 1942; những thông báo của phủ Tổng Thống và thông tin trao đổi tại thời điểm vào cuộc xâm lược vào Bắc Phi [của Đức, Ý], Hiệp định Clark - Darlan vào ngày 22 tháng 10 năm 1942; và một lá thư cùng tháng của phái viên của Tổng Thống viết gửi cho Tướng Henri Giraud, trong đó bao gồm sự đảm bảo sau đây:
Listen
Read phonetically
 “…Phục hồi hoàn toàn nền độc lập trong vĩ đại và vinh quang mà Pháp đã sở hữu trước khi có cuộc chiến ở Âu Châu cũng như ở các nước khác là một trong những mục đích chiến tranh mà Liên Hợp Quốc nhắm đến. Liên Hiệp Quốc hoàn toàn hiểu rằng chủ quyền của Pháp sẽ được phục hồi càng sớm càng tốt, trên toàn lãnh thổ, đô thị hoặc thuộc địa mà ở đó lá cờ Pháp tung bay vào năm 1939. " 1/
Mặt khác, trong Hiến chương Đại Tây Dương và các tuyên bố khác Mỹ tuyên bố hỗ trợ cho quyền tự quyết và độc lập quốc gia. Hơn nữa, Tổng Thống Hoa Kỳ, đặc biệt là bị đau khổ về chuyện Vichy đã "bán đứng" Đông Dương cho Nhật, thường trích dẫn việc Pháp cai trị ở đó là một ví dụ trắng trợn của đàn áp và bóc lột của chủ nghĩa thực dân, và nói về quyết tâm của mình đưa Đông Dương vào dưới một ủy thác quốc tế sau chiến tranh. Đầu năm 1944, ngài Halifax, Đại sứ Anh tại Washington, gọi điện cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Hull hỏi thăm để tìm hiểu liệu thông báo của Tổng thống "đã là chung cuộc", “là Đông Dương phải lấy lại từ tay Pháp và đặt dưới một ủy thác quốc tế như việc đã làm cho Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và có lẽ cả những nước khác” trong chuyến đi Cairo và Teheran của ông – là tiêu biểu cho "kết luận cuối cùng dựa trên thực tế mà họ sẽ sớm trả lời cho người Pháp.. " 2/ (Pháp ghi nhận rõ ràng quan điểm của Tổng thống - trong thực tế Pháp đã rút khỏi Việt Nam vào 1956, Ngoại trưởng nhắc lại việc Roosevelt đã khẳng định với Sultan của Ma-rốc về sự đồng cảm của mình về sự đấu tranh cho độc lập của các dân tộc thuộc địa. 3/). Ngài Halifax sau đó ghi lại rằng:
"Tổng thống là một trong những người, trong những buổi thảo luận, hay phát họa một bản dự thảo đầu tiên trên giấy... một phương pháp nhằm ghi ra một ý tưởng. Nếu nó không chạy "Nè, bạn có thể sửa đổi nó hoặc vứt nó đi. Không ai nghĩ gì khác nếu các bạn làm điều ấy, nhưng nếu bạn làm điều đó với thảo luận, người ta sẽ nói rằng bạn đã thay đổi ý kiến, là ‘bạn không bao giờ biết bạn đã thuyết phục anh ta’, và cứ như thế. " 4/
Nhưng phản ứng với một bản ghi nhớ của Bộ Trưởng Ngoại Giao Hull đặt câu hỏi về Đông Dương với FDR, và những nhắc nhở Tổng Thống Mỹ về rất nhiều cam kết phục hồi cho đế chế Pháp, Roosevelt trả lời (ngày 24 Tháng 1 năm 1944) rằng:
"Tôi gặp Halifax tuần trước và nói với ông khá thẳng thắn rằng nó hoàn toàn đúng sự thật rằng tôi đã có, trong hơn một năm, ý kiến rằng Đông Dương không nên quay trở lại dưới sự cai trị của Pháp mà nó phải được quản lý bởi một ủy thác quốc tế. Pháp là nước đã có – 30 triệu người gần cả 100 năm, và nay dân tình lại tồi tệ hơn lúc đầu.
“Trên quan điểm quyền lợi, tôi hết lòng hỗ trợ ý này bằng cách ủng hộ Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch và Thống Chế Stalin. Tôi thấy không có lý do để tranh đua với Bộ Ngoại giao Anh về vấn đề này. Dường như lý do duy nhất mà họ chống lại là họ sợ nó [Đông Dương độc lập] sẽ ảnh hưởng trên tài sản [thuộc địa] riêng của họ và Hà Lan. Họ đã không bao giờ thích ý tưởng của ủy thác bởi vì, trong một số trường hợp, là nhằm mục đích độc lập trong tương lai. Điều này đúng trong trường hợp của Đông Dương.
"Mỗi trường hợp, tất nhiên, sẽ đứng trên chính đôi chân của của nó, nhưng trường hợp của Đông Dương là hoàn toàn rõ ràng. Pháp đã vắt sữa 100 năm. Người dân Đông Dương có quyền được hưởng một cái gì đó tốt hơn thế. ". 5/
Chiến lược quân sự chiếm ưu thế (Military Strategy Pre-eminent)
Trong suốt năm 1944, Tổng Thống bảo lưu quan điểm, và từ những quan điểm đó, đã cấm Hoa Kỳ viện trợ cho các nhóm kháng chiến - bao gồm cả các nhóm Pháp - ở Đông Dương. Nhưng cuộc chiến trong chiến trường Âu Châu chuyển động nhanh chóng, và lực hấp dẫn trung tâm của nỗ lực của Mỹ bắt đầu chuyển về phía Bắc, cận kề với Nhật. Vấn đề chiến lược của Mỹ ở Đông Nam Á sau đó đã trở nên nổi bật. Tại Hội nghị Quebec lần thứ hai (tháng 9 năm 1944), Mỹ từ chối đề nghị hỗ trợ của hải quân Anh nhằm chống lại Nhật vì Đô đốc King tin rằng "việc xử dụng tốt nhất bất kỳ lực lương Anh nào là để tái chiếm Singapore, và hỗ trợ người Hà Lan trong việc khôi phục vùng Đông Ấn ", và vì ông nghi ngờ rằng “việc hổ trợ là không dính dáng đến nổ lực của Mỹ là quét sạch Nhật ra khỏi Mã Lai Á và vùng Đông Ấn Hà Lan." 6/ Những nghi ngại của Đô đốc King là không có cơ sở vững chắc ít nhất là trong chừng mực liên hệ đến tư tưởng chiến lược của Churchill. Hiển nhiên Thủ tướng không muốn mời Mỹ vào một vai trò tích cực trong việc giải phóng các nước Đông Nam Á cũng như việc Mỹ phải làm chuyện đó [một mình]; sớm vào tháng Hai năm 1944, Churchill đã viết:
"Quyết định hành động như một lực lượng phụ thuộc cho quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương đặt ra những câu hỏi chính trị khó khăn về trong tương lai tài sản [thuộc địa] của chúng tôi ở Mã Lai. Nếu Nhật rút khỏi nơi đây hay làm cho nó được hòa bình là kết quả chính nhờ lực đẩy của Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ sau khi chiến thắng sẽ cảm thấy quan điểm của mình được tăng thêm nhiều phần uy tín rằng tất cả các thuộc địa trong quần đảo Đông Ấn phải được đặt dưới một loại cơ quan quốc tế mà Hoa Kỳ có thể có những quan tâm có tính quyết định lên đó ". 7/
Tương lai của các vùng lãnh thổ của khối Thịnh Vượng Chung trong khu vực Đông Nam Á kích thích nỗi quan tâm cao độ của Anh về ý định của Mỹ về thuộc địa của Pháp. Trong tháng mười một và tháng mười hai năm 1954, người Anh bày tỏ với Hoa Kỳ, cả ở hai nơi London và Washington, mối quan tâm của họ "là Hoa Kỳ dường như vẫn chưa xác định chính sách của mình đối với Đông Dương. 8/)   Người đứng đầu Cục Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Anh nói với Đại sứ U. S. rằng:
"Thật khó từ chối sự tham gia của Pháp trong việc giải phóng Đông Dương dưới ánh sáng của sức mạnh ngày càng tăng của Chính phủ Pháp trong các vấn đề thế giới, và điều đó, trừ khi một chính sách về Đông Dương đã được thoả thuận giữa hai chính phủ của chúng tôi, nhiều tình thế có thể phát sinh bất cứ lúc nào để đặt hai chính phủ của chúng tôi vào những tình huống rất khó xử." 9/
Tổng thống Roosevelt, tuy nhiên, vẫn từ chối xác định vị trí của mình xa hơn nữa, thông báo cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Stettinius vào 1 tháng 1 năm 1945:
"Tôi vẫn không muốn trộn lộn trong bất kỳ quyết định nào về Đông Dương. Đây là một vấn đề sau chiến tranh … Tôi không muốn có sự trộn lộn trong bất kỳ nỗ lực quân sự nào trong việc giải phóng Đông Dương khỏi Nhật.-- Ông có thể nói với Halifax là tôi đã thông đạt điều này rất rõ ràng với ông Churchill. Từ cả trên hai quan điểm quân sự và dân sự, hành động vào thời điểm này là quá sớm. " 10/
Mặc dầu vậy, Bộ Tổng Tham Mưu Mỹ (US Joint Chiefs of Staff) vẫn đồng thời lập kế hoạch
rút bỏ các lực lượng vũ trang Mỹ trong khu vực Đông Nam Á. Trả lời cho những lần mà Pháp và Hà Lan tiếp cận nhằm xin Mỹ giúp đánh đuổi Nhật khỏi các vùng thuộc địa cũ của họ, Mỹ thông báo họ rằng:
"Tất cả các lực lượng hiện có của chúng tôi đã dành để chiến đấu với Nhật tại những nơi khác ở Thái Bình Dương và do đó Đông Dương và Đông Ấn không nằm trong lĩnh vực quan tâm của Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ ".
Khi các Lãnh Đạo của Đồng Minh gặp nhau tại Malta vào cuối tháng Giêng năm 1945, Mỹ sẵn sàng từ bỏ các hoạt động hơn nữa trong khu vực Đông Nam Á đưa đến chỉ thị cho Đô đốc King Mountbatten, Tư Lệnh Tối Cao Chiến Trường, giải phóng Mã Lai Á mà không có Hoa Kỳ hỗ trợ. 12/ Sau Hội nghị Yalta (tháng Hai, năm 1945), chỉ huy Mỹ tại Thái Bình Dương đã được thông báo rằng Hoa Kỳ có kế hoạch chuyển giao các hoạt động ở Đông Ấn Hà Lan và New Guinea cho Anh chịu trách nhiệm. Tổng Thống, tuy nhiên, đã đồng ý cho phép các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ ở Đông Dương nhưng tránh "đứng chung tuyến với Pháp" và tránh các tai tiếng từ các chiến dịch quân sự của Mỹ chống Nhật. 13 / chỉ trích này đã loại trừ, trong quan điểm của Mỹ, sự hợp tác của Mỹ với Pháp tại Tổng Hành Dinh của Mountbatten, hay [loại trừ] việc cung cấp tàu để chuyển vận miễn phí các lực lượng Pháp đến Đông Dương để thực hiện giải phóng nơi này. Thế đứng này của Mỹ đã bị Pháp chỉ trích đặc biệt nghiêm trọng sau ngày 11 tháng 3 năm 1945, khi Nhật lật đổ chế độ Vichy tại Việt Nam, và Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập, tách rời khỏi Pháp và dưới sự bảo hộ của Nhật. Ngày 16 tháng Ba 1945, từ một phản kháng của Tướng De Gaulle đã dẫn đến những trao đổi sau đây giữa Bộ Trưởng Ngoại Giao và Tổng Thống: 14/
Bộ Ngoại giao
Washington
- March 16, năm 1945

BẢN GHI NHỚ GỬI TỔNG THỐNG
Chủ đề: Đông Dương.
Thư đã nhận được từ Chính phủ lâm thời của nước Cộng hoà Pháp yêu cầu:
Hỗ trợ các nhóm kháng chiến đang chiến đấu chống Nhật ở Đông Dương.
Một thỏa thuận kết luận về các vấn đề dân sự bao gồm các hoạt động có thể có ở Đông Dương trong tương lai.
Những biên bản ghi nhớ đã được gửi đến Bộ Tổng Tham Mưu để có được quan điểm của họ về khía cạnh quân sự trên các vấn đề, và tôi sẽ liên lạc với bạn thêm về đề tài này sau khi nhận được trả lời họ.
Kèm theo thư này là nội dung một điện tín gần đây từ Đại sứ Caffery mô tả cuộc trò chuyện với tướng De Gaulle về chủ đề Đông Dương. Từ điện tín này và bài phát biểu của De Gaulle ngày 14 tháng 3, dường như Chính phủ này phải chịu trách nhiệm về sự yếu kém của cuộc kháng chiến chống Nhật ở Đông Dương. Ngược lại có thể chờ đợi là người Anh sẽ khuyến khích quan điểm này. Đối với tôi, có lẽ, nếu không có bất kỳ gì có thể làm phương hại đến thế đứng của chúng ta về tương lai của Đông Dương, chúng ta có thể chống lại xu hướng này bằng cách công khai đưa ra mong muốn hỗ trợ của chúng ta tùy theo tình thế đòi hỏi và tùy theo những kế hoạch mà chúng ta đã cam kết trong khu vực Thái Bình Dương. Để kết thúc tôi đính kèm một bản thảo đề nghị bảng tuyên bố công khai, tùy Tổng Thống chấp thuận, qua Bộ Ngoại Giao.
/s/ E. R. Stettinius) Jr.
Đính kèm:
bản Tuyên Bố đề nghị
Bản sao điện tín của Đại sứ Caffery [không kèm ở đây]
[Hồ sơ đính kèm 1]
BẢN TUYÊN BỐ [ĐỀ NGHỊ]

Các hành động của Chính phủ Nhật làm xé toang tấm mạng mà họ đã cố gắng che mặt quá lâu để dấu sự thống trị của họ trên Đông Dương là một hệ quả trực tiếp của áp lực quân sự của chúng tôi tung ra từ trước đến nay lên đế quốc Nhật. Nó là một chuỗi liên kết các sự kiện bắt đầu từ mùa hè thảm khốc năm 1941 với hiệp định "phòng thủ chung" Pháp-Nhật ở Đông Dương. Rõ ràng đây là bước đi mới nhất trong toan tính của Nhật mà về lâu dài sẽ được chứng minh là không có giá trị.
Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp đã yêu cầu hỗ trợ vũ trang cho những người đang chống lại các lực lượng Nhật tại Đông Dương. Trung thành với ý muốn liên tục là hỗ trợ tất cả những người sẵn sàng cầm vũ khí chống lại kẻ thù chung của chúng ta, chính phủ này sẽ làm tất cả những gì có thể được để hổ trợ trong tình huống hiện nay, phù hợp với kế hoạch mà chúng tôi đã cam kết và [phù hợp] với các chiến dịch đang diễn ra ở Thái Bình Dương. Cũng nói thêm rằng các nguồn vật lực sẵn có của đất nước này sẽ dành cho việc đánh bại của kẻ thù của chúng ta và chúng sẽ tiếp tục được sử dụng theo tính toán tốt nhất để đẩy nhanh sự sụp đổ của họ [Nhật].
[Trả lời]
Tòa Bạch Ốc
Washington - March 17, năm 1945
BẢN GHI NHỚ
Gửi Bộ Ngoại Giao
Chỉ đạo của Tổng Thống, để trả lời cho bản ghi nhớ của Bộ Ngoại Giao ngày 16 tháng Ba, về chủ đề Đông Dương, trong đó bao gồm một tuyên bố đề xuất trên những hoạt động của Nhật ở Đông Dương. Tổng thống có ý kiến rằng vào thời điểm hiện tại việc phổ biến bản Tuyên Bố theo như đề xuất là không thích hợp..
/s/ William D. Leahy [ký tên]
Pháp đã tích cực gây sức ép với Tổng thống và các cố vấn chính thông qua các kênh quân sự. Đô đốc Leahy báo cáo rằng, sau [hội nghị] Yalta:
“Các đại diện Pháp ở Washington tiếp tục thường xuyên gọi đến văn phòng của tôi sau khi chúng tôi trở về từ Crimea. Họ gọi hầu hết các yêu cầu của họ là "khẩn cấp" Họ muốn tham gia trong nhóm tình báo chung sau đó là lo nghiên cứu về những bí mật công nghiệp và khoa học của Đức, việc trao đổi thông tin giữa Bộ Tư Lệnh Mỹ ở Trung Quốc và các lực lượng Pháp ở Đông Dương và nhằm đạt một thỏa thuận về nguyên tắc về việc sử dụng Hải Quân và quân đội Pháp trong cuộc chiến chống lại Nhật ( họ [Hải Quân và quân đội Pháp] sẽ hỗ trợ Pháp lấy lại quyền kiểm soát Đông Dương và cho Pháp quyền tham gia vào thoả ước thuê mượn vũ khí [lend-lease assistance] sau khi Đức bại trận)
“Hầu hết trọng mọi lần tôi chỉ có thể nói với họ rằng tôi đã không có những thông tin về khi nào và ở đâu chúng ta có thể xử dụng sự hổ trợ của Pháp ở Thái Bình Dương
“Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng giang tay giúp đỡ nhóm kháng chiến chống Pháp ở Đông Dương. Phó Đô Đốc Fenard gọi điện cho tôi vào ngày 18 tháng 3 nói rằng máy bay từ Không Đoàn số 14 của chúng tôi ở Trung Quốc đã được nạp với hàng cứu trợ cho phe kháng chiến bí mật nhưng không thể bắt đầu mà không có sự đồng ý từ Washington. Tôi ngay lập tức liên lạc với Tướng Handy và nói với ông rằng Tổng thống Mỹ đã thỏa thuận viện trợ cho nhóm kháng chiến Đông Dương miễn là việc này không đụng chạm đến hoạt động chống Nhật của chúng ta. 15/
(2)  Sự thất bại của đề xuất Ủy Trị
Trong khi chờ đợi, khái niệm “ủy trị“của Tổng thống áp dụng trong thời hậu chiến cho các thuộc địa như là một bước trung gian để đi đến quyền tự chủ đã đươc một số tổ chức liên bộ ngành và các nhóm quốc tế nghiên cứu, khái niệm này đã ở trong tình trạng yếu kém. Ngại động chạm đến nhạy cảm của Anh, Hoa Kỳ ban đầu chỉ muốn tìm một tuyên bố từ các cường quốc thực dân đưa ra ý định trả lại tự do cho các thuộc địa và đưa ra sự giám hộ trên các chính phủ tự trị của nhân dân sở tại. Một tuyên bố như vậy sẽ phù hợp với Hiến chương Đại Tây Dương năm 1941, trong đó Mỹ và Anh cùng đồng ý, một trong những "nguyên tắc chung mà trên cơ sở đó họ hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn cho thế giới ", nó là chính sách của họ rằng:
“…họ [Anh và Mỹ] tôn trọng quyền lựa chọn hình thức chính phủ của tất cả các dân tộc, theo đó họ [dân] sẽ sống; và họ [Anh và Mỹ] muốn thấy chủ quyền và chính phủ tự quyết được khôi phục lại cho những người trước đây đã bị tước đoạt …” 16/
Tháng năm 1942, Ngoại trưởng Hull đã đệ trình cho Tổng Thống đề xuất một dự thảo Mỹ-Anh có tựa là "Hiến chương Đại Tây Dương và Độc Lập Quốc Gia", và đã đã được Tổng Thống phê duyệt. Trước khi dự thảo này có thể gửi cho người Anh, tuy nhiên, họ [Anh] đã đệ trình một phản đề nghị nhấn mạnh trách nhiệm quyền hạn của "cha mẹ" trên sự thành hình của các chính phủ bản địa để tránh việc chấp nhận việc “Ủy Trị”. Sau đó vào tháng 3 năm 1943 thảo luận giữa Anh-Mỹ đã giải quyết cả hai dự thảo, nhưng chìm vào sự phản đối của Ngoại trưởng Eden. Ngoại trưởng Hull viết lại trong hồi ký của mình rằng Eden không thể tin rằng danh từ "độc lập" sẽ được giải thích với sự hài lòng của tất cả các chính phủ:
“…Bộ trưởng Ngoại giao cho biết rằng, để được hoàn toàn thẳng thắn, ông đã nói rằng ông đã rất không ưa dự thảo của chúng ta. Ông cho biết là từ "độc lập" gây khó khăn cho ông, ông đã suy nghĩ về hệ thống Đế quốc Anh, được xây dựng trên cơ sở của Dominion và quy chế thuộc địa.
[từ “Dominion” là chỉ các nước độc lập nằm trong Liên Hiệp Anh như Canada, Australia, New Zealand, Newfoundland, Liên bang Nam Phi, và Ireland]
“Ông chỉ ra trong Đế Quốc Anh có mức độ khác nhau của chính phủ tự quyết, từ Dominions đến các thuộc địa đó trong một số trường hợp, như Malta, hoàn toàn tự trị, cho đến các khu vực lạc hậu không bao giờ có thể có chính phủ riêng của họ. Phải nói thêm rằng Australia và New Zealand cũng có thuộc địa và họ sẽ không sẵn sàng để loại bỏ quyền giám sát của họ.” 17/
Mỹ bất lực trong việc đưa ra một chính sách chung với Anh, hơn nữa cũng bị loại khỏi những cuộc thảo luận có ý nghĩa, đã bỏ qua một bên thỏa thuận về vấn đề thuộc địa cho Hội Nghị Dumbarton Oaks Conversations năm 1944. 18 / Suốt tháng ba năm 1945, vấn đề đã được tiếp tục hút vào các cuộc tranh luận trong Chính phủ Mỹ về qui chế sau chiến tranh của các đảo ở Thái Bình Dương chiếm được từ Nhật; nói chung, Bộ Chiến tranh và Bộ Hải quân ủng hộ việc Mỹ duy trì sự kiểm soát - như căn cứ quân sự, trong khi Bộ Ngoại Giao và các bộ khác ủng hộ một ủy trị quốc tế.
(3)  Quyết định về Đông Dương được dành cho Pháp
Bộ trưởng Ngoại giao Stettinius, với sự chấp thuận của Tổng thống Roosevelt đã đưa ra một tuyên bố vào ngày 03 Tháng Tư 1945, như là kết quả của các cuộc thảo luận quốc tế tại Yalta về khái niệm ủy thác, Hoa Kỳ cảm thấy rằng sau chiến tranh cấu trúc ủy thác như:
“…nên được thiết kế để cho phép đặt các vùng lãnh thổ dưới sự uỷ trị sau cuộc chiến vừa qua, và những lãnh thổ chiếm lại từ kẻ thù trong cuộc chiến này để thỏa thuận có thể được đồng ý một ngày nào đó, và [thiết kế] sao cho các vùng lãnh thổ đó có thể tự nguyện đặt dưới sự ủy trị.” 19/
Từ đó Đông Dương dường như đã giao lại cho Pháp quyết định.
Tuy nhiên, cái chết của Tổng thống Roosevelt vào ngày 12 Tháng Tư năm 1945, chính sách của Mỹ đối về thuộc địa của các Đồng Minh, và đối với Đông Dương nói riêng là trong tình trạng lộn xộn:
Anh vẫn còn e ngại rằng Mỹ có thể đang tiếp tục tìm kiếm một công thức ủy trị khác có thể ảnh hưởng đến Khối Thịnh Vượng Chung
Người Pháp đã bất ổn về việc Mỹ liên tục từ chối cung cấp việc vận chuyển chiến lược cho các lực lượng của họ, bực bội về hỗ trợ ít ỏi của Mỹ cho các lực lượng Pháp ở Đông Dương, và ngờ vực sâu sắc rằng Hoa Kỳ - có thể đang bắt tay với Trung Hoa - dự định
ngăn cản việc [Pháp] duy trì quyền kiểm soát trên Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia.
Truman và việc chiếm đóng Đông Dương năm 1945
Trong vòng một tháng kể từ ngày nhậm chức của Tổng Thống Truman, Pháp đã nêu lên vấn đề Đông Dương tại Hội nghị Liên Hợp Quốc tại San Francisco. Bộ Trưởng Ngoại Giao Stettinius ghi lại sau đây cuộc trò chuyện với Washington:
“…Đông Dương đã được đề cập trong một cuộc trò chuyện gần đây của tôi với Bidault và Bonnet. Ông này [Bonnet] này nhận xét rằng mặc dù Chính phủ Pháp đã giải thích tuyên bố của [Phó Bộ Trưởng Ngoại Giao] Welles năm 1942 liên quan đến việc tái lập chủ quyền của Pháp trên Đế Quốc Pháp là bao gồm cả Đông Dương, báo chí vẫn tiếp tục ngụ ý rằng một địa vị đặc biệt sẽ được dành riêng cho khu vực thuộc địa này. Điều khá rõ ràng đối với Bidault đây là một ghi nhận hoàn toàn ngây thơ về bất kỳ tuyên bố chính thức nào về câu hỏi này cho chính phủ, thậm chí là ngụ ý, về chủ quyền Pháp đối với Đông Dương. Tuy nhiên, một vài thành phần trong công luận Mỹ lên án chính sách và những hành xử của Pháp ở Đông Dương. Bidault dường như đã nhẹ lòng và chắc chắn đã điện về Paris là ông ta đã nhận được tái cam kết của chúng ta về chủ quyền của Pháp trên với khu vực đó.” 20/
Đầu tháng Sáu năm 1945, Bộ Ngoại Giao hướng dẫn Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc về những thảo luận đang tiến hành trong nội bộ Chính phủ Hoa Kỳ và các cuộc thảo luận với Đồng Minh về chính sách của Mỹ đối với Đông Dương. Ông đã thông báo tại San Francisco như sau:
“…phái đoàn Mỹ đã nhấn mạnh sự cần thiết dần dần đưa ra biện pháp nhằm thành lập các chính phủ tự trị cho tất cả các dân tộc thuộc địa để cuối cùng hướng tới nền độc lập của họ hoặc kết hợp trong một hình thức liên bang nào đó tùy hoàn cảnh và khả năng của các dân tộc này trong việc gánh lấy trách nhiệm của mình. Những quyết định như thế sẽ cản trở việc thành lập một ủy trị cho Đông Dương trừ phi có sự đồng ý của Chính phủ Pháp. Việc đấy [ủy trị] dường như không thể thành hình. Tuy nhiên, nó là ý định của Tổng thống tại một số thời điểm thích hợp để yêu cầu Chính phủ Pháp cung cấp cho một số dấu hiệu tích cực về ý định của mình liên quan đến việc thành lập các quyền tự do dân sự và việc tăng cường các biện pháp nhằm trao quyền tự trị cho Đông Dương trước khi đưa ra thêm những tuyên bố về chính sách [Mỹ] trong lĩnh vực này…” 21/
Hiến chương Liên Hợp Quốc (ngày 26 tháng 6 năm 1945) có một "Tuyên bố" liên quan đến vùng lãnh thổ không có chính phủ tự trị ":
Điều 73
“Các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã có hoặc chịu trách nhiệm chính quyền trên các vùng lãnh thổ mà dân chúng ở đó chưa có được một chính phủ đầy đủ, công nhận nguyên tắc là lợi ích của dân chúng trong các vùng lãnh thổ này là tối quan trọng, và chấp nhận trong một sự tin cậy thiêng liêng nghĩa vụ phát huy tối đa, trong hệ thống
hòa bình và an ninh quốc tế xác lập bởi Hiến Chương hiện nay, hạnh phúc cho cư dân sống trong những vùng lãnh thổ này, và để thực hiện điều đó:
đảm bảo, trong sự tôn trọng văn hóa của các dân tộc liên quan, nền chính trị, kinh tế, xã hội và tiến trình giáo dục của họ, đối xử họ xứng đáng, và bảo vệ họ chống lại mọi hà hiếp lạm dụng;
để xây dựng một chính phủ tự chủ, để tôn trọng nguyện vọng chính trị các dân tộc, và để hỗ trợ họ trong việc xây dựng các định chế chính trị tự do tùy hoàn cảnh đặc biệt của mỗi lãnh thổ và nhân dân ở đó và tùy các giai đoạn khác nhau trong tiến trình xây dựng … 22/
Một lần nữa, tuy nhiên, những cân nhắc quân sự lại chi phối chính sách của Mỹ ở Đông Dương. Tổng thống Truman trả lời Tướng de Gaulle về những đề nghị lặp đi lặp lại là hổ trợ Đông Dương bằng những phát biểu cho thấy chính sách của ông là giao những vấn đề đó cho các tư lệnh quân sự của mình. Tại Hội nghị Potsdam (năm 1945), bộ Chỉ Huy Đồng Minh đã quyết định giao Đông Dương từ phía nam vĩ độ 16 Bắc cho Bộ Chỉ Huy Đông Nam Á dưới lệnh của Đô đốc Mountbatten. 23/ Trên cơ sở này quyết định, các hướng dẫn được ban hành là các lực lượng Nhật nằm ở phía bắc của vĩ độ đó sẽ đầu hàng cho Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch, và [các lực lượng Nhật ] ở phía nam [đầu hàng] cho Đô đốc Lord Mountbatten. Theo hướng dẫn, lực lượng Trung Quốc vào Bắc Kỳ vào tháng Chín năm 1945, trong khi một lực lượng đặc nhiệm nhỏ của Anh đã hạ cánh xuống Sài Gòn. Khó khăn chính trị thành hình gần như ngay lập tức, trong khi Trung Quốc đã chuẩn bị để gặp và chấp nhận chính phủ Việt Nam đang nắm quyền ở Hà Nội, thì Anh từ chối làm như vậy ở Sài Gòn, và đã giao lại cho Pháp ngay từ đầu.
Không có dấu hiệu gì cho thấy mối quan tâm nghiêm trọng đã được nở ra ở Washington sau các sự kiện diễn đã xảy ra nhanh chóng ở Đông Dương. Vào giữa tháng Tám, lực lượng kháng chiến Việt Minh, dưới Hồ Chí Minh, đã nắm quyền tại Hà Nội và ngay sau đó yêu cầu và nhận được sự thoái vị của con rối của Nhật, Hoàng đế Bảo Đại. Ngày V-J [Chiến Thắng] 02 tháng 9, Hồ Chí Minh, đã tuyên bố tại Hà Nội thành lập nước Việt Nam Cộng hoà Dân chủ. VNDCCH cai trị như là một chính phủ dân sự trên toàn Việt Nam chỉ vỏn vẹn trong một thời gian khoảng 20 ngày. Ngày 23 Tháng Chín, 1945, với sự hay biết của Tư lệnh Anh ở Sài Gòn, các lực lượng Pháp đã lật đổ chính quyền địa phương VNDCCH, và tuyên bố quyền lực của Pháp được phục hồi tại Nam Kỳ. Chiến tranh du kích đã khởi sự chung quanh Sài Gòn. Mặc dù đại diện OSS của Mỹ có mặt ở cả Hà Nội và Sài Gòn và có vẻ như ủng hộ Việt Minh, Hoa Kỳ đã không lấy một thái độ chính thức nào liên quan VNDCCH, hay cả đến các hành động Pháp và Anh tại miền Nam Việt Nam 24/
Vào tháng mười, năm 1945, Hoa Kỳ công bố chính sách của họ những điểm sau đây:
“Mỹ không có ý chống đối việc tái lập quyền kiểm soát Đông Dương của Pháp và không có tuyên bố chính thức nào của chính phủ Hoa Kỳ đặt câu hỏi ngay cả trên định nghĩa chủ quyền Pháp trên Đông Dương. Tuy nhiên, không phải chính sách của chính phủ này là hỗ trợ người Pháp để thiết lập lại quyền kiểm soát của họ trên Đông Dương bằng vũ lực và mong muốn của Hoa Kỳ là được xem việc Pháp tái lập quyền kiểm soát trên giả định rằng như Pháp đã tự nhận là đã có được sự hổ trợ của dân chúng Đông Dương là phát sinh ra bởi những biến cố tương lai.” 25/
Những thông báo của Pháp cho Mỹ là nhằm tìm kiếm một kết thúc sớm các hành động thù địch, và nói một cách khẳng định về những cải cách và cởi mở. Tháng Mười Một, Jean Chauvel, Bộ Trưởng Ngoại giao Pháp, nói với Đại sứ Mỹ rằng:
“Khi những rắc rối với người Việt nổ ra [tướng] De Gaulle đã được Phái đoàn Pháp ở Ấn Độ thúc giục phải thực hiện một chính sách nào đó để công bố ý định của Pháp là sẽ đưa ra một chính sách có ảnh hưởng sâu rộng được thiết kế để mang đến cho các dân tộc bản xứ có nhiều quyền tự trị, nhiều trách nhiệm hơn và có đại diện trong chính phủ. De Gaulle xem xét ý tưởng nhưng bác bỏ nó bởi vì trong tình trạng rối loạn là phổ biến ở Đông Dương, ông tin rằng không chính sách nào như vậy có thể được thực hiện trước khi thẩm quyền của Pháp được phục hồi và do đó chỉ được mọi người xem "chỉ là những danh từ hoa mỹ”. Hơn nữa De Gaulle và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao tin rằng tình hình hiện nay là vẫn còn lộn xộn và họ có quá ít thông tin thực sự đáng tin cậy về hình ảnh tổng thể của Đông Dương. Vi thế những kế hoạch và suy nghĩ như họ đã nắm cho đến nay có thể phải xem lại kỷ lưỡng dưới ánh sáng của những biến chuyển mới đây.
"Mặc dù thực tế là người Pháp không cảm thấy rằng họ chưa có thể đưa ra bất kỳ phác thảo cụ thể nào cho kế hoạch tương lai cho Đông Dương, Chauvel nói rằng họ hy vọng sẽ đưa 'rất sớm' vào hành động trong một vài lãnh vực gồm cả việc bầu cử địa phương, theo đó [bầu cử]sẽ được thiết kế nhằm mang đến nhiều quyền hạn và tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề của người bản xứ. Điều này ông cho biết sẽ là một dấu hiệu tốt hơn về sự chân thành của Pháp hơn bất kỳ tuyên bố chính sách nào... Hy vọng của Pháp là sớm có đàm phán một thỏa thuận với vua của Cam-pu-chia kết quả là sẽ cho nhiều trách nhiệm lớn hơn đối với nhân dân Cambodia. Ông đã đặc biệt đề cập là sẽ có nhiều người địa phương hơn nữa vào các cơ quan hành chánh địa phương và cũng hy vọng rằng các cuộc bầu cử địa phương sẽ sớm được tổ chức. Ông nói người Pháp có ý định áp dụng các bước đi tương tự ở Lào khi tình hình cho phép và cuối cùng là cho An Nam và Bắc Kỳ. Sau khi trật tự được khôi phục trong toàn Đông Dương và các thoả thuận riêng đã đạt được với các nước, Chauvel nói rằng ý định của Pháp là thể hiện kết quả của những thỏa thuận riêng đó vào chung một chương trình cho toàn Đông Dương.” 26/
Từ mùa thu năm 1945 qua đến mùa thu năm 1946, Hoa Kỳ đã nhận được một loạt các thư tín từ Hồ Chí Minh mô tả điều kiện tệ hại ở Việt Nam, nêu lên các nguyên tắc công bố trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Liên Hợp Quốc, và xin Mỹ công nhận nền độc lập của nước VNDCCH, hoặc - như một phương sách cuối cùng - ủy trị Việt Nam cho Liên hợp quốc. Nhưng trong khi Mỹ đã không hành động theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, [Mỹ] cũng không muốn hỗ trợ người Pháp. Ngày 15 tháng 1 năm 1946, Bộ Trưởng Chiến tranh đã được thông báo của Bộ Ngoại giao rằng việc "sử dụng các tàu mang cờ Mỹ hoặc máy bay để vận chuyển quân đội của bất kỳ quốc tịch nào đi hoặc từ Đông Ấn Hà Lan hoặc Đông Dương thuộc Pháp, hay dùng những phương tiện đó để chuyển vân vũ khí, đạn dược, thiết bị quân sự đến các khu vực này là trái với chính sách của Mỹ” 27/ Tuy nhiên, người Anh sắp xếp để vận chuyển binh lính Pháp bổ sung cho Đông Dương, thỏa thuận song phương với Pháp là để đối tác này [Pháp] thay Anh chịu trách nhiệm vùng do Anh chiếm đóng [giải giới Nhật từ vĩ độ 16 về phía Nam], và [Anh] đã ký một hiệp ước ngày 9 tháng 10, năm 1945, "công nhận Pháp được toàn quyền” ở Đông Dương. 28/   Pháp bắt đầu đổ bộ vào Sài Gòn trong tháng đó, và tiếp theo người Anh giao lại cho họ khoảng 800 xe jeep và xe tải [của Mỹ cho Anh “thuê-mượn”]. Tổng thống Truman đã phê duyệt giao dịch này với lý do là việc lấy lại các thiết bị này là không khả thi. 29/
Các cuộc giao tranh giữa Pháp và Việt Nam bắt đầu ở miền Nam Việt Nam với cuộc đảo chính Pháp [bởi Nhật] ngày 23 tháng 9, 1945, lan tràn từ Sài Gòn ra khắp Nam Kỳ, và miền nam An Nam [Trung Kỳ thuộc Triều Đình Huế]. Đến cuối tháng Giêng năm 1946, toàn bộ mọi chuyện là do Pháp lo, bởi thời điểm đó việc Anh rút quân đã hoàn tất, ngày 4 tháng Ba, năm 1946, Đô đốc Lord Mountbatten cắt Đông Dương ra khỏi lãnh thổ thuộc Bộ Tư Lệnh Đồng Minh ở Đông Nam Á, do đó đã chuyển tất cả việc cai trị cho nhà chức trách Pháp. 30/ Bộ Tư Lệnh Pháp, thông qua Đài phát thanh Sài Gòn, đã thông báo rằng một chiến dịch quân sự nhằm “quét dọn” đang được tiến hành, nhưng việc bình định hầu như đã hoàn tất, nhưng các báo cáo thành công này thường xen kẽ với những chuyện như sau:
“20 tháng 3 1946:
“Nhiều nhóm kháng chiến vẫn còn đánh phá các vùng phía Nam Sài Gòn. Những nhóm nổi dậy này là khá lớn, một số nhóm có khoảng 1.000 người. Các nhóm nổi dậy này thường thấy tập trung trong các làng mạc. Một số đã chuyển về phía bắc trong nỗ lực phá vỡ (giao thông) ở bán đảo Cà Mau, phía đông bắc Ba Tri và các khu vực nói chung phía Nam (Nha Trang). Trong vùng phía Nam Chợ Lớn và ở phía bắc đồng bằng Bãi Sậy [Plaine des Joncs], một số nhóm nổi dậy đã trú đóng tại đó …”
“21 tháng 3 1946:
“Thông cáo sau đây đã được ban hành bởi Cao ủy Đông Dương sáng nay:
Hoạt động nổi dậy có tăng lên trong khu vực Biên Hòa trên cả hai bờ sông Đồng Nai. Một đoàn xe Pháp đã bị tấn công trên đường giữa Biên Hòa và Tân Uyên, nơi một quả mìn đã được đặt bởi phiến quân.
“Trong khu vực (Bac Lo) phía tây bắc của Sài Gòn một số cướp biển đã bị bắt giữ trong quá trình một cuộc đột kích càn quét. Trong số những người bị bắt có năm lính đào ngũ của Nhật. Ba xác chết Nhật trong đó có một sĩ quan đã được tìm thấy tại điểm mà cuộc hành quân đã xảy ra.
“Một phân đội Pháp bị phục kích tại (San Jay) phía nam An Nam. Mặc dù vậy, phân đội vẫn thành công trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Nhiều cuộc tấn công của phe nổi dậy được báo cáo là xảy ra dọc theo tuyến đường ven biển” 31/
Bạo lực dịu đi phần nào ở miền Nam Việt Nam khi các cuộc đàm phán Pháp-VNDCCH tiến hành vào mùa xuân 1946 nhưng trong khi đó lực lượng Pháp chuyển sang đối đầu mạnh hơn với “kháng chiến” Việt Nam tại Bắc Kỳ. Trong tháng hai năm 1946, một lực lượng đặc nhiệm Pháp đã chuẩn bị đổ bộ vào Hải Phòng nhưng đã bị ngưng trệ vì các chuyển động ngoại giao. Một thỏa thuận Pháp-Trung Quốc ngày 28 Tháng Hai năm 1946 đồng ý là Trung Quốc sẽ bàn giao trách nhiệm của họ ở miền Bắc Đông Dương cho Pháp ngày 31 tháng 3 năm 1946. 32/
Ngày 19 tháng 3 năm 1946, một thỏa ước Pháp-VNDCCH đã được ký kết với các điều khoản như sau: 33/
“1. Chính phủ Pháp công nhận Cộng Hòa Việt Nam như là một nhà nước tự do có Chính phủ riêng, Quốc hội riêng, quân đội riêng và tài chính riêng, trở thành một phần của Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Liên quan đến việc hợp nhất ba Kỳ [Cochinchina, Annam, Tonkin] – [tức Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ] Chính phủ Pháp cam kết phê chuẩn những quyết định của dân chúng qua trưng cầu dân ý”
“2.   Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đón tiếp một cách hữu nghị quân đội Pháp trong khi, theo những thỏa thuận quốc tế họ thay thế quân Trung Quốc. Một Hiệp Định Bổ Sung được thêm vào Hiệp Định Sơ Bộ sẽ thiết lập các phương cách mà các hoạt động cứu trợ sẽ được thực hiện
“3.   Những điều khoản thiết lập ở trên sẽ có hiệu lực ngay lập tức. Lập tức ngay sau khi chữ ký được trao đổi, thẩm quyền ký kết cao nhất của mỗi bên sẽ thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để chấm dứt thù địch ở các nơi và giữ quân đội mỗi bên yên trong vị trí của mình và tạo bầu không khí thuận lợi cần thiết để mở ngay lập tức các cuộc đàm phán thân thiện và chân thành. Các cuộc đàm phán này sẽ đặc biệt giải quyết:
a. quan hệ ngoại giao Việt Nam với nước ngoài
b Luật Pháp tương lai của Đông Dương
c. Quyền lợi, kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt-nam.
Hanoi, Saigon hay Paris có thể được lựa chọn như nơi diễn ra Hội nghị
Làm tại Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 1946
Ký tên: Hồ-Chí Minh   Ký tên:: Sainteny
và Vũ Hồng Khanh                                                                 
Lực lượng Pháp đã nhanh chóng thực hiện đặc quyền của họ, chiếm Hà Nội vào ngày 18 tháng 3 năm 1946, và các cuộc đàm phán mở tại Đà Lạt vào tháng Tư. 34/
Do đó, ngày 10 tháng Tư năm 1946, việc Đồng Minh chiếm đóng Đông Dương được coi như chấm dứt, và các lực lượng Pháp chiếm đóng tất cả các thành phố lớn ở Việt Nam, các vấn đề trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam sau đó đã chuyển từ bối cảnh một chính sách trong chiến tranh sang phạm vi mối quan hệ Mỹ và Pháp. 35/
(Đón xem kỳ 3)
Nguyễn Quốc Vĩ dịch


 3
I. A. 2
MỤC LỤC 
2. Hoa Kỳ trung lập trong Chiến tranh Pháp-Việt Minh, 1946-1949.    trang A-28
   a. Thất bại đàm phán giải quyết      trang A-28
   b. Chính sách của Hoa Kỳ về cuộc xung đột;1947-1949     trang A-42
Hoa Kỳ trung lập trong Chiến tranh Pháp-Việt Minh, 1946-1949
Thất bại đàm phán giải quyết
Sự trở lại của người Pháp đến Bắc Kỳ vào tháng Ba, năm 1946, đã gây ra tình hình căng thẳng. Miền Bắc Việt Nam, truyền thống là một vùng hay thiếu lúa, đã bị một mùa thu hoạch tệ hại trong năm 1945. Nạn đói trầm trọng lại bị chồng chất thêm bởi sự tập trung của nhiều quân đội ở đồng bằng sông Hồng - lực lượng không chính quy của Việt Nam, nhiều nhất là của Việt Minh, khoảng 150.000 lính Trung Quốc, và sau đó là quân viễn chinh Pháp. Mọi người không chỉ đói, lại còn bất ổn về chính trị; niềm khát khao độc lập dân tộc đã được triệt để làm sâu sắc bởi Việt Minh và sự hình thành của nước VNDCCH. Trong khi tình cảm chống lại tất cả những kẻ chiếm đóng nước ngoài lên cao, Pháp vẫn là mục tiêu chính của sự thù địch. Tuy nhiên, Hiệp Ước ngày 06 tháng 3 đã trì hoãn chuyện thanh toán [lẫn nhau], nhằm làm dịu đi những người cực đoan ở Bắc Kỳ, và làm giảm các hoạt động du kích ở miền Nam Việt Nam. Hiệp Ước theo đó trong bất kỳ chỗ nào cũng đều nhấn mạnh sự hợp tác hòa bình giữa Pháp và VNDCCH ở miền Bắc Việt Nam kéo dài tám tháng.
Tuy nhiên, thành lập Hiệp Ước 06 tháng 3 thừa nhận một sự thất bại cho Hồ Chí Minh, bởi vì chính sách của ông đã được hướng về việc quốc tế hóa Đông Dương. Hồ nhiều lần mở ngõ cho Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc, và Trung Quốc, Liên Xô, và Vương quốc Anh 36 / Những lá thư của ông ta trình bày những lời kêu gọi hùng hồn để Hoa Kỳ hay Liên Hiệp Quốc can thiệp vào Việt Nam trên cơ sở các nguyên tắc thể hiện trong Hiến chương Đại Tây Dương, Hiến chương Liên Hợp Quốc, và lý do nhân đạo. Thư cuối cùng được chuyển tiếp đến Mỹ trước Hiệp Ước 06 tháng 3 1946, được tóm tắt trong điện tín sau đây từ một nhà ngoại giao Mỹ tại Hà Nội, nhận được ở Washington ngày 27 tháng 2 năm 1946:
“Hồ Chí Minh đưa cho tôi 2 lá thư gửi cho Tổng Thống Mỹ, Trung Quốc, Nga, và Anh các bản sao y mẫu mà tôi nhấn mạnh là đã được chuyển tiếp cho các chính phủ có tên ở đây. Trong 2 lá thư Hồ Chí Minh yêu cầu [sic] Mỹ là một [trong những thành viên] Liên Hiệp Quốc hỗ trợ ý tưởng một Việt Nam độc lập hình thức theo như Philippines [sic] để cứu xét trường hợp của Việt Nam, và thực hiện các bước cần thiết để duy trì hòa bình thế giới đang bị đe doạ bởi những nỗ lực Pháp nhằm tái chiếm Đông Dương. Ông khẳng định rằng Việt Nam sẽ chiến đấu cho đến khi Liên Hiệp Quốc can thiệp để hỗ trợ của Việt Nam độc lập. Kiến nghị được gửi tới các nước quan trọng của Liên Hợp Quốc bao gồm:
Xem xét lai các mối quan hệ Pháp với Nhật, ở chỗ Đông Dương thuộc Pháp bị cáo buộc hỗ trợ Nhật:
Tuyên bố thành lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 [sic] nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Việt Minh:
Tóm tắt thông tin về cuộc chinh phục Nam Kỳ của Pháp bắt đầu 23 Tháng Chín 1945 và vẫn chưa đầy đủ
Sơ lược về thành tựu của Chính phủ Việt Nam ở Bắc Kỳ bao gồm các cuộc bầu cử phổ biến, bãi bỏ các loại thuế không đáng có, mở rộng giáo dục và việc nối lại càng nhiều càng tốt các hoạt động kinh tế bình thường
Yêu cầu 4 cường quốc: (1) can thiệp và ngăn chặn cuộc chiến tranh ở Đông Dương để làm trung gian giải quyết một thỏa hiệp công bằng và (2) đưa vấn đề Đông Dương ra trước Liên Hiệp Quốc. Kiến nghị kết thúc với tuyên bố rằng Việt Nam yêu cầu được độc lập hoàn toàn trong thực tế và, tạm thời trong khi chờ đợi Liên Hiệp Quốc có quyết định, Việt Nam sẽ tiếp tục chiến đấu chống lại việc tái lập chủ nghĩa đế quốc Pháp. Thư và kiến nghị sẽ được chuyển đến Bộ trong thời gian sớm nhất.” 37/
Không có ghi nhận nào cho rằng Hoa Kỳ đã khuyến khích Hồ Chí Minh gửi yêu cầu của ông sang Mỹ, ngoại trừ những hỗ trợ OSS mà họ nhận được trong và lập tức ngay sau chiến tranh thế giới thứ II, cũng chẳng có gì ghi lại phản ánh rằng Mỹ đã trả lời một cách khẳng định về các kiến nghị của Hồ. Thay vào đó, Chính phủ Hoa Kỳ dường như chỉ đều đặn một chính sách nhắm vào Pháp hơn là nhắm vào các người Việt Nam dân tộc chủ nghĩa để xây dựng những bước tiến tới độc lập cho Việt Nam. Vào ngày 5 Tháng 12, năm 1946, sau sự cố Tháng Mười Một, nhưng trước khi cuộc chiến nổ ra một cách nghiêm trọng, Bộ Ngoại Giao đã hướng dẫn các đại diện ngoại giao Mỹ tại Hà Nội như sau: 38/
“Giả sử bạn gặp Hồ ở Hà Nội và hãy đưa ra những suy nghĩ tổng thể hiện nay của chúng tôi sau đây như là một hướng dẫn,
“Giữ trong suy nghĩ một cách rõ ràng là Hồ là cán bộ quốc tế của chủ nghĩa cộng sản. Việc "không có bằng chứng hiển nhiên là [ông ta] lệ thuộc vào Moscow" đã làm nhầm lẫn tình hình chính trị với Pháp và chuyện Hồ nhận hỗ trợ của Đảng Cộng sản Pháp. Điều mong muốn ít nhất là một Nhà Nước sẽ được thành lập theo định hướng Cộng sản thống trị bởi Moscow theo như Bộ [Ngoại Giao] nhận đinh, tìm những thông tin chắc chắn về những yếu tố không Cộng Sản. Hãy báo cáo đầy đủ một cách liên tục hoặc yêu cầu Bộ nhắc nhở Paris.
“Những chuyện xảy ra gần đây ở Bắc Kỳ đã gây nhiều lo ngại sâu sắc. Hãy xem Hiệp Định ngày 06 tháng 3 và tình trạng bên nào ở yên nơi nấy [modus Vivendi] như là kết quả một đàm phán hòa bình để làm cơ sở để giải quyết những vấn đề còn tồn tại giữa Pháp và Việt Nam; và việc đặt trách nhiệm lên cả hai bên là không gây hại cho tương lai, nhất là cho Hội Nghị Fontainebleau sắp tới. Những chuyện không giải quyết nhất định sẽ đưa đến hành động khiêu khích cả hai bên, nhưng đối với chuyện này một thái độ kiên nhẫn hòa giải hợp lý là đặc biệt cần thiết. Sự không khoan nhượng của bất kể phía nào trong hai bên và sự cố tình khai thác những đụng chạm chỉ có thể làm chậm lại sư phục hồi nền kinh tế Đông Dương và đẩy lùi vô thời hạn những điều kiện cho sự hợp tác Pháp và Việt Nam mà cả hai đồng ý là cần thiết.
“Nếu Hồ giữ thế đứng là không thực hiện những lời hứa của một cuộc Trưng Cầu Dân Ý cho Đông Dương là đã chối bỏ trách nhiệm tuân thủ các thỏa thuận, nếu bạn thấy có thể cho ý kiến được thì nêu lên câu hỏi là liệu ông ta [Hồ] có tin rằng một cuộc Trưng Cầu Dân Ý sau một quá trình xáo trộn lâu dài là có thể đưa đến một kết quả có giá trị không và liệu ông ta có thể chịu xem xét thỏa hiệp một chế độ cho Đàng Trong [Nam Kỳ] thông qua thương lượng.
“Có thể nói là nhân dân Mỹ đã hoan nghênh những thành quả mà Đông Dương đã nỗ lực thực hiện, hoan nghênh niềm khát khao được có nhiều quyền tự chủ trong khuôn khổ thể chế dân chủ và nó sẽ là điều đáng tiếc nếu những quyền lợi và tình cảm này bị tan vỡ bởi thái độ không khoan nhượng và bạo lực được đưa ra từ bất kỳ lực lượng thuộc bất cứ xu hướng nào ở Việt Nam.
“Có thể thông báo cho Hồ [qua Đại sứ Mỹ ở Paris] thảo luận về tình hình cùng thái độ thẳng thắn như Pháp. Để bạn nắm thông tin, ngày 3 Tháng 12,[Bộ Ngoại Giao Anh] trong khi thảo luận đã nêu (1) không đặt vấn đề tái chiếm Đông Dương như vậy sẽ đi ngược lại công luận Pháp và có thể quá các nguồn tài lực của quân đội Pháp (2) Pháp sẽ tiếp tục chính sách căn bản ngày 06 Tháng Ba và giữ nguyên hiện trạng và sẽ đưa ra mọi nỗ lực để áp dụng nó thông qua thương lượng với Việt Nam (3) Pháp chỉ đưa ra những biện pháp mạnh mẽ với quy mô hạn chế trong những trường hợp vi phạm trắng trợn các thỏa thuận từ phía Việt Nam (4) Vai trò của D'Argenlieu là không co ích gì vì việc [ông ta] chán ghét các quan chức Việt Nam một cách thẳng băng và có lẽ một sự thay đổi là điều mong muốn, (5) Trong thế đứng là người giám hộ lợi ích quốc tế của Pháp Cộng sản Pháp lúng túng nhận hàng loạt công điện từ Việt Nam. [Đại Sứ] sẽ đưa ra việc chấp nhận bảng tuyên bố của Pháp kèm theo giám sát việc thực hiện. Thực hiện một chính sách như thế phải tiến xa đến việc cảnh giác bất cứ nguy hiểm nào như (1) không thể thỏa hiệp với phía Việt Nam và việc những kẻ cực đoan có thể đang ở vị trí làm chủ hoàn cảnh (2) Phía Việt có thể quay ra chống lại phương Tây và bám theo hệ tư tưởng và những phe phái thù địch với nền dân chủ mà kết quả không thể đảo ngược là sẽ kích động cả Đông Dương với những hậu quả ra toàn khu vực Đông Nam Á.
“Tránh gây ấn tượng là Chính phủ Hoa Kỳ can thiệp chính thức vào việc này
“Đưa ra công khai [mấy điều trên] bất kỳ dưới hình thức nào cũng sẽ là điều đáng tiếc.
"Paris được hướng dẫn tiến hành.
"Acheson, Quyền [Đại Sứ] 
--------------
Trong một thời gian, người Pháp dường như thật sự quan tâm đến việc theo đuổi một chính sách dựa trên Hiệp Ước ngày 06 tháng 3 và giữ nguyên hiện trạng, và tránh đụng độ quân sự với VNDCCH. Nếu có là những lời phát biểu trái chiều từ một số người ví dụ như Đô đốc D'Argenlieu, Cao Ủy Đông Dương, - đã đưa ra nhận định về "sự ngạc nhiên của ông rằng Pháp có một đội quân viễn chinh tài ba ở Đông Dương, nhưng các nhà lãnh đạo lại muốn đàm phán chứ không phải là để chiến đấu.... "- Có nhiều người như Tướng Leclerc, người đã dẫn quân Pháp vào Hà Nội ngày 18 tháng ba 1946, đã mau chóng gọi điện cho Hồ Chí Minh, nói rõ là ông sẽ bằng mọi cách tôn trọng Hiệp Định ngày 6 tháng Ba. "Vào lúc này", ông nói, "không có chuyện là chúng tôi sẽ áp đặt bằng vũ lực trên dân chúng là những người mong muốn sự phát triển và sự đổi mới " 39/
Đảng Xã hội Pháp – đảng chính trị nắm chi phối ở Pháp - luôn ủng hộ một cách đều đặn việc hòa giải trong năm 1946. Tháng Mười Hai, năm 1946 ngay cả sau khi sự cố vũ trang vào tháng giữa Mười Một giữa Pháp và VNDCCH ở miền Bắc Việt Nam, Leon Blum - người đã trở thành Thủ tướng Pháp đứng đầu nội gồm tất cả thành viên đều thuộc Đảng Xã Hội đã viết rằng Pháp đã không còn giải pháp nào nữa khác hơn là trao Độc Lập cho Việt Nam:
"Ở Đông Dương, chỉ còn một và một cách duy nhất để bảo tồn vinh quang của nền văn minh, ảnh hưởng chính trị và văn hóa của chúng ta, và cũng để bảo vệ những lợi ích vật chất hợp pháp của chúng ta : đó là chân thành thỏa thuận [với Việt Nam] trên cơ sở của một nền Độc Lập… " 40/
Đảng Cộng sản, một đảng cánh tả lớn khác ở Pháp, cũng hùng hồn nói hòa giải, nhưng đang chờ đợi nắm quyền kiểm soát chính phủ, nếu không phải một mình thì ít nhất phải là một phần của liên minh, họ có xu hướng cẩn thận hơn so với đảng Xã hội tránh gây tác động lên tình cảm dân tộc. Vào tháng Bảy năm 1946, tờ báo Nhân Đạo [L’Humanité] là tờ báo Cộng sản, đã nhấn mạnh rằng Đảng đã không mong muốn [Đế Quốc] Pháp bị teo giảm đến chỉ còn là vùng "lãnh thổ chính quốc nhỏ bé của nó" [metropolitain], nhưng cảnh báo rằng làm như vậy sẽ gây hậu quả là các dân tộc thuộc địa sẽ quay lại chống Pháp:
"Có phải chúng ta, sau khi mất Syria và Lebanon ngày hôm qua, mất Đông Dương vào ngày mai, Bắc Phi vào ngày hôm sau? " 41/
Trong kỳ họp Quốc hội vào tháng Chín, năm 1946, một Phó Chủ Tịch Đảng Cộng sản đã tuyên bố rằng:
Những người Cộng sản cũng như nhiều người khác đều ủng hộ sự vĩ đại của đất nước [Pháp]. Tuy nhiên,.. họ chưa bao giờ ngừng khẳng định rằng Liên hiệp Pháp... chỉ có thể được thành lập trên cơ sở tin tưởng [lẫn nhau], tình huynh đệ, và trên tất cả, sự hợp tác dân chủ của tất cả các dân tộc và các chủng tộc đã cấu thành nên nó … " 42 /
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã không thể tận dụng lợi thế với những kết nối của mình với cánh Tả Pháp (Hồ đã là một trong những thành viên sáng lập của Đảng Cộng Sản Pháp vào đầu những năm 1920) để khiến những người trong Đảng Xã Hội hay Đảng Cộng Sản đưa ra những ủng hộ công khai. Đảng Cộng sản đã không sẳn sàng ủng hộ Việt Nam vì cái giá phải trả là lá phiếu [của cử tri] ở Pháp. Đảng Xã Hội đang cầm quyền hòa giải chỉ trên đầu môi chót lưỡi, và đã để cho những người chủ trương thực dân, đặc biệt là những người này tại Việt Nam, thiết lập chính sách của Pháp ở Đông Dương, do đó, Đô đốc d'Argenlieu, không phải Tướng Leclerc, nói cho Chính phủ Pháp.
Vào giữa Tháng Mười Hai, năm 1946, ngay sau khi Blum nhậm chức, Hồ gửi ông này một bức điện tín với những đề xuất nhằm giảm bớt căng thẳng tại Việt Nam, nhưng bức điện này đã không đạt được Paris cho đến ngày 26 tháng 12. 43 /
Vào thời điểm đó các vụ đụng chạm đã xảy ra. Tại Hà Nội, ngày 19 Tháng Mười Hai 1946, quân đội Việt Nam, sau nhiều đụng chạm ngày càng tăng đôi khi với bạo lực đã cắt nước và điện của thành phố, và tấn công Pháp bằng vũ khí nhỏ, đạn cối và pháo binh. Vấn đề ai là kẻ tấn công trước không bao giờ giải quyết được. Cuộc chiến bùng lên trên khắp Bắc Việt Nam, và hai ngày sau đó, cuộc chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam đẩy nhanh tốc độ. Pháp đáp trả các cuộc tấn công ban đầu đôi khi dã man, việc này làm cho triễn vọng phục hồi nguyên trạng như trước ngày càng xa.
“Chúng tôi có nghĩa vụ đối phó với bạo lực. Tôi tuyên bố rằng những người đang chiến đấu ở đây, người Pháp Đông Dương, nhân dân thân hữu, có thể hoàn toàn tin tưởng vào sự cảnh giác và quyết tâm của chính phủ.
"Nhiệm vụ chung của chúng tôi là cố gắng làm tất cả để tránh đổ máu cho con em chúng ta - và kể cả máu không phải là của chúng ta, nhưng tất cả máu là đều cùng của những người mà quyền tự do chính trị đã được chúng tôi công nhận mười tháng trước đây và của những người lẽ ra nên giữ vị trí của mình trong liên minh các dân tộc chung quanh nước Pháp [Liên Hiệp Pháp].
“Trước nhất, trật tự phải được tái lập, một trật tự trong hòa bình nhất thiết phải là cơ sở để thực hiện Hiệp Định " 44 /
Chỉ trong vòng một tuần sau khi đọc bài diễn văn [ủng hộ Việt Nam Độc Lập], Thủ Tướng Blum đã được thay thế bởi Paul Ramadier [Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng] của chính phủ đầu tiên của nền Đệ Tứ Cộng Hòa. Pháp gửi ba sứ giả vào Việt Nam vào thời điểm này: Đô đốc d'Argenlieu, Tướng Leclerc, và Bộ trưởng Bộ Xã Hội của Pháp Hải Ngoại, Marius Moutet. Đô đốc d'Argenlieu trở thành Cao Ủy Đông Dương, và tố cáo Việt Nam phá vỡ niềm tin của Pháp. Ông khẳng định một cách dứt khoát là Pháp có ý định giữ [chiếm lại] Đông Dương.
“… việc duy trì và phát triển ảnh hưởng hiện tại và lợi ích kinh tế của của nó [Pháp], việc bảo vệ các dân tộc thiểu số mà nó đã được tin tưởng phó thác, việc đảm bảo cho sự an toàn của các căn cứ chiến lược trong khuôn khổ quốc phòng của Liên bang [Đông Dương] và Liên Hiệp Pháp …
"Trong tình trạng đang xảy ra cho nhân dân Đông Dương, Pháp không có ý định giao Độc Lập cho họ một cách vô điều kiện và toàn diện, điều đó sẽ chỉ là một điều không tưởng gây phương hại nghiêm trọng đến lợi ích của hai bên.”   45/
Hai đại diện khác của Pháp đã được gửi đi trong nhiệm vụ tìm hiểu thực tế. Báo cáo của họ lại chứa những đề nghị hoàn toàn trái ngược. Tướng Leclerc viết:
“Năm 1947, Pháp sẽ không còn [có thể] đánh bại bằng vũ lực một tập hợp của 24,000,000 người dân thật sự đoàn kết và trong họ đã có một lý tưởng bài ngoại và có lẽ là [đó là] lý tưởng dân tộc …
“Vấn đề từ nay là chính trị. Đây là một vấn đề được sinh ra với một chủ nghĩa dân tộc bài ngoại đang sống dậy, vấn đề là làm sao điều hướng nó để cứu vãn, ít nhất là một phần, các quyền lợi của Pháp … 46/
Ông Tướng [Leclerc] được gửi đi để thẩm tra tình hình quân sự, và trở về với một giải pháp chính trị. Ông “Xã Hội” Marius Moutet được đi tìm hiểu triển vọng chính trị, và trở về với kết luận rằng chỉ có một giải pháp quân sự đầy hứa hẹn. Giống Đô đốc d'Argenlieu, Moutet tin rằng không thể có cuộc đàm phán với Hồ Chí Minh. Ông viết “sự vỡ mộng tàn bạo của những thỏa thuận mà không thể nào đưa vào hiệu lực..., " Và ông tuyên bố rằng:
“Chúng tôi không còn có thể nói về một thỏa thuận tự do giữa Pháp và Việt Nam…”
“Trước khi có bất kỳ cuộc đàm phán nào ngày nay, cần thiết là phải có một quyết định quân sự. Tôi xin lỗi nhưng người ta không thể chấp nhận những cái điên rồ như người Việt Nam đã làm mà không bị trừng phạt…” 47/
Đó là ý tưởng của chính trị gia, chứ không phải là của ông Tướng đã chiếm ưu thế tại Paris. Thủ tướng Ramadier - một đảng viên Xã Hội nói về Hòa Bình cho Việt Nam, và tuyên bố rằng chính phủ của ông ủng hộ một Việt Nam độc lập và thống nhất:
“Độc lập trong Liên hiệp Pháp [và] sự hiệp nhất của cả ba nước An Nam [ba kỳ: Bắc, Trung, Nam] nếu người dân An Nam mong muốn nó…" 48/
Đồng thời, tuy nhiên, chính phủ của ông lại cho phép đô đốc D'Argenlieu tung một chiến dịch quân sự qui mô và với ý định là để trừng phạt.
Rất sớm trong chiến tranh, Pháp đã đưa ra bóng ma Cộng Sản được âm mưu tại Việt Nam. Đô đốc D'Argenlieu ở Sài Gòn kêu gọi một sự phối trí các cường quốc phương Tây cho một đường lối quốc tế chung nhằm chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản ở Á Châu, bắt đầu, với Việt Nam. Trong một cuộc thảo luận Quốc hội vào tháng ba năm 1947, một Phó [Chủ Tịch Quốc Hội] thuộc cánh hữu đã đưa ra cáo buộc là bạo lực ở Việt Nam đã được chỉ thị từ Moscow:
“Chủ Nghĩa Dân tộc ở Đông Dương là một phương tiện, cuối cùng là chủ nghĩa đế quốc Liên Xô” 49/
Cả chính phủ cũng như người Pháp đều không chú ý đến lời tuyên bố của Tướng Leclerc vào tháng Giêng năm 1947:
“Chống chủ nghĩa cộng sản chỉ là một công cụ vô dụng bao lâu mà vấn đề chủ nghĩa dân tộc vẫn chưa được giải quyết” 50/
Hồ Chí Minh, về phần mình, đã liên tục kêu gọi Hòa Bình với Pháp, thậm chí còn đề nghị tự rút lui.
“Khi Pháp công nhận Việt Nam độc lập và thống nhất chúng tôi sẽ lui về làng nghỉ hưu vì chúng tôi không tham vọng về quyền lực hay vinh quang”
Tháng 2 năm 1947 Pháp đưa ra những điều kiện cho Hồ tương đương với việc đầu hàng vô điều kiện. Hồ thẳng thừng từ chối này, hỏi lại người đại diện Pháp "Nếu bạn đang ở vị trí của tôi bạn sẽ chấp nhận chúng không...? Liên Hiệp Pháp là không có chỗ cho những kẻ hèn nhát. Nếu tôi chấp nhận những điều kiện này tôi là một trong những kẻ đó " 52/ Ngày 01 Tháng ba 1947, Hồ kêu gọi công khai chính phủ Pháp và nhân dân Pháp:
“Một lần nữa, tôi long trọng tuyên bố rằng mọi người Việt Nam đều duy nhất mong muốn Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp, và chúng tôi cam kết tôn trọng lợi ích kinh tế và các lợi ích văn hóa của Pháp... Chỉ cần Pháp nói một lời để chấm dứt sự thù địch thì ngay lập tức, mạng sống của rất nhiều người và rất nhiều tài sản sẽ được cứu vãn và tình hữu nghị và niềm tin [lẫn nhau] sẽ được tái lập.” 53/
Tuy nhiên, Pháp ít quan tâm đến việc đàm phán. Thủ Tướng Ramadier nêu lên vào Tháng Ba năm 1947, rằng:
“Chúng ta phải bảo vệ tính mạng và tài sản của người Pháp, người nước ngoài, của bạn bè Đông Dương của chúng ta là những người đặt niềm tin lên sự Tự Do của Pháp. Việc cần thiết là chúng ta bớt quân trú phòng của chúng ta, tái lập lại các trục lộ giao thông cần thiết, đảm bảo sự an toàn cho dân chúng đã nương tựa với chúng ta. Việc ấy chúng ta đã thực hiện” 54/
Ramadier và các bộ trưởng của ông đã nói nhiều lần vào mùa xuân năm 1947 về một kết thúc không tránh khỏi của "giai đoạn quân sự" của cuộc khủng hoảng, và bắt đầu của một "giai đoạn xây dựng", trong đó có lẽ kinh tế và hỗ trợ chính trị sẽ thay thế các biện pháp quân sự, nhưng điều ấy đã trở thành một mô hình đầy kỳ vọng và thất vọng, nền Đệ Tứ Cộng Hòa phát hiện ra rằng lực lượng quân sự của mình không có khả năng kiểm soát ngay cả những tuyến đường chính tại Việt Nam và giải pháp quân đội đã làm tiêu hao nghiêm trọng các nguồn lực của Liên Hiệp Pháp. Tháng Ba năm 1947 một sư đoàn bổ sung của quân đội viễn chinh Pháp được phái đến Việt Nam theo đề nghị của Tướng Leclerc đã bị chuyển hướng trên đường để đi dập tắt một cuộc nổi dậy ở Madagascar
Vào mùa hè năm 1947, Chính phủ Pháp nhận thức rằng tình hình Đông Dương là bế tắc. Thất bại trong cố gắng áp đặt một giải pháp quân sự, họ đã phải quay sang giải pháp chính trị, như đề nghị của Tướng Leclerc. Một lần nữa ý kiến của Đô đốc D’Argenlieu lại có sức nặng. Tháng Giêng, 1947, D’Argenlieu đã viết:
“Nếu chúng ta xem xét vấn đề một cách cơ bản, chúng tôi sẽ đi đến câu hỏi liệu một hình thái chính trị mà không ai nghi ngờ về khả năng nhận hưởng mọi uy tín chính trị chính danh nhưng không phải là kiểu triều đình truyền thống như vừa mới đây còn tồn tại trước khi Nhật đầu hàng.... Sự trở lại của Hoàng đế [Bảo Đại] sẽ trấn an tất cả những ai, trước đây chống đối Việt Minh, đang sợ bị buộc tội phản quốc.” 55/
Pháp đã chọn Bảo Đại, không chọn Hồ Chí Minh, để thương thảo một giải pháp chính trị với người Việt Quốc Gia.
Sứ giả Pháp tiếp cận với Bảo Đại với những điều khoản không khác gi khi đàm phán với Hồ Chí Minh vào ngày 6 tháng 3 năm 1946: Thống nhất và độc lập trong Liên hiệp Pháp, giao cho Bảo Đại thành lập một chính phủ rõ ràng là một giải pháp thay thế cho VNDCCH của Hồ Chí Minh. Với sự khuyến khích của Pháp, một số nhóm người Việt Quốc Gia thành lập một đảng chính trị ủng hộ Bảo Đại nắm quyền lãnh đạo tối cao cho một chính thể không-Việt Minh. Lúc đầu Bảo Đại lảng tránh và bi quan, nhưng rồi cuối cùng nghĩ rằng tình hình Đông Dương đủ tuyệt vọng từ đó Pháp buộc phải tôn trọng những cam kết của mình. Thêm vào đó dường như ông tin rằng ông có thể thu hút được hỗ trợ và viện trợ vật chất của Mỹ - một cái nhìn có thể đã được nẩy nở từ một bài báo năm 1947 trên tạp chí Life, William C. Bullitt, cựu Đại sứ Mỹ tại Pháp một người có nhiều ảnh hưởng, đã ủng hộ Bảo Đại như một giải pháp cho tình trạng khó xử của Pháp. 56 /
Sau đó Pháp tiến hành ký kết với Bảo Đại một loạt các thỏa thuận, mỗi một trong số đó có vẻ như là mang Bảo Đại đến gần quyền tự chủ đích thực cho Việt Nam hơn. Tuy nhiên, cho đến tháng Hai năm 1950, quốc hội Pháp mới thừa nhận nền Độc Lập chính trị và Thống Nhất cho Việt Nam. Ghi chép dưới đây là các bước chính đã làm Pháp thất bại, một mặt trong việc đạt một thỏa thuận với Hồ Chí Minh, và mặt khác là việc dựng lên "giải pháp Bảo Đại" thay vào đó. 57/
(xem tiếp kỳ 4)
Nguyễn Quốc Vĩ dịch


-4 --Những biến cố chính
trong quan hệ Pháp-Việt
(1946 – 1950)
Biến Cố
Mô Tả
Hậu Quả
Hiệp Định ngày 06 tháng 3 1946
Hiệp định ký kết bởi Hồ Chí Minh với Pháp thỏa thuận rằng:
1. Pháp công nhận Bắc Việt như:
Nhà nước “Tự Do …là một phần của Liên Bang Đông Dương và
Liên Hiệp Pháp ".
2. VNDCCH chào đón quân đội Pháp được vào Bắc Kỳ trong thời gian 5 năm
3. những đàm phán tiếp theo sẽ được làm để giải thích rõ ràng các chi tiết
1. Dẫn đến việc Pháp chiếm đóng vùng châu thổ miền Bắc
2. không bước đi quan trọng nào được Pháp thực hiện
đối với quyền tự chủ của VNDCCH
Hội nghị lần đầu tiên tại Đà Lạt, từ 19 Tháng 4 đến 11 Tháng Năm 1946
Pháp và các đại biểu của VNDCCH đã cố gắng thương lượng về sự khác biệt, nhưng
chỉ đạt được những thỏa thuận nhỏ về các vấn đề văn hóa và giáo dục

1. bị lu mờ bởi sự tiếp diễn của chiến tran du kích tại Nam Kỳ.
2. Một ủy ban được thành lập để sắp xếp một thỏa ước đình chiến; [một việc làm] vô ích.

Thành lập Chính Phủ Nam Kỳ lâm thời,
01 tháng Sáu năm 1946
Pháp công bố thành lập [nước] Nam Kỳ độc lập nằm trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp.

1. Thúc đẩy một làn sóng của
Chiến tranh du kích mới ở Nam Việt Nam.
2. Áp lực về khả năng chia cắt Việt Nam trên VNDCCH trong đàm phán với Pháp; VNDCCH giữ thái độ cứng rắn.
Hội nghị Fontainbleau,
từ 6 tháng 7 đến 10 tháng 9 năm 1946
Các cuộc đàm phán chính thức tại Pháp giữa đoàn VNDCCH đứng đầu là Hồ Chí Minh và các quan chức Pháp hạng hai đều
không dẫn đến thoả thuận trên bất kỳ nội dung vấn đề nào
Đoàn VNDCCH rút lui để phản đối lần triệu tập Hội Nghị Đà Lạt lần thứ hai (dưới đây), rồi nối lại các cuộc đàm phán,
sau đó cùng dời [phiên họp] mà không có tiến bộ nào.
Hội nghị Đà Lạt lần thứ hai, 1 Tháng Tám 1946
Hội nghị giữa Pháp, Nam Kỳ, Lào,
Campuchia, người Thượng ở Việt Nam:
1. Công bố hình thành "các quốc gia liên bang" dưới Cao ủy Pháp.
2. Tố cáo đoàn VNDCCH dự [Hội Nghị] Fontainbleau là không có tính đại diện.
3. Campuchia và Nam Kỳ tính có đại diện trực tiếp trong Liên Hiệp Pháp và nước ngoài nước, nhưng Pháp từ chối.
1. gây ra sự tan vỡ của Hội nghị Fontainbleau.
2. Đưa ra một bộ mặt Liên bang mới nhưng chả dẫn đến một nhượng bộ chính trị đáng kể từ Pháp.
Pháp - VNDCCH
Giữ nguyên hiện trạng,
ngày 14 tháng 9 năm 1946
Sau khi đoàn VNDCCH rời Fontainbleau, Hồ Chí Minh ký một thỏa thuận với Pháp, có hiệu lực từ 30 tháng 10 năm 1946:
1. Quyền đối ứng [reciprocal] công dân.
Quyền đối ứng về sở hữu và hoàn trả những tài sản của Pháp đã bị tịch thu tại Việt Nam.
Đơn vị tiền tệ “đồng” phục thuộc vào tiền quan Pháp [franc].
Liên minh thuế quan và tự do thương mại trong Liên Bang Đông Dương.
Ủy ban đình chiến để giải quyết cuộc chiến tranh du kích tại Nam Kỳ.
Trưng cầu dân ý để quyết định mối quan hệ của Nam Kỳ của VNDCCH.
Đàm phán Pháp-VNDCCH sẽ được nối lại vào tháng Giêng năm 1947.
1. Dẫn đến việc trả tự do cho một số tù nhân, và hoạt động du kích im ắng lại.
2. Không nhượng bộ chính trị đáng kể từ Pháp đã xảy ra
"Sự cố" Hải Phòng, Lạng Sơn, và Đà Nẳng, tháng mười một năm 1946
Tranh chấp địa phương dẫn đến cuộc đụng độ giữa quân Pháp và VNDCCH
1. Pháp đơn phương nắm quyền kiểm soát Hải Phòng và Lạng Sơn.
2. Quân tiếp viện của Pháp đổ bộ Đà Nẳng, vi phạm của hiệp định 6 tháng 3.
Biến cố Hà Nội,
19 Tháng 12, 1946
Xung đột quy mô lớn bắt đầu, bung ra trên khắp Việt Nam
Quan hệ giữa Pháp và VNDCCH là hoàn toàn đổ vỡ
Tuyên bố Nam Kỳ Tự Trị, 04 tháng 2 năm 1947
Cao ủy Pháp mở rộng quyền hạn của Chính Phủ Sài Gòn bao gồm:
1. Các sinh hoạt Lập Pháp và Hành Pháp trên tất cả các công việc nội bộ.
2. Phổ thông đầu phiếu cho cuộc bầu cử cơ quan Lập Pháp
1. Chủ tịch Lê Văn Hoạch của Nam Kỳ thừa nhận Việt Minh kiểm soát phần lớn Nam Kỳ
2. Cuộc bầu cử bị nhiều lần trì hoãn vì rối loạn dân sự.
Hiệp Định Vịnh Hạ Long đầu tiên,
07 Tháng 12, 1947
1. Bảo Đại dấn than vào phong trào quốc gia do Pháp tài trợ.
2. Pháp đưa ra những hứa hẹn với ngôn ngữ mơ hồ về độc lập quốc gia cho Việt Nam.
1. Pháp đã không có hành động nào nhằm buông quyền kiểm soát của họ tại Việt Nam.
2. Bảo Đại rút lui về Âu Châu
3. Hiệp định bi các người Quốc Gia không phải là Việt Minh lên án, ví dụ như, Ngô Đình Diệm.
Hiệp Định Vịnh Hạ Long thứ hai 05 Tháng 6, 1948
1. Pháp long trọng công nhận nền Độc Lập của Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp.
2. Bảo Đại trở lại với các nỗ lực để lập một chính phủ Quốc Gia
1. Pháp chuyển giao quyền lực chính trị không đáng kể cho người Việt Nam.
2. duy nhất chỉ dẫn đến các cuộc đàm phán thêm giữa Bảo Đại và Pháp.
Hiệp định Elysee,
8 tháng 3 năm 1949
Trong những trao đổi thư tín giữa Bảo Đại và Tổng thống Auriol, Pháp:
1. Tái khẳng định qui chế của Việt Nam là một nước độc lập trong Liên hiệp Pháp.
2. Đồng ý thống nhất Việt Nam, và đặt nó dưới chính quyền của Việt Nam, theo các điều khoản sẽ được đàm phán sau.
3. [Pháp] Giữ lại quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang và các mối quan hệ của Việt Nam với nước ngoài.
1. Quyền ưu tiên kinh tế và chính trị Pháp vẫn không thay đổi, ngay cả về mặt nguyên tắc.
2. Nam Kỳ chính thức sáp nhập với An Nam [Trung Kỳ] và Bắc Kỳ [Kỳ] vào một Nhà nước Việt Nam vào tháng Sáu năm 1949.
3. Kế hoạch chuyển giao hành chính nội bộ công bố ngày 30 tháng 12 1949.
4. Vấn đề thực tiễn trong việc chuyển giao các chức năng hành chính chính về đối ngoại sẽ được hoãn lại đến đàm phán ở Pau năm 1950. [Pau là một thành phố ở phía Nam Pháp cạnh Tây Ban Nha)
Công nhận Việt Nam Độc Lập, 14 tháng 6 năm 1949
Cao ủy Pháp ở Đông Dương và vua Bảo Đại trao đổi thư ở Sài Gòn chính thức hóa Hiệp Định Elysee
1. Chính phủ Nam Kỳ từ nhiệm trước Bảo Đại, sáp nhập về nguyên tắc với Nhà nước Việt Nam.
2. Thực tế không có sự chuyển nhượng nào về chính trị
Pháp phê chuẩn Độc Lập của Việt Nam, ngày 2 tháng 2 năm 1950
Sau khi Quốc hội phê duyệt (29 Tháng một, 1950), Pháp thông báo phê chuẩn qui chế cho Việt Nam như được mô tả trong Hiệp định Elysee.
1. Mỹ công nhận Việt Nam (ngày 03 tháng hai 1950).
2. Chi tiết về việc chuyển giao các quyền phải chờ đợi các cuộc đàm phán Pau (Tháng Ba, 1956).
Chính sách của Hoa Kỳ về cuộc xung đột, 1947-1949
Mỹ đã thể hiện mối quan tâm ngày càng tăng trong cuộc xung đột ở Đông Dương, nhưng cho đến 1949 chính sách của Mỹ tiếp tục coi chiến tranh cơ bản là một vấn đề do Pháp giải quyết. Rõ ràng đã có những ghi nhận rằng các nhà hoạch định chính sách của Mỹ ngày càng nhận thức có khoảng trống về các chính sách của Pháp trong năm 1946 và 1947. Hoa Kỳ, qua những đại diện của họ ở Pháp, luôn than phiền về triển vọng của cuộc chiến tranh kéo dài ở Việt Nam, và kêu gọi nhượng bộ có ý nghĩa đối với dân Việt. Tuy nhiên, Mỹ - luôn luôn không ủng hộ Hồ Chí Minh, bị cản trở bởi quá trình dính líu với cộng sản của ông Hồ. Do đó, chính sách của Mỹ bị hút vào giải pháp Bảo Đại của Pháp. Không có lúc nào Mỹ có ý công khai can thiệp vào chuyện đời [ở Việt Nam]. Làm như thế sẽ đụng độ với quan điểm của Anh cho rằng Đông Dương là chuyện độc quyền của Pháp, và sẽ bị lợi dụng bởi bàn tay của các đảng cực đoan chính trị của Pháp cả phe tả lẫn phe hữu. Hoa Kỳ đặc biệt e ngại rằng việc can thiệp sẽ tăng cường vị trí chính trị của Cộng sản Pháp. Hơn nữa, trong năm 1946 và 1947, Pháp và Anh đang hướng tới một liên minh chống Liên Xô ở Âu Châu, và Mỹ rất ngần ngại đưa ra một chính sách có tiềm năng gây chia rẽ. So với việc [lo] phục hồi Âu Châu và [lo] thoát khỏi sự thống trị của cộng sản, Hoa Kỳ đã xem số phận của Việt Nam tương đối không đáng kể. Hơn nữa, tranh chấp trong năm 1946 và trong cả năm 1945 trên thuộc địa Hà Lan ở Indonesia đã tạo nên một tiền lệ: Mỹ đã hành xử một cách thận trọng, và chỉ sau khi những trì hoãn lâu dài, đã quốc tế hóa cuộc xung đột. Những đầu tư mạnh mẽ của Mỹ và Anh ở Indonesia, hơn nữa, là cơ sở chung để can thiệp. [Nhưng] không có cơ sở hợp lý hoặc chung để can thiệp vào Đông Dương, kể từ khi Đông Dương là một khu vực kinh tế chỉ dành riêng cho Pháp và là một bãi lầy chính trị mà Vương quốc Anh rõ ràng là quan tâm trong việc tránh nó.
Các chính sách của Mỹ thường hay đưa đến nhiều nhất là kết luận gọi là "trung lập". Tuy nhiên điều đó cũng phù hợp với chính sách nhằm trì hoãn ý muốn của Pháp được Bộ trưởng Ngoại Giao thời Tổng thống Roosevelt tuyên bố ngày 03 tháng 4 năm 1945. Đó là một chính sách đặc trưng bởi sự do dự đánh dấu chính sách của Mỹ trong thời kỳ chiến tranh. Hơn nữa, đó là một chính sách được xây dựng trên sự thờ ơ đến nhạt nhòa: vào thời đó, Đông Dương là một trong những khu vực mà Mỹ có thể tận hưởng sự thoải mái của việc mình không có mặt nơi đó.
Khi chiến tranh nổ ra giữa Bắc Việt và Pháp trong Tháng Mười Hai, 1946, John Carter Vincent, Giám đốc Văn phòng Các Vấn Đề ở Viễn Đông, trong một bản ghi nhớ gửi Phó Bộ Trưởng Acheson ngày 23 tháng 12 năm 1946, đã yêu cầu ông này gọi Đại sứ Pháp để nêu bật những nguy hiểm vốn có. Biên bản ghi nhớ gồm những phân tích sâu sắc:
“Mặc dù Pháp ở Đông Dương đã thực hiện nhiều nhượng bộ sâu rộng trên giấy đối với mong muốn của Việt Nam về quyền tự chủ, hành động của Pháp trên thực địa lại được hướng vào việc làm giảm các quyền hạn và phạm vi lãnh thổ của Việt Nam “tự do”. Một diễn tiến mà phía Việt Nam đã tiếp tục phản kháng. Đồng thời, bản thân Pháp cũng thừa nhận rằng họ không đủ sức mạnh quân sự để tái chiếm đất nước. Tóm lại, với các lực lượng không đầy đủ, bị dư luận chống đối mạnh, với một chính phủ rất không hiệu quả vì những chia rẽ nội bộ, những gì mà người Pháp đã cố gắng thực hiện ở Đông Dương là những gì mà một nước Anh mạnh mẽ và thống nhất đã thấy nó là không khôn ngoan khi họ cố làm ở Miến Điện. Với các yếu tố như trong tình hình hiện tại chiến tranh du kích có thể tiếp diễn vô thời hạn”
Ngoại trưởng Acheson làm theo như ông Vincent đề nghị, và đã bày tỏ những quan điểm với ngài Đại sứ, tóm tắt như sau:
“Chúng tôi đã dự đoán tình hình phát triển như thế vào tháng Mười và những sự việc [xảy ra] đã xác nhận những lo ngại của chúng tôi. Trong khi chúng tôi không có gì để làm trung gian trong điều kiện hiện nay, chúng tôi vẫn muốn chính phủ Pháp biết rằng chúng tôi đã sẵn sàng và muốn làm bất cứ điều gì xét ra hữu ích trong hoàn cảnh hiện nay. Chúng tôi hài lòng khi biết được nhiệm vụ của Moutet và có được niềm tin vào sự chừng mực và tầm nhìn rộng của ông. Tuy nhiên chúng tôi tin rằng tình hình là rất nóng bỏng và nếu những vấn nạn hiện nay vẫn tiếp tục chưa được giải quyết, có khả năng là các cường quốc khác sẽ cố gắng để đưa vấn đề ra trước Hội đồng Bảo An. Nếu điều này xảy ra, như trong trường hợp của Indonesia, câu hỏi đặt ra là vấn đề là một việc hoàn toàn nội bộ của Pháp hay một tình huống có khả năng gây hại cho hòa bình. Tương tự, các cường quốc khác sẽ đưa ra một số hình thức can thiệp như đã được đề xuất trên báo chí Trung Quốc. Chúng tôi sẽ chống các bước như vậy, nhưng qua tất cả mọi quan điểm dường như vấn đề phải được giải quyết càng sớm càng tốt. Ông Acheson nói thêm rằng ông tự hỏi liệu Pháp sẽ cố gắng để tái chiếm đất nước bằng quân sự, một bước đi mà người Anh đã thấy là không khôn ngoan khi muốn làm [tái chiếm] ở Miến Điện” 58/
Ngày 08 tháng 1 năm 1947, Bộ Ngoại Giao chỉ đạo Đại sứ Mỹ tại Paris rằng Hoa Kỳ sẽ chấp thuận bán vũ khí và khí tài chiến tranh cho Pháp "ngoại trừ trong trường hợp dính líu đến Đông Dương” 59 / Trong cùng ngày, 8 tháng 1 năm 1947, người Pháp chuyển cho Bộ Ngoại Giao Mỹ một thông điệp rằng:
“...Chính phủ Pháp, đánh giá cao thái độ thông hiểu mà ông Acheson đã cho thấy trong khi thảo luận về các vấn đề Đông Dương, đã lưu ý về việc ông Acheson muốn giữ một vai trò “trung gian tốt” và đánh giá cao tinh thần mà đề nghị đã đưa ra; và rằng chính phủ Pháp không cảm thấy rằng họ có thể vận dụng đề nghị của quí ngài, nhưng sẽ một mình tiếp tục xử lý tình hình theo như những tuyên bố của Moutet. [Sứ giả] đã nói rằng mục tiêu chính của quân đội Pháp là khôi phục trật tự và mở lại các tuyến đường giao thông. Ông nói rằng sau khi những chuyện đó được hoàn tất Chính phủ Pháp sẽ sẳn sàng thảo luận về các vấn đề với Việt Nam. Ông nói rằng Chính phủ Pháp luôn trong mỗi ý định là tôn trọng thỏa ước ngày 06 tháng Ba và giữ nguyên hiện trạng ngày 15 tháng 9, một khi trật tự đã được khôi phục.[Được hỏi là]...liệu ông có nghĩ rằng quân đội Pháp có thể lập lại trật tự trong một thời điểm tương lai nào có thể thấy được không? Ông ra vẻ suy nghĩ, với không nhiều bằng chứng xác tín rằng là họ có thể [làm được chuyện ấy] …” 60 /
Sau đó trong câu chuyện trao đổi đáng quan tâm giữa nhân viên Hoa Kỳ và đại diện Pháp, trong đó người Pháp đã phác thảo một luận điệu kết án Mỹ phạm tội với cuộc chiến [Đông Dương]
“Trong lúc nói chuyện riêng, tôi nói với anh ta là tôi nghĩ rằng có một thiếu sót đáng nói đến trong cách tiếp cận vấn đề của Pháp. Trong ý nghĩ, trước đây tôi cho rằng đã có một sự bình đẳng về trách nhiệm giữa Pháp và Việt. Tôi đã nói rằng điều này dường như không phải là như thế, để đạt được một giải pháp cho vấn đề, trách nhiệm của Pháp là một cường quốc quốc tế lớn hơn nhiều hơn so với người Việt Nam, và rằng việc đang xảy ra không phải là một chuyện mà có thể xác định như thể là một chuyện hoàn toàn giữa Pháp và Việt Nam, mà là một vấn đề có thể ảnh hưởng một cách bất lợi trên tình thế khắp khu vực Đông Nam Á”
“[vị sứ giả] đã nhanh chóng thay thế chữ 'quyền' cho chữ 'trách nhiệm' và nói rằng Pháp đang phải đối mặt với vấn đề tái khẳng định quyền hạn của họ và chúng ta phải chia sẻ trách nhiệm cho sự chậm trễ của họ khi làm điều đó bởi vì chúng ta đã không thỏa mãn yêu cầu hỗ trợ về vật chất của Pháp mùa thu năm 1945. " 61/
Đầu tháng Hai, Đại sứ Hoa Kỳ ở Paris đã được chỉ thi trấn an Thủ Tướng Ramadier và [nói lên] "tình cảm rất thân thiện" của Mỹ đối với Pháp và lợi ích của Mỹ trong việc hỗ trợ Pháp phục hồi sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự:
“Dù có bất kỳ sự hiểu lầm có thể đã phát sinh trong tâm trí, trước thái độ của chúng ta liên quan đến Đông Dương, Pháp đã phải đánh giá cao về việc chúng ta đã công nhận hoàn toàn chủ quyền của Pháp ở khu vực đó và chúng ta không muốn có bất kể tình huống nào xảy ra như thể là chúng ta đang nỗ lực làm suy yếu vị thế đó [của Pháp] và Pháp nên biết đó là mong muốn của chúng ta là giúp ích cho họ và chúng ta sẵn sàng hỗ trợ với bất kỳ phương cách thích hợp nào để có thể để tìm ra giải pháp cho vấn đề Đông Dương. Cùng lúc, chúng ta không thể nhắm mắt trước thực tế là có hai mặt cho vấn đề này và những báo cáo của chúng ta cho thấy cả một sự thiếu hiểu biết về Pháp ở phía bên kia (ở Sài Gòn hơn ở Paris) và tiếp tục tồn tại những cái nhìn lỗi thời và phương pháp nguy hiểm thời thuộc địa trong khu vực. Hơn nữa, ta không thoát khỏi một thực tế khác là xu hướng của thời đại đang chứng thực là các đế quốc thực dân theo kiểu thế kỷ XIX nay đã nhanh chóng trở thành chuyện của quá khứ. Hành động của Anh ở Ấn Độ và Miến Điện và của Hà Lan ở Indonesia là những ví dụ nổi bật xu hướng này và Pháp tự mình cũng đã nhận thức rõ nó trong Hiến Pháp mới và trong các hiệp định ký với Việt Nam. Mặt khác, chúng tôi không bị mất tầm nhìn thực tế rằng Hồ Chí Minh đã trực tiếp cấu kết với Cộng sản và rõ ràng là chúng ta không thích thú gì khi thấy chính quyền của đế chế thực dân nay được thay thế bởi ý thức hệ và các tổ chức chính trị khởi nguồn từ [Kremlin] và bị kiểm soát bởi điện Kremlin”
“Thành thật mà nói, chúng tôi không có giải pháp để đề nghị cho vấn đề. Cơ bản là hai bên phải trực tiếp tự làm việc với nhau để tìm ra giải pháp và những báo cáo của quí bạn và từ Đông Dương, đã dẫn chúng tôi đến cảm tưởng rằng cả hai bên đều đã cố gắng để giữ cho cánh cửa mở để giải quyết một số vấn đề. Chúng tôi nhận định rằng sự kiện Việt Nam khởi sự tấn công ở Đông Dương vào ngày 19 tháng 12 và rằng hành động này đã làm cho Pháp trở nên khó khăn hơn trong việc đứng vào một vị thế rộng lượng và hoà giải. Tuy nhiên chúng tôi hy vọng rằng Pháp sẽ tìm mọi cách để trở nên rộng rãi hơn trong việc tìm ra một giải pháp.” 62/
Như vậy, Mỹ đã chọn ở bên ngoài cuộc xung đột, vị trí đựợc Mỹ công bố, qua những lời của Bộ Trưởng Ngoại Giao George C. Marshall hy vọng rằng 63 / "một cơ sở hòa bình để điều chỉnh những khó khăn có thể được tìm thấy." Tuy nhiên những gì xảy ra đã kình chống lại niềm hy vọng này, và như cuộc chiến cứ kéo dài, viễn ảnh một nhà nước Việt Nam bị Moscow kiểm soát dần kéo Mỹ đến gần hơn sự can thiệp. Ngày 13 tháng 5 năm 1947, Bộ Ngoại giao đưa ra những hướng dẫn đển các nhà ngoại giao Mỹ ở Paris, Sài Gòn và Hà Nội;
“Chìa khóa trọng yếu của chúng ta là nhận thức của chúng ta đối với những gì đang xảy ra là có ảnh hưởng đến vị trí các cường quốc dân chủ phương Tây ở miền Nam Á, căn bản là chúng ta cùng hội cùng thuyền với Pháp, cũng như Anh và Hà Lan. Chúng ta không thể làm thất bại lợi ích về lâu dài của Pháp, mà không làm thất bại lợi ích chính của chúng ta. Ngược lại chúng ta nên coi việc liên mình với Liên Hiệp Pháp và các thành viên của Liên Hiệp không chỉ có lợi cho các dân tộc liên quan, mà còn gián tiếp có lợi cho chúng ta.
“Theo quan điểm của chúng tôi, Nam Á trong giai đoạn lịch sử quan trọng này của nó với bảy quốc gia mới trong quá trình vừa đạt được hoặc đang đấu tranh dành độc lập hoặc quyền tự chủ. Các quốc gia này chiếm một phần tư dân số thế giới và tương lai của họ, với trọng lượng tuyệt đối về dân số, với các nguồn tài nguyên trong tay, và [nằm ở] vị trí chiến lược, họ sẽ là nhân tố trọng yếu cho ổn định thế giới. Sau khi vòng kiểm soát của [Thực Dân] Âu Châu bị giải thể, khác biệt về chủng tộc, tôn giáo, và các vấn đề nội bộ quốc gia có thể nhấn các quốc gia mới vào những xáo trộn có bạo lực, hoặc các xu hướng liên Á (Pan-Asiatic) chống phương Tây có thể biến thành lực lượng chính trị chi phối, hoặc cộng sản có thể lên nắm quyền kiểm soát. Chúng tôi đã xem cách tốt nhất để bảo vệ [mình] chống lại các tình huống này là tiếp tục một liên hiệp chặt chẽ giữa các dân tộc mới được tự trị và những chính quyền từ lâu đã chịu trách nhiệm về phúc lợi của dân họ. Đặc biệt là chúng tôi nhìn nhận là Việt Nam sẽ yêu cầu Pháp giúp những vật chất và hỗ trợ kỹ thuật trong một thời gian không xác định là bao lâu và giúp hướng dẫn những giác ngộ chính trị bởi vì Pháp là một nước ngập tràn truyền thống dân chủ và đã được xác tín trong việc tôn trọng tự do của con người và giá trị cá nhân.
“Tuy nhiên chúng tôi không kém phần thuyết phục rằng một hiệp hội như thế phải trên cơ sở tự nguyện để được lâu dài và đạt được kết quả, và rằng tiến hành trước việc này [lập hội] trong tình hình Đông Dương hiện tại chỉ có thể làm phá hủy việc lập hội trên cơ sở hợp tác tự nguyện, để lại một di sản vĩnh viễn cay đắng và làm Việt Nam mãi mãi xa lánh Pháp và những giá trị đại diện bởi Pháp và các nền dân chủ phương Tây khác.
“Trong khi hoàn toàn đánh giá cao những khó khăn về vị trí của Pháp trong cuộc xung đột này, chúng tôi cảm thấy có điều nguy hiểm khi bất kỳ sự sắp xếp nào có thể đem cơ hội đến cho Việt Nam có dịp so sánh một cách không thuận lợi, vị trí của chính họ và của các dân tộc khác ở miền Nam Á Châu mà đã có những bước tiến to lớn về quyền tự trị kể từ khi có chiến tranh
“Trong khi chúng ta đã chuẩn bị và sẵn sàng làm bất cứ điều gì chúng ta có thể được coi là hữu ích thì Pháp có lẽ hiểu rằng chúng ta đã không cố gắng đưa ra bất kỳ giải pháp nào từ chính chúng ta hoặc không can thiệp vào tình hình. Tuy nhiên họ cũng sẽ hiểu rằng chúng ta không thể nào tránh khỏi liên quan với tình hình Viễn Đông nói chung, trên mọi biến chuyển ở Đông Dương có thể có những ảnh hưởng sâu sắc …
“Để các bạn nắm thông tin, đã có những chứng cớ cho rằng Cộng sản Pháp đang được chỉ đạo đẩy mạnh vận động của họ ở thuộc địa Pháp thậm chí phải chịu mất nhiều hỗ trợ từ quần chúng Pháp (URTEL 1719 25 tháng 4). Có thể đây là dấu hiệu cho thấy điện Kremlin chuẩn bị gia tăng hy sinh tạm thời 40 triệu dân Pháp với chiến lược dài hạn [để nắm] vùng thuộc địa với 600 triệu người sống ở đó đã phát sinh ra cái nhìn khẩn cấp nói trên.... Bộ Ngoại Giao có nhiều lo nghĩ là sợ rằng những nỗ lực của Pháp nhằm tìm ra những "đại diện thực sự cho Việt Nam" mà kết quả lại là tạo ra những chính phủ bù nhìn kiểu như các chế độ ở Nam Kỳ hoặc việc phục hồi Bảo Đại [sic] để có thể được coi như là nền dân chủ để hạ bệ chế độ quân chủ là một vũ khí chống lại cộng sản. Bạn có thể tham khảo thêm những quan điểm sau đây nếu bản chất của cuộc thảo luận với bạn về Pháp là cần thiết”. 64 /
Thái độ Mỹ có thể đã ảnh hưởng đến việc người Pháp sửa đổi Hiệp Định Hạ Long đầu tiên (Tháng 12 năm 1947) và khi thỏa thuận thứ hai được ký kết vào tháng 6 năm 1948. Mỹ ngay lập tức chỉ thị cho Đại sứ Mỹ " áp dụng những thuyết phục và / hay những áp lực với tính toán hay nhất để có thế nào đạt được kết quả mong muốn” về việc “Pháp phê chuẩn rõ ràng và nhanh chóng nguyên tắc một Việt Nam Độc Lập”. 65/ Tuy nhiên, một lần nữa Đại sứ chỉ tránh những gì có vẻ là can thiệp trong khi phải làm rõ là Mỹ đã nhìn thấy Pháp sẽ mất Đông Dương nếu họ cứ tiếp tục bỏ qua lời khuyên của Mỹ. Những chỉ thị này được lặp đi lặp lại vào cuối tháng 8 năm 1948 với khẳng định rằng Bộ Ngoại giao tin rằng không có gì được bỏ qua để tăng cường cho các nhóm thực sự quốc gia ở Đông Dương và làm cho những người ủng hộ Việt Minh chạy qua sát cánh cùng với nhóm [quốc gia] này.
Những ý kiến đầu tiên cho rằng Hoa Kỳ cụ thể đã nhúng tay vào Việt Nam xuất hiện trong một báo cáo về cuộc trò chuyện giữa Đại sứ Hoa Kỳ với Bộ Ngoại giao Pháp vào tháng Chín năm 1948. Đại sứ Hoa Kỳ một lần nữa kêu gọi Quốc Hội Pháp có những hành động cụ thể khác để tiến tới sự thống nhất của Việt Nam và đàm phán ngay lập tức các bước cụ thể hướng tới quyền tự chủ như được dự kiến trong Hiệp Định Vịnh Hạ Long. Sau đó ông nói với người đại diện Pháp rằng:
“…Mỹ hoàn toàn đánh giá cao những khó khăn mà Chính phủ Pháp phải đối mặt tại Đông Dương vào thời điểm này và Hoa Kỳ đã cho thấy sự sẵn sàng của mình nếu Chính phủ Pháp mong muốn đưa ra cho công chúng những chỉ dấu nhằm phê duyệt các bước cụ thể của Chính phủ Pháp để nắm vững những vấn đề chính trị cơ bản của Đông Dương. Tôi thông báo với ông rằng Hoa Kỳ cũng sẵn sàng trong những hoàn cảnh tương tự để xem xét việc giúp Chính phủ Pháp trong vấn đề hỗ trợ tài chính cho Đông Dương qua ECA nhưng không thể đưa ra xem xét để thay đổi chính sách hiện tại cho đến khi nào có những tiến bộ thực sự trong việc đạt được giải pháp không cộng sản cho Đông Dương trên cơ sở hợp tác của các nhóm thực sự quốc gia của nước đó.
Trong khi các cuộc đàm phán sơ bộ với Bảo Đại trước Hiệp định Elysée Bộ Ngoại giao chỉ đạo Đại sứ Mỹ tại Paris vào ngày 17 tháng Giêng năm 1949 rằng:
“Trong khi Bộ mong muốn Pháp hoàn tất công việc với Bảo Đại hay bất kỳ nhóm Quốc Gia thực sự nào có cơ hội hợp lý để chiến thắng ở Việt Nam, trong thời điểm này chúng ta không thể cam kết vĩnh viễn về việc Hoa Kỳ hỗ trợ một chính phủ bản địa không được lòng dân mà hầu như là một chính phủ bù nhìn xa cách người dân mà sự hiện hửu chỉ là do sự hiện diện các lực lượng quân đội Pháp. " 68/
Sau Hiệp định Elysée, Mỹ đã sẳn sàng hơn về việc cung cấp viện trợ cho Đông Dương. Ngày 10 Tháng 5, 1949, Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn đã được thông báo rằng Mỹ mong muốn "thử nghiệm Bảo Đại " thành công khi mà xem ra không có giải pháp thay thế nào khác.
“Vào thời điểm thích hợp và hoàn cảnh thích hợp, Bộ sẽ chuẩn bị làm về phần mình bằng cách đưa ra công nhận chính phủ Bảo Đại và bằng cách có thể chấp nhận bất cứ yêu cầu nào của chính phủ ấy về vũ khí Mỹ và hỗ trợ kinh tế. Tuy nhiên điều này phải được hiểu rằng chương trình viện trợ với tính chất như thế phải được Quốc hội phê duyệt. Tuy nhiên, khi mà Mỹ khó có thể đủ khả năng ủng hộ một chính phủ có thể có màu sắc và khả năng là một chế độ bù nhìn, rõ ràng là Pháp phải đưa ra tất cả những nhượng bộ cần thiết để làm cho giải pháp Bảo Đại hấp dẫn đối với các phe phái Quốc Gia. Đây là một bước đi mà Pháp phải tự thấy sự cấp bách và cần thiết. Cái viễn ảnh chỉ còn một thời gian ngắn còn lại trước khi Cộng sản có thể thành công ở Trung Quốc đã được cảm nhận ở Đông Dương. Hơn nữa chính phủ Bảo Đại phải thông qua những cố gắng riêng để chứng minh khả năng tổ chức và tiến hành công việc một cách khôn ngoan để đảm bảo cơ hội tối đa để gặt hái ủng hộ của nhân dân. Một chính phủ dựng lên ở Đông Dương tương tự như Quốc Dân Đảng sẽ là một thất bại được đoán trước.” 69 /
Tuy nhiên, "chống cộng" lúc đầu đươc chứng minh rằng nó không phải là những chỉ đạo tốt hơn trong việc xây dựng các chính sách của Mỹ ở Đông Dương như đã được người Pháp [ứng dụng]. Trên thực tế, những cố gắng lúc đầu để phân biệt tính chất, mức độ ảnh hưởng của cộng sản tại Việt Nam đã đưa đến các nghịch lý là dường như rằng nếu Hồ Chí Minh là cộng sản, ông dường như không có mối quan hệ nào có thể thấy được với Moscow. Ví dụ như trong thẩm định của Bộ Ngoại giao về Hồ Chí Minh cung cấp cho Đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc trong tháng 7 năm 1948 đã phải thừa nhận đó chỉ là suy đoán:
"1. Nguồn tin của Bộ [Ngoại Giao Mỹ] cho thấy rằng Hồ Chí Minh là Cộng sản. Lý lịch lâu năm và nổi tiếng của ông ta trong Quốc Tế Cộng Sản trong những năm hai mươi và ba mươi, liên tục được tờ báo Nhân Đạo của đảng Cộng sản Pháp hỗ trợ từ năm 1945, lời khen ngợi mà đài phát thanh Moscow dành cho ông (sáu tháng qua đã được dành cho sự quan tâm ngày càng tăng về Đông Dương) và thực tế ông đã được gọi là “người cộng sản hàng đầu“ trong những ấn phẩm gần đây của Nga cũng như tờ “Lao Động Hàng Ngày” đã làm cho bất kỳ kết luận nào khác xuất hiện như một điều ước mơ.
"2. Bộ cũng đã không có bằng chứng nào về sự gắn kết trực tiếp giữa Hồ và Moscow, nhưng vẫn cho rằng nó tồn tại, cũng không thể đánh giá mức độ về áp lực hay chỉ đạo mà Moscow hành xử [trên Hồ]. Chúng tôi có cảm tưởng rằng Hồ đã được hoặc tự mình duy trì một mức độ tự do hành động nào đó. Bộ xét rằng Liên Xô đang hoàn thành mục tiêu ngắn hạn của họ ở Đông Dương bằng cách (a) kềm chân một số lượng lớn của quân đội Pháp, (b) làm chảy máu nhanh chóng nền kinh tế Pháp do đó làm chậm lại sự phục hồi và làm tiêu tan hỗ trợ ECA cho Pháp, và (c) ngăn chận thế giới nói chung hưởng những thặng dư mà Đông Dương thường có để tạo điều kiện cho việc duy trì tình trạng rối loạn và thiếu hụt để tạo thuận lợi cho cộng sản phát triễn hơn nữa. Hơn nữa có vẻ như Hồ hoàn toàn có khả năng duy trì và thậm chí nắm chặt Đông Dương nhiều hơn nữa mà không có sự hỗ trợ bên ngoài nào khác hơn là việc các chính phủ bù nhìn thân Pháp liên tục tiếp nối” 70/
Mùa thu năm 1948, Văn phòng Nghiên Cứu Tình Báo Bộ Ngoại Giao đã tiến hành một cuộc khảo sát ảnh hưởng của cộng sản ở Đông Nam Á. Những bằng chứng cho thấy Kremlin âm mưu đạo diễn đã được tìm thấy trong hầu như tất cả các nước ngoại trừ Việt Nam:
“Từ ngày 19 Tháng Mười Hai 1946, nhiều xung đột đã liên tục xảy ra giữa các lực lượng Pháp và chính phủ dân tộc của Việt Nam. Chính phủ này là một liên minh [Việt Minh] mà những người cộng sản kiên trinh giữ các chức vụ có ảnh hưởng. Mặc dù người Pháp thừa nhận ảnh hưởng của chính phủ này, họ đã liên tục từ chối đối thoại với lãnh đạo của họ, Hồ Chí Minh, trên cơ sở rằng ông ta là một người cộng sản.
"Cho đến nay, báo chí và đài phát thanh Việt Nam đã không chấp nhận vị trí chống Mỹ. Thay vào đó chính báo chí thuộc địa Pháp đã mạnh mẽ chống Mỹ và đã thoải mái cáo buộc chủ nghĩa đế quốc Mỹ ở Đông Dương đến mức xấp xỉ vị trí chính thức của Moscow. Mặc dù các đài phát thanh Việt Nam đã được theo dõi chặt chẽ xem coi có vị trí gì mới đối với Hoa Kỳ, không có gì thay đổi cho đến nay và cũng không có vẻ gì như đã có sự phân hóa trong chính phủ liên minh của Việt Nam [Việt Minh]
"Đánh giá. Nếu Moscow có âm mưu can thiệp vào khu vực Đông Nam Á thì Đông Dương lại là một sự bất thường cho đến nay. Có thể giải thích là:
Không có chỉ thị cứng nhắc được ban hành bởi Moscow
2.Chính phủ Việt Nam cho rằng nó không có thành phần thuộc cánh Hữu cần phải được thanh lọc.
3.Cộng Sản Việt Nam không có lợi ích gì để theo đuổi các chính sách đối ngoại của Moscow.
4.Một sự miễn trừ đặc biệt nào đó đã được Moscow dành cho chính phủ Việt Nam
"Trong số này, những khả năng đầu tiên và thứ tư dường như rất có thể." 71/
(Xem tiếp kỳ 5)-


I. A. 3
Nguồn Gốc Sự Can Thiệp Của Mỹ vào Đông Dương A.51
Bối cảnh chính sách                      A.51
Mỹ nhập cuộc chiến tranh             A.58

Nguồn Gốc Sự Can Thiệp Của Mỹ vào Đông Dương
Bối cảnh chính sách
Biến cố ở Trung Quốc năm 1948 và 1949 đã đưa Hoa Kỳ đến một nhận thức mới về sức sống của cộng sản ở Á Châu, và một ý thức cấp bách về việc ngăn chặn nó. Những công cụ chính sách của Mỹ phát triển để đáp ứng những thách thức rõ ràng của cộng sản ở Âu Châu đã được áp dụng cho vấn đề [công sản] vùng Viễn Đông. Song song với sự hình thành của NATO, Mỹ đã bắt đầu nghiên cứu mô hình an ninh tập thể cho Á Châu; các chương trình hỗ trợ kinh tế và quân sự đã được khánh thành; và Học thuyết Truman lấy lại toàn bộ kích thước mới bằng cách mở rộng vào những khu vực nơi mà các đế quốc Âu Châu đã được tháo gỡ. Vào tháng Ba năm 1947, Tổng thống Truman đã có quy định hướng dẫn chính sách sau đây:
"Tôi tin rằng chính sách của Hoa Kỳ là phải hỗ trợ các dân tộc tự do, những người đang chống lại toan tính chiếm đóng bởi các nhóm thiểu số vũ trang hoặc từ những áp lực bên ngoài.
Tôi tin rằng chúng ta phải giúp các dân tộc tự do tự định đoạt số phận của mình trong cách riêng của họ... " 72 /
Tổng Thống đã đi đến việc nhấn mạnh quyết tâm của Mỹ là cam kết dùng hết nguồn lực trong tay để ngăn chận cộng sản. Trong khi rõ ràng là ông đã đặt [tầm quan trọng] viện trợ quân sự dưới các biện pháp kinh tế và chính trị, ông vẫn khẳng định ý định của Mỹ là hỗ trợ việc duy trì an ninh:
“Để đảm bảo sự phát triển hòa bình của các quốc gia tự do khỏi sự áp bức, Hoa Kỳ đã giữ hàng đầu trong việc thành lập Liên Hiệp Quốc. Liên Hiệp Quốc được thiết kế để mang Tự Do và Độc Lập cho tất cả các thành viên của mình. Chúng ta sẽ không đạt được mục tiêu của mình nếu chúng ta không sẵn sàng giúp đỡ các dân tộc duy trì các tổ chức tự do và sự toàn vẹn quốc gia của họ, chống lại các vận động xâm lược đang tìm cách áp đặt một chế độ độc tài toàn trị. "
Năm 1947, trong khi viện trợ quân sự của Mỹ đã bắt đầu chảy vào Hy Lạp để ngăn ngừa một sự xâm lược nhằm lật đổ [chính quyền], Mỹ đã khánh thành kế hoạch phục hồi Âu Châu (ERP – European Recovery Plan). ERP là nhằm phục hồi kinh tế Tây Âu, đặc biệt là ở các nước như Pháp và Italia mà sự suy sụp sau chiến tranh đã nuôi dưỡng đậm xu hướng chính trị cánh tả. Trong một trong những đánh giá cấp cao về tình hình, [những gì] Mỹ phải lo ngăn chận trong năm 1947, Ủy Ban Harriman Về Viện Trợ Nước Ngoài đã kết luận rằng:
"Sự quan tâm của Hoa Kỳ với Âu Châu... không thể chỉ đơn giản là đo lường với những quan hệ kinh tế. Mà cả về chiến lược và chính trị.. Chúng ta đều biết rằng chúng ta đang phải đối mặt trong thế giới hiện nay với hai hệ tư tưởng trái ngược nhau.... vị trí của chúng ta trên thế giới là trên cơ sở các khái niệm dân chủ đã ít nhất một thế kỷ tồn tại ở Âu Châu mà một số cường quốc đã có truyền thống và chuẩn nhận....” 74/
Sự sụp đổ của Chính phủ Tiệp Khắc trong tháng 2 năm 1948 đưa lại Hiệp Ước Brussels về Phòng Thủ Chung và Hợp Tác Kinh Tế. Việc Berlin bắt đầu bị phong tỏa từ ngày 1 Tháng Tư, năm 1948 làm tăng tốc chuyển động của Mỹ đối với thành viên trong liên minh. Ngày 11 tháng 6 năm 1948, Thượng viện Mỹ đã thông qua một nghị quyết khuyến cáo ngành Hành Pháp thực hiện:
“… phát triển từng bước để đạt trong khu vực và với các cộng đồng các thỏa thuận phòng thủ riêng hay tập thể phù hợp với mục đích, nguyên tắc và các quy định trong Hiến Chương [Liên Hợp quốc] mà Hoa Kỳ gia nhập, phù hợp với quy định của Hiến Pháp. Các thỏa thuận phòng thủ khu vực và tập thể như thế phải đặt trên cơ sở trường kỳ hiệu quả về sự tự giúp mình và sự giúp đỡ hổ tương, và có tác động lên an ninh quốc gia.” 75/
Cùng tháng đó, Quốc Hội đã thông qua Đạo Luật Hợp Tác Kinh Tế, và vào tháng Bảy năm 1948, mở các cuộc đàm phán cho một Liên Minh Bắc Đại Tây Dương. Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đã được ký kết vào tháng Tư năm 1949, và có hiệu lực vào tháng Tám năm đó.
Trong cùng bản Dự Luật Hỗ Trợ Nước Ngoài ECA [Economic Cooperation Act còn gọi là Chương Trình Marshall] đã được Quốc Hội ủy quyền trong tháng 6 năm 1948 một Chương trình Viện Trợ cho Trung Quốc. Biện pháp này đã gặp thất bại gần như ngay lập tức, quân đội của Mao bùng phát không gì kiểm soát được ở Trung Hoa lục địa, và vào giữa năm 1949 vị trí của phe Quốc Gia đã không còn đứng vững. "Thất bại" của viện trợ Mỹ - danh từ mà các nhà phê bình trong Quốc hội dùng - tình trạng cũng không ít khẩn cấp hơn so với Âu Châu với vụ nổ hạt nhân đầu tiên của Liên Xô vào tháng Chín, năm 1949, đã hướng hành động của Quốc hội về các Luật về viện trợ quân sự. 76/
Ngày 06 Tháng 10 năm 1949, Quốc hội đã thông qua Chương trình Quốc Phòng Hỗ Trợ Lẫn Nhau (MDAP) thông qua đó vũ khí, trang thiết bị quân sự Mỹ và hỗ trợ đào tạo có thể được cung cấp trên toàn thế giới cho việc phòng ngự tập thể. Trong phân bổ đầu tiên dưới MDAP, các nước NATO đã nhận được 76% của tổng số, và Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ (chưa NATO thành viên), 16%. 77/ Tuy nhiên, Hàn Quốc và Philippines chỉ nhận được viện trợ khiêm tốn, và các nhà lập pháp rõ ràng có ý định trong Luật là nhằm đảm bảo việc phân bổ tiếp theo đối với an ninh tập thể ở Á Châu. Đoạn mở đầu của Luật không chỉ được hỗ trợ NATO, nhưng báo trước [sự thành hình] Hiệp Ước Liên Phòng Đông Nam Á:
“Một đạo luật Thúc Đẩy Chính sách Ngoại giao và Cung Cấp cho Quốc Phòng và Thịnh Vượng Chung của Hoa Kỳ bằng cách hỗ trợ quân sự cho cho quốc gia nước ngoài đã được phê duyệt ngày 6 Tháng Mười, năm 1949.
“Hãy để nó được ban hành bởi những Đại Diện của Thượng viện và Hạ Viện Hoa Kỳ trong kỳ họp Quốc Hội chung [ở đây], đạo Luật này có thể được trích dẫn như là ‘Luật Hỗ Tương Quốc Phòng năm 1949. '
ĐƯỜNG NÉT VÀ TUYÊN BỐ CỦA CHÍNH SÁCH
“Quốc hội Hoa Kỳ tái khẳng định chính sách của Hoa Kỳ là nhằm đạt được hòa bình và an ninh quốc tế thông qua Liên Hợp Quốc sao cho các lực lượng vũ trang không được sử dụng trừ trường hợp vì lợi ích chung. Từ đó, thấy rằng những nỗ lực của Hoa Kỳ và các nước khác nhằm thúc đẩy hòa bình và an ninh là những mục đích của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Quốc Hội yêu cầu các biện pháp hỗ trợ bổ sung dựa trên nguyên tắc là [phải] luôn luôn tự giúp mình một cách có hiệu quả và [phải] giúp đỡ lẫn nhau. Những biện pháp này bao gồm việc cung cấp viện trợ quân sự cần thiết để cho phép Hoa Kỳ và các quốc gia khác cống hiến cho các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc tham gia hiệu quả vào các thoả thuận cho việc phòng thủ riêng và tập thể để hỗ trợ những mục đích và nguyên tắc này. Trong khi cung cấp những hỗ trợ quân sự như thế, chính sách của Hoa Kỳ vẫn là tiếp tục nỗ lực tối đa để có được thỏa thuận với Liên Hiệp Quốc về việc cung cấp các lực lượng vũ trang như đã dự tính trong Hiến chương và về các thỏa thuận nhằm kiểm soát các vũ khí hủy diệt hàng loạt và về các quy định phổ quát và tài giảm vũ khí, bao gồm cả lực lượng vũ trang, dưới những biện pháp đầy đủ để bảo vệ các quốc gia tuân thủ chống lại những vi phạm và trốn tránh [trách nhiệm].
"Quốc Hội từ nay ủng hộ việc thành lập một tổ chức chung bỏi các quốc gia tự do và các dân tộc vùng Viễn Đông phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc để xây dựng một chương trình tự giúp đỡ và hợp tác lẫn nhau thiết kế để phát triển kinh tế và ấm no xã hội cho họ cũng là để bảo vệ các quyền cơ bản và quyền tự do, và bảo vệ an ninh và Độc Lập của họ.
“Quốc Hội nhận thấy rằng phục hồi kinh tế là điều cần thiết cho hòa bình và an ninh quốc tế và phải được ưu tiên rõ ràng. Quốc Hội cũng nhận ra rằng sự tự tin ngày càng tăng của các dân tộc tự do trong khả năng của mình để chống lại sự xâm lược trực tiếp hoặc gián tiếp và việc an ninh đất nước được bảo tồn sẽ thúc đẩy sự phục hồi và hỗ trợ cho ổn định chính trị.” 78/
Trong khi Quốc hội đang bàn cãi về MDAP [An Ninh Hổ Tương] thì các thành viên của Hội Đồng An ninh Quốc gia đã được Bộ trưởng Quốc phòng yêu cầu xem xét lại chính sách của Mỹ đối với Á Châu. Tháng 6 năm 1949, Bộ Trưởng đã lưu ý rằng ông đã:
“…ngày càng lo ngại...trước của chủ nghĩa cộng sản trên...các khu vực lớn của thế giới và đặc biệt là sự thành công của cộng sản tại Trung Quốc …”
“Một mục tiêu quan trọng trong chính sách của Mỹ, như tôi hiểu, là ngăn chận cộng sản để làm giảm mối đe dọa đối với an ninh của chúng ta. Hành động của chúng ta ở Á Châu nên là một phần của một kế hoạch cẩn thận, chú tâm và toàn diện để thúc đẩy mục tiêu đó.” 79/
Nghiên cứu của NSC [Ủy Ban An Ninh Quốc Gia] để đáp ứng yêu cầu của Bộ Trưởng [Quốc Phòng] là đáng chú ý vì những tham chiếu cụ thể hiếm có vào Đông Dương. Nhân viên nghiên cứu tập trung chủ yếu vào cuộc xung đột giữa các lợi ích của các Thủ Đô Âu Châu và nguyện vọng Độc Lập của người dân Á Châu. Trích lục sau đây là từ một phần của nghiên cứu liên quan đến Đông Nam Á:
“Cuộc xung đột hiện nay giữa chủ nghĩa thực dân và độc lập bản địa là yếu tố chính trị quan trọng nhất ở Đông Nam Á. Kết quả cuộc xung đột này không chỉ là sự phân rã của đế quốc Âu Châu trong khu vực mà còn là sự lớn mạnh về ý thức chính trị và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc trong dân chúng các nơi. Ngoại trừ Thái Lan và Philippines, các nước Đông Nam Á không có nhà lãnh đạo nào đang chịu trách nhiệm thi hành quyền lực [của Nhà Nước]. Câu hỏi liệu một quốc gia thuộc địa có thể thích hợp cho việc tự quản lý, tuy nhiên, không phải lúc nào cũng thích đáng trong thực tế chính trị. Thực sự vấn đề là dường như liệu các nước thuộc địa có khả năng và quyết tâm tiếp nối thực hiện những luật lệ của nước ngoài [chủ thuộc địa] thay thế cho những gì [lực lượng nhân sự chẳng hạn] đã bị mất cho các chính quốc [về lại]. Nếu là thế, độc lập cho nước bị thuộc địa là giải pháp thực tế duy nhất dù cho việc quản lý tồi tệ đất nước sẽ nảy sinh. Một giải pháp cho sự bất ổn, nếu nó phát sinh, phải được tìm kiếm trên một con đường không phải là chủ nghĩa đế quốc. Trong mọi tình huống, cuộc xung đột thuộc địa - dân tộc đã tạo ra một vùng đất màu mỡ cho các hoạt động lật đổ của cộng sản, và rõ ràng là Đông Nam Á là mục tiêu của một cuộc tấn công phối hợp được hướng dẫn bởi điện Cẩm Linh [Kremlin]. Trong khi tìm cách giành quyền kiểm soát khu vực Đông Nam Á, điện Cẩm Linh thúc đẩy một phần bởi mong muốn có được các tài nguyên của Đông Nam Á và các trục lộ giao thông và từ chối cho chúng ta xử dụng chúng. Nhưng lợi ích chính trị mà Liên Xô sẽ tích lũy từ việc cộng sản hóa thành công Đông Nam Á cũng có ý nghĩa tương đương. Việc bành trướng của chính quyền cộng sản ở Trung Quốc tiêu biểu cho một thất bại chính trị đau thương cho Mỹ; nếu Đông Nam Á cũng bị cuốn hút bởi chủ nghĩa cộng sản thì chúng ta sẽ phải gánh chịu một thảm bại chính trị lớn, hậu quả sẽ được cảm nhận trong suốt phần còn lại của thế giới đặc biệt là ở Trung Đông và sau đó nguy ngập cho Úc. Hoa Kỳ nên tiếp tục sử dụng ảnh hưởng của mình hướng tới giải quyết cuộc xung đột dân tộc - thuộc địa một cách sao vừa đáp ứng các nhu cầu cơ bản của cuộc xung đột dân tộc - thuộc địa trên cơ sở một ổn định chính trị và sự đề kháng với cộng sản, và tránh làm suy yếu các cường quốc thực dân là đồng minh phương Tây của chúng ta.
Tuy nhiên, phải nhớ rằng truyền thống thuộc địa lâu dài ở Á Châu đã làm cho các dân tộc trong khu vực nghi ngờ về ảnh hưởng của phương Tây. Chúng ta phải tiếp cận vấn đề từ việc xem xét quan điểm của người Á Châu trong chừng mực có thể và nên tự hạn chế đi đầu trong các phong trào mà nguồn gốc nhất thiết là Á Châu. Do đó, việc chúng ta quan tâm là sẽ khuyến khích, ở bất cứ nơi nào có thể, các dân tộc Ấn Độ, Pakistan, Philippines và các nước Á Châu khác đứng ra lãnh đạo giải quyết các vấn đề chung của khu vực....
"Hoa Kỳ có lợi ích trong việc sử dụng các kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm lâu năm của những người bạn Âu Châu của chúng ta, và ở mức độ có thể, làm bất cứ điều gì để tranh thủ sự hợp tác của họ trong các biện pháp được thiết kế để kiểm soát sự lây lan ảnh hưởng của Liên Xô ở Á Châu. Nếu có thể được thuyết phục để các thành viên của Khối Thịnh Vượng Chung Anh, đặc biệt là Ấn Độ, Pakistan, Australia và New Zealand cùng tham gia với Vương quốc Anh và Hoa Kỳ trong việc thực hiện các biện pháp xây dựng hợp tác kinh tế, chính trị và văn hóa, kết quả chắc chắn là sẽ nằm trong lợi ích của chúng ta. Không chỉ Hoa Kỳ sẽ có thể giảm bớt một phần gánh nặng, sự hợp tác của các quốc gia da trắng của Khối Thịnh Vượng Chung sẽ ngăn chận bất kỳ mối nguy hiểm tiềm năng nào làm tăng thêm sự phân cực [giữa các nước] da trắng. " 80/
Ngày 30 Tháng 12 năm 1949, Hội đồng An ninh Quốc gia đã gặp gỡ dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Truman để thảo luận về nghiên cứu của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia [NSC – National Security Council] , và đã phê duyệt những kết luận sau đây:
“Để làm cơ sở thực hiện các mục tiêu của mình, Hoa Kỳ nên theo đuổi một chính sách về Á Châu có gồm các mục sau:
"a. Hoa Kỳ phải để lộ ra sự đồng tình [của mình] về những nỗ lực của các nhà lãnh đạo Á Châu nhằm hình thành các hiệp hội khu vực của các quốc gia không cộng sản, ở những khu vực khác nhau của Á Châu, và nếu trong diễn trình việc thành lập các hiệp hội có khả năng thành công, Hoa Kỳ cần phải được chuẩn bị, nếu được mời, để hỗ trợ các hiệp hội đó để thực hiện những mục đích của họ trong những điều kiện cũng là lợi ích của chúng ta. Các nguyên tắc sau đây sẽ hướng dẫn hành động của chúng ta trong lĩnh vực này:
Bất kỳ liên kết được hình thành phải là kết quả của một mong muốn chính thống về phía các quốc gia tham gia hợp tác cùng có lợi trong việc giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của khu vực.
Hoa Kỳ không được nắm phần chủ động trong giai đoạn đầu của sự hình thành các hiệp hội mà vấn đề là dùng các quốc gia Á Châu để thúc đẩy tham vọng của Hoa Kỳ.
Các hiệp hội, nếu nó là một lực lượng có tính xây dựng, nó phải hoạt động trên cơ sở hỗ tương và tự lo liệu trong tất cả các lĩnh vực để quan hệ đối tác thực sự có thể tồn tại dựa trên sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
Việc Hoa Kỳ tham gia vào bất kỳ giai đoạn nào trong việc xây dựng những hiệp hội như thế nên [được làm] trong quan điểm là hoàn thành mục tiêu cơ bản của chúng ta ở Á Châu và đảm bảo rằng bất kỳ hiệp hội nào được thành lập sẽ phù hợp với Chương VIII của Hiến chương Liên Hợp Quốc liên quan với các thỏa thuận khu vực
"b. Hoa Kỳ nên xếp đặt để phát triển và tăng cường an ninh của khu vực để chống lại những xâm lược từ bên ngoài hoặc lật đổ từ bên trong của Cộng sản. Các bước đi nên đưa vào tính toán bất kỳ những gì mang đến lợi ích an ninh cho Á Châu, sự an ninh có thể phát triển từ một hoặc nhiều nhóm địa phương. Hoa Kỳ dựa vào sáng kiến riêng của mình nên bây giờ:
Cải thiện vị trí của Hoa Kỳ đối với Nhật, Ryukyus [quần đảo có đảo Okinawa] và Philippines.
Rà soát chặt chẽ sự phát triển của các mối đe dọa xâm lược Cộng sản, trực tiếp hoặc gián tiếp, và chuẩn bị sẵn sàng để trợ giúp trong phương tiện của chúng ta để đáp ứng các mối đe dọa này bằng cách cung cấp hỗ trợ về chính trị, kinh tế và quân sự và tư vấn cho ở đâu mà thật sự cần thiết, để bổ sung sức đề kháng cho các chính phủ khác trong và ngoài khu vực có nhiều liên quan trực tiếp hơn.
Phát triển các biện pháp hợp tác thông qua các thỏa thuận đa phương hoặc song phương để chống lại việc Cộng sản âm mưu lật đổ nội bộ.
Thẩm định ý thức và sự phát triển lành mạnh của các thỏa thuận an ninh tập thể của Á Châu, mang trong tâm trí những cân nhắc dưới đây:
Sự miễn cưỡng của Ấn Độ vào thời gian này về việc tham gia vào bất kỳ hiệp ước an ninh chống Cộng nào và và việc này sẽ có ảnh hưởng trên một số các quốc gia khác ở Á Châu.
Cần thiết phải giả định rằng bất kỳ thỏa thuận an ninh tập thể có thể có là được xây dựng dựa trên nguyên tắc hỗ trợ lẫn nhau và có sự mong muốn được chứng minh và khả năng chia sẻ gánh nặng bởi tất cả các nước tham gia.
Sự cần thiết của việc đảm bảo rằng bất kỳ thỏa thuận an ninh nào như thế, sẽ phải phù hợp với những mục đích của bất kỳ hiệp hội khu vực nào mà có thể đã được hình thành theo khoản 3-a trên đây.
Sự cần thiết đảm bảo rằng bất kỳ sự sắp xếp an ninh nào như thế sẽ phải phù hợp với quy định tại Điều 51 của Hiến chương liên quan đến quyền tự vệ cá nhân và tập thể.
“c.Hoa Kỳ nên khuyến khích việc tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho việc phục hồi kinh tế và phát triển trong một Á Châu không-Cộng sản, và sự hồi sinh của thương mại theo con đường đa phương, và không phân biệt đối xử. Các chính sách kinh tế của Hoa Kỳ nên được điều chỉnh sao cho phù hợp để thúc đẩy việc phát triển ở các nơi có điều kiện sẽ góp phần ổn định chính trị ở các quốc gia thân hửu ở Á Châu, nhưng Hoa Kỳ nên cẩn thận tránh nhận lãnh trách nhiệm về chuyện ấm no và phát triển kinh tế của châu lục đó....
[ghi chú người dịch: 4 điểm d,e,f,g không thấy có trong tài liệu mà tiếp thẳng tới điểm h. dưới đây]
*****
“h.Hoa Kỳ nên tiếp tục sử dụng ảnh hưởng của mình ở Á Châu hướng tới giải quyết cuộc xung đột dân tộc - thuộc địa theo cách nào mà có thể đáp ứng các nhu cầu cơ bản của phong trào dân tộc đồng thời giảm thiểu sự căng thẳng cho các cường quốc thực dân là đồng minh phương Tây của chúng ta. Nên dành một sự chú ý đặc biệt cho vấn đề của Đông Dương của Pháp và nên thực hiện những hành động nhằm làm cho Pháp cấp bách loại bỏ những rào cản để có được Bảo Đại hay lãnh đạo dân tộc phi cộng sản nào khác mà họ đã được một sự ủng hộ với tỷ lệ đáng kể của người dân Việt....
“i.Tích cực cân nhắc những phương cách để cho tất cả các thành viên của Khối Thịnh Vượng Chung Âu Châu có thể tham gia một vai trò tích cực hơn trong việc hợp tác với Hoa Kỳ ở Á Châu. Sự hợp tác tương tự phải được mở rộng, trong phạm vi có thể, đến các nước không-Cộng sản khác có quyền lợi ở Á Châu.
“j.Thừa nhận rằng các chính phủ không cộng sản của Nam Á đã tạo thành một bức tường thành chống lại sự bành trướng của Cộng sản ở Á Châu. Hoa Kỳ cần phải khai thác mọi cơ hội để gia tăng sự ưa thích phương Tây hiện nay trong khu vực và hỗ trợ, trong khả năng của chúng ta, các chính phủ này trong nỗ lực của họ để đáp ứng tối thiểu nguyện vọng của người dân và để duy trì an ninh trong nước. 81/
Vì vậy, trong những tháng cuối năm 1949 quá trình chính sách của Mỹ là đã được thiết lập để chặn việc cộng sản bành trướng hơn nữa ở Á Châu: [hiệp hội] an ninh chung nếu người Á Châu sẵn sàng hợp tác với các đồng minh lớn ở Âu Châu và các quốc gia trong Khối Thịnh Vượng Chung nếu có thể, nhưng [có thể là] song phương nếu cần thiết. Quá trình chính sách [ngăn chận Cộng Sản] đó đã đưa đến chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, sự hình thành của Tổ chức Hiệp Ứớc [Liên Phòng] Đông Nam Á năm 1954 và dần dần đẩy Hoa Kỳ can thiệp sâu hơn vào Việt Nam.
b.Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh Việt Nam
Ngày 30 tháng mười hai năm 1949, Pháp ký hơn mười hiệp định riêng rẽ liên quan đến việc chuyển giao quản trị hành chánh Việt Nam cho chính quyền của Bảo Đại theo Hiệp định Elysee 08 tháng 3 năm 1949. Tháng 1 năm 1950, quân đội của Mao đã đến biên giới phía Bắc của Việt Nam lúc này đã đi vào quỹ đạo Trung-Xô. Một điện tín của Bộ Ngoại Giao [Mỹ] xét lại chính sách của Mỹ gửi ngày 20 tháng một năm 1950:
“Bộ [Ngoại Giao Mỹ] vẫn còn hy vọng rằng Bảo Đại sẽ thành công đạt được ủng hộ ngày càng tăng của quần chúng so với Hồ Chí Minh; và chính sách của chúng ta cơ bản là vẫn vậy; khuyến khích ông ta [Bảo Đại] và đôn đốc Pháp hướng tới nhiều nhượng bộ hơn nữa.
“Những ước đầu được thực hiện bởi Bảo Đại, những phẩm chất thấy được và sự chấp nhận ban đầu [của dân chúng] về ông dường như tốt hơn là chúng ta đã đoán trước, thậm chí là đã giảm bớt sự lạc quan của Pháp. Việc chuyển giao quyền lực được đón nhận tốt. Pháp đã thành công trong việc giải giáp và bắt giữ các thành phần Quốc dân Đảng của Trung Hoa đang trốn chạy mà không cần sự can thiệp nghiêm trọng nào cho đến nay bởi Cộng Sản Trung Hoa cũng [là điều] đáng khích lệ.
“Tuy nhiên, gần đây, sự xuất hiện của đối lập mạnh mẽ ít nhất cũng đã chứng minh rằng sự ủng hộ [của dân dành cho] Bảo Đại vẫn chưa là rộng rãi. Hoạt động quân sự của Việt Minh gia tăng một cách đáng lo ngại. Chuyện này có thể là nỗ lực đặc biệt của Hồ, trong cùng thời gian với việc chuyển giao quyền lực và sự xuất hiện của quân Trung Cộng gần kề biên giới [phía Bắc], và trước Hội nghị Bangkok, cũng có thể là bằng chứng của sức mạnh ngày càng tăng củng cố bởi niềm tin được Trung Cộng hỗ trợ, trực tiếp hoặc gián tiếp.
“Bộ [Ngoại Giao Mỹ] cũng chưa có những thông tin về các cuộc đàm phán giữa các nhóm của Hồ và Mao mặc dù tin bắt được từ đài phát thanh của Thông tấn xã Trung Quốc mới phát hành ngày 17 tháng một cho thấy rằng Hồ đã nhắn tin cho các chính phủ trên thế giới là chính Phủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất của nhân dân Việt Nam và [chính phủ này] sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với bất kỳ chính phủ nào sẵn sàng hợp tác [với họ] trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau về chủ quyền quốc gia và vùng lãnh thổ để bảo vệ hòa bình và dân chủ thế giới. Đài phát thanh của Hồ cũng đưa ra những phát biểu tương tự...
“Bản chất và thời gian để công nhận Bảo Đại nay đang được ở đây xem xét, và với các chính phủ khác...” 82/
Đầu tiên là Cộng sản Trung Quốc, và sau đó Liên Xô đã công nhận VNDCCH. Ngày 29 tháng 1 1950, Quốc hội Pháp đã thông qua Luật trao quyền tự chủ cho Nhà nước Việt Nam [dưới Bảo Đại]. Ngày 1 tháng 2, 1950 Bộ trưởng Ngoại Giao [Mỹ] Acheson đưa ra công bố sau:
“Việc điện Kremlin công nhận phong trào cộng sản Hồ Chí Minh ở Đông Dương là một điều bất ngờ. Sự thừa nhận của Liên Xô với phong trào này phải loại bỏ bất kỳ ảo tưởng nào về bản chất “dân tộc” như Hồ Chí Minh đã nhắm đến và đã cho thấy màu sắc thật của Hồ chính là môt kẻ thù sinh tử cho nền độc lập bản xứ ở Đông Dương.
“Mặc dù mất thời gian trong nỗ lực bao phủ việc chuyển giao chủ quyền của Pháp cho Chính Phủ hợp pháp của Lào, Cam-pu-chia và Việt Nam, chúng ta có mọi lý do để tin rằng những chính phủ hợp pháp này sẽ phát triển thành những chính phủ ổn định đại diện cho chủ nghĩa dân tộc thực sự của hơn 20 triệu dân của Đông Dương.
“Hành động của Pháp trong việc chuyển giao chủ quyền cho Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia đã được chuyển động được một thời gian. Sau khi Pháp phê chuẩn, dự kiến trong vòng một vài ngày, con đường sẽ được mở cho việc công nhận các chính phủ hợp pháp bởi các nước trên thế giới là các nước có chính sách hỗ trợ cho việc phát triển độc lập dân tộc chính thống tại các khu vực thuộc địa trước đây. Đại sứ Jessup đã bày tỏ cho Hoàng đế Bảo Đại ý muốn tốt nhất của chúng ta là cho sự thịnh vượng và ổn định tại Việt Nam, và hy vọng rằng mối quan hệ gần gũi hơn sẽ được thiết lập giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. 83’
Phê chuẩn chính thức của Pháp trao Độc Lập cho Việt Nam được công bố ngày 02 Tháng Hai 1950. Tổng thống Truman đã phê duyệt việc công nhận Bảo Đại cùng ngày, và vào ngày 04 Tháng 2, Tổng lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn đã nhận chỉ thị đưa những thông điệp sau đây đến Bảo Đại:
“Kính thưa Hoàng Đế:
“Tôi có lá thư của Bệ Hạ thông báo cho tôi về việc ký kết các thoả thuận ngày 08 tháng 3 năm 1949 giữa Bệ Hạ, đại diện cho Việt Nam, Tổng Thống nước Cộng hoà Pháp, thay mặt cho nước Pháp. Chính phủ của tôi cũng đã được thông báo về việc phê chuẩn vào ngày 02 tháng 2 năm 1950 bởi Chính phủ Pháp về các thoả thuận của ngày 08 Tháng Ba 1949.
“Sau những hành vi thành lập nên nước Việt Nam Cộng Hòa như là một nước độc lập trong Liên hiệp Pháp này, nhân cơ hội này tôi chúc mừng Bệ Hạ và nhân dân Việt Nam nhân biến cố hạnh phúc này
“Chính phủ Hoa Kỳ vui mừng chào đón Việt Nam Cộng Hòa vào cộng đồng những nước ưa chuộng thái bình trên thế giới và mở rộng sự công nhận ngoại giao cho Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Tôi mong muốn sớm có một cuộc trao đổi đại diện ngoại giao giữa hai nước chúng ta..... 84/
Sau việc công nhận Bảo, Đại Pháp đã nhanh chóng yêu cầu Mỹ viện trợ. Ngày 08 Tháng 5 1950, Bộ Trưởng Ngoại Giao [Mỹ] Acheson công bố tuyên bố sau đây tại Paris:
“Bộ trưởng Ngoại Giao [Pháp] và tôi vừa có một cuộc trao đổi quan điểm về tình hình Đông Dương và cả hai thỏa thuận chung về tình hình cấp bách trong khu vực và sự cần thiết hành động để thay đổi tình hình.
“Chúng tôi ghi nhận rằng thực tế vấn đề đáp ứng các mối đe dọa an ninh của Việt Nam Campuchia và Lào nay được hưởng độc lập trong Liên Hiệp Pháp chủ yếu là trách nhiệm của Pháp và Chính phủ và nhân dân Đông Dương. Hoa Kỳ nhận định rằng giải pháp của vấn đề Đông Dương phụ thuộc cả về việc khôi phục an ninh lẫn sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc chân chính và rằng sự hỗ trợ của Hoa Kỳ có thể và đóng góp [tốt] vào những mục tiêu chính yếu này.
“Chính phủ Hoa Kỳ, tin rằng sẽ không phải có độc lập dân tộc, cũng không có sự tiến hóa dân chủ nào tồn tại trong bất kỳ khu vực nào bị chi phối bởi Chủ nghĩa đế quốc Liên Xô, cân nhắc tình hình đã trở nên đủ xác đáng để đảm bảo viện trợ kinh tế và trang thiết bị quân sự cho Liên Bang Đông Dương và cho Pháp để giúp họ khôi phục sự ổn định và cho phép các nước này theo đuổi sự phát triển hòa bình và dân chủ của họ.” 85/
Ngày 11 Tháng Năm năm 1950, Quyền Bộ Trưởng Ngoại Giao [Mỹ] đã đưa ra tuyên bố sau:
“Một nhiệm vụ khảo sát đặc biệt, đứng đầu bởi R. Allen Griffin vừa trở về từ Đông Nam Á, báo cáo về hỗ trợ kinh tế và kỹ thuật cần thiết trong khu vực đó. Tổng quát các khuyến nghị đối với khu vực là khiêm tốn và tổng số nằm trong khoảng $ 60 triệu [đô la]. Bộ ngay tức thì làm việc về kế hoạch để thực hiện chương trình này.
“Bộ Trưởng [Ngoại Giao Mỹ] Acheson hôm thứ hai ở Paris đã nêu lên tính cấp bách của tình hình trên các nước liên kết Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Bộ đang làm việc cùng với ECA để thực hiện các khuyến nghị hỗ trợ kinh tế và kỹ thuật cho Đông Dương cũng như các nước Đông Nam Á khác và dự đoán rằng chương trình này sẽ được tiến hành trong một tương lai gần.
“Hỗ trợ quân sự cho Đông Nam Á đang được Bộ Quốc phòng làm việc phối hợp với Bộ Ngoại giao, và các chi tiết sẽ không được công bố vì lý do an ninh.
“Nhu cầu hỗ trợ quân sự sẽ là một quỹ khẩn cấp 15 triệu US$ lấy từ [quỹ của] khu vực Trung Quốc.
“Nhu cầu hỗ trợ kinh tế sẽ được đáp ứng từ nguồn vốn viện trợ ECA Trung Quốc, một phần trong đó cả hai viện của Quốc hội đã chỉ ra là để tài trợ cho khu vực Trung Quốc nói chung. Động tác lập pháp chót là vẫn còn đang chờ quyết định của thẩm quyền này [Quốc Hội] nhưng dự kiến là sẽ được hoàn tất trong tuần tới.” 86/
Hoa Kỳ sau đó trực tiếp liên quan đến việc phát triển thảm kịch tại Việt Nam.
( Phần trích lục [Foot Note] từ trang 75 đến trang 81 không được dịch ở đây – người dịch)
(xem tiếp kỳ 6)

I. B.
TÍNH CHẤT VÀ SỨC MẠNH CỦA VIỆT MINH
TÓM TẮT
Một trong những chủ đề thường xuyên được dùng để chỉ trích chính sách của Mỹ tại Việt Nam là, từ khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, [Mỹ] đã thất bại không nhận ra rằng Việt Minh là cỗ xe chính yếu cho chủ nghĩa dân tộc Việt Nam và chính nó, trên thực tế, đã kiểm soát và quản lý hiệu quả trên toàn cõi Việt Nam. Bằng chứng trên các vấn đề như việc được lòng dân và [khả năng] kiểm soát là luôn luôn có phần đáng nghi ngờ - đặc biệt là khi giao dịch với một đất nước kỳ lạ như Việt Nam vào một thời điểm khi mà những gì người Mỹ biết về nó [VN] phần lớn là phụ thuộc vào nguồn tin từ Pháp. Măc dù như thế, một số khái quát có cơ sở có thể được đúc kết.
Thứ nhất, Việt Minh là nguồn lực chính của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam và [là lực lượng đấu tranh chính] chống thực dân Pháp. Có nhiều nhóm khác cũng tranh đấu cho Độc Lập của Việt Nam nhưng không đủ sức cạnh tranh [với Việt Minh] trên quy mô quốc gia. Điều đúng nữa là Đảng Cộng Sản Đông Dương [ĐCSĐD] có kỷ luật, tổ chức tốt, lãnh đạo giỏi là yếu tố để kiểm soát Việt Minh. Tuy nhiên, Đảng Cộng Sản Đông Dương về con số lại không phải là đa số trong tổng số các thành viên hoặc trong lãnh đạo của tổ chức [Việt Minh]. Khoảng cách giữa sự kiểm soát và con số này có thể được giải thích bởi hai yếu tố: (a) chiến lược của Cộng Sản là thống nhất các yếu tố dân tộc để đạt được mục tiêu trước mắt là Độc Lập và (b) các thành phần khác của Việt Minh đã khá lớn, đủ để xé lẽ toàn bộ phong trào. Nói cách khác kể từ Chiến tranh thế giới thứ II, ĐCSĐD là đủ mạnh để dẫn dắt, nhưng không [ở vị thế] thống trị phe Việt Nam Quốc Gia.
Thứ hai, Việt Minh có đủ uy tín và hiệu năng để biến mình thành một chính phủ cho toàn Việt Nam, một chính phủ có thể mở rộng quyền lực của mình trong cả nước sau chiến tranh thế giới thứ II – ngoại trừ trở ngại là do Pháp muốn khẳng định lại [vị trí của mình], và trong một mức độ thấp hơn là do đối lập chính trị của người bản xứ tại Nam Kỳ. Việt Minh lúc nào cũng mạnh hơn ở Bắc Kỳ và An Nam [miền Trung] so với miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, hình như có khả năng là trong sự vắng mặt của người Pháp, thông qua chính phủ mới thành lập của họ, ở miền Bắc, Việt Minh đã đè bẹp các nhóm dân tộc bản địa, tôn giáo,. và các phe đối lập khác trong thời gian ngắn.
Chủ nghĩa Quốc Gia Việt Nam đã phát triển thành ba loại đảng phái chính trị hay phong trào:
Phe chủ trương Cải Cách. Dựa trên một số ít ỏi trong số những người Việt Nam ưu tú có học, các đảng này cho rằng mình đại diện cho đông đảo nông dân - ngoại trừ trong ý nghĩa theo lối “cha mẹ” dân như quan lại như ngày xưa. Nói chung, họ chủ trương cải cách các mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam để thành lập một quốc gia [Việt Nam] độc lập và thống nhất, nhưng không phải nhằm cắt đứt các liên kết có lợi với chính quốc [Pháp], cũng không muốn làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu xã hội Việt Nam. Các thành viên bao gồm nhiều người không chê vào đâu được và có tinh thần quốc gia như Ngô Đình Diệm – nhưng cũng có một số là cơ hội chủ nghĩa và tham nhũng. Phe cải cách sau đó càng ngày càng mất uy tín vì đã hợp tác với Nhật trong Thế chiến II. Chính phe Cải Cách đã tạo cơ sở cho "giải pháp Bảo Đại" mà Pháp và Mỹ bị cuốn hút vào cuối năm 1940.
Các Giáo Phái. Nam Kỳ - và gần như chỉ có ở đây - trong những năm 1930 đã xuất hiện giáo phái tôn giáo chỉ huy lòng trung thành vững chắc của hàng trăm ngàn nông dân. Hai trong số này - Cao Đài và Hòa Hảo - khao khát quyền lực về Đạo cũng như về Đời, dàn trải các lực lượng vũ trang, và thành lập chính quyền địa phương riêng. Họ phản đối cả hai quyền bá chủ chính trị và văn hóa của Pháp, và sự thống trị của các đảng phái khác ở Việt Nam. Một số trong họ đã hợp tác công khai với Nhật trong khoảng 1940-1945. Vì những nhóm này mang tính tôn giáo và địa phương, mọi so sánh họ với các đảng phái khác đều không chính xác. Những phong trào này được đánh giá trong một chừng mực nào đó là một thể loại rất riêng của chủ nghĩa dân tộc so với Bắc Kỳ hay Trung Kỳ.
Phe phái Cách Mạng. Còn lại rất nhiều phe phái chính trị Việt Nam rơi vào các thể loại mang tính cách mạng: họ đã ủng hộ Việt Nam độc lập tách khỏi Pháp và trong một mức độ nào đó tổ chức triệt để lại chính thể Việt Nam. Màu sắc chính trị của họ dao động từ [1] màu đỏ đậm Trốt Kít mà Sài Gòn là trung tâm (Trốt Kít là những người đã ủng hộ cuộc cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới, và trong phạm vi Việt Nam, tước đoạt quyền sở hữu [để giao lại] cho các công nhân và nông dân) thông qua màu sắc ít bạo lực của chủ nghĩa cộng sản ; [2] và phe Quốc Dân Đảng theo kiểu chủ nghĩa dân tộc, [3] cho đến nhóm dân tộc chủ nghĩa không rõ ràng, chiết trung, của tình huynh đệ tội phạm Bình Xuyên (một hiện tượng Sài Gòn khác). Chỉ hai trong số các phong trào này là có một ảnh hưởng rộng rãi tại Việt Nam: Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD), và Đảng Quốc gia Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDD). Cả đôi bên đã gặp rắc rối trong suốt lịch sử của họ bởi nạn phe nhóm, và luôn luôn bị thanh trừng (bởi cảnh sát Pháp). Cả hai đều ước nguyện chính trị hóa nông dân nhưng không hoàn toàn thành công. Trong hai nhóm này, ĐCSĐD luôn chứng minh là họ khả năng phục hồi cao hơn và được lòng dân chúng hơn, nhờ học thuyết và phương pháp đấu tranh bí ẩn cao hơn, và [nhờ vào] lãnh đạo chặt chẽ và sắc sảo hơn. Cả hai ĐCSĐD và VNQDD đều có mặt trong các cuộc nổi dậy của nông dân năm 1930-1931, và 1940-1941. Mỗi bên đều đóng một vai trò quan trọng trong kháng chiến Việt Nam chống lại Pháp thời Vichy và Nhật trong Thế chiến II: ĐCSĐD là hạt nhân của Việt Minh, và VNQDD là một thành phần quan trọng của Đồng Minh Hội do phe Quốc Gia Trung Quốc [Quốc Dân Đảng dưới Tưởng Giới Thạch] bảo trợ.
Việt Minh - Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đi hoạt động vào tháng Năm năm 1941, tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Đông Dương, được tổ chức ở Nam Trung Quốc. Nó được thành lập như một tổ chức "Mặt Trận Thống Nhất" với Hồ Chí Minh đứng đầu [Việt Minh], và bước đầu gồm có ĐCSĐD, Đoàn Thanh Niên Cách mạng, đảng Tân Việt, và một số người của Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDD). Sự gia nhập [vào Việt Minh] được mở cửa cho bất kỳ cá nhân hoặc nhóm nào sẵn sàng tham gia đấu tranh cho "giải phóng dân tộc”. Việt Minh công bố một chương trình kêu gọi một loạt các cải cách xã hội và chính trị được thiết kế chủ yếu để thu hút lòng yêu nước của người Việt. Nhấn mạnh được đặt vào một cuộc kháng chiến chống Nhật và sự chuẩn bị cho "một cuộc nổi dậy bằng cách tổ chức người dân thành những đoàn thể tự vệ", không lời lẽ mầu sắc cộng sản.
Mặc dù lúc đầu Việt Minh được một tướng Quốc Dân Đảng [Trung Hoa] bảo trợ, Hồ đã nhanh chóng trở thành đối tượng bị nghi ngờ, và vào năm 1942 đã bị Trung Quốc bỏ tù. Trong khi ông đã ở trong tù, có lẽ để cắt đứt sức hấp dẫn ngày càng tăng của Việt Minh, và để bảo đảm việc kiểm soát chặt chẽ của Trung Quốc trên Việt Nam, Quốc Dân Đảng [Trung Hoa] nuôi dưỡng một đối thủ trong "mặt trận dân tộc" là Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội [gọi tắt là Đồng Minh Hội hay Việt Cách, khác với Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh], dựa trên VNQDD, là Đảng Đại Việt, và một số các nhóm nhỏ hơn, nhưng được cho là bao gồm cả Việt Minh. Tuy nhiên trong thực tế, Đồng Minh Hội không làm được gì nhiều hơn là một quyền chỉ huy trên danh nghĩa trên Việt Minh. Trong năm 1943, Hồ đã được thả và đưa ra chịu trách nhiệm Đồng Minh Hội - một tình trạng rõ ràng là có điều kiện buộc ông chấp nhận sự chỉ đạo trên tổng thể của Trung Hoa [quốc gia] và cung cấp tin tức tình báo cho Đồng Minh. Nhưng khi chiến tranh tiếp diễn, Hồ và Việt Minh đã tách ra khỏi Đồng Minh Hội, và các nhóm [Đồng Minh Hội] này không bao giờ thành công trong việc có phần trong bộ máy quyền lực ở Việt Nam so với Việt Minh.
Trong chiến tranh, một số đảng phái chính trị Việt Nam hợp tác với Nhật hay với Pháp dưới Vichy. Họ bị đặt vào thế bất lợi trong và sau cuộc chiến để cạnh tranh so với ĐCSĐD, Việt Minh, hoặc Đồng Minh Hội - tất cả đều đạt được một hào quang vê niềm tin vững chắc dành cho kháng chiến ngược lại với tất cả tên tuổi [đảng phái dính với] nước ngoài. Tuy nhiên, chỉ ĐCSĐD và Việt Minh thiết lập danh tiếng của họ trong dân chúng Việt Nam qua những chiến dịch quân sự lớn rộng. Tại Nam Kỳ, cho đến khi lộ mặt tháng 4 năm 1945, ĐCSĐD tiếp tục hoạt động chủ yếu là trong bí mật mà không quan tâm nhiều về lớp che Việt Minh, tuy nhiên tại An Nam [Trung Kỳ] và Bắc Kỳ, tất cả các chủ trương (ĐCSĐD) đều dưới danh nghĩa Việt Minh. Khắp Việt Nam, ĐCSĐD đã phát huy một chính trị kiên nhẫn: việc phổ biến tuyên truyền, đào tạo cán bộ, việc thành lập một mạng lưới các tế bào để tận làng xã. Trong chiến tranh, ĐCSĐD là cốt lõi chính của Việt Minh, nhưng đại bộ phận các thành viên Việt Minh lại không có chút nghi ngờ gì về một thực tế: họ đã phục vụ Việt Minh từ một tấm lòng nhiệt thành yêu nước.
Tổ chức O.S.S. [tiền thân của CIA] của Mỹ trong Thế chiến II chọn đối tác với Việt Minh là bộ máy kháng chiến duy nhất có hiệu quả tại Việt Nam, phụ thuộc vào nó về những tin tình báo đáng tin cậy, và hỗ trợ Mỹ trong việc cứu giúp các phi công Đồng Minh bị bắn rơi. Tuy nhiên, Việt Minh đặt ưu tiên cho nhiệm vụ chính trị lên trên những sứ mệnh quân sự này. Căn cứ thường trực đầu tiên Việt Minh được thành lập vào năm 1942-43 trong vùng núi phía bắc Hà Nội [Viê,t Bắc]. Chỉ sau khi mạng lưới chính trị của họ đã được cũng cố vững chắc, họ đã tung lực lượng du kích đầu tiên của họ vào trận chiến trong tháng 9 năm 1943. Các đơn vị đầu tiên của Quân đội Giải phóng Việt Minh đi vào hoạt động ngày 22 tháng 12 năm 1944, và có ít bằng chứng về tính quy mô lớn, có phối hợp của hoạt động du kích cho đến sau tháng 3 năm 1945.
Vào cuối năm 1944, Việt Minh tuyên bố họ có tổng số 500 ngàn thành viên trong đó 200 ngàn ở Bắc Kỳ, 150 ngàn ở miền Trung Kỳ, và 150 ngàn ở Nam Kỳ. Cấu trúc chính trị và quân sự đáng kể của Việt Minh tiếp tục phát triển ở miền Bắc Việt Nam. Trong tháng 5 năm 1945, Việt Minh thành lập "vùng giải phóng” gần biên giới Trung Quốc. Khi chiến tranh [thế giới] đã gần đến kết thúc thì Việt Minh quyết tâm chiếm trước vùng chiếm đóng của Đồng Minh và thành lập ngay một chính phủ trước khi họ [Đồng Minh] đến. Khả năng của Việt Minh về chuyện này đã được chứng minh ở miền Bắc là tốt hơn hơn ở miền Nam. Trong tháng 8 năm 1945 ở miền Bắc lực lượng của Hồ Chí Minh cướp chính quyền từ tay Nhật và [ở Trung Kỳ] Bảo Đại bị ép buộc phải thoái vị và nhường quyền cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt).Tuy nhiên tại Nam Kỳ, Việt Minh chỉ đạt được sự kiểm soát mỏng manh ở Sài Gòn và các vùng lân cận. Tuy nhiên khi các đồng minh đến, Việt Minh đã là chính phủ trên thực tế ở cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam: chính phủ Hồ Chí Minh ở Miền Bắc tại Hà Nội, và một "Ủy ban Kháng Chiến Nam Bộ" ở Sài Gòn mà trong đó thành phần ĐCSĐD chiếm ưu thế.
Ngày 12 tháng 9 năm 1945, người Anh đã cho đổ một tiểu đoàn Gurkha và một đại đội quân Pháp Tự Do vào Sài Gòn. Các chỉ huy Anh nhìn Chính phủ Việt Nam với thái độ khinh thị vì thiếu quyền của Pháp và vì không có khả năng dập tắt các rối loạn dân sự ở Nam Việt Nam. Ở Sài Gòn Cảnh Sát đụng độ với nhóm Trốt Kít và ở các khu vực nông thôn đánh nhau đã nổ ra giữa quân Việt Minh và những người của Cao Đài và Hòa Hảo. Bạo lực đã làm các cố gắng kéo các phe phái Việt Nam về cùng với nhau ngày càng trở nên vô ích đã làm tư lệnh Pháp yêu cầu Anh cho phép họ nhập cuộc để lập lại trật tự. Sáng ngày 23 tháng 9, quân đội Pháp lật đổ chính phủ Việt Nam [ở Sàigon] sau một nhiệm kỳ chỉ có ba tuần. Ngôn ngữ chính thức mà Anh gọi đó là "không may" về phương cách mà Pháp thực hiện cuộc đảo chính mà họ "chắc chắn rằng sẽ có những biện pháp đối phó được thực hiện bởi [người Việt]...". Trả đủa từ phía Việt Nam là nhanh chóng và đầy bạo lực: hơn 100 người phương Tây đã bị giết chết trong vài ngày đầu và nhiều người khác bị bắt cóc. Ngày 26 tháng 9 chỉ huy trưởng của cơ quan OSS [của Mỹ] ở Sài Gòn đã bị giết chết. Do đó, chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất [với Pháp] bắt đầu tại Nam Kỳ vào cuối tháng Chín năm 1945 và máu của người Mỹ đã đổ ra trong giờ khai mạc.
Tại Nam Kỳ vào thời điểm đó, ĐCSĐD đã ở một vị trí đặc biệt dễ bị tổn thương. ĐCSĐD đã cho phép Việt Minh đứng ra như là một cánh tay cho Đồng Minh, hỗ trợ hợp tác với người Anh và ân xá cho người Pháp. Đảng đã thực hiện, thông qua các Ủy Ban Kháng Chiến Nam Bộ đàn áp các nhóm Trotskytes. Nhưng bạo lực đã làm suy yếu các vận động chính trị hòa hoãn để việc duy trì trật tự công cộng, và các cuộc đàm phán với Pháp. Hơn nữa, ĐCSĐD ở Sài Gòn đã được cộng sản Pháp đảm bảo rằng họ sẽ không nhận được sự giúp đỡ của các Đảng anh em ở nước ngoài. Cuộc đảo chính Pháp đã đẩy cuộc xung đột với người Việt Nam ở Nam Kỳ. Câu hỏi đặt ra trước những người cộng sản đã làm thế nào để giải quyết, lãnh đạo (ĐCSĐD) xác định rằng con đường bạo lực là chọn lựa duy nhất, và để duy trì vai trò lãnh đạo phong trào [giải phóng] dân tộc ở miền Nam Việt Nam, họ đã làm cho Việt Minh trở thành kẻ thù không khuất phục trong việc thỏa hiệp với Pháp.
Tình hình trên toàn cõi Việt Nam vào cuối thế chiến là rất lẫn lộn, không phải Pháp, cũng không phải là Việt Minh, hay bất kỳ nhóm nào khác thể hiện được rõ ràng là người có quyền lực. Trong khi Việt Minh dù ở xa vẫn là tổ chức Việt mạnh mẽ nhất, và trong khi họ tuyên bố đang cai trị cả Việt Nam, thì quyền lực của họ lại bị thử thách bởi Trung Hoa ở miền Bắc và bởi người Anh ở miền Nam. Vị trí của Pháp rành rành là mong manh hơn so với của Việt Minh cho đến ngày 09 tháng 10 năm 1945. Ngày đó, Pháp và Anh đã ký kết một thỏa thuận theo đó Anh chính thức công nhận chính quyền dân sự Pháp ở Đông Dương và nhượng quyền chiếm đóng từ phía Nam của vĩ tuyến 16 Pháp. Việc nhượng quyền ở miền Nam không phải là để cho một vấn đề thực tế [tái lập trật tự], [mà là để] đảm bảo quyền cai trị của Pháp. Đối diện với chỉ có 35.000 binh lính Pháp ở miền Nam Việt Nam, Việt Minh và các bên khác dễ dàng đối đầu chống Pháp.
Quyền lực của Việt Minh ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ là tương đối rõ nhưng không có nghĩa là không bị thách thức. Ở miền Bắc, nổi bật trong thực tế cuộc sống chính trị của Việt Minh là sự hiện diện của quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng với 50.000 lính. Thông qua sự hiện diện này, người Trung Quốc có thể buộc Việt Minh thích ứng với Việt Nam Quốc dân Đảng than Trung Quốc trong VNDCCH và phải trì hoãn những chính sách [của VM] đối với Trung Quốc trong nhiều khía cạnh khác. Tình hình miền Bắc Việt Nam vào mùa thu năm 1945 được mô tả trong bản đồ trên trang B_41.
Việt Minh đã đi xa hơn những mong muốn của Trung Hoa. Trong khi thành chính phủ Bắc Việt 02 tháng 9 năm 1945, nhóm thân Trung Quốc, các chính trị gia không Việt Minh đều có mặt, và ĐCSĐD chỉ có 6 trong số 16 thành viên trong Nội Các. Ngày 11 Tháng 11 năm 1945, lãnh đạo Việt Minh còn di xa hơn nữa, là chính thức giải thể Đảng Cộng Sản Đông Dương để tránh "hiểu lầm". Hồ đồng ý lịch trình cuộc bầu cử quốc gia vào tháng Giêng năm 1946. Kết quả của cuộc bầu cử đã được sắp xếp trước với các đảng đối lập lớn và Quốc Hội được "bầu" như đã sắp xếp đã gặp nhau vào ngày 02 Tháng Ba năm 1946. Quốc Hội này đã thông qua một chính phủ VNDCCH mới, với ĐCSĐD chỉ có 2 trong 12 thành viên của nội các.
Sau đó, Pháp đã sẵn sàng đưa ra một thách thức mạnh mẽ hơn. Quân tiếp viện Pháp đã đến Đông Dương, do đó, Paris có thể tung ra hoạt động ở Bắc Việt Nam cũng như ở Nam Kỳ. Đầu năm 1946, Trung Hoa đã giao quyền chiếm đóng ở phía Bắc cho Pháp. Đối mặt với việc quân sự Pháp tăng sức mạnh và việc Trung Hoa rút quân, và bị nước ngoài từ chối công nhận, Hồ quyết định rằng ông đã không thể quay lưng không đàm phán với Pháp. Ngày 06 tháng ba 1946, Hồ đã ký một Hiệp Định đồng ý để Pháp quay lại Việt Nam trong năm năm và đổi lại Pháp công nhận VNDCCH là một nước tự do trong Liên Hiệp Pháp.
Hiệp Định này đã làm uy tín của Hồ bị giảm sút tối đa, và Hồ đã đưa tất cả uy tín của mình để ngăn chặn các nổi loạn công khai. Ngày 27 tháng năm 1946, Hồ đã đối phó các cuộc phản kháng bằng cách sáp nhập Việt Minh vào [Mặt Trận] Liên Việt, một [tổ chức] lớn hơn nhằm ôm cả vào một "Mặt Trận Quốc Gia". Sự thân thiện trong Mặt Trận Liên Việt, tuy nhiên, chỉ kéo dài trong khi Trung Hoa vẫn còn ở miền Bắc Việt Nam. Sau khi họ rút độ một vài tuần, vào giữa tháng Sáu, Việt Minh, với sự hỗ trợ của quân đội Pháp, tấn công Đồng Minh Hội và VNQDD, gọi họ là "kẻ thù của hòa bình", hiệu quả là trấn áp các tổ chức đối lập, và khẳng định quyền kiểm soát của Việt Minh trong toàn miền Bắc Việt Nam.
Nhưng ngay cả với việc [nhượng bộ Pháp] này uy lực [của Hồ] xem như chỉ là tạm thời. Hồ Chí Minh, mặc dù hết sức cố gắng, vẫn không thể đàm phán bất kỳ tình trạng “ai đâu ở đó” bền vững với người Pháp trong mùa hè và mùa thu năm 1946. Trong khi đó, VNDCCH và Việt Minh đã bị kéo vào sự kiểm soát ngày càng nhiều của "chủ nghĩa Mác xít" của ĐCSDD cũ. Ví dụ, trong các phiên họp của Quốc hội VNDCCH vào tháng Mười Hai, các thành viên phe đối lập đã bị cắt xuống còn 20 trong hơn [tổng số] 300 Đại Biểu, và chỉ một ít "chủ nghĩa Marx" chiếm ưu thế trong sinh hoạt của Quốc Hội. Tuy nhiên, chính phủ VNDCCH vẫn duy trì ít nhất một bộ mặt liên minh. Sơ đồ (trang B51-55) tổ chứa lãnh đạo của họ [VNDCCH] trong thời gian 1945-1949 cho thấy rằng cho đến 1949, thành viên ĐCSDD vẫn còn trong thiểu số, và phe đối lập chính thức gồm các chính trị gia của VNQDD và Đồng Minh Hội là luôn luôn có mặt một cách thích hợp.
Mặc dù cuộc chiến tranh Nam Kỳ vẫn tiếp diễn trong suốt năm 1946, Việt Minh giữ vai trò lãnh đạo kháng chiến, cuộc chiến tranh ở miền Bắc Việt Nam đã không nổ ra cho đến Tháng Mười Hai, 1946. Một loạt các cuộc đụng độ vũ trang vào tháng Mười Một được nối tiếp bằng một cuộc chiến quy mô lớn tại Hà Nội vào cuối tháng Mười Hai. Chính phủ VNDCCH đã rút về những vùng rừng núi để tiếp tục một chính quyền trong bóng tối. Việt Minh đã chuyển mình trở lại thành một tổ chức kháng chiến [nữa công khai] nửa bí mật và đưa ra quyết tâm đánh bại quân Pháp trên toàn lãnh thổ [Việt Nam]. Trong năm đầu của cuộc chiến tranh năm 1947, Việt Minh đã có những bước để khôi phục lại hình ảnh của nó như là một phong trào dân tộc, yêu nước, chống ngoại xâm và một lần nữa làm giảm sự lãnh đạo của ĐCSDD của họ. Chính phủ VNDCCH đã được tổ chức lại và những người cộng sản nổi tiếng bị loại ra. Như Việt Minh đã dần tập trung sức mạnh trong những năm qua, tuy nhiên, cũng những khuôn mặt đó đã trở lại trong chính phủ VNDCCH.
Tháng 2 năm 1951, nói chuyện trước Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam (Lao Động), Hồ Chí Minh nói rằng Đảng Cộng sản đã hình thành và lãnh đạo Việt Minh, và thành lập và cai trị VNDCCH. Trong khi thực dân Pháp tái xuất hiện ở miền Nam Việt Nam và một chính phủ [Việt] quốc gia ở miền Bắc Việt Nam được chính phủ Trung Hoa Quốc Gia bảo trợ dường như đang xảy ra, Hồ đã xác tín được [việc trên], Đảng đã rút vào bí mật và đi vào các thỏa thuận với Pháp.
“Lênin nói rằng ngay cả khi phải thỏa hiệp với kẻ cướp mà tạo thuận lợi cho cách mạng, ông sẽ làm điều đó....”
Nhưng lời giải thích không đứng vững, Việt Minh không thể chối cãi được là một phong trào dân tộc chủ nghĩa, hợp lòng dân, và yêu nước. Nó cũng là phương tiện truyền bá nổi bật và thành công nhất của dân tộc Việt Nam trong những năm 1940. Trong một mức độ nào đó, họ [Việt Minh] luôn luôn là không cộng sản. Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng cho thấy, từ khi thành lập, Hồ Chí Minh và phụ tá của ông trong Đảng Cộng sản Đông Dương đã hình thành chiến lược, chỉ đạo hoạt động, và vận động mọi năng lượng của nó [Việt Minh] sao phù hợp với các mục tiêu riêng của họ - như sau đó họ đã tuyên bố. Cho rằng có thể có nhiều khi các thành phần không cộng sản của Việt đã chiếm ưu thế trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, chuyện này chỉ là suy đoán. Có vẻ như rõ ràng rằng, trong diễn tiến các sự việc, tất cả các phong trào dân tộc không cộng sản - cải cách, thần quyền, hoặc mang tính cách mạng – là quá địa phương, quá chia rẽ, hoặc quá tiêm nhiễm với các tổ chức Quốc gia Nhật hay Trung Quốc để có thể cạnh tranh thành công với ĐCSĐD để kiểm soát Việt Minh. Và không ai có thể cạnh tranh hiệu quả với Việt Minh trong việc lôi kéo tầng lớp nông dân Việt Nam.
1. B. 1.
TÍNH CHẤT VÀ SỨC MẠNH CỦA VIỆT MINH
MỤC LỤC
1.Nguồn gốc của Việt Minh....................................... B-9
a. Phong trào chính trị Việt Nam trước chiến tranh thế giới thứ II.... B-9
(1) Tình hình chính trị trong những năm 1920 và năm 1930......……B-9
(2) Việt Nam Quốc Dân Đảng........................... B-11
(3) Tính ưu việt của Đảng Cộng Sản Đông Dương.................. B-13

Thế Chiến Thứ II và Việt Minh.............................B-18
Hình thành các Liên đoàn Độc lập, năm1941...............……B-18
Thành phần và chương trình của các Đảng phái................. B-20
Cạnh tranh giữa các Đảng................ B-22
Đồng Minh Hội..................................B-22
Những đảng hợp tác.........................B-23
Trốt Kít............................................B-25
(4) Hoạt động của Việt Minh ở Việt Nam.................... B-25
(5) Giải phóng miền Bắc Việt Nam............................. B-27
(6) Giải phóng miền Nam Việt Nam........................... B-30

I. B. TÍNH CHẤT VÀ SỨC MẠNH CỦA VIỆT MINH
Nguồn gốc của Việt Minh
Những phong trào chính trị ở Việt Nam thời kỳ trước Thế Chiến II
Tình hình chính trị trong những năm 1920 và năm 1930
Trong tám mươi năm Pháp thống trị Việt Nam sản lượng gạo đã không tăng tính trên mẫu Anh, nếu so với cùng độ mầu mỡ đất đai của Việt Nam, năm 1940, là mức thấp nhất trên thế giới. Dân số Việt đã tăng gấp hai lần mức tăng của sản lượng gạo từ vùng đất canh tác mới. Như vậy, việc Pháp xưng tụng rằng chủ nghĩa Đế Quốc của họ đã nâng mức sống của người Việt Nam là không đứng vững, đã không có bằng chứng nào cho thấy họ đã cải thiện chế độ ăn uống của nhân dân, hoặc giải quyết vấn đề nạn đói thường xuyên xảy ra. Trong thực tế, những người nông dân nông thôn vào những năm 1940 đã có hoàn cảnh xã hội khó khăn hơn so với tổ tiên của họ, trong đó xã hội phong kiến tiền thuộc địa với nền kinh tế tự cung tự cấp đã cung cấp tốt hơn cho nhu cầu cơ bản của [tổ tiên] họ về mặt chính trị, kinh tế và xã hội. Hơn nữa, chủ nghĩa trọng thương mới của Pháp, trên thực tế, đã giao cho Ngân Hàng Đông Dương một vai trò quan trọng trong chính sách thuộc địa [của Pháp]. Ngân Hàng này là một độc quyền của Pháp, gần như là một ảnh hưởng không may cho Việt Nam như những người cộng sản đã mô tả nó; ít nhất, với chính quyền thuộc địa, nó [Ngân Hàng Đông Dương] bảo vệ vị trí kinh tế Pháp thông qua việc ngăn chặn tính di động về xã hội và chính trị của Việt Nam. Người Việt được tham gia hợp pháp những doanh nghiệp trong nước với rất nhiều yếu kém, và được làm tất cả ngành nghề trừ ngành ngoại thương. Trước thế chiến II rất ít tác giả không phải là người Pháp đã mô tả chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam như được mô tả bởi Karl Marx. Ví dụ, quan chức người Mỹ gốc Áo, Joseph Buttinger, đã mô tả những đặc trưng của xã hội và chính trị Việt Nam vào cuối những năm 1930 như sau:
“Sự nghèo khổ là rất cao cho hầu hết các nông dân và tất cả các tá điền, không chỉ nạn nhân mãn xảy ra ở Bắc và Trung Kỳ, mà còn ở Đàng Trong, nơi được coi là phong phú hơn nhiều so với bốn quốc gia Đông Dương khác, nó [Đàng Trong] đóng góp 40% ngân sách chung. Gánh nặng kinh tế của nhà cầm quyền Pháp, theo một nhà văn người Anh đương đại, chủ yếu là nằm trên vai của nông dân, và nhu cầu tài chính, với tỷ lệ sinh sản ngày càng tăng, dẫn đến sự nghèo khổ ngày càng tăng của nông thôn, một quá trình minh họa bằng thực tế rằng nợ nông thôn tại Nam Kỳ một mình tăng từ 31 triệu đồng bạc Đông Dương năm 1900 lên đến 134 triệu đồng trong năm 1930.
"Tuy nhiên không có phán quyết nào nghiêm trọng cho sự thất bại của người Pháp về việc chống lại đói nghèo ở nông thôn hơn một báo cáo khô khan của một cơ quan Pháp về điều kiện sống ở Việt Nam. “Đó chỉ là trong những thời gian lao động nông nghiệp bận bịu nhất [mùa cấy, gặt]", E.Lerich đã viết như thế trong một nghiên cứu được công bố vào năm 1942, có nghĩa là chỉ một phần ba của năm và đặc biệt là khi thu hoạch, người dân có đủ để ăn.
“Nỗ lực đầy đau khổ của người nông dân, một người Việt Nam yêu dân tộc thuần phục [trong guồng máy] đã viết trong những năm 1920, không được trả công bằng cuộc sống no đủ, vì vậy anh ước mơ được “hạnh phúc hơn, công bằng hơn”. Không thể nghi ngờ rằng chắc chắn anh ta đã hành động. Nhưng những gì những người dân tộc chủ nghĩa đã không nhìn thấy vào những năm 1930, là người nông dân đã rất sẵn sàng ra khỏi giấc mơ để xông vào hành động. Lúc ấy họ sẽ lắng nghe bất cứ phe phái nào có nhà lãnh đạo đã sẵn sàng lấy đấu tranh cho người nghèo làm cương lĩnh chính trị. Thật không may, điều này chỉ được nắm bắt bởi những người cộng sản. Khi họ tuyên bố rằng cuộc đấu tranh cho độc lập có thể có ý nghĩa cho người nghèo chỉ khi độc lập nhằm mục đích cải thiện điều kiện xã hội của họ [người nghèo], những người cộng sản đã giành chiến thắng vòng đầu trong cuộc chiến giành phần lãnh đạo với phe quốc gia chủ nghĩa. “ 2/
Cộng sản, tuy nhiên, không phải chỉ là phong trào chính trị Việt Nam duy nhất tích cực tìm cách thay đổi mối quan hệ với thực dân Pháp. Ba loại lực lượng chính trị có thể được xác định:
Các phong trào chính trị Việt Nam chính năm 1920 – 1940 (với năm thành lập) 3/
Nhóm chủ trương cải cách hệ thống [cai trị của] Pháp
Đảng Lập Hiến (1923)
Đảng Nhân Dân Tiến Bộ Việt Nam (1923)
Đảng Dân chủ (1937)
Đảng Xã hội (1936)
Nhóm Giáo Phái
          Cao Đài (1920)
          Hòa Hảo (1939)
Đảng chủ trương Cách Mạng và Độc Lập Dân Tộc
          Việt Nam Quốc Dân Đảng (1927)
          Việt Nam Cách Mạng Đảng (1927) – giải tán (1930)
          Việt Nam Tân Cách Mạng Đảng (1928) – giải tán (1930)
          Đảng Cộng Sản Đông Dương (1930)
          Phong trào Trốt Kít (1931)
          Việt Nam Quang Phục Hội (1931)
Phe cải cách mạnh nhất tại Nam Kỳ nơi mà người Pháp quản lý trực tiếp không như là do người Việt ở Trung Kỳ hoặc Bắc Kỳ, và, có lẽ họ cảm thấy an toàn hơn trong vòng kiểm soát của Pháp, được có những hoạt động chính trị ở Việt Nam nhưng [chính những hoạt động đó] lại bị cấm ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, không phong trào cải cách nào có được một cơ sở quần chúng, và tất cả đều suy tàn vào lúc bắt đầu của cuộc chiến tranh Thế giới II.
Các giáo phái cũng là một hiện tượng [đặc thù] của Nam Kỳ, nhưng không giống như phe nhóm cải cách, họ được rộng rãi nhân dân ủng hộ. Giáo phái Cao Đai nhanh chóng đặt cơ sở trong những năm cuối 1920 và 30, và đã trở thành một lực lượng chính trị chính danh giữa các nông dân trong tỉnh Tây Ninh (phía Tây Bắc của Sài Gòn) và ở đồng bằng sông Cửu Long. Giáo phái Hòa Hảo phát triển nhanh chóng từ khi thành lập vào cuối năm 30 trong vùng những nông dân phía Tây Nam đồng bằng sông Sài Gòn.
Các nhóm cách mạng, ngược lại, tập trung chủ yếu ở miền Bắc, mang tính triệt để và hình thái bí ẩn là hai điều cần thiết – trong hoàn cảnh các chính sách đàn áp của Pháp và của Pháp thông quan hệ thống quan lại mà họ cai trị -- và chịu ảnh hưởng của các tư tưởng nước ngoài, đặc biệt là từ Trung Quốc, và từ các trường đại học ở Hà Nội và Huế. Tất cả các nhóm cách mạng đều có sự tham gia tích cực của người Việt Nam ở nước ngoài. Việt Nam Quang Phục Hội chủ yếu có trụ sở tại Nhật (và cuối cùng trở thành cỗ xe hỗ trợ cho việc Việt Nam gia nhập vào khối Thịnh Vượng Đại Đông Á). Còn lại chủ yếu dựa trên Trung Quốc, và bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi triết lý của Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch của Quốc Dân Đảng, và đảng Cộng sản Trung Quốc của Mao Trạch Đông. Trong các nhóm, chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đạt được quyền lực chính trị thực sự, nhưng ngay cả những đảng này cũng không thành công trong việc đánh đuổi sự thống trị của Pháp; những thất bại được biết đến của họ, tuy nhiên, đã cho thấy những tiền đề chính trị của Việt Nam hiện đại.
Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ)
Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDD) thành lập vào năm 1927 chủ yếu là từ giới trẻ Việt Nam bất mãn trong các phong trào, chẳng hạn như Hiệp hội Cách mạng không hiệu quả và các tổ chức cộng sản thời sơ khai bị chi phối bởi những người thuộc thế hệ quan lại cổ xưa còn giữ những suy nghĩ trên trời. Các đảng viên VNQDD tự hào về việc xác định họ là giai cấp nông dân Việt Nam, và rập theo mô hình của Quốc Dân Đảng [Trung Hoa]: chi bộ và bí mật, tranh đấu theo cương lĩnh "Dân chủ, Dân tộc, và Dân sinh" của Tôn Dật Tiên. Như mô tả trong sơ đồ (hình 1) 4/. Lịch sử của Quốc Dân Đảng là một trong những đảng bị nhiều phân hóa - đều từ cả hai việc là tranh chấp phe phái và các hành động truy bức của Pháp -- và sáp nhập vào các phong trào khác. Trong cách nhìn của một ai đánh giá dòng lịch sử, Quốc Dân Đảng bắt nguồn từ một trong vài anh hùng dân tộc người Việt Nam thời hiện đại, Phan Bội Châu, từ một phong trào người Việt ở Vân Nam do một đệ tử của Phan Bội Châu là Lê Phú Hiệp; và từ một nhà xuất bản có khuynh hướng Quốc Dân Đảng gọi là Thư viện An Nam. Quốc dân Đảng lúc đầu là một đảng ở Bắc Kỳ, nhưng đã trở thành liên minh với Việt Nam Cách Mạng Đảng của Trung Kỳ (và, trong một mức độ nhỏ, cùng một đảng ở Nam Kỳ). Mối quan hệ [giữa các đảng] không bao giờ lên tới nhiều hơn là liên lạc, và trung tâm Quốc Dân Đảng vẫn là Bắc Kỳ. Tuy nhiên, họ đã có một số lượng [đảng viên] đáng kể, và đã thành công trong việc thành lập một số tế bào trong số người Việt Nam phục vụ trong lực lượng vũ trang Pháp. Năm 1930 các nhà lãnh đạo Quốc Dân Đảng, Nguyễn Thái Học, đã ra lệnh một cuộc tổng nổi dậy chống Pháp.
Ngày 10 Tháng Hai, 1930, cuộc khởi nghĩa bắt đầu với một cuộc binh biến của quân đội tại Vĩnh Yên, và lây lan trên toàn Bắc Kỳ. Pháp phản ứng nhanh chóng, hiệu quả và tàn khốc. Nguyễn Thái Học đã bị bắt và xử tử [chặt đầu cùng 12 Liệt Sĩ Yên Bái khác], cùng lúc hàng trăm Quốc Dân Đảng khác cấp thấp hơn trốn sang Trung Quốc. Đến năm 1932, tàn dư Quốc Dân Đảng ở Việt Nam đã bị săn đuổi khi hoạt động, và Đảng sau đó là tập trung vào cộng đồng lưu vong ở Trung Quốc. Đến năm 1940, sau một loạt các cuộc đấu tranh giữa các phe phái, ba nhánh chính đã thành hình: một phe thân Nhật được gọi là Đảng Đại Việt Dân Chủ, một nhóm lại thành lập ở Việt Nam được gọi là Đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng; và phe ở Côn Minh [bên Tầu] theo Vũ Hồng Khanh mang tên VNQDD ban đầu. Nhóm kể sau [VNQDD] sống sót sau chiến tranh, và trở thành quan trọng sau những thăng trầm của nó.
Ưu thế của đảng Cộng Sản Đông Dương
Mất đoàn kết, mong manh và không nhất quán của Quốc Dân Đảng - mặc dù [đảng này] tương đối là hiệu năng so với đa số các đảng khác nhưng tương phản so với sự đoàn kết và sức bền bỉ của Đảng Cộng Sản Đông Dương (ICP). Yếu tố thống nhất chính của phong trào cộng sản là Hồ Chí Minh, và tập thể những người Cộng Sản trung kiên, đa số là do ông tuyển dụng, đào tạo, và lãnh đạo. Nhưng những điều quan trọng như lãnh đạo, lý thuyết và kỷ luật cũng tìm thấy trong thành công của cộng sản. Hồ (trước đó được gọi là Nguyễn Ái Quốc) đã tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp, và sau khi đào tạo tại Moscow, đã thành lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Minh Hội tại Quảng Châu, thông báo chủ yếu là nhắm vào các người quốc gia chủ nghĩa (Hình 2) 5/ Tuy nhiên, trong nhật ký của ông viết vào năm 1926, Hồ đã viết rằng: "Chỉ có một đảng cộng sản mới có thể bảo đảm được ấm no cho An Nam", và dường như ông đã bắt đầu về điều đó khi đào tạo cán bộ cho những hoạt động bí mật. Đến năm 1929, khoảng 250 Việt đã được đào tạo tại Quảng Châu, và ít nhất 200 đã trở lại Đông Dương để thực hiện công tác tổ chức, trong năm đó, khoảng 1000 người cộng sản và cộng tác viên với 10% tại Nam Kỳ, khoảng 20% ở Trung Kỳ, và phần còn lại ở Bắc Kỳ. 6/   Năm 1929, cộng sản đã tìm cách hợp nhất với Đảng Tân Cách Mạng Việt Nam, và tấn công Quốc Dân Đảng (VNQDD) như là một "đảng tư sản.". Trong năm đó một nhóm của Đoàn Thanh niên Cách Mạng thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, đảng đầu tiên mang tên này. Năm 1930, Đoàn Thanh niên Cách Mạng, một số thành viên của đảng xã hội của Nguyễn An Ninh, và An Nam Cộng sản Đảng lưu vong đã tham gia với nhóm vừa kể đầu tiên để lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam, và sau đó do Quốc Tế Cộng Sản mong muốn, nó đã mở rộng để bao trùm Lào và Campuchia – thành tổ chức Đông Dương Cộng Sản Đảng, và đã được Quốc Tế Cộng Sản công nhận.
Bạo lực do nhóm dân tộc đã hối hả xảy ra năm 1930, khoảng 1000 đảng viên Cộng Sản đã cầm đầu khoảng 100.000 nông dân trong đình công, biểu tình, và công khai nổi dậy. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An quê của Hồ, nông dân đã lập những sô viết, và nhiều chủ điền đã bị giết, và nhiều ruộng đất đã bị xé ra thành mảnh nhỏ. Những phương pháp đưa ra bạo lực, bị nhuộn đen bởi cướp bóc và giết người, Quốc Tế Cộng Sản phản đối việc này và cho rằng rằng chúng [phương pháp] không phù hợp với "bạo lực có tổ chức" [bạo lực cách mạng] của chủ nghĩa Mác Xít. 7/ Tuy nhiên, một lần nữa Pháp kháng cự nhanh chóng và đích đáng. Cảnh sát Pháp đã phá hủy bộ máy của công khai của ĐCSĐD tại Việt Nam trong năm 1930 và 1931, và theo yêu cầu của họ, Hồ Chí Minh đã bị người Anh bắt tại Hồng Kông. Nỗ lực tái tổ chức lại ĐCSĐD vào năm 1932 lại bị đợt đàn áp mới của cảnh sát [Pháp], và chỉ cho đến 1933 một lần nữa đảng cộng sản mới được phép hoạt động chính trị với bất kỳ thể loại nào. 8/ Tuy nhiên, đảng [CSĐD] đã sống lại, lập một chỗ đứng mới tại Nam Kỳ nơi được dễ dãi hơn, dưới [sự lãnh đạo] của Trần Văn Giàu (hình 3). Trần đã thành lập Liên Đoàn Chống Đế Quốc Chủ nghĩa, một tổ chức ở tuyến đầu đặc biệt chủ trương bất bạo động trong chương trình hoạt động được thiết kế để thu hút sự hỗ trợ từ chính trị cánh giữa và cánh hửu. Năm 1935, sau Đại hội Quốc tế cộng sản thế giới lần thứ VII, ĐCSĐD tập trung ở vùng Sài Gòn, và đưa ra một “Mặt trận Dân chủ” Đông Dương, song song với phong trào Mặt trận Bình Dân ở Pháp. Tuy nhiên, gần như ngay lập tức, các thành viên Trốt Kít ủng hộ cuộc "cách mạng lâu dài," tách ra khỏi sự lãnh đạo của ĐCSĐD, và bắt đầu nhấn mạnh về một đường lối độc lập, cách mạng nhiều hơn.
Phe Trốt Kít nội bộ lại chia thành hai nhóm: Nhóm "đấu tranh" và nhóm "Tháng Mười", khác nhau chủ yếu là ở mức độ đồng tình hợp tác với ĐCSĐD. Năm 1937, một ứng cử viên Trốt Kít, Tạ Thu Thâu, cùng với một nhà lãnh đạo ĐCSĐD, Nguyễn Văn Tạo, được bầu vào Hội đồng thành phố Sài Gòn. Năm 1939 phe Trốt Kít đã kéo lại với nhau thành một bên, và năm đó một người thuộc phe Trotskyite đã giành 80% phiếu bầu trong một cuộc bầu cử ở Nam Kỳ - một thất bại nghiêm trọng cho lãnh đạo ĐCSĐD bởi Nguyễn Văn Tạo từ đó lập ra một nhánh đảng cộng sản khác.
Sự chia rẽ trong phong trào cộng sản của Việt Nam trong những năm 1930, cũng như sự việc ĐCSĐD sẵn sàng tiếp thu học thuyết [Cộng Sản] là điều ghê gớm cho cả Pháp và giai cấp tư sản trong mục tiêu ngắn hạn, điều hiển nhiên sau đây trong báo cáo "Cương Lĩnh của Mặt Trận Dân Chủ Thời Kỳ (1936-1939) " do Nguyễn Ái Quốc (bí danh của Hồ Chí Minh) trình bày vào tháng Bảy năm 1939:
“1.Trong thời gian này, Đảng không thể đưa ra những đòi hỏi quá cao (độc lập dân tộc, quốc hội, v.v…). Làm như vậy là đi vào gian kế của phát xít Nhật. Chúng ta chỉ nên đưa ra những yêu cầu về các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, lệnh ân xá chung cho tất cả các tù nhân chính trị, và đấu tranh cho việc hợp pháp hoá của Đảng.
“2.Để đạt được mục tiêu này, Đảng cần phải phấn đấu để tổ chức rộng rãi Mặt trận Dân chủ. Mặt trận không chỉ ôm hôn người Đông Dương mà còn nhân dân tiến bộ Pháp cư trú ở Đông Dương, không chỉ người lao động mà còn là giai cấp tư sản dân tộc.
"4 Không thể có bất kỳ liên minh hay nhượng bộ nào với nhóm Trotskyite. Chúng ta phải làm mọi thứ có thể để làm họ phơi mặt ra như là tay sai của phát xít và tiêu diệt chúng về chính trị.
“5.Để tăng cường và củng cố lực lượng của mình, để mở rộng ảnh hưởng của chúng ta, và làm việc hiệu quả, Mặt trận Dân chủ Đông Dương phải giữ liên lạc chặt chẽ với Mặt trận Bình Dân Pháp vì họ cũng đấu tranh cho tự do, dân chủ, và có thể giúp đỡ chúng ta rất nhiều.
“6.Đảng không thể yêu cầu Mặt trận công nhận quyền lãnh đạo của Đảng [trên Mặt Trận]. Thay vào đó [Mặt trận] phải tạo hình ảnh theo đó chính Đảng như là người chịu hy sinh lớn nhất, hoạt động và trung thành nhiều nhất. Chỉ thông qua cuộc đấu tranh và công việc hàng ngày mà mà quần chúng sẽ thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng và từ đó [Đảng] có thể giành được vị trí lãnh đạo.
"7. Để thể thực hiện nhiệm vụ này, Đảng phải chiến đấu không khoan nhượng chủ nghĩa bè phái và hẹp hòi và tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin để nâng cao trình độ văn hóa và chính trị của các đảng viên và giúp cán bộ không phải là đảng viên nâng cao trình độ của mình. Chúng ta phải duy trì liên lạc chặt chẽ với Đảng Cộng sản Pháp.
“8.Ban Chấp hành Trung ương phải giám sát báo chí của Đảng để tránh những sai lầm về kỹ thuật và chính trị. (Ví dụ, trong cuốn tiểu sử đồng chí R được xuất bản, báo Lao Động đã tiết lộ địa chỉ và nguồn gốc của mình, v.v… Nó cũng đã đăng tải mà không bình luận bức thư của ông này khi nói rằng chủ nghĩa Trốt Kít là một sản phẩm của một sự khoe khoang, vv..). " 9/
"3. Đảng cần phải giữ một thái độ khôn ngoan, linh hoạt với giai cấp tư sản, phấn đấu để đưa họ vào Mặt trận, thuyết phục những người có thể thuyết phục được và vô hiệu hóa những người mà có thể vô hiệu hóa được. Chúng ta phải bằng mọi cách tránh để họ ở bên ngoài Mặt trận, vì sợ rằng họ rơi vào tay kẻ thù của Cách Mạng và gia tăng sức mạnh của bọn phản động.
Vào tháng Tám năm 1939, tuy nhiên, liên minh Hitler, Stalin được ký kết, và các tháng tiếp theo tất cả các nhóm cộng sản, cả trong nước và thuộc địa, đã bị người Pháp nguyền rủa. Tại Việt Nam, các tổ chức cộng sản một lần nữa hoàn toàn bị phá hủy bởi cảnh sát, nhóm Trốt Kít là đặc biệt đau khổ. 10/ Chỉ một chi bộ bí mật của Đảng CSĐD là còn sống sót.
Đảng CSĐD đã [sống sót] qua được nhiều cuộc thanh trừng của Pháp vào những năm 1930 - 1932 và năm 1939 - 1940 chứng tỏ sức mạnh của nó, mức độ thanh trừng tương tự đã làm suy yếu VNQDD và tất cả các đảng chính trị cách mạng Việt Nam khác. Tại điểm khởi đầu của Chiến tranh thế giới thứ II, đảng CSĐD đã hưởng được một sự độc quyền thực sự giữa những phe [Việt Nam] dân tộc chủ nghĩa có tổ chức, một vị trí có được là do (1) sự tàn nhẫn của người Pháp trong việc loại bỏ sự cạnh tranh [giữa các đảng phái], (2) cộng sản có kỷ luật, huấn luyện cao, và nhờ đó, có khả năng sống sót; (3) chiến lược và chiến thuật của cộng sản nhằm đấu tranh với chính quyền thực dân Pháp và việc huy động dư luận quần chúng là tốt hơn, và (4) sự khoan dung của "Mặt Trận Bình Dân" của cộng sản xuất phát từ sự thắng thế của cánh Tả tại Pháp trong những năm giữa của 1930. Pháp, bằng cách chối bỏ các đảng phái Việt Nam dân tộc chủ nghĩa ôn hoà, phân cực tình cảm chính trị của nhân dân bản xứ, và đã mời gọi nhân dân dành sự hỗ trợ rộng rãi của họ cho những giải pháp mạnh bạo và triệt để hơn của Đảng CSĐD..
(xem tiếp kỳ  7 )

-“...Động cơ của Trung Quốc tài trợ cho phe quốc gia Việt Nam là bao gồm một mong muốn có được tin tức tình báo về các lực lượng Nhật ở sườn phía Nam của họ, và để đánh phá Nhật thông qua phá hoại và các hoạt động khác ở Đông Dương...”

(b) Thế Chiến Thứ II và Việt Minh

          (1) Thành lập Phong Trào Thanh Niên

Ngay sau khi Pháp bại trận tháng Sáu năm 1940 Nhật lập tức đưa ra đòi Pháp cho Nhật vào chiếm đóng Đông Dương. Ngày 9 tháng Sáu 1940, Nhật trao cho Pháp cái đầu tiên trong một chuỗi tối hậu thư được gửi dồn đến, sau những bước đi sai trật của chính phủ Vichy, trong một sắc lệnh ký ngày 2 tháng Chín 1940, bởi Thống Chế Pétain, chỉ đạo cho chính quyền Pháp tại Đông Dương thương thảo những điều khoản cho phép quân đội Nhật có thể vào Đông Dương và [được quyền] xử dụng các căn cứ quân sự ở đây. Trong vòng một tháng, Hải Quân Nhật phô diễn ở bờ biển vịnh Bắc Kỳ, và thực tế Bắc Kỳ đã bị quân Nhật tràn vào từ miền Nam Trung Hoa, những điều khoản đòi hỏi bởi Nhật đều được thỏa mãn. Người Pháp đã cai trị Việt Nam như chủ nhà chứa chấp Nhật cho đến năm 1945, nhưng đầu lê ngọn súng của Nhật đã làm chủ quyền của Pháp trở thành danh nghĩa. Dưới chính quyền Vichy, Phó đô đốc Jean Decoux [Toàn Quyền Đông Dương 1940-45] đã đưa ra một thứ dân tộc chủ nghĩa lạ thường của Pháp ở Đông Dương đề cao địa vị người khách [Nhật] của họ, ca tụng chức năng giám hộ của Pháp trên Việt Nam, và đóng cửa bất kỳ nhượng bộ nào cho nguyện vọng độc lập chính trị cho người bản xứ. Trên tất cả, họ đã cố gắng bảo tồn ảo tưởng rằng người Nhật được đóng quân ở Đông Dương là với sự cho phép của họ. Đô đốc Jean Decoux cho rằng:

“Một quốc gia không phải là nước bị chiếm đóng nếu nó còn giữ quân đội riêng và hoàn toàn chủ động trong các vận động của nó, nếu chính phủ và tất cả các guồng mày công quyền vẫn còn đang hoạt động một cách tự do và không bị trở ngại, nếu những dịch vụ công cộng và đặc biệt là cảnh sát và lực lượng an ninh vẫn còn vững chắc trong tay quyền tự chủ và ngoài tất cả các can thiệp của nước ngoài.´ 11/

Tuy nhiên, sự ra sức nhấn mạnh của chính phủ Vichy trên hai chữ "tự do" của ho chỉ làm nản lòng những người Việt yêu nước đã đưa bàn tay hợp tác của họ [cho Pháp]. Điều hiển nhiên đã sớm rõ là chế độ Decoux là phục vụ mục đích của chính sách Nhật, và được "tự do" cho đến mức độ nào người Nhật muốn. Đầu năm 1941, Nhật tán thành Thái Lan trong cuộc xâm lược Lào và Cam-pu-chia. Pháp đã thành công quân sự trong việc ngăn chặn người Thái, nhưng Nhật, yêu cầu Thái Lan phải hợp tác cho Nhật [mượn đường] vào Mã Lai Á, buộc người Pháp giao cho Thái Lan tất cả các lãnh thổ mà Nhật muốn.  Ngày 6 tháng, năm 1961, một loạt hiệp ước thương mại quốc tế Pháp-Nhật đầu tiên đã được ký có tác dụng chuyển giao từ Pháp cho Nhật tất cả các lợi ích khai thác của doanh nghiệp Pháp thuộc địa, mà Đông Dương được nhận trở lại những hàng hóa như nó đã thường nhận được qua thương mại từ Pháp. Lực lượng vũ trang Nhật được [Pháp] giao cho toàn bộ máy của đất nước, và sau ngày 07 Tháng 12 năm 1941, Decoux đã tuyên bố Đông Dương là một phần của "Khối Thịnh Vượng Đại Đông Á."

Việc Nhật vào Đông Dương đã khởi động, trong năm 1940 và năm 1941, các cuộc khởi nghĩa người Việt chống Pháp, [và Pháp] lúc này càng tỏ ra đàn áp nhiều hơn và trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Hơn nữa, một số nhóm Việt Nam dân tộc chủ nghĩa từ lâu đã nhìn về Nhật để giúp giải phóng đất nước của họ. Những người cộng sản có vẻ như chưa dám quyết định vì sợ nguy cơ của một cuộc nổi dậy sớm khác.  Trong khi có vẻ như là Trung Ương đảng CSĐD đang chỉ đạo các cấp thừa hành kềm chế bạo lực, những người cộng sản, đầu tiên ở Nam Kỳ, và sau đó ở Bắc Kỳ, đã lãnh đạo cuộc nổi dậy vũ trang. Kết quả là thảm khốc cho phe kháng chiến. Người Nhật, dù có vẻ đã khuyến khích các cuộc nổi dậy ở mức mà họ [Nhật] có thể, chọn đứng qua một bên trong khi người Pháp đã nhanh chóng phản ứng và trấn áp dã man người Việt.  12/
Nhiều người lãnh đạo trong hàng ngũ đảng CSĐD và hàng ngũ quốc gia khác đã chết trong chiến đấu, hoặc bi chế tài khắc nghiệt của hệ thống tư pháp Pháp tiếp sau đó. Kết quả của các cuộc nổi loạn năm 1949 và 1941 là một cuộc thanh trừng khác của Pháp, đã đẩy các lực lượng quốc gia Việt đi lưu vong. Trong khi vẫn có những hoạt động bí mật quy mô nhỏ tại Việt Nam, bộ phận chính bị buộc phải dời ra nước ngoài, chủ yếu là Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Năm 1946, chính phủ Việt Nam đã xuất bản một tờ truyền đơn thừa nhận mình nợ Trung Quốc:
“Vì vậy, vượt vào miền nam Trung Quốc đã trở thành điển hình cho tất cả người làm cách mạng Việt Nam. Đó là nơi sinh của phong trào cách mạng Việt Nam, là căn cứ mà từ nơi đó ta đã chỉ đạo tất cả các hoạt động cách mạng, vượt ra “ngoài biên giới" - trên lãnh thổ Việt Nam của chúng ta" 13/

Động cơ của Trung Quốc tài trợ cho phe quốc gia Việt Nam là bao gồm một mong muốn có được tin tức tình báo về các lực lượng Nhật ở sườn phía Nam của họ, và để đánh phá Nhật thông qua phá hoại và các hoạt động khác ở Đông Dương, cũng có thể có một ý đồ chính trị về lâu dài sau khi chiến tranh chấm dứt.

Trong tháng 5 năm 1941, người đứng đầu đảng CSĐD Nguyễn Ái Quốc - người sau đó được gọi là Hồ Chí Minh - đã triệu tập Hội nghị lần thứ Tám của Ủy ban Trung ương (ĐCSĐD) để biểu quyết sự hình thành của một tổ chức thống nhất trong một mặt trận mới mà người Việt yêu nước có nhu cầu tham gia để chống Nhật và chống Pháp đều có thể tham gia. Cuộc họp của Đảng đã được theo sau bởi một "đại hội" người Việt Quốc Gia, những người mới đây đã thoát khỏi quê hương, hay những người đã lưu vong nhiều năm, cũng có đại diện của hội "Cứu Quốc” của công nhân, nông dân, chiến sĩ, phụ nữ và thanh thiếu niên - hầu hết trong số đó là do người của đảng CSĐD tổ chức và thống trị.  "Đại hội" thông qua khuyến nghị của các nhà lãnh đạo ĐCSĐD, và thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, mà sau đó được gọi tắt là Việt Minh. Nguyễn Ái Quốc được bầu làm Tổng thư ký của Việt Minh, và hầu hết các vị trí chủ chốt đã được giao cho các thành viên (ĐCSĐD). Nguyễn Ái Quốc đã ban hành một lá thư kêu gọi nhân dịp này, bao gồm những điều hấp dẫn sau đây:

"Đồng bào cả nước! Hãy mau chóng vùng lên. Chúng ta hãy theo tấm gương anh hùng của nhân dân Trung Quốc. Hãy mau chóng tổ chức các Hội Cứu Quốc chống Pháp và Nhật.

"Hỡi các bô lão!

"Hỡi các nhân sĩ!

"Mấy trăm năm trước, khi đất nước của chúng ta đang bị đe dọa bởi cuộc xâm lược của Mông Cổ, các bô lão của chúng ta dưới triều đại nhà Trần đã đứng lên phẫn nộ và kêu gọi con em gái của họ trong cả nước tcùng đứng lên muôn người như một để giết chết kẻ thù. Cuối cùng họ đã cứu dân tộc khỏi vòng nguy hiểm, và tên tuổi hào hùng của họ đã được lịch sử hậu thế ghi nhận. Các bô lão và các nhân sĩ của nước ta nên theo gương tổ tiên chúng ta trong nhiệm vụ vinh quang cứu nước.

“Người giàu, binh sĩ, công nhân, nông dân, trí thức, nhân viên, người buôn bán, thanh niên, và những phụ nữ nhiệt tình yêu nước chúng ta! Tại thời điểm hiện tại, giải phóng dân tộc là vấn đề quan trọng nhất. Hãy đoàn kết lại với nhau! Muôn người như một, đồng tâm đồng sức, chúng ta sẽ đánh đuổi Nhật và Pháp và bọn chó rừng của chúng để cứu nhân dân trong tình hình dầu sôi lửa bỏng hiện nay.

“Đồng bào yêu quí!

“Cứu Nước là chính nghĩa chung của toàn dân tộc chúng ta. Mỗi người Việt phải tham gia nó. Người có tiền sẽ đóng góp tiền của mình, người có sức mạnh sẽ góp phần sức mạnh của mình, người có tài năng cống hiến tài năng của mình. Tôi thề sẽ dùng tất cả khả năng khiêm tốn tôi để cùng tham gia với đồng bào, và tôi đã sẵn sàng cho một sự hy sinh cuối cùng.
“Các người kháng chiến cách mạng!

"Giờ đã điểm  Hay đưa cao các biểu ngữ nổi dậy và hướng dẫn nhân dân trong cả nước để lật đổ Nhật và Pháp! Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc vang dội trong tai của các bạn, máu của tổ tiên anh hùng của chúng ta đã hy sinh cuộc sống đang chảy cuộn trong tim của các bạn! Tinh thần chiến đấu của nhân dân đã được nhìn thấy ở khắp mọi nơi trước mặt các bạn! các bạn hãy mau chóng đứng lên! Hãy đoàn kết với nhau,cùng thống nhất hành động của các bạn để lật đổ Nhật và Pháp.

“Cách Mạng Việt-Nam sẽ chiến thắng!

“Cách Mạng Thế Giới sẽ chiến thắng!  14/

Các đảng phái [trong Việt Minh] và Cương Lĩnh

Việt Minh khởi thủy là một Mặt Trận “Chống Phát Xít” gồm các đảng quốc gia sau đây:

Đảng Tân Việt

Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội

Việt Nam Quốc Dân Đảng

Nhiều “Hiệp Hội Cứu Quốc”

Đảng Cộng Sản Đông Dương

Bắt đầu từ tháng Mười, 1940, Ủy ban Trung ương đảng CSĐD đã rút khẩu hiệu đặc biệt cộng sản của nó "Tịch thu chủ đất đai và phân phối cho các xới," hạ giọng thành "Tịch thu đất thuộc sở hữu của những kẻ phản bội để phân phối cho nông dân nghèo.", và đã bắt đầu thay vào đó nhấn mạnh "giải phóng dân tộc".  15/ Trong Việt Minh, “giải phóng dân tộc " đã trở thành trung tâm cho cương lĩnh của Đảng, nhưng ĐCSĐD ngay từ đầu đã thống trị giải đấu. Theo ông Võ Nguyên Giáp, Đảng đặt ra mục tiêu chính trị cho Việt Minh bỏ qua vai trò lịch sử của nó là "nhiệm vụ chống phong kiến", nhưng nhất thiết phải:

“Chính vì lý do này [nhấn mạnh trên vấn đề giải phóng dân tộc]  mà chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Minh đã tập hợp được các lực lượng lớn lao nhân dân và trở thành tổ chức chính trị mạnh mẽ nhất của một quần chúng cách mạng rộng lớn."

Đến năm 1943, Việt Minh trong thực tế, đã thu hút một khối lượng rộng lớn người quốc gia và trí thức, cũng như mở rộng tổ chức đều đặn đến tận nông dân. Một lịch sử 1946 chính thức trình bày này xây dựng các chương trình của nó tại thời điểm đó:

"Trong Đại Hội ở 1943, các đại biểu của tất cả các tổ chức cách mạng chống phát-xít đã thông qua các chương trình chính trị sau đây: (1) Bầu cử quốc hội lập hiến của Đông Dương trên cơ sở phổ thông đầu phiếu; (2) Phục hồi các quyền tự do dân chủ và các quyền, bao gồm cả quyền tự do tổ chức, báo chí và hội họp, tự do tín ngưỡng, tư tưởng, quyền sở hữu, quyền đình công, tự do cư trú và tự do tuyên truyền, (3) tổ chức một quân đội; (4) quyền tự quyết của các dân tộc thiểu số,  (5) các quyền bình đẳng phụ nữ (6) quốc hữu hóa các ngân hàng thuộc phát xít và sự hình thành của một ngân hàng quốc gia Đông Dương; (7) xây dựng một nền kinh tế quốc dân mạnh mẽ với việc phát triển ngành công nghiệp bản địa, thông tin liên lạc, nông nghiệp và thương mại; (8) cải cách nông nghiệp và mở rộng canh tác đất bỏ hoang; (9) Lao động pháp luật, bao gồm cả sự ra đời của ngày làm việc tám giờ và tiến bộ trong cải cách pháp luật xã hội; (10) Phát triển giáo dục và văn hóa quốc gia.
Trong lĩnh vực quốc tế, cương lĩnh đòi hỏi việc sửa đổi lại các điều ước quốc tế bất bình đẳng và một liên minh với tất cả các quốc gia dân chủ để duy trì hòa bình. Quan trọng hơn trong cuộc chiến chống Nhật, tuy nhiên, có những chương trình hành động cấp bách: (1) Tổ chức quần chúng công nhân, nông dân, phụ nữ và thanh thiếu niên cho cuộc đấu tranh chống phát-xít. Việc này đã đạt được những thành công đầy hứa hẹn. (2) Chuẩn bị một cuộc nổi dậy bằng cách tổ chức người dân thành các tự vệ đoàn.  (3) Sự hình thành của các nhóm du kích và căn cứ “để họ chịu trách nhiệm lớn hơn khi chúng ta dần dần qua thời gian đến gần các hành động quân sự trên toàn quốc..” 17/

Sức cạnh tranh giữa các đảng

                  (a)Đồng Minh Hội

Ngay từ đầu, người Trung Quốc đã nghi ngờ Việt Minh. Năm 1942, họ bắt giữ Nguyễn Ái Quốc, và bỏ tù ông. Tháng mười năm 1942, hơn một năm sau khi Việt Minh được sáng lập, Quốc Dân Đảng Trung Hoa tài trợ "mặt trận" thứ hai gồm những người Việt Nam quốc gia lấy tên là Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội cùng trụ sở chính của Việt Minh ở Liễu Châu tỉnh Quãng Châu Trung Quốc, Đồng Minh Hội – tên như nó đã được biết đến - bao gồm:

Việt Nam Quốc Dân Đảng

Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội

Đại Việt Quốc Dân Đảng

Việt Minh

Giải Phóng Hội

Đồng Minh Hội đã được đưa ra với sự phê duyệt chính thức của Thống Tướng Chang Pháp-kuei, một lãnh chúa gần như tự trị của Trung Quốc; cương lĩnh ban đầu của họ rõ ràng theo mô hình của chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên của Trung Hoa Quốc Dân Đảng và tổ chức bán quân sự của nó được thành lập với mục ddi’ch hợp tác chặt chẽ với quân đội Quốc Dân Đảng.Tuy nhiên, sau hơn một năm bị tù, Nguyễn Ái Quốc đã được thả bởi Trung Quốc - có lẽ do lệnh của Tướng Chang Pháp-kuei, và không được biết đến hoặc đợc phê chuẩn bởi văn phòng trung ương của Tướng Tưởng Giới Thạch  - và đã cài đặt, với bí danh mới là Hồ Chí Minh, làm Chủ tịch của Đồng Minh Hội. Việt Minh một mình được lợi bởi tình trạng hai mặt của lãnh đạo. Chỉ qua con người của Hồ Chí Minh, và trong chính Liễu Châu nó, đã có sự hợp nhất của hai tổ chức "mặt trận". Trên thực địa ở Bắc Kỳ, họ đã cạnh tranh với nhau - và thỉnh thoảng đánh nhau.

Đồng Minh Hội chỉ đạt được quyền lực chính trị và quân sự tại Việt Nam một cách khiêm tốn, và trở thành một yếu tố có ý nghĩa chính trị sau khi lực lượng Quốc gia Trung Quốc chiếm đóng Bắc Kỳ vào cuối năm 1945. Ngày 28 Tháng Ba, 1944, "Chính phủ lâm thời Cộng hòa Việt Nam" đã được công bố tại Luichow, Trung Quốc, với các quan chức Việt Minh chỉ chiếm một thiểu số các vị trí trong chính phủ.   18 / Nhưng ở Việt Nam, chỉ có Việt Minh là phong trào kháng chiến có hiệu quả và rộng lớn.

                  (b)Các Đảng “hợp tác”

Cả Pháp và Nhật tài trợ cho chính trị Việt Nam. Nhìn chung, người Nhật thành công đáng kể hơn trong việc thao tác người Việt Nam, và do đó họ làm chính quyền thuộc địa của Decoux thành nhu nhược. Thông qua việc hỗ trợ trực tiếp các giáo phái, chẳng hạn như Cao Đài và Hòa Hảo, và đủ các đảng phái chính trị quốc gia, họ đã duy trì tiềm năng chống đối ở thế cân bằng với lực lượng Pháp đang có mặt. Kết quả là, phần lớn lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là tại Nam Kỳ, đã được người Pháp bỏ trống cho người Việt Nam cai trị. Theo các nguồn tin mà Nhật báo cáo trong Thế chiến II hai nhóm quốc gia người Việt  hợp tác quan trọng nhất là: Đảng Đại Việt - một nhóm gồm các thành viên hữu khuynh của VNQDD tách ra thành lập; và Việt Nam Quang Phục Hội - dựa trên các nhóm quốc gia lưu vong ở Nhật. Theo báo cáo của Nhật, ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, các đảng “hợp tác” bao gồm:

Đảng Đại Việt

Đảng Đại Việt vào điểm cực thịnh vào khoảng năm 1940 - đã có khoảng 25.000 thành viên, nhưng sau những lần bị của chính quyền Pháp ở Đông Dương đàn áp, hiện nay phần nào giảm. Thành viên của nó là chủ yếu là do những giao cấp thấp, sinh viên, Hướng Đạo sinh, và ảnh hưởng của nó kéo dài từ các tỉnh Hà Đông, Hải Dương, Bắc Ninh và  miền trung Trung Kỳ cho đến Lào.
Đảng Đại Dân chủ Việt Nam, đã bị giải tán vào năm 1941 như là một kết quả của áp lực của chính quyền, nhưng canh tân vào năm 1942 và bao gồm chủ yếu là trí thức và các sĩ phu, số thành viên khoảng 2.000. Đây có lẽ là một phần của Việt Nam Quốc Dân Đảng được gọi là Đại Việt Dân Chính và lãnh đạo bởi Nguyễn Tường Tam.
Ba nhóm khác có tổng số thành viên khoảng hai hoặc 3000. Một trong các nhóm nhỏ hơn có lẽ là nhóm Thanh Nhiên Ái Quốc, dẫn đầu bởi Võ Xuân Cam, đã được mô tả như là một đảng khủng bố duy trì hang loạt tuyên truyền bạo lực chống Pháp. Một nhóm khác là Phụng Sự Đất Nước), lãnh đạo bởi Phạm Đình Cường.

Liên Minh Phục Quốc 

Đảng Quốc gia Việt Nam, bao gồm một đội tình nguyện viên, một phần dân sự, và một phần quân sự. Đoàn tình nguyện, là yếu tố chủ yếu, số lượng khoảng 1,500 ở phía bắc, 3.000 trung tâm, và 5.000 ở phía Nam và có ảnh hưởng trong giới kinh doanh, cán bộ, công chức, và trí thức.
Đảng Việt Nam Aí Quốc gồm các bác sĩ, luật sư và trí thức trong các ngành nghề tự do và có sức mạnh tiềm ẩn giữa các trí thức trẻ.
Đảng Đại Việt Quốc Xã, có khoảng 2000 thành viên và vùng ảnh hưởng chính của của nó là ở các thị trấn công nghiệp nhẹ của Hải Phòng và Hà Nội. Đảng  này được Trần Trọng Kim lãnh đạo, sau này là người đứng đầu trong chính phủ Bảo Đại, và được cho là đã được cảnh sát quân sự và Tổ chức Tình báo (Kempei Tai) Nhật lập ra để tuyển dụng người Việt Nam vào các lực lượng quân sự bù nhìn. 19/ (pagebreak)
Trong Nam Kỳ, Liên Minh Phục Quốc là hơn hẳn.

Liên Minh Phục Quốc

Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, được thành lập bởi Trần Văn Ân, Nguyễn Văn Sâm, Hồ văn Ngà, và Ngô Tấn Nhơn. Một số thành viên của Việt Nam Cách Mệnh Đảng đã bị giải tán vào năm 1939 đã gia nhập các tổ chức mới. Đảng rõ rệt ủng hộ Nhật trong định hướng. Ủng hộ sự hợp tác với quân đội Nhật và sự tuân thủ của Việt Nam với Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á.

Đảng Việt Nam Ái Quốc do một nhóm trí thức và sinh viên

Đảng Đại Việt Quốc Dân một sản phẩm tự nhiên của Đảng Quốc Gia Nam Kỳ Việt Nam bao gồm các yếu tố ủng hộ Nhật.

Đảng Việt Nam Quốc Gia, một đảng nhỏ

Thanh Niên Nghĩa Dõng Đoàn, một nhóm nhỏ thanh niên

Thanh Niên Ái Quốc, một nhánh ph’ia Nam của một nhóm khủng bố. Những thành viên phía Nam đã lập ra một tổ chức lấy tên là Đảng Việt Nam Dân Chủ

Giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo còn có tên là Đảng Việt Nam Vãn Hồi Độc Lập do Huỳnh Phú Sổ lãnh đạo

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thuộc giáo phái Cao Đài, lãnh đạo bởi Trần Quang Vinh, phụ tá chính của giáo chủ Phạm Công Tắc. Người Cao Đài được Nhật trang bị vũ khí và được dùng như một lực lượng cảnh sát phụ trợ [cho Nhật] ở khắp Nam Kỳ. 20/

Tuy nhiên, bất cứ lợi thế gì có được trong ngắn hạn mà các nhóm này đã đạt được đối với người Pháp Vichy, việc hợp tác với Nhật bị ảnh hưởng về dài hạn đưa đến việc mất uy tín của họ trong mắt một số lượng đáng kể trong dân chúng Việt Nam, đưa phong trào của họ vào thế đặc biệt bất lợi trong cuộc cạnh tranh sau chiến tranh với Việt Minh, nơi còn lưu giữ được hào quang của đức tin vững chắc vào sức đề kháng chống lại tất cả sự thống trị nước ngoài.

Trốt Kít 

Trong Nam Kỳ nhiều người cộng sản cấp tiến sống sót, và khi chiến tranh đang tiếp diễn, họ đã thành công tập trung ở vùng Sài Gòn. Năm 1944, nhóm "Tháng mười" công bố hình thành Liên Đoàn Cộng sản Quốc Tế, và tháng ba năm 1945, ban hành một bản tuyên ngôn lên án "chủ nghĩa Stalinists” của ĐCSĐD đã ủng hộ Đồng Minh, và những kẻ "phong kiến​​" cộng tác với Nhật:

"Sự thất bại của chủ nghĩa đế quốc Nhật trong tương lai sẽ đưa người Đông Dương đến con đường giải phóng dân tộc. Giai cấp tư sản và phong kiến chịu thua phục vụ những người cai trị Nhật ngày hôm nay, sẽ phục vụ các nước đế quốc Đồng minh như thế.  Bọn quốc gia trí thức tiểu tư sản, bởi chính sách vô bổ của họ, cũng sẽ không có khả năng lãnh đạo nhân dân đi tới chiến thắng cách mạng. Giai cấp công nhân, mà cuộc đấu tranh độc lập dưới lá cờ của Đệ Tứ Quốc Tế, sẽ có thể hoàn thành nhiệm vụ tiền phong của cách mạng.

“Bọn Stalinists của Đệ Tam Quốc tế đã từ bỏ giai cấp công nhân để thảm hại nhóm mình với các đế quốc 'dân chủ'. Họ đã phản bội nông dân và không còn nói về vấn đề ruộng đất. Nếu hôm nay họ diễu hành với bọn tư bản nước ngoài, trong tương lai, họ sẽ giúp giai cấp bóc lột quốc gia để tiêu diệt những người cách mạng trong những giờ sau đó” 21/

Nhóm Trốt Kít  "Đấu tranh" cũng tái xuất hiện vào Tháng Năm năm 1945, để tiếp tục cạnh tranh với phe "Tháng mười", nhưng cả hai đều ủng hộ cuộc cách mạng thế giới, một chính phủ công nhân-nông dân, trang bị vũ khí cho nhân dân, tước đoạt mọi quyền sở hữu về đất đai và công nghiệp. Điều có y nghĩa chủ yếu về việc làm  họ chỉ làm suy nhược (ĐCSĐD) tại Nam Kỳ, và làm giảm hiệu quả của Việt Minh.


Hoạt đông của Việt Minh ở Việt Nam

ĐCSĐD, trái tim của Việt Minh, đã thông báo cho phong trào [Việt Minh] những bài học đau đớn học được trong cuộc nổi dậy năm 1930-1931, và 1940 - 41: (1) Tuy nhiên mong muốn những người đã cầm vũ khí, cuộc nổi dậy đã phải được [tổ chức] một cách chính xác về thời gian để khai thác tối đa cả hai việc: sự hỗn loạn trong hàng ngũ đối phương và sự hỗ trợ tối đa của những người chưa dấn thân [kháng chiến] (2) phải có chút tin tưởng vào những kẻ đào thoát từ lực lượng địch – phần còn lại phụ thuộc "chủ yếu vào đông đảo quần chúng"; (3) cơ sở hỗ trợ cho các hoạt động phải được chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước. 22/   Theo sử liệu riêng của mình, ĐCSĐD đã bắt đầu chuẩn bị từ năm 1941 cho một cuộc tổng khởi nghĩa ở Việt Nam. Tại Nam Kỳ, cho đến tháng 4 năm 1945, ĐCSĐD tiếp tục hoạt động chủ yếu trong bí mật mà không quan tâm nhiều về các lớp phủ Việt Minh, ở Bắc Kỳ, tuy nhiên, tất cả các chủ trương của ĐCSĐD đều dưới danh nghĩa của Việt Minh. Suốt Việt Nam, ĐCSĐD đưa ra những hoạt động chính trị kiên nhẫn:  phổ biến tuyên truyền, đào tạo cán bộ, thành lập một mạng lưới các tế bào đến tận thôn ấp. Uỷ ban Trung ương ĐCSĐD đã thông qua chương trình bốn điểm vào năm 1941 này:

“1.  Xây dựng thêm những tổ chức mới trong nhân dân, và củng cố những tổ chức đang tồn tại trong Việt Minh.

 2.  Mở rộng các tổ chức ở các thành phố.

 3.  Tổ chức dân tộc thiểu số trong Việt Minh..

 4.  Hình thành các nhóm du kích nhỏ. "

Việt Minh đặt ưu tiên cho nhiệm vụ chính trị trước các sứ mạng quân sự. Cán bộ nhiều lần đã gây ấn tượng về sự thiết yếu cần chuẩn bị kỷ lưỡng về chính trị và cơ sở vật chất cho chiến tranh du kích. Ngay cả khi sau này [chiến tranh du kích] được đồng tình ủng hộ, họ cũng phải phải đặt tin tưởng vào “số đông quần chúng”, vào sự tăng trưởng liên tục, tính di động cực cao, và tính thích ứng liên tục." 24/

Trong khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam [Việt Bắc] trên Hà Nội căn cứ thường trực đầu tiên của Việt Minh đã được thành lập vào năm 1942-1943. Sau đó là chính phủ [kháng chiến] bí mật gồm cán bộ Việt Minh, và đến tháng Chín, 1943, sau khi dân chúng đã được tổ chức tốt, địa phương tuyển chọn lực lượng du kích đầu tiên do Việt Minh bảo trợ. Không phải cho đến 22 tháng 12, năm 1944, là ngày  mà  đơn vị đầu tiên của Quân đội Giải phóng Việt Minh được tạo ra, nhưng có rất ít bằng chứng vềc ác hoạt động du kích có phối hợp cho đến sau tháng Ba, năm 1945, cho đến lúc đó tổ chức ngầm là phổ biến. Tính đến cuối năm 1944, Việt Minh tuyên bố đã có 500.000 thành viên, trong đó 200.000 ở Bắc Kỳ, 150.000 ở An Nam, và 150.000 tại Nam Kỳ. 25/  

Mục đích là mỗi làng có một ủy ban Việt Minh, nằm trong một hệ thống gồm các ủy ban, quan trọng nhất là hầu hết ở đâu có ủy ban thôn tồn tại, ở đó nó đã ở một vị trí thách thức chính quyền. Theo Giáp, năm 1945 Việt Minh là đã là chính quyền trên thực tế trong nhiều lĩnh vực:
“Có những khu vực mà trong đó quần chúng tham gia các tổ chức Cứu Quốc, và trong những ngôi làng các Ủy ban Việt Minh đã có, như một chuyện phải đến, uy tín trong quần chúng như một tổ chức ngầm của chính quyền cách mạng. " 26/

Ngày 09 Tháng 3 năm 1945, Nhật lật đổ chế độ Vichy ở Đông Dương, và lập Hoàng đế Bảo Đại của An Nam thành người đứng đầu quốc gia tuyên bố độc lập tách khỏi Pháp, nhưng tham gia vào Khối Thịnh Vương Chung Đại Đông Á.  Việc thống nhất Việt Nam dưới thế của một Nhật đang chao đảo tiếp theo việc Hoàng đế An Nam không hiệu quả đã mở ra cơ hội chính trị mới cho Việt Minh. Ngày 06 tháng 4 năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD đã chỉ đạo hình thành một chính phủ [kháng chiến] cho toàn Việt Nam, mở rộng đến tất cả các bậc thang của xã hội, chuẩn bị sẵn sàng để huy động toàn dân cho chiến tranh. Tháng năm 1945, "vùng giải phóng” Việt Minh được thành lập gần biên giới Trung Quốc.

Có thể nói bất cứ gì về việc bóp méo lịch sử của các sử gia cộng sản nhằm phóng đại tầm quan trọng của Việt Minh, nhưng thực tế là trong Thế Chiến II cơ quan O.S.S [tiền thân của CIA] của Mỹ đã xem Việt Minh như bộ máy kháng chiến duy nhất có hiệu quả tại Việt Nam về những thông tin tình báo và những giúp đỡ trong việc hỗ trợ các phi công Đồng Minh bị bắn rơi. 27/  

Đường như rõ ràng rằng về tiếng tăm trong quần chúng tại Việt Nam, không có phong trào chính trị Việt nào có được như ĐCSĐD và Việt Minh đã bổ sung vào tầm vóc của mình trong các hoạt động thời chiến của họ.

(5)Giải Phóng Miền Bắc

Khi chiến tranh sắp kết thúc, Việt Minh đã chứng minh được sự khéo léo chiến lược như đã chứng minh trên mặt chiến thuật, như Trường Chinh, Tổng thư ký của ĐCSĐD đã cẩn thận chỉ ra [những gì đã làm] vào năm 1946 là ĐCSĐD đã chứng minh được khéo léo của họ. Theo Trường Chinh, ngày 13 tháng 8 năm 1945, Đảng,  được thông báo về sự sụp đổ của Nhật, đã quyết định để chặn trước việc Đồng Minh chiếm đóng của Việt Nam, và đã vội vã triệu tập một Đại Hội Việt Minh đã được đang chờ họp kể từ tháng Sáu:

"Trong kỳ họp Quốc hội lịch sử, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã chủ trương một chính sách rất rõ ràng: lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa để giải giới Nhật trước khi các lực lượng Đồng Minh có mặt tại Đông Dương, giành quyền lực từ tay Nhật và các con rối tay sai của họ và cuối cùng là quyền lực của nhân dân, để chào đón các lực lượng Đồng Minh đến giải giới quân Nhật ở Đông Dương. " 28/

Một hồ sơ có thể chính xác hơn - vì nó phù hợp với các tin tức khác và đã đề cập đến các cuộc nổi dậy tự phát của địa phương trước khi có "lệnh cho cuộc tổng nổi dậy" của Đảng - được xuất bản bởi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào tháng Chín năm 1946:

"Những biến cố của thời cuộc đã tác động Đảng Việt Minh triệu tập không chậm trễ hơn nữa một Đại Hội Toàn Quốc. Một ủy ban cách mạng được tạo ra và lệnh một cuộc Tổng Nổi Dậy đã được đưa ra vào đêm 13 tháng 8, ngay sau khi nhận được tin Nhật đã đầu hàng vô điều kiện.

"Ngày 16 Tháng 8, Đại hội toàn quốc mở tại Tân Trào, một địa danh thuộc tỉnh Thái Nguyên, trong vùng giải phóng.  Sáu mươi đại diện từ tất cả các bộ phận của đất nước đến để tìm hiểu thêm chi tiết về mệnh lệnh cho cuộc Tổng Khởi Nghĩa.. Các chính sách quốc nội và quốc ngoại của Chính phủ Cách Mạng đã được vạch ra và Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc Việt Nam đã được thành hình, và [Ủy Ban này] sau này đã trở thành Chính Phủ Lâm Thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

"Vào thời điểm lịch sử đang hội tụ này, Việt Minh đặt ra một chương trình rõ ràng mang những điểm sau đây:

a)  giải giới Nhật trước khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương.;
b)  giành quyền lực từ tay của kẻ thù;
c)  đạt một vị trí có thẩm quyền khi chào đón các lực lượng Đồng Minh.

"Trong một số khu vực, tuy chưa nhận được lệnh Tổng Khởi Nghĩa, các thành viên của Việt Minh đã lấy sáng kiến ra lệnh tổng động viên và lãnh đạo nhân dân vào cuộc đấu tranh dành chính quyền. Do đó, ngày 11 tháng 8, đồng bào của chúng ta ở Hà Tĩnh đã đứng lên cầm vũ khí chống phát xít Nhật trong khi các cuộc nổi dậy cũng đã diễn ra tại Quảng Ngãi.

“Ngày 14 và 15, các lực lượng của chúng ta đã chiếm giữ nhiều vị trí tiền tiêu của địch quân trong vùng lân cận các khu giải phóng.

“Ngày 16 Tháng Tám, với những tin tức về sự đầu hàng của Nhật, hàng triệu người trong cả nước đã cùng đứng lên vào dịp này và một cuộc tấn công toàn diện vào doanh trại và các cơ sở quân sự của Nhật bắt đầu.

“Ngày 17-18, một cuộc biểu tình rất lớn đã diễn ra tại thành phố thủ đô Hà Nội. Cuộc đấu tranh cướp chính quyền thực sự đã bắt đầu ở đây, vào ngày 19, với các lực lượng dân quân địa phương đã đứng về phía Cách Mạng. Dẫn đầu bởi các đoàn thể thanh niên, quân đội nhân dân dưới sự chỉ huy của Việt Minh đã tiến vào tòa nhà của Bộ Nội Vụ. Khâm Sai Phan Kế Toại đã chạy trốn với cộng tác viên thân cận nhất của mình. Chính phủ bù nhìn  Trần Trong Kim nhanh chóng tan rả trong khi ở cố đô của An Nam, Hoàng Đế Bảo Đại đã ký sắc lệnh thoái vị của mình trước sự hiện diện của đại diện của Cơ Sở Trung Ương của Việt Minh.

"Vì vậy, một chính quyền mới ra đời, Chính phủ Cách Mạng của nhân dân được chính thức công bố và được sự hỗ trợ hoàn toàn của toàn dân.
"Một vài ngày sau đó, các thành viên của Ủy ban Giải phóng Quốc gia đã gặp nhau trong phiên họp tại Hà Nội. Trước tình hình mới, chính quyền mới đã được tái tổ chức và một Chính Phủ Tạm Thời trong đó bao gồm một số thành viên độc lập [không thuộc đảng phái nào] được thành lập với Chủ tịch là Hồ Chí Minh. 29/
 
Hồ Chí Minh đã ban hành một lời "Kêu Gọi Tổng Khởi nghĩa" sau cuộc họp ngày 16 tháng 8:

“...Đây là một bước tiến vĩ đại trong lịch sử của cuộc đấu tranh tiến hành trong gần một thế kỷ bởi nhân dân ta để tự giải thoát mình
"Đây là một thực tế đã làm đồng bào chúng ta vui mừng và cho tôi một niềm vui lớn lao.

"Tuy nhiên, chúng ta không thể xem đó đã là đủ thành công. Cuộc đấu tranh của chúng ta còn lâu dài và khó khăn.. Bởi vì không phải Nhật bị đánh bại mà chúng ta đã được giải phóng sau một đêm. Chúng ta vẫn còn phải hy sinh nhiều hơn nữa và tiến hành cuộc đấu tranh. Chỉ có đoàn kết thì cuộc đấu tranh mới mang lại cho chúng ta Độc Lập.

"Mặt trận Việt Minh là cơ sở của cuộc đấu tranh và đoàn kết của nhân dân ta hiện nay. Tham gia Mặt trận Việt Minh, hỗ trợ, và làm cho nó lớn hơn và mạnh mẽ hơn!

"Hiện nay, Ủy ban Giải phóng Quốc gia, do đó, như đã nói, bản thân là chính phủ lâm thời của chúng ta. Đoàn kết xung quanh nó và thông qua nó mà các chính sách và trật tự được thực hiện trên cả nước!

"Bằng cách này, Tổ quốc của chúng ta, chắc chắn sẽ dành được Độc Lập và nhân dân ta chắc chắn sẽ dành được Tự Do sớm.
"Giờ quyết định số phận của nhân dân ta đã điểm. Hãy đứng lên với tất cả sức mạnh để giải phóng bản thân của chúng ta!
"Nhiều dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang ganh đua với nhau trên con đường dành lại Độc Lập cho mình. Chúng ta không thể cho phép mình tụt hậu ở phía sau.
"Tiến lên!  Hãy tiến lên! Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, hãy can đảm tiến lên !" 30/

[Vị Hoàng Đế] Bảo Đại không may của một Việt Nam lần đầu tiên được danh nghĩa một quốc gia thống nhất, độc lập sau gần một thế kỷ, ngày 18 Tháng Tám 1945, đã gửi Tổng Thống De Gaulle của Pháp thông điệp sâu sắc và tiên tri sau đây:

“Tôi đích thân trình bày cho người dân ở Pháp, đất nước của tuổi trẻ của tôi.  Tôi cũng đích thân trình bày với các nhà lãnh đạo và giải phóng Đất Nước và tôi mong muốn được nói chuyện như một người bạn chứ không phải như là người đứng đầu của Nhà nước.
"Chúng tôi đã phải chịu quá nhiều đau khổ trong suốt bốn năm tang tóc mà không hiểu rằng nhân dân Việt Nam, người đã có một lịch sử hai mươi thế kỷ và thường là với một quá khứ vinh quang, nay không còn muốn, không còn có thể hỗ trợ bất kỳ sự thống trị của nước ngoài hoặc chính quyền nước ngoài.

"Các ông có thể hiểu tốt hơn nếu các ông có thể đển xem những gì đang xảy ra ở đây, nếu các ông có thể cảm nhận được niềm khát khao Độc Lập đang âm ỉ trong tận cùng các con trái tim [của chúng tôi], thì không có lực lượng con người nào còn có thể kìm giữ được. Nếu các ông đến để tái thiết lập một chính quyền Pháp ở đây, thì nó sẽ không còn được tuân theo, mỗi làng sẽ là một ổ kháng chiến, mỗi người bạn cũ thành một kẻ thù, và các quan chức và những kẻ thực dân của các ông  sẽ phải yêu cầu được rời bỏ nơi mà bầu không khí không thở được.
"Tôi cầu xin các ông hiểu rằng cách duy nhất để bảo vệ lợi ích, ảnh hưởng văn hoá của Pháp ở Đông Dương là thẳng thắn công nhận nền độc lập của Việt Nam và từ bỏ bất kỳ ý tưởng nào nhằm tái lập chủ quyền của Pháp hay chính quyền dưới bất cứ hình hức nào có thể được.
"Các ông có thể dễ dàng lắng nghe và trở thành bạn bè của chúng tôi nếu các ông dừng tham vọng để trở thành chủ nhân của chúng tôi một lần nữa.

"Đưa ra lời kêu gọi này đến chủ nghĩa lý tưởng của nhân dân Pháp và đến trí tuệ tuyệt vời của lãnh đạo của họ, chúng tôi hy vọng rằng hòa bình và hạnh phúc, reo vui cho tất cả mọi người trên thế giới, sẽ đảm bảo được bình đẳng cho tất cả những người sống ở Đông Dương, bản địa cũng như nước ngoài. "  31/

De Gaulle không bao giờ trả lời. Lời nhắn trong bất kỳ sự kiện nào đều không được đưa lên bàn luận, bởi vì trong vòng một tuần, Bảo Đại chính thức nhượng lại quyền hạn của mình cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và sau đó, Pháp đã phải đối mặt ở miền Bắc Việt Nam không phải quan vua phong kiến, nhưng là Hồ Chí Minh, một người cách mạng chuyên nghiệp không nhân nhượng – dâng hiến mình cho dân tộc và cộng sản.

Giải Phóng Nam Kỳ

Việc lật đổ quyền lực của Nhật tại Nam Kỳ theo một diễn tiến riêng biệt. Chính phủ Bảo Đại đã chờ đợi cho đến ngày 11 tháng tám 1945 để công bố xác nhập Nam Kỳ vào một nước Việt Nam thống nhất, nhưng động thái này đã quá muộn để có bất kỳ tác động nào. Các bước hiệu quả đầu tiên trong việc củng cố các nhóm chia rẽ về chính trị Việt Nam ở miền Nam được tiến hành bởi nhóm Trốt Kít "đấu tranh" và các đảng phái hợp tác trước đây, cùng sát nhập chung ngày 14 Tháng Tám 1945, để hình thành một " Mặt trận Quốc Gia Thống Nhứt”. Những người tham gia bao gồm giáo phái Cao Đài, giáo phái Hòa Hảo, và Liên đoàn Phật giáo. Mặt trận Quốc gia đã thông qua nền tảng Trốt Kít, và tập trung năng lượng chủ yếu chống lại các đại diện của Bảo Đại ở Sài Gòn. Việt Minh dường như đã trì hoãn cho đến ngày 24 tháng 8 để khởi động chương trình của họ ở Nam Kỳ, rõ ràng là những chuyển động trong thời điểm đó là để giữ quyền lực của Việt Minh ở An Nam và Bắc Kỳ. Trong khi đó, ĐCSĐD, dẫn đầu bởi Trần Văn Giàu, lặng lẽ nắm quyền. Ngày 25 Tháng Tám, 1945, Việt Minh đã bảo trợ một cuộc họp từ đó một chính phủ mang tên "Ủy ban điều hành tạm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” đã được thành lập. Uỷ Ban [Kháng Chiến] Nam Bộ, mặc dù thống trị bởi Trần Văn Giàu và các thành viên khác của ĐCSĐD, mục đích đại diện cho cả Việt Minh và của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, và là cánh tay phía nam của chính phủ Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất có đại diện trong các cuộc họp ngày 25 tháng Tám, nhưng các cuộc đàm phán chính thức cho một liên minh giữa Việt Minh và Mặt trận đã không bắt đầu cho đến ngày 30 tháng Tám. Sau đây là những ghi chú trong biên bản về  diễn tiến cuộc họp này, tiếp theo là một báo cáo của Trần Văn Giàu là Chủ tịch Ủy Ban Điều Hành Nam Bộ:

"Huỳnh Phú Sổ (lãnh đạo Hòa Hảo) [hỏi] - Ông Giàu có thể cho chúng tôi biết những nào nhóm trước đây bí mật hợp tác với Việt Minh, và sau đó công khai tham gia vào nó? '

"Trần Văn Giàu [trả lời] - ở Nam Kỳ, trong thời kỳ bí mật, các bên trong Mặt trận Việt Minh là: Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Tân Dân chủ Việt Nam, Thanh Niên Cứu Quốc, Quân Nhân Công Chức Cứu Quốc, Đảng Quốc Gia Việt Nam, và nay là Mặt trận Thống nhất Quốc gia.’
"Trần Văn Thạch (lãnh đạo nhóm Trốt Kít “Chiến Đấu”) [hỏi] - khi nào Ban Chấp Hành sẽ được thành lập và những ai sẽ là người chọn nó. Liệu các chính sách của Mặt trận sẽ được theo sau và liệu sẽ có liên lạc [tiêp theo] với Mặt trận? Và kể từ ngày đại hội được tổ chức hôm nay, liệu Chính phủ sẽ hành động phù hợp với đường lối của đại hội, hay là cuộc họp chỉ được tổ chức một lần duy nhất? "

"Trần Văn Giàu -" Bây giờ, tôi sẽ trả lời ông Thạch. Việc thành lập Ban Chấp hành không phải là quyết định duy nhất của tôi mà đã được thành lập cách đây một thời gian để cướp chính quyền. Ban chấp hành đó chỉ là tạm thời..., trong khi chờ đợi cuộc cuộc tổng tuyển cử. Trong thời gian lâm thời đó, không ai muốn nhận lãnh trách nhiệm hoặc chấp hành mệnh lệnh. Mặc dù câu hỏi của ông Thạch đã không được giải thích đầy đủ, tôi có thể nói với ông những gì mà tôi biết.. Ông muốn hỏi tại sao một người như ông lại không có một vị trí nào trong chính phủ, phải như vậy không ông Thạch? Tôi nhắc lại rằng Chính phủ này chỉ là tạm thời. Sau khi khi chúng ta có một cuộc tổng tuyển cử, nếu có khả năng, ông Thạch không cần phải lo lắng về việc không có một ghế trong Chính phủ. Về vấn đề làm việc giữa các đảng phái, ông và tôi, chúng ta sẽ gặp lại sau. '

"Huỳnh Văn Phương (Nhóm Trí Thức) - Do hoàn cảnh mà chúng ta phải đối diện hiện nay, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đã cảm thấy rằng không nên có hai mặt trận trong nước. Vì lý do này, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đã kêu gọi tất cả các đảng và phe nhóm các bên gặp nhau và đã lựa chọn Phan Văn Hùm làm đại diện để thương lượng với Việt Minh để nhằm sát nhập  hai mặt trận thành một.

"Sau khi đàm phán, ông Hùm trở về và báo cáo rằng Việt Minh đã từ chối sát nhập mình vào Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Họ cho rằng Việt Minh đã là một mặt trận hợp nhất trong mắt của dân tộc và đã chiến đấu chống lại chủ nghĩa đế quốc Nhật. Ngày nay, để đoàn kết sức mạnh của chúng ta, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất nên liên kết [xác nhập] vào Việt Minh.

"Khi thấy quan điểm của Việt Minh là có cơ sở, sau khi nghe xem ông Hùm, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đã [quyết định] liên kết với Việt Minh....'

"Trần Văn Giàu - Việt Minh không muốn một cuộc đua quyền lực. Nếu người nào có khả năng thì không ai ngăn trở con đường của họ. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đại diện cho nhiều đảng và nhóm có liên quan của Việt Minh.... 32/

Mặc dù cuộc họp ngày 30 tháng 8 đã không đưa ra việc sáp nhập chính thức [giữa hai Mặt Trận], ngày 07 tháng 9 năm 1946, Việt Minh đã có thể công bố việc hình thành của một "Khối Đoàn Kết Quốc Gia" chung với Mặt trận Thống nhất Quốc gia. Đó là Ủy Ban Kháng
Chiến Nam Bộ của Trần Văn Giàu mà trên thực tế đã là một chính phủ ở Sài Gòn, khi các lực lượng chiếm đóng Anh đến.

(xem tiếp kỳ 8)





-8,-I. B. 2
Mục lục
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa............................................. B-33

a. Thành lập nước Cộng hòa............................................... B-33
b. Độc lập trong thời gian ngắn tại Nam Kỳ......................B-36
c. Chính phủ dân tộc ở miền Bắc Việt Nam, 1945-1946.....B-40

(1) Chính phủ của 02 tháng 9 năm 1945...........................B-40
(2) Chính phủ của 06 tháng 3 năm 1945...........................B-46
(3) Trung Quốc rút quân.....................................................B-47
(4)   Chính phủ ngày 03 Tháng Mười Một 1946..............B-49

Việt Nam Cộng Hòa  

a. Thành lập nước Cộng Hòa.

Ngày 26 tháng tám [1945] trong một buổi lễ tại Huế, Hoàng Đế Bảo Đại đã từ bỏ quyền lực của mình để giao [ấn kiếm] cho đại diện của Hồ Chí Minh. Ông nói về "lực lượng dân chủ hùng mạnh ở phía bắc của Vương quốc của chúng ta", và sợ rằng "xung đột giữa miền Bắc và miền Nam có thể không tránh khỏi." Và để tránh một cuộc xung đột như vậy, và không để cho kẻ ngoài lợi dụng cuộc đấu tranh nội bộ để có cơ hội xâm lược [đất nước], ông đã chấp nhận trở thành một "công dân tự do của một quốc gia độc lập". Bảo Đại đã kêu gọi tất cả các đảng phái và phe nhóm, tất cả các tầng lớp xã hội cũng như gia đình Hoàng Gia tăng cường và hỗ trợ không ngại ngùng Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa để củng cố nền Độc Lập Dân Tộc của chúng ta. 33 / Bảo Đại lấy lại tên Vĩnh Thụy, và chấp nhận danh hiệu "Cố vấn chính trị tối cao" trong chính phủ Hồ Chí Minh '.

Ngày 02 tháng 9, 1945 - ngày Nhật ký kết các thủ tục đầu hàng, Hồ tuyên bố thành lập một nhà nước mới, đưa ra  "Tuyên ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà " sau đây:

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
“Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
“Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
“Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
“Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở trung, nam, bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
“Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
“Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
“Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
“Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
“Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
“Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
“Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật vào. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng trị đến Bắc kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
“Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho Nhật.
“Trước ngày mồng 9 tháng 3, biết bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật.
“Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên bái và Cao bằng.
“Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
“Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị, dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
“Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
“Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
“Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! dân tộc đó phải được độc lập!
“Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

b. Độc Lập chết yểu ở Nam Kỳ.

Ngày 02 Tháng Chín 1945, Nam Việt Nam chìm trong rối loạn chính trị sâu sắc. Sự sụp đổ liên tục của Pháp, sau đó là Nhật, tiếp theo bởi các xung đột giữa các phe phái chính trị ở Sài Gòn đã được kèm với bạo lực lan rộng ở nông thôn. Cao Đài thành lập một nhà nước tại Tây Ninh, Hòa Hảo đã thành lập thủ đô tại Cần Thơ, nổi loạn của nông dân bùng lên, và một số cán bộ nông thôn và địa chủ đã bị sát hại. Ngày 02 Tháng 9, bạo lực ở Sài Gòn đã lấy mất mạng sống của một linh mục Pháp ngay trên ngưỡng cửa nhà thờ, một số người Pháp khác, và một số người Việt Nam. Nhà của người Pháp bị đập phá, và một bầu không khí căng thẳng sợ hãi đã trùm lên thành phố.

Ngày 12 tháng 9 năm 1945, quân đội Anh đầu tiên đến Sài Gòn - một tiểu đoàn lính Gurkha, họ đi kèm với một đại đội lính Pháp [tự do]. Tướng Douglas D. Gracey, chỉ huy, đến ngày 13 tháng 9. Trước khi khởi hành từ Ấn Độ, Gracey đã thông báo rằng:

Vấn đề chính quyền ở Đông Dương là độc quyền của Pháp. Kiểm soát dân sự và quân sự bởi người Pháp chỉ là vấn đề một vài tuần." 35/
Rõ ràng là tướng Gracey đã nhận chỉ thị từ Bộ Tư Lệnh Đồng Minh ở Đông Nam Á giới hạn nhiệm vụ của mình trong việc giải giáp người Nhật, và chắc chắn đã không yêu cầu ông ta thực hiện việc sửa đổi hệ thống chính trị của Việt Nam. 36 / Nhưng trên thực tế, Tư Lệnh Gracey đã sử dụng quân đội và vị trí của mình để lật đổ Uỷ Ban Kháng Chiến Nam Bộ. Cả phe Cộng sản hay phe Quốc Gia người đều không quan tâm đến chỉ huy người Anh. Ngày 10 Tháng 9, Việt Minh đã chấp nhận cải tổ Uỷ Ban Kháng Chiến Nam Bộ, trong đó Trần Văn Giàu đã được thay thế bằng Chủ tịch Phan Văn Bạch, một người quốc gia độc lập nổi bật, và thành viên ĐCSĐD chỉ chiếm có bốn trong mười ba ghế của Ủy Ban. Gracey dường như coi Chính phủ Việt Nam với thái độ khinh thị, nếu không nói là khinh miệt, không phải vì mầu sắc chính trị của nó, nhưng bởi vì nó thiếu thẩm quyền từ Pháp, và bởi vì rối loạn dân sự mà nó đang lãnh đạo. Chỉ huy người Anh đã ra lệnh Nhật phải hỗ trợ trong việc giữ gìn trật tự, và chỉ đạo việc giải giáp người Việt Nam, cả hai chỉ thị đều bị bỏ lơ, nhưng đã góp thêm vào sự căng thẳng đang tăng.

Thái độ của lực lượng chiếm đóng đã củng cố vị trí của nhóm Trốt Kít. Nhóm này đã lên án Việt Minh, ĐCSĐD, và Uỷ Ban Kháng Chiến Nam Bộ như là một "chính phủ dân chủ tư sản, mặc dù có những người cộng sản nắm quyền," và chỉ trích bất kỳ nỗ lực hợp tác với quân Đồng Minh. Liên đoàn Trotskyite Quốc tế Cộng sản kêu gọi vũ trang nhân dân, và kích động dân chúng chống lại người Anh. Bắt đầu từ ngày 12 tháng 9, cảnh sát Việt Nam ở Sài Gòn đã phát động một chiến dịch bạo lực để đàn áp Trốt Kít, trong đó nhiều nhà lãnh đạo Trotskyite đã thiệt mạng. Trong các khu vực nông thôn, đánh nhau đã nổ ra giữa quân đội Việt Minh và các lực lượng của đạo Cao Đài và Hòa Hảo. Bạo lực lây lan giữa nội bộ người Việt đã là vô ích hơn nữa những cố gắng nhằm tập hợp các phe phái Việt Nam, và làm lo âu tăng cao trong số người phương Tây đang sống Sài Gòn.

Ngày 17 tháng 9 năm 1945, Uỷ Ban Kháng Chiến Nam Bộ kêu gọi một cuộc tổng đình công để phản đối việc Đồng minh thiếu hợp tác, và bắt giữ khoảng mười sáu người Pháp. Người Pháp sau đó đã thúc bách Gracey cho phép họ bước vào lập lại trật tự. Ngày 19 Tháng Chín, "Ủy viên" Pháp cho Nam Kỳ, Cedile, thông báo rằng sẽ không có cuộc đàm phán với Việt Nam cho đến khi nào trật tự dân sự được khôi phục. Ngày 20 Tháng Chín, Tướng Gracey đình chỉ tất cả các tờ báo tiếng Việt, và nắm giữ lực lượng cảnh sát Việt Nam. Ngày 21 tháng 9, thiết quân luật được tuyên bố, cấm tất cả các cuộc biểu tình, và cấm người Việt Nam mang bất kỳ loại vũ khí gì, kể các các gậy tre [tầm vông]. Ngày 22 Tháng 9, người Anh thả một số khoảng 1.400 lính nhảy dù Pháp bị Nhật giam giữ bên ngoài Sài Gòn, và toán lính này tức thời tràn vào thành phố đánh bất cứ người Việt Nam nào mà họ có thể bắt giữ. Vào buổi sáng của ngày 23 tháng 9, quân Pháp chiếm các trạm cảnh sát, bưu điện, và các công trình công cộng khác, và bắt đầu bắt giữ các chính trị gia và các công chức Việt Nam, mặc dù các thành viên của Uỷ Ban Kháng Chiến Nam Bộ đã trốn thoát. Ghi nhận chính thức của Anh viết rằng:

"Thực đáng tiếc cho cách thức mà qua đó cuộc đảo chính được thực hiện, cùng với những hành vi của các công dân Pháp trong buổi sáng Chủ nhật, ngày 23 tháng Chín, hoàn toàn chắc chắn rằng sẽ có các “biện pháp trả đủa" có thể được thực hiện bởi người An Nam [Việt Nam]. Đáng tiếc là cái xúc đông của công dân Pháp, sau khi tất cả đã phải chịu nhiều đau khổ dưới tay của người An Nam trong những tháng qua, đã làm họ lấy cơ hội này để thực hiện những hành động trả thù mà họ có thể làm được… Người An Nam đã bị bắt giữ không có lý do khác hơn.họ là người An Nam, sau khi bị bắt họ đã bị đối xử, tuy không chủ động tàn bạo, nhưng bằng những bạo lực không cần thiết ".

Ngày hôm sau, người Việt Nam tấn công lại: đời sống kinh tế của Sài Gòn bị tê liệt bởi các cuộc đình công, và ban đêm nhiều nhóm Việt Nam - chủ yếu từ một giáo phái xã hội đen gọi là Bình Xuyên - đã bắt đầu một loạt tấn công vào các tiện ích công cộng. Ngày 25 Tháng Chín, trong cuộc tấn công một khu dân cư Pháp, hơn 100 người phương Tây đã bị giết, và nhiều người khác bị bắt làm con tin; ngày 26 tháng 9, chỉ huy của cơ quan O.S.S [Mỹ] tại Nam Kỳ đã bị giết. Như vậy, cuộc chiến Đông Dương đã bắt đầu tại Nam Kỳ vào cuối tháng Chín, năm 1945, và máu của người Mỹ đã đổ ra trong giờ mở cửa.

Uỷ Ban Kháng Chiến Nam Bộ đã ban hành một tuyên bố lên án các hành động của Anh:

"Đóng cửa báo chí đang nhất trí bảo vệ sự độc lập của Việt Nam, khiến chúng tôi không... kiểm soát và chỉ đạo ý kiến ​​cho công chúng tại một thời điểm mà đám đông đã bực tức bởi những hành động khiêu khích của người Pháp... quân đội Anh, để thực hiện nhiệm vụ giải giáp các lực lượng Nhật, đã không cần phải giải giáp vũ khí lực lượng cảnh sát của chúng tôi và ngăn chặn chính phủ của chúng tôi như họ đã làm Tuy nhiên, chúng tôi đã chứng minh bằng những hành động của chúng tôi rằng chính phủ của chúng tôi là bằng hửu nhất với mong muốn được đưa ra tất cả các hỗ trợ có thể để quân đội Anh hoàn thành nhiệm vụ của họ. 38/

Vào thời điểm đó, ĐCSĐD ở Nam Kỳ đang ở một vị trí đặc biệt mong manh. ĐCSĐD - cốt lõi của Việt Minh - đã cho phép Liên Đoàn Độc Lập được phép là cánh tay của quân đội Đồng Minh, và hợp tác hỗ trợ người Anh và ân xá cho người Pháp. Đảng đã thực hiện, thông qua Uỷ Ban Kháng Chiến Nam Bộ, trấn áp nhóm Trốt Kít. Rõ ràng việc biện minh cho một chính trị hòa hoản, ủng hộ trật tự công cộng, và các cuộc đàm phán với Pháp -- bởi ĐCSĐD, bởi Việt Minh hay do Uỷ Ban Kháng Chiến Nam Bộ - là khá vô ích. Hơn nữa, ĐCSĐD dường như đã được đảm bảo bởi cộng sản Pháp rằng họ sẽ không nhận được sự giúp đỡ nào từ Đảng anh em ở nước ngoài. Một phóng viên Mỹ ở Sài Gòn đã được xem một tài liệu ngày 25 Tháng Chín, 1945,:

"... Tư vấn cho người Cộng sản An Nam [Viet Nam] phải biết chắc rằng, trước khi họ hành động quá vội vàng, cuộc đấu tranh của họ phải đáp ứng các đòi hỏi về chính sách của Liên Xô". Cảnh báo rằng bất kỳ cuộc phiêu lưu quá sớm trong việc độc lập cho An Nam có thể không phù hợp với quan điểm của Liên Xô.  Những quan điểm cũng có thể bao gồm việc Pháp là một đồng minh vững chắc của Liên Xô ở Âu Châu, trong trường hợp này, phong trào độc lập An Nam sẽ là một sự bối rối [cho Liên Sô]. Vì vậy, cấp bách là các đồng chí An Nam phải giữ một chính sách "kiên nhẫn.". Khuyên họ đặc biệt chờ đợi sau khi có kết quả của cuộc bầu cử ở Pháp, đến tháng tiếp theo, vào tháng Mười, khi có thêm sức mạnh của đảng cộng sản [Pháp] để có thể đảm bảo cho An Nam giải quyết tốt hơn. Trong khi đó, minh thị đề xuất việc cử một sứ giả không chỉ để liên lạc với Đảng Cộng sản Pháp, nhưng cả với người Nga để tự mình làm quen với triễn vọng của các sự kiện sắp tới. " 39/

Cho dù hoàn cảnh có thuận lợi hay không, cuộc xung đột đã nổ mạnh ở Nam Kỳ. Vấn đề đặt ra cho những người cộng sản là làm thế nào để trả lời, và dường như lãnh đạo của họ đã xác định rằng bạo lực là chọn lựa duy nhất. Và để lấy lại vai trò lãnh đạo phong trào quốc gia, họ phải làm cho Việt Minh thành đối tác quan trọng nhất trong chiến tranh, là kẻ thù không nhân nhượng với Pháp. Tướng Gracey, bị thúc hối bởi Đô Đốc Lord Mountbatten thuộc Bộ tư lệnh Đồng minh, đã nỗ lực để thực hiện một thỏa hiệp với Việt Minh, và đã thành công đạt được một thỏa thuận ngừng bắn vào ngày 02 tháng 10. Nhưng điều này đã bị phá vỡ một cách nhanh chóng vì sự đối mặt hung bạo của cả hai bên [Pháp và Việt Minh]. Quân tiếp viện của Pháp dưới quyền Tướng Leclerc bắt đầu đổ vào Sài Gòn, củng cố quyết tâm của Pháp. Một đại diện chính phủ Hồ Chí Minh từ Hà Nội đến để củng cố vị trí của Việt Minh với câu chuyện về uy thế của Việt Minh ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Người Pháp đã tìm cách thương lượng trên tiền đề rằng họ sẽ cai trị, và sẽ cho phép một số người Việt được tham gia [chính quyền], Việt Minh yêu cầu trở lại nguyên trạng trước ngày 22 tháng 9, và cuối cùng là Pháp sẽ phải rút [khỏi VN]. Ngày 09 Tháng 10 năm 1945, Pháp và Anh đã ký kết một thỏa thuận tại London, theo đó người Anh chính thức công nhận chính quyền dân sự Pháp tại Đông Dương là chính quyền hợp pháp duy nhất từ phía nam vĩ tuyến thứ mười sáu. Ngoại trưởng Ernest Bevin mô tả cho Quốc Hội [Anh] về tình trạng rối loạn và cướp bóc ở Việt Nam, và những khó khăn sinh ra bởi các cuộc đụng độ giữa quân đội Pháp dưới quyền chỉ huy của Gracey và các lực lượng Việt Nam. Nước Anh, ông tuyên bố, sẽ hỗ trợ vận chuyển tới Việt Nam đủ quân Pháp để cho phép họ có thể tiếp nhận từ Gracey, và chính sách tạm thời của Anh là sẽ hỗ trợ cho việc "hợp tác chặt chẽ và thân thiện giữa các chỉ huy của Anh và Pháp." 40/

Ngày 11 Tháng 10, các thỏa thuận ngừng bắn bị phá vỡ, và các cuộc chiến đấu đã trở lại. Ngày 25 tháng 10,  quân Pháp dưới quyền Tướng Leclerc đã tấn công về phía nam từ Sài Gòn đến Mỹ Tho, vốn là thủ đô tạm thời của Ủy Ban Kháng Chiến Nam Bộ, và sau chiến thắng ở đó, đã tiến phía tây bắc vào Tây Ninh, nơi mà họ chinh phục Cao Đài. Việt Minh đã mở một chiến dịch du kích làm chậm lại rất nhiều đà tiến quân của Pháp, và chứng minh ngay tức thì là cả sức mạnh không quân lẫn thiết giáp của Pháp cũng không đủ để bình định so với kẻ thù đầy quyết tâm. Nhà báo nổi tiếng người Pháp, Philippe Devillers, người đi cùng đợt đánh phá ban đầu của Leclerc, đã viết rằng:

"Từ nay công tác bình định đất nước đã cho thấy một khía cạnh khác là nó sẽ không bao giờ để mất một lần nữa: để được mãi mãi đã đặt thành một vấn nạn. Thình lình Việt Minh xuất hiện vào ban đêm bắn vào một ngôi làng được bảo vệ bởi những trạm gác của chúng ta... để kéo lực lượng phòng vệ về một bên trong khi bên phía kia [làng] họ đốt nhà và giết chết tất cả những người [mà họ] nghi ngờ. Nếu chúng ta rời bỏ một khu vực, tin tưởng rằng nó đã được bình định, thì họ sẽ nối gót chân chúng ta và khủng bố lại sẽ bắt đầu. Chỉ có một cách phòng vệ là tăng thêm và củng cố các đồn bót, trang bị vũ khí và đào tạo dân làng để họ tự vệ có tổ chức và giác ngộ thông qua việc làm triệt để về thông tin và chính sách.

"Nhưng chuyện này đòi hỏi phải có quân lực và vũ khị  Số cần thiết không phải là 35.000 quân  (số này đã giao cho Leclerc) nhưng 100.000, và Nam Kỳ không phải là vấn đề duy nhất." 41/

Chính phủ quốc gia ở Miền Bắc, 1945 – 46

Chính Phủ ngày 2 tháng 9 năm 1945

Khác với Nam Kỳ phải đối mặt với Pháp trong mùa thu năm 1945 vấn đề nổi bật là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính phủ Hà Nội Hồ Chí Minh khẳng định quyền thống trị trên toàn cõi Việt Nam, nhưng thách thức đối với thẩm quyền Pháp, họ chỉ cai trị trên thực tế ở An Nam và Bắc Kỳ. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không hoàn toàn là Việt Minh cũng không phải là cộng sản. Mặc dù sinh lực và sáng kiến ​​là của Việt Minh, nhưng thực tế chính trị nổi bật của cuộc sống ở miền Bắc Việt Nam là đã bị quân đội Quốc Dân Đảng Trung Quốc chiếm đóng, và sự hiện diện của Trung Quốc đã buộc Hồ Chí Minh và Việt Minh phải ủng hộ Việt Nam Quốc Dân Đảng để thích ứng với Trung Quốc, và trì hoãn chính sách của Trung Quốc trong nhiều khía cạnh khác.

Số quân Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam không được biết đến một cách chính xác, Tổng số đã bi che khuất không chỉ bởi các báo cáo không đầy đủ, mà còn do cách Quốc dân Đảng sử dụng những con đường chuyển quân thông từ Vân Nam và Quãng Châu qua những tuyến đường đến nơi khác của Trung Quốc. Pháp ước tính cao tới 180.000, nhưng lực lượng chiếm đóng Trung Quốc bản thân có thể độ khoảng 50.000.  42/  Ngay cả khi có ít quân đội nước ngoài cũng sẽ gây quá tải nghiêm trọng cho Bắc Việt Nam, vì vụ mùa năm nay xấu, và thương mại bị chiến tranh làm xáo trộn, nạn đói tràn lan. (Bold) Hầu hết quân đội Trung Quốc là vô kỷ luật và kém trang bị, sống, cực chẳng đả bị đưa ra ​​khỏi [biên cương] tổ quốc [của họ](Bold). Sự sách nhiểu kiểu nông dân của họ đã khuấy động lại hận thù truyền thống của người Việt đối với người Trung Quốc - oán giận không được kềm chế bởi lòng biết ơn đối với Trung Quốc như người giải phóng, kể từ khi người Việt Nam tin rằng họ đã được Việt Minh giải phóng. Và tội lỗi của quân đội Trung Quốc lại được khớp với bộ Tư Lệnh tối cao của Trung Quốc, các lãnh chúa đã kịp thời bắt đầu cướp bóc miền Bắc Việt Nam. Tỷ giá chính thức của đồng đô la của Trung Quốc đã được đưa ra quá cao để trao đổi với tiền tệ Việt Nam, làm trầm trọng thêm lạm phát đã nghiêm trọng, và mở ra triển vọng mới cho thị trường chợ đen. Giới đầu cơ Trung Quốc bắt đầu mua với một quy mô lớn các doanh nghiệp và bất động sản của Pháp và Việt Nam. 43/

Khi quân Trung Quốc tiến vào miền Bắc Việt Nam, họ lật đổ chính phủ Việt Minh địa phương, và thay thế chúng với các nhóm VNQDD và Đồng Minh Hội, nhóm Phục-Quốc cướp quyền ở những nơi khác.

Được hỗ trợ bởi quân đội Trung Quốc, và được tài trợ bởi Trung Quốc, VNQDD và Đồng Minh Hội đã mở báo chí, và đã phát động một chiến dịch tấn công chính trị chống lại Việt Minh và chính phủ VNDCCH. Hậu quả là tình hình ở miền Bắc Việt Nam vào mùa thu năm 1945, được mô tả trong hình 4.
 
- Tiếp theo >>



Trên thực tế sự hiện diện của Trung Quốc đòi hỏi Hồ Chí Minh phải thận trọng trong việc đối phó với các nhóm đối thủ quốc gia. Tại sao Trung Quốc chỉ cần đơn giản lật đổ chính phủ của Hồ Chí Minh để ủng hộ liên minh VNQDD / Đồng Minh Hội mà họ không làm là điều không biết được. Dường như một bên là do chuyện mua chuộc bằng tiền, một bên là vai trò của Chiang Fa Kue và các sứ quân khác đã được hưởng lợi trực tiếp từ "tuần lễ vàng" chính thức của VNDCCH vào tháng Chín, năm 1945, trong đó nhà nước kêu gọi công dân cống hiến vàng vụn để "đóng góp tài trợ để cứu quốc”. "44/  Được biết chiến dịch này đã thu góp khoảng 800 cân vàng và 20 triệu đồng bạc Đông Dương, và VNDCCH nhận được từ các sứ quân, bên cạnh sự làm lơ, là những vũ khí thuộc sở hửu của người Nhật - một báo cáo cho biết con số gồm 40.000 vũ khí, bao gồm súng cối, pháo, và 18 xe tăng. 45/

Nhưng Hồ Chí Minh và Việt Minh buộc phải vượt xa hơn việc hối lộ. Trong việc thành lập chính phủ ngày 02 tháng chín năm 1945, họ đã cẩn thận để chính trị gia không Việt Minh tham gia, và giữ 6 đại diện (ĐCSĐD) trong 16 chỗ của nội các. Ngày 23 Tháng 10, Việt Minh đã ký một hiệp ước với một nhóm ly khai ​​của Đồng Minh Hội, tự nhận là vì lợi ích của cuộc đấu tranh chung chống lại những nỗ lực tích cực của thực dân Pháp, để bảo vệ sự tự do và độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" 46 / Tuy nhiên, các nhóm khác của Đồng Minh Hội và VNQDD vẫn tiếp tục tấn công Việt Minh, tạo nên một điểm đặc thù về sự thống trị của cộng sản.

Hồ Chí Minh và ĐCSĐD sau đó đã quyết định một động thái quyết liệt. Sau hội nghị ĐCSĐD ba ngày "từ ngày 9 đến 11 tháng 11 năm 1945, lãnh đạo ĐCSĐD đã ban hành những điểm sau đây:

Xét rằng, trong khi xem xét bối lịch sử, cả hai mặt quốc tế và quốc nội, giờ phút hiện tại chính là một dịp đặc biệt cho Việt Nam dành lại Độc Lập toàn vẹn của mình;
Xét rằng, để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam rộng lớn này,  một liên minh quốc gia được hình thành không có sự phân biệt giai cấp và đảng phái các bên là một yếu tố không thể thiếu;
Với mong muốn chứng minh rằng những người cộng sản, cho đến nay họ vẫn là những chiến sĩ tiên phong để bảo vệ nhân dân Việt Nam, luôn luôn sẳn sàng chấp nhận những hy sinh lớn nhất đối với việc giải phóng dân tộc, luôn luôn hành động để đưa các lợi ích của đất nước lên trên lợi ích giai cấp, và từ bỏ lợi ích của Đảng để phục vụ nhân dân Việt Nam;
Để loại tất cả những hiểu lầm, trong và ngoài nước, những hiểu lầm có thể cản trở việc giải phóng đất nước của chúng ta, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương trong cuộc họp vào ngày 11 tháng 11 năm 1945, đã quyết định tự nguyện giải thể Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những người theo chủ nghĩa cộng sản mong muốn tiếp tục nghiên cứu lý luận của họ sẽ liên kết với Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.
Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Đương
Tháng 11 năm 1945   47/
    
Việc giải thể của ĐCSĐD bị phản đối bởi Trần Văn Giàu và những người khác từ Nam Kỳ nơi mà ĐCSĐD chứ không phải là Việt Minh là tổ chức chính trị chính trong nhân dân nhưng quan điểm của Hồ đã thắng thế.

Đương nhiên, Hồ cũng bắt buộc phải thỏa mãn yêu cầu liên tục của phe đối lập được có đại diện trong chính phủ để sắp xếp các cuộc bầu cử quốc gia vào tháng 1 năm 1946. Tuy nhiên vì sợ Việt Minh đã dành phần thắng trong các cuộc thăm dò dư luận và sức mạnh được tôn trọng rộng rãi của nó, VNQDD và Đồng Minh Hội vào ngày 23 tháng 12 1945 đã đàm phán với Việt Minh một thỏa thuận về số ghế không qua bầu cử là 50 cho VNQDD và 20 cho đại biểu Đồng Minh Hội trong tổng số 300-360 thành viên của Quốc hội. 48 / Các cuộc bầu cử đã được tổ chức công khai như dự kiến​​tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ và bí mật tại Nam Kỳ.

Trưởng nhóm O.S.S. của Mỹ tại Hà Nội từ 22 tháng 8 đến ngày 12 tháng 12 năm 1945 trong một cuộc trao đổi với Bộ Ngoại giao ngày 30 Tháng 1, 1946 mô tả tình hình chính trị ở Bắc Việt Nam như sau:

“Tướng Gallagher đã chỉ ra rằng chút tình yêu giữa Trung Quốc và Pháp đã bị mất, rằng sự hiện diện của nhóm người Mỹ ở Hà Nội đã hạn chế hành động mà Trung Quốc chống Pháp và bản thân ông đã tác động [tướng] Lữ Hán (Tư Lệnh Tối Cao lực lượng vũ trang Trung Quốc ở Đông Dương) để mang Sainteny và Hồ Chí Minh ngồi lại với nhau và đã đối đầu với cả hai người này với một chỉ thị mạnh mẽ buộc [cả hai] phải thi hành. Sự tồn tại của một khoảng trốn ở phía Bắc với việc cả  quân đội Pháp cũng như Trung Quốc vắng mặt hiện nay là vô cùng nguy hiểm để [cơ hội] cho An Nam phản ứng mạnh mẽ chống lại tất cả người Pháp trong khu vực, những người đang bất lực trong việc tự bảo vệ bản thân. Để đạt thành công người Pháp sẽ cần một lực lượng đủ để dàn trải trên toàn bộ phía bắc. Một hoặc hai sư đoàn Pháp hiện đại, theo ý kiến ​​của Tướng Gallagher, có thể đánh bại An Nam.

“Trả lời cho câu hỏi liệu Pháp có thể làm gì nhiều hơn là chỉ chiếm các thành phố lớn, ông thừa nhận rằng người Việt sẽ còn có núi rừng và tiếp tục chiến tranh du kích. Ngay cả ở Sài Gòn, ông đã chỉ ra những điều còn xa hòa bình mặc dù Anh và Pháp tuyên bố ngược lại. Thiết lập kiểm soát của Pháp có thể được đẩy nhanh nếu họ đã có thể không vận quy mô lớn trên toàn miền Bắc. Tuy nhiên, người Việt được tổ chức tốt và cho đến nay chỉ vũ trang tốt bằng vũ khí nhỏ mặc dù họ không có hải pháo cận duyên và có thể có một ít pháo binh.

“Câu hỏi đặt ra là liệu phái đoàn Pháp tại Hà Nội trong thực tế, là người đàm phán với Hồ Chí Minh. Tướng Gallagher trả lời rằng Chính phủ Việt Minh Lâm Thời lúc đầu sẵn sàng đàm phán, sau đó vào tháng Mười, sau khi tuyên bố của De Gaulle về chính sách thuộc địa của họ [Pháp]. Người Việt từ chối đàm phán với Pháp và đã phản ứng mạnh mẽ chống lại tất cả các công dân Pháp tại Hà Nội. Trung Quốc có thể thành công trong việc đưa ra một chính phủ người Việt ít chống Pháp để đàm phán để đi tiếp. Tất cả những nỗ lực của Pháp để kích thích một cuộc cách mạng cung đình để chống lại Hồ đã được không thành công. Hồ tự than sẽ không bàn cải với Pháp. Việt Minh rất mạnh và bất kể có những thay đổi bề ngoài trong Chính phủ lâm thời Hồ vẫn đứng đằng sau bất kỳ diễn tiến nào của phong trào [kháng chiến] Việt Nam.  Tướng Gallagher nói rằng Sainteny đã nói với ông rằng, ông ta hy vọng thỏa thuận hòa bình giữa Pháp và Việt Nam có thể đạt được bằng thương lượng.

“Tướng Gallagher đã được hỏi chính quyền Việt Minh sẽ hiệu quả như thế nào với sự không có mặt của các lực lượng Pháp hay Trung Quốc như hiện nay. Ông trả lời rằng nhìn chung, ông rất ấn tượng về hiệu quả rõ rệt của chính quyền Việt Nam. Họ có những nhân viên có khả năng nhiệt tình và trẻ, nhưng lại có quá ít người trong số đó. Bất cứ với trình độ kỹ thuật nào, họ đều thiếu khả năng về điều hành và kinh nghiệm khi [được biết] các dịch vụ kỹ thuật tại Hà Nội, lúc đầu chạy rất tốt, nhưng dần dần tệ đi. Nhân viên được đào tạo [để làm việc] cho chính phủ và ở cấp thành phố đang thiếu. Tướng Gallagher có ý kiến là Việt Nam chưa sẵn sàng cho một chính phủ tự lực và chính thức, nếu cạnh tranh với các quốc gia khác họ sẽ bị mất thua mất áo như chơi. Tuy nhiên, nhu cầu độc lập đang lan rộng và ngay cả trong các ngôi làng, nông dân đều tham khảo ví dụ của Philippines.
“Tướng Gallagher đã được hỏi liệu Việt Nam hiểu được thực tế về khả năng của mình để đứng lên chống lại quân lực Pháp. Trong khi họ quá nhiệt tình và quá ngây thơ, ông cho biết, điều đó có thể vượt qua sự hiểu biết của họ. Họ mạnh mẽ trong những cuộc diễu hành và nhắc đi nhắc lại là sẵn sàng ‘chiến đấu tới người cuối cùng’ nhưng họ sẽ bị tàn sát và họ đã được báo cho biết và có thể họ đã biết điều đó. Việt Nam không có một lực lượng nào tương xứng với các lực lượng có vũ khí hiện đại ngay cả khi bản thân họ cũng có một ít mà họ có thể có, từ khi Trung Quốc không tìm thấy pháo binh và nhiều súng phòng không Nhật có vẻ như đã hoàn toàn biến mất. Đại diện Quân đội Hoa Kỳ không bao giờ hiểu được về mức độ vũ khí của Việt Minh. Chắc chắn là Trung Quốc không chuyển vũ khí của Nhật cho họ. Trước Ngày Chiến Thắng, chắc chắn Nhật đã vũ trang và huấn luyện nhiều người Việt Nam. Một vị tướng Nhật tuyên bố họ đã thực hiện [cướp chính quyền từ tay Pháp] ngày 09 tháng 3 chỉ đơn giản là vì người Pháp không còn có thể kiểm soát Việt Nam, nhưng tuyên bố này Gallagher đã đánh giá như là một lời nói dối. Ông đã nghe nói rằng dưới danh nghĩa trang bị vũ trang cho cảnh sát thi hành công vụ tại Hà Nội, người Nhật đã thực sự vũ trang cho ba đội ngũ riêng biệt bằng cách giải tán từng nhóm vũ trang, và trang bị và đào tạo lại một nhóm mới. Hơn nữa, Việt Nam đã mua vũ khí của Nhật từ các kho vũ khí đã được mở. Tướng Gallagher không biết liệu có hay không việc Tai Li (Phó Giám đốc Văn phòng điều tra, thống kê, Ủy ban Quốc gia Trung Quốc Nội vụ quân sự) đã gửi vũ khí cho Việt Minh.

"Tướng Gallagher được hỏi liệu sự hiện diện của con tin Pháp ở miền Bắc sẽ hạn chế các lực lượng Pháp khi họ đi vào khu vực. Ông này chỉ ra rằng chỉ có một vài thường dân Pháp đã được di tản bằng đường hàng không. Tất cả các phần còn lại, bên cạnh một số 5.000 quân Pháp đã bi giải giáp vẫn cần được di tản. Trung Quốc không thể đưa chúng ra và thậm chí liệu tướng Lữ Hán có muốn cho phép di tản họ đến bán đảo Đồ Sơn không? Sự hiện diện của họ đã liên tục cản trở việc ảnh hưởng lên Sainteny. Khi được hỏi liệu Việt Nam sẽ cho phép các Pháp kiều được sơ tán, Tướng Gallagher trả lời rằng họ sẽ cho phép nếu người Trung Quốc vẫn còn đó, nhưng những công dân Pháp sẽ là một vấn đề thực sự nếu người Trung Quốc đã bỏ đi. Các nhóm quân đội Mỹ đã gây áp lực đáng kể vào Trung Quốc để họ cho phép bất kỳ sự tự do nào cho tất cả thường dân Pháp ở Hải Phòng, Huế và các trung tâm khác ngoài Hà Nội. Tuy nhiên, Trung Quốc và Pháp đã một mình tự sắp xếp để vận chuyển các lô hàng thực phẩm từ phía Nam. Nhóm người Mỹ, tình cờ đã phải can thiệp để ngăn chặn người Pháp độc quyền về thực phẩm, thực phẩm được phân phối bởi quân đội Mỹ. Các công dân Pháp có thể được sơ tán từ Hòn Gai và Đà Nẳng bởi Hoa Kỳ khi người Nhật đã bị loại bỏ, nếu người Trung Quốc tập trung họ [Pháp kiều] tại các cảng đó. Tuy vậy, Tướng Gallagher ghi nhận rằng điều đó sẽ đặt chúng ta ở một vị trí làm việc chống lại phía Việt Nam.

“Ban đầu Tướng Gallagher giải thích, người Pháp hy vọng Hoa Kỳ đóng vai trò tương tự ở phía Bắc như người Anh đã làm ở phía Nam [hổ trợ cho Pháp]. Khi họ thấy chúng ta trung lập, họ đã trở thành càng ngày càng đối kháng nhiều hơn và đã làm mọi thứ có thể để thuyết phục người Mỹ dành ưu tiên cho vị trí của người Pháp. Họ đã không đánh giá cao sự giúp đỡ thực tế mà người Mỹ đã cung cấp cho tù nhân chiến tranh và một số dân Pháp dưới hình thức thực phẩm, trợ giúp y tế và những thứ khác. Việt Nam, ban đầu cũng dự kiến ​​sẽ được Mỹ giúp, nên triệt để truyền bá Hiến chương Đại Tây Dương và các tuyên bố về ý thức hệ khác. Vai trò trung lập của chúng ta như vậy đã là một sự thất vọng cho cả hai bên.

“Tại thời điểm hiện tại, đài phát thanh Hà Nội được điều khiển bởi người Trung Quốc để có thông tin liên lạc giữa Hà Nội và Sài Gòn. Một nhóm liên lạc quân sự và dân sự người Anh đã được gửi đến Hà Nội và [ngược lại] đối tác Trung Quốc được gửi về Sài Gòn. Người Anh tại Hà Nội bước đầu đã có tiến bộ với Trung Quốc, nhưng Tướng Gallagher hiểu rằng từ lúc đó họ đã có nhiều thắng lợi hơn…
“Quân đoàn 60 của Trung Quốc ở phía Nam của khu vực Trung Quốc [tức phía Nam biên giới VN-TQ] và quân đoàn 93 xung quanh Hà Nội, cả hai tổng cộng khoảng 50 ngàn quân, đã được yêu cầu tập trung để tiến về Mãn Châu, nhưng liệu họ có thực sự di chuyển ra khỏi hoặc không phải là Tướng Gallagher đã không biết. Vào tháng Mười Hai, tuy vậy, quân đoàn 53 của Trung Quốc đã bắt đầu đến từ Vân Nam và có lẽ được đưa vào để thay thế cho hai quân đoàn kia.

“Tướng Gallagher lưu ý những trái mìn từ trường chưa được hoàn toàn tháo gỡ ít nhất là từ các cảng phía Bắc và các mối đe dọa của mìn từ trường sẽ tiếp tục ngăn cản người Pháp thực hiện các hoạt động đổ bộ quân đội ở quy mô lớn trong những khu vực đó. Ông cảm thấy rằng giao thông thường xuyên bằng đường sắt giữa Sài Gòn và Hà Nội có thể không được mở ra trong vòng một năm nữa” (*trích lục từ Biên bản ghi nhớ về cuộc thảo luận của ông Richard L. Sharp Phòng Nội vụ của Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao ngày 30 Tháng 1, 1946;)

Đầu 1946, Hồ Chí Minh đã cố gắng mang Ngô Đình Diệm vào chính phủ của ông, nhưng Diệm, có anh trai là Ngô Đình Khôi đã bị giết bởi Việt Minh, từ chối. Trong tháng hai, các cuộc tấn công vào Hồ từ phái tả cộng sản và phe quốc gia không phải là Việt Minh đạt một cường độ cao đến nỗi có báo cáo là Hồ đã đề xuất việc từ chức của mình, và hình thành của một nhà nước theo Bảo Đại.  49 / Với giải pháp Bảo Đai, Hồ cảm thấy, sẽ không chỉ xoa dịu kẻ thù nội bộ của mình, mà còn cải thiện vị thế của VNDCCH với cả Mỹ và  Pháp: Hồ đã gửi Hoa Kỳ một loạt kêu gọi quốc tế hóa Việt Nam mà không ai trả lời; và với Pháp Hồ đã mở các cuộc đàm phán hướng tới một VNDCCH độc lập được Pháp bảo vệ và công nhận [tức nằm trong Liên Hiệp Pháp].

(2)Chính phủ ngày 02 tháng 03 năm 1946

Phiên họp tháng Giêng của Quốc Hội, ngày 2 tháng 3 năm 1946 đã phê duyệt một chính phủ VNDCCH mới trong phiên khai mạc. Trong số 12 thành viên của chính phủ, chỉ có 2 thành viên cộng sản nhưng 3 là VNQDD và 1 là Đồng Minh Hội, Chủ tịch vẫn là ông Hồ, nhưng Phó Chủ tịch của ông là lãnh đạo của Đồng Minh Hội, và các Bộ chủ chốt về Nội vụ và Quốc phòng đã dành cho những người trung lập.

Ngay từ đầu Chính phủ mới phải đối mặt với khủng hoảng trong quan hệ với Pháp. Mặc dù các hoạt động "bình định" của Tướng Leclerc ở miền Nam Việt Nam đã không đạt được những kỳ vọng, quân và khí tài của  Pháp đã vận chuyển đến Đông Dương với số lượng đủ cho họ có những dòm ngó đưa hoạt động ra miền Bắc Việt Nam. Đồng thời, Pháp tiến hành đàm phán với Trung Quốc, tìm cách cho Trung Quốc rút quân ra khỏi miền Bắc Việt Nam và với VNDCCH tìm kiếm các thỏa thuận để họ chấp nhận việc có mặt của các lực lượng Pháp. Trong khi đó, người Anh đã rút khỏi Nam Kỳ, vào ngày 04 Tháng ba 1946, Bộ Tư Lênh Đồng Minh vùng Đông Nam Á ra lệnh ngừng hoạt động ở Đông Dương [trước đây] là một vùng lãnh thổ trong phạm vị hoạt động của họ. Trong tháng Hai, người Pháp đã triển khai một lực lượng đặc nhiệm đổ bộ chuẩn bị cho các hoạt động ở miền Bắc Việt Nam. Ngày 28 tháng 2, họ có được thỏa thuận Trung Quốc (từ ChunKing, không phải là Thống Đốc Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam) để chuyển sự chiếm đóng qua cho Pháp vào tháng Tư [1946]. Hồ Chí Minh, phải đối diện với sức mạnh quân sự Pháp và cuộc triệt thoái của Trung Quốc, và bị Liên Hiệp Quốc hay Mỹ từ chối cứu giúp, đã không còn phương tiện nào để đàm phán với Pháp.

Hiệp định ký kết bởi Hồ với Pháp vào ngày 06 tháng Ba 1946 đã làm tổn hại tối đa uy tín rộng rãi của Hồ Chí Minh. VNQDD đã kịch liệt phản đối thỏa hiệp, và thậm chí cả các cuộc đàm phán với Pháp, nhưng Hồ đã cẩn thận mang đại diện phe đối lập vào các cuộc hội đàm với Sainteny, phát ngôn viên của Pháp, và Hiệp Định ngày 06 Tháng Ba đã được ký kết không chỉ bởi Hồ và Sainteny, mà còn bởi Vũ Hồng Khanh là lãnh đạo của VNQDD. Tuy nhiên, tình cảm chống Pháp đã dâng cao, và Hồ Chí Minh đã đưa tất cả uy tín của mình ra để ngăn chặn cuộc nổi loạn chống lại Việt Minh. Ngày 07 tháng 3, Hồ và Võ Nguyên Giáp bảo vệ Hiệp Định trước một đám đông cả 100.000 người tại Hà Nội, Hồ đã bảo đảm mọi người rằng: "Đồng bào biết rằng tôi thà chết còn hơn bán nước của chúng ta." 50 / Ngày 08 Tháng 3, quân đội Pháp đã đổ bộ vào Hải Phòng, và tái nhập vào Hà Nội mười ngày sau đó.

Với sự trở lại của Pháp - Nội các liên minh của Hồ và chữ ký của Vũ Hồng Khanh trong Hiệp Ước ngày 06 tháng 3 không đứng vững - một số lãnh đạo VNQDD rút sự hỗ trợ của họ cho chính phủ Hồ để phản đối những gì họ gọi là chính sách "phò Pháp" của Việt Minh. Hoàng đế Bảo Đại rời nước vào ngày 18 tháng 3, ngày mà người Pháp vào Hà Nội. Hồ, sau đó, đả đi đến hợp nhất Việt Minh thành một tổ chức Mặt trận lớn hơn, bao quát hơn, củng cố bởi một số các bên của VNDCCH, và từ đó làm giảm bớt căng thẳng chính trị. Ngày 27 tháng năm 1946, sự hình thành của Mặt trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam - được gọi sau đó là [Mặt Trận] Liên Việt được công bố, để mang lại "độc lập và dân chủ.". Các nhà lãnh đạo nổi bật của tất cả các đảng phái chính trị đều nằm trong số những người sáng lập, và họ cùng nhau cam kết "bảo vệ quyền tự chủ của chúng ta, để sau đó đạt được Độc Lập hoàn toàn." 51 / Việt Minh, VNQDĐ,  Đồng Minh Hội, Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ đều có chung mái che là Liên Việt, nhưng vẫn duy trì tổ chức riêng biệt.

(3)Trung Quốc rút quân

Hiệp định giữa các bên trong Liên Việt sống, tuy nhiên, chỉ trong lúc người Trung Quốc vẫn còn ở miền Bắc Việt Nam. Mặc dù Hiệp ước Trùng Khánh về việc rút quân vào năm 1946, các lãnh chúa vẫn nấn ná ở lại để cướp bóc vào tháng Sáu. Ngày 10 tháng Sáu năm 1946, quân đội Quốc Dân Đảng Trung Quốc triệt thoái khỏi Hà Nội. Ngày 15 tháng 6, toán quân cuối cùng lên tầu tại Hải Phòng. Ngày 19 tháng 6, tờ báo Quí Quốc chính thức của Liên Việt đăng tải lời chỉ trích sắc nét tố bọn "phản động phá hoại của thỏa thuận tháng Ba," chỉa mũi dùi thẳng VNQDD. Khẳng định lại chính sách hợp tác với Pháp, chính phủ Việt Nam mời người Pháp tham gia trong một chiến dịch chống lại "kẻ thù của hòa bình.". Liên Việt được Pháp công nhận là [đối tác] Việt Nam duy nhất của họ nên sẵn sàng tham gia hổ trợ.

Một trong những chương đáng chú ý trong lịch sử bi thảm của dân tộc Việt đã xảy ra sau đó. Khi quân đội Trung Quốc vừa triệt thoái [khỏi Việt Nam], quân đội của Võ Nguyên Giáp của VNDCCH đã tấn công vào các khu vực chi phối bởi các Đồng Minh Hội, VNQDD, và Phục Quốc. Trong một loạt các cuộc đụng độ, họ đánh bại các băng đảng phái và lật đổ chính quyền dân sự do các đảng đối lập lập ra. Người Pháp không những chỉ cung cấp thiết bị, nhưng trong một số trường hợp đã thực sự phối hợp các lực lượng của họ, và hỗ trợ bằng pháo binh, với phe Việt Nam [VNDCCH]. Một số thành lũy giữ vững được hàng tháng – như Lào Kay trên biên giới Vân Nam vẫn còn trong tay VNQDD cho đến tháng mười một năm 1946 - nhưng vấn đề đã được quyết định trước cuối tháng Bảy. 52 /

Vào ba ngày 11 đến 13 tháng Bảy, trong một loạt tấn công tại Hà Nội do lực lượng VNDCCH với hổ trợ của thiết giáp Pháp trong việc chiếm đóng trụ sở chính của các đảng đối lập và các nhà máy in và bắt giữ hơn 100 nhân vật chính trị. Cùng với đó, hầu hết của các nhà lãnh đạo đối lập trở lại từ cuộc sống lưu vong ở Trung Quốc gần một năm trước đó. Trong số này là Nguyễn Hải Thần của Đồng Minh Hội – từng là Phó Chủ tịch của Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường [Tam] của VNQDD - một cựu thành viên của ba phe  ký Hiệp Ước ngày 06 tháng 3, đã từng là Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao của Hồ và là một trong các nhà đàm phán Hiệp Ước
.
Phó Lãnh sự Hoa Kỳ tại Hà Nội đã đệ trình báo cáo sau đây lên Bộ Ngoại Giao [Mỹ] liên quan đến tình hình chính trị tại thời điểm đó:

"Xin chuyển cho Tướng Marshall để thông tin.
"Có ba đảng chính trị quan trọng ở Việt Nam.
"Đó là Phong Trào Việt Minh, bao gồm cựu đảng Cộng Sản Đông Dương (đã tự giải thể chính thức ngày 30 tháng 11 năm 1945) và Đảng Dân Chủ con [sic] Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội thường được gọi là Đồng Minh Hội hoặc ĐMH và Việt Nam Quốc Dân Đảng.
"Có nhiều đảng ly khai nhưng dường như một số là để phục vụ chủ yếu như phương tiện cho các tổ chức cướp giựt.
"Cả hai Đồng Minh Hội và Quốc Dân Đảng dường như có sự hỗ trợ của Trung Quốc. Đa số thành phần tích cực hoạt động của Việt Minh bao gồm những cựu thành viên của đảng CSĐD.
"Sức mạnh của Việt Minh dường như được lan rộng khắp miền bắc Đông Dương.  Đồng Minh Hội và Quốc Dân Đảng kiểm soát lãnh thổ như Mong Cáy, Lạng Sơn và khu vực Vĩnh Yên.
“Không có đảng Công giáo nào xuất hiện, người Công giáo cũng không ra mặt cam kết hỗ trợ cho bất cứ bên nào. Việt Minh đã có những bước đi cố gắng ​​để được Công giáo hỗ trợ nhưng bị cho là quá cực đoan để được sự hợp tác đầy đủ từ phía nhà thờ. Trên cái nhìn thực tế là khi nhà thờ đã tuyên bố họ có cả triệu thành viên ở Bắc và Trung Kỳ  (tỷ lệ lớn được gọi là "Kitô hữu nông dân"), là có vẻ như việc người Công giáo sẽ [xuất hiện] như một nhóm chính trị sẽ [không] còn lâu nữa ". (* điện tín, Hanoi 20 to State, 20 May 1946)
Trong tháng Bảy, cùng một nguồn tin báo cáo rằng Việt Minh đã dần loại bỏ Đồng Minh Hội và VNQDD là những phe đối lập có tổ chức. (**điện tín, Hanoi 69 to State, 26 May 1946)

Hồ Chí Minh đã vắng mặt tại Việt Nam trong mùa hè và đầu mùa thu năm 1946, để tham gia ban đầu cuộc đàm phán Fontainebleau chết yểu và sau đó kết quả là, ông này đã ký giữ nguyên trạng với Pháp vào ngày 14 tháng 9, 1946. Trong lúc Hồ Chí Minh vắng mặt, Võ Nguyên Giáp - Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng – đã khống chế chiến trường chính trị Việt Nam, sắp xếp cho VNQDD và các bên "đối lập" khác được tồn tại – với việc giải giáp phù hợp và việc lèo lái các người quốc gia chịu hợp tác – trong vòng Liên Việt. Mặt Trận Liên Việt tiến hành một thứ "thống nhất" giả hiệu trong Mặt trận, và thắt chặt kiểm soát Mặt trận trong tay VNDCCH.  Khi trở về Hồ Chí Minh, một phiên họp Quốc hội đã triệu tập, một chính phủ mới tổ chức lại được giới thiệu và bầu một hiến pháp mới.

(xem tiếp kỳ 9)

Tổng số lượt xem trang