-"Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá."-
Ban Chấp hành Trung ương quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị.
Chiều 15/10, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra sau 15 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc.
Các Ủy viên Trung ương và các đại biểu tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc vào các tờ trình, báo cáo, đề án. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Hội nghị đã bàn và nhất trí cao về nhiều chủ trương, chính sách quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ và xây dựng Đảng, quyết định thành lập lại Ban Kinh tế Trung ương. Lần đầu tiên, Trung ương tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn trong không khí dân chủ, thẳng thắn và xây dựng.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả quan trọng đã đạt được.
Tổng Bí thư nêu rõ về tình hình kinh tế-xã hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013, Hội nghị đã thống nhất nhận định trong bối cảnh tình hình có nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế-xã hội 9 tháng đầu năm có những chuyển biến nhất định. Tuy nhiên, áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn còn lớn.
Dự báo thời gian tới, kinh tế thế giới nói riêng và tình hình quốc tế nói chung còn nhiều diễn biến khó lường. Vì vậy, trong những tháng còn lại của năm 2012 và năm 2013, đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường lành mạnh hóa, ổn định kinh tế vĩ mô; đặc biệt chú trọng ổn định, lành mạnh hóa, bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính-ngân hàng; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu công. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tập trung giải quyết tình trạng nợ xấu, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư trong nước và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài; ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp và du lịch.
Đồng thời đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm ổn định chính trị-xã hội; tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo. Quá trình tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại cần phải được đặt trong tổng thể và gắn kết chặt chẽ với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, tái cấu trúc đầu tư và tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung.
Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Trung ương tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt và những kết quả quan trọng đã đạt được của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém còn tồn tại; trên cơ sở đó đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp khắc phục.
Trung ương yêu cầu phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết, kết luận của Trung ương về vấn đề này phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng đi vào chiều sâu.
Kiên quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, đi đầu trong đổi mới, ứng dụng khoa học-công nghệ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, tập trung vào những khâu, công đoạn then chốt của bốn lĩnh vực chính, bao gồm: Công nghiệp quốc phòng; công nghiệp độc quyền tự nhiên; lĩnh vực cung cấp hàng hóa dịch vụ công thiết yếu; và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan tỏa lớn. Sớm chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước.
Khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước phải được tổ chức lại theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với Luật Doanh nghiệp; áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị trường và thực hiện chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch trên cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường chứng khoán. Chức năng điều tiết vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội của doanh nghiệp phải được đổi mới và thay thế bằng cơ chế đặt hàng của Nhà nước, được hạch toán theo cơ chế thị trường.
Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn phải được cấu trúc lại theo mô hình công ty mẹ-công ty con; được kiểm toán hằng năm. Kết thúc giai đoạn thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế nhà nước; xem xét chuyển một số tập đoàn kinh tế nhà nước thành tổng công ty. Đồng thời với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, phải tăng cường vai trò và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là trong việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp.
Về vấn đề đất đai, thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, tại Hội nghị này, Trung ương tiếp tục thảo luận và đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết của Trung ương để lãnh đạo, chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội. Khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai; đặc biệt là tình trạng đầu cơ, lãng phí, tham nhũng, tranh chấp, khiếu kiện kéo dài; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư, góp phần ổn định chính trị-xã hội.
Trung ương tiếp tục khẳng định quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu, cần được xác định cụ thể, phù hợp với từng loại đất, đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất, cho thuê đất. Quy hoạch sử dụng đất phải đồng bộ, liên thông với quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất; phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lý, hiệu quả đất đai cho phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và các đơn vị hành chính trong cả nước; bảo đảm đất cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, các dự án có mục đích xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Xử lý nghiêm các trường hợp đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng sử dụng không đúng mục đích hoặc chậm đưa đất vào sử dụng. Quản lý chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất có rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Thu hẹp đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng đất; mở rộng việc giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất để thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh thông qua hình thức đấu thầu dự án hoặc đấu giá quyền sử dụng đất. Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng để tạo quỹ đất; trực tiếp thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, giải tỏa, đền bù, hỗ trợ tái định cư theo đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và công bằng.
Thực hiện giá đất do Nhà nước quy định phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và với mục đích sử dụng đất, tình hình kinh tế-xã hội của cả nước, các vùng, miền và địa phương trong từng thời kỳ. Không để các nhà đầu tư trực tiếp thỏa thuận với người sử dụng đất về giá đền bù, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất và khung giá đất làm căn cứ để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, ban hành bảng giá đất; bổ sung quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất sao cho linh hoạt, phù hợp hơn với từng loại đất, các đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất.
Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo khẩn trương tổng kết, đánh giá tình hình sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh theo Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, trong đó có đánh giá việc quản lý, sử dụng đất nông, lâm trường để có chính sách, biện pháp quản lý phù hợp. Có cơ chế, chính sách đặc thù về việc giao đất, chuyển quyền sử dụng đất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Về giáo dục và đào tạo, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận sôi nổi và cho nhiều ý kiến về Đề án "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tổng Bí thư nhấn mạnh Trung ương yêu cầu phải đổi mới từ nhận thức tư duy, mục tiêu đào tạo, hệ thống tổ chức, loại hình giáo dục và đào tạo, nội dung và phương pháp dạy và học đến cơ chế vận hành, cơ chế quản lý, xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý, cơ sở vật chất, nguồn lực, điều kiện bảo đảm thực hiện đổi mới toàn bộ hệ thống giáo dục, bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục đại học, đào tạo nghề. Đây là những vấn đề hết sức lớn lao, hệ trọng và phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bàn bạc một cách thấu đáo, cẩn trọng, tạo sự thống nhất cao để ban hành Nghị quyết vào thời gian thích hợp.
Trước mắt, cần tiếp tục quán triệt các quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Kết luận Hội nghị Trung ương 6 khóa IX và các kết luận, quyết định của Bộ Chính trị, chỉ đạo triển khai thực hiện thật tốt Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2020 theo Kết luận của Hội nghị lần này.
Về phát triển khoa học và công nghệ, Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhân lực khoa học và công nghệ là tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức khoa học và công nghệ là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức. Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc.
Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt, là lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ 21.
Trung ương yêu cầu phải đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò của khoa học và công nghệ, coi phát huy ứng dụng và phát triển khoa học-công nghệ là một bộ phận không thể thiếu của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương. Nhà nước có chính sách, cơ chế đặc biệt trọng dụng và đãi ngộ đối với cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ được giao chủ trì nhiệm vụ quốc gia; cán bộ trẻ tài năng. Khuyến khích, tạo điều kiện để sinh viên, nghiên cứu sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc. Đồng thời, phải vận dụng đúng đắn cơ chế thị trường để đổi mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước; cơ chế, chính sách; xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ lớn của Nhà nước.
Tăng cường và phát huy tiềm lực khoa học quốc gia; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thu hút nguồn lực và chuyên gia người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học - công nghệ của Việt Nam... trong đó, đổi mới công tác quản lý nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho các hoạt động khoa học và công nghệ.
Về xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ đây là lần đầu tiên Trung ương bàn và ra Nghị quyết về vấn đề này.
Trung ương nhấn mạnh, việc xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chủ động và sớm phát hiện cán bộ có triển vọng lãnh đạo, quản lý trưởng thành từ thực tiễn; chú trọng cán bộ xuất thân từ công nhân, nông dân, trí thức; tăng tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, con em gia đình có công với cách mạng, cán bộ khoa học - công nghệ, văn hoá, nghệ thuật...
Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công tâm, minh bạch, khách quan; lấy quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước làm cơ sở cho công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng toàn quốc.
Về phương châm, cần thực hiện quy hoạch "động" và "mở," định kỳ rà soát, đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện; bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới. Chuẩn bị nguồn quy hoạch dồi dào, mỗi chức danh có thể quy hoạch vài ba người, một người có thể quy hoạch vào vài ba chức danh. Lấy quy hoạch lãnh đạo chủ chốt ở các cấp làm cơ sở cho quy hoạch cấp chiến lược. Lấy quy hoạch cấp chiến lược thúc đẩy quy hoạch chủ chốt cấp dưới. Tạo điều kiện công bằng và cơ chế đặc thù để cán bộ trong quy hoạch cấp chiến lược thể hiện năng lực, phấn đấu, cống hiến và trưởng thành
Nhân sự đưa vào quy hoạch phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện. Ban Chấp hành Trung ương phải có 3 độ tuổi để bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển; có cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện.
Về Báo cáo kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trung ương đánh giá cao sự chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm hết sức nghiêm túc, trách nhiệm và sự gương mẫu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Sau hơn 2 tháng chuẩn bị, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành 21 ngày, chia làm 4 đợt (trong 3 tháng) để kiểm điểm tự phê bình và phê bình, coi đây là đợt sinh hoạt chính trị đặc biệt quan trọng vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng; của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo là giữ đúng nguyên tắc, có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí; vừa có lý, có tình, vừa phải xử lý nghiêm minh những trường hợp có khuyết điểm, vi phạm, theo phương châm "trị bệnh cứu người," giúp nhau cùng tiến bộ. Nội dung kiểm điểm đã bám sát vào các nội dung, yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4. Các vấn đề nổi cộm, bức xúc đều được đặt ra, phân tích, mổ xẻ và rút ra những bài học sâu sắc. Không khí thảo luận, góp ý, tự phê bình và phê bình dân chủ, thẳng thắn, xây dựng, chân thành.
Qua kiểm điểm tự phê bình, phê bình và lắng nghe ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên, nhân dân, tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những ưu điểm và nhất là khuyết điểm của mình; phân tích, làm rõ nguyên nhân của các khuyết điểm, hạn chế, từ đó đề ra các biện pháp sửa chữa, khắc phục. Nhiều đồng chí đã tự giác xem xét, nhìn lại mình, bước đầu có tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh một số hành vi trong công tác và cuộc sống hằng ngày của mình, của gia đình, vợ con và người thân.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bàn và chỉ đạo giải quyết ngay một số vấn đề nổi cộm, bức xúc; phát huy các nhân tố tích cực, xiết lại kỷ luật, kỷ cương, có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn các hành vi tiêu cực. Quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm cũng đã có tác động lan tỏa, nêu gương cho cấp dưới học tập và làm theo, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương về những yếu kém, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, những suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu. Để giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, góp phần giữ gìn uy tín, hình ảnh thiêng liêng của Đảng và làm gương trong toàn Đảng, Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị.
Ban Chấp hành Trung ương hoan nghênh, đánh giá rất cao sự nghiêm túc, gương mẫu và cầu thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình đợt này cũng như sự quyết tâm, nỗ lực lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4; nhất trí cao với Báo cáo của Bộ Chính trị, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến phê bình rất thẳng thắn, sâu sắc. Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá.
Ban Chấp hành Trung ương cũng tự kiểm điểm và nhận phần trách nhiệm của mình trong việc để xảy ra và chưa ngăn chặn được những khuyết điểm, yếu kém trong thời gian qua. Ban Chấp hành Trung ương xin nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân, và sẽ cố gắng làm hết sức mình để từng bước khắc phục.
Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu, lúc này, hơn lúc nào hết, chúng ta càng phải nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước dân, xiết chặt đội ngũ, tăng cường đoàn kết, thống nhất, giữ vững niềm tin, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phát huy những kết quả bước đầu quan trọng của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục những hạn chế, yếu kém, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thật sự là đảng cách mạng chân chính, gắn bó máu thịt với nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra.
Ban Chấp hành Trung ương ghi nhận, biểu dương các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn hệ thống chính trị đã bước đầu tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng. Trung ương yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, từ Trung ương đến cơ sở, từng cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phải tiếp tục thực hiện thật tốt việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4, không làm qua loa, hình thức. Càng xuống cấp dưới, cấp cơ sở càng phải được chỉ đạo chặt chẽ, hết sức tránh tư tưởng đại khái, "làm chiếu lệ," "làm cho xong"; đặc biệt phải có những việc làm thật cụ thể, thiết thực, tạo chuyển biến rõ rệt trong thực tế để mỗi tổ chức mạnh hơn, mỗi cá nhân tiến bộ, gương mẫu hơn, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ thành công của Hội nghị, ngoài sự đóng góp tích cực của các đồng chí Trung ương, các cơ quan và cán bộ tham mưu, giúp việc, còn có phần đóng góp rất quan trọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong cả nước, đặc biệt là các đồng chí cán bộ lão thành, các nhà nghiên cứu, nhà giáo, nhà khoa học, những người luôn luôn quan tâm, nhiệt tình hưởng ứng và có nhiều ý kiến đóng góp hết sức tâm huyết, trí tuệ cho công việc chung của Đảng.
Trân trọng cảm ơn những tình cảm và sự đóng góp vô cùng quý báu đó, Tổng Bí thư tin tưởng rằng, với thành công của Hội nghị lần này và sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự ủng hộ hưởng ứng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất định chúng ta sẽ tổ chức thực hiện thành công các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương lần này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng./.
Theo TTXVN--Bế mạc Hội nghị Trung ương 6 khóa XI
-
Quyết định của Bộ Chính trị bị cho là vội vàng và chưa toàn diện
15/10/2012 Cầu Nhật Tân
Hội nghị TƯ6 với chương trình họp dài chưa từng có, cách triệu tập và khai mạc bất ngờ nhất, đã dành phần lớn thời gian để bàn về xây dựng đảng, thông qua tự kiểm điểm các lãnh đạo cao cấp. Cách triệu tập, khai mạc Hội nghị gấp gáp, bất ngờ bao nhiêu thì cách bế mạc lại chậm chạp, bí ẩn bấy nhiêu. Hết ngày mồng 10/10/2012, Ban Chấp hành đã tiến hành xong phần quan trọng nhất của chương trình họp, tức là thông qua nội dung kiểm điểm Thủ tướng. Công tác “vân vê” kết quả thì được thực hiện sau rèm giữa các Ủy viên Bộ Chính trị với nhau. Quyết định cuối cùng của Bộ Chính trị được đưa ra có tính chất “ép” về thời gian, theo một số ý kiến là rất vội vàng, chưa thể hiện hết ý kiến đánh giá của Trung ương.
——————————-
Hội nghị Trung ương 6 với chương trình họp dài chưa từng có, cách triệu tập và khai mạc bất ngờ nhất đã dành phần lớn thời gian để bàn về xây dựng đảng, thông qua tự kiểm điểm các lãnh đạo cao cấp. Các nội dung: kinh tế – xã hội; phát triển giáo dục- đào tạo, khoa học – công nghệ, cũng được đưa vào chương trình song Hội nghị đã không đủ thời gian bàn cụ thể.
Cách triệu tập, khai mạc Hội nghị gấp gáp, bất ngờ bao nhiêu thì cách bế mạc lại chậm chạp, bí ẩn bấy nhiêu. Hết ngày mồng 10/10/2012, Ban Chấp hành đã tiến hành xong phần quan trọng nhất của chương trình họp, tức là thông qua nội dung kiểm điểm Thủ tướng (để kịp cho đồng chí Doan – Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước – đi dự Hội nghị Pháp ngữ tại Công-Gô từ ngày 11 đến 15/10/2012, đồng chí Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội, chủ trì họp Ủy ban Thường vụ quốc hội ngày 11-13/10/2012). Công tác “vân vê” kết quả thì được thực hiện sau rèm giữa các Ủy viên Bộ Chính trị với nhau. Các Ủy viên Trung ương cứ dài cổ chờ trong trạng thái “sẵn sàng chiến đấu” rất căng thẳng. Sau 5 ngày chờ đợi, mãi tận sáng 15/10/2012, các Ủy viên Trung ương mới chính thức được thông báo là Bộ Chính trị đã thống nhất được quyết định.
Thông tin bên trong cho biết quyết định cuối cùng của Bộ Chính trị được đưa ra có tính chất “ép” về thời gian, theo một số ý kiến là rất vội vàng, chưa thể hiện hết ý kiến đánh giá của Trung ương. Cách thức điều hành cuộc họp khiến nhiều ý kiến tranh luận bị “ẩn” đi. Trong khi đó, có ý kiến mang tính bênh vực ê-kíp lại được cho “nổi trội”. Một số quan điểm muốn kéo dài thời gian tranh luận của Hội nghị, thậm chí tổ chức lấy phiếu lại trong Trung ương để thận trọng đi đến quyết định. Viện lý do không còn thời gian nữa, nhiều Ủy viên Bộ Chính trị vướng ngay các chương trình công tác quan trọng tiếp theo nên quyết định cuối cùng, mặc dù bị chỉ trích là “vội vàng, chưa toàn diện”, vẫn cứ được đưa ra.
Đồng chí Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương sẽ bận chủ trì phiên họp thứ 7 vào 17/10. Tham dự còn có Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo; Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang, Thành viên Ban Chỉ đạo; lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương là thành viên Ban Chỉ đạo.
Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng sẽ bận chủ trì điều khiển kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII khai mạc vào sáng 20/10/2012. Ngoài ra, toàn bộ các Ủy viên Bộ Chính trị sẽ tham dự buổi khai mạc để truyền hình trực tiếp.
Sáng 15/10, sau khi các Ủy viên Trung ương được thông báo rằng Bộ Chính trị đã có quyết định cuối cùng, Ban Tuyên giáo Trung ương đã “hỏa tốc” triệu tập toàn bộ Tổng biên tập các báo, đài trung ương đến để nghe phổ biến những định hướng thông tin báo chí về Hội nghị.
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 11 sẽ bế mạc vào chiều nay 15/10/2012 và chắc chắn sẽ không thi hành hình thức kỷ luật nào đối với Thủ tướng.
--
Bức tranh ảm đạm sau Hội nghị Trung ương
15/10/2012 Cầu Nhật Tân
Trong buổi gặp Chủ tịch nước hôm 13/10, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc cùng các doanh nhân tiêu biểu cả nước đã báo cáo với Chủ tịch nước:“trong 9 tháng đầu năm 2012 đã có trên 40.000 doanh nghiệp phải giải thể và ngừng hoạt động. Số doanh nghiệp còn lại hoạt động trong tình trạng khó khăn chật vật”.
.
Sản xuất kinh doanh đình đốn, thất nghiệp trầm trọng, tiền vốn ngập hết vào bất động sản
Theo thống kê chính thức của Bộ Kế hoạch Đầu tư: tính riêng năm 2011 đã có tới 53.000 doanh nghiệp đóng cửa và phá sản, và gần 40.000 doanh nghiệp lâm vào cảnh tương tự trong 8 tháng đầu năm 2012. Con số này gần bằng một nửa con số các doanh nghiệp đóng cửa và phá sản kể từ năm 1986 tới nay. Đáng lo hơn hoạt động của các doanh nghiệp đang tồn tại trên thị trường cũng không khá hơn. Thống kê cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đã giảm công suất hoạt động, thậm chí nhiều doanh nghiệp chỉ còn tồn tại hình thức bởi không tiêu thụ được sản phẩm, lượng hàng tồn kho cao. Nếu tính trung bình các doanh nghiệp này giảm công suất 20% tương đương với khoảng 150.000 doanh nghiệp nữa đóng cửa và phá sản. Số người thất nghiệp do doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, kinh doanh lên đến hàng triệu người.
Do kinh tế khủng hoảng, người dân đã tự thắt lưng buộc bụng. Hàng hóa do đó không tiêu thị được. Hàng triệu tỷ đồng vốn đang bị chôn trong hàng hóa tồn kho, trong đó hàng tồn bất động sản lớn nhất. Tính riêng ở Hà Nội và Sài Gòn, thị trường bất động sản có tới trên 70.000 căn hộ đang bị ế. Ít nhất có tới 140 nghìn tỷ đồng đang bị chôn, mà phải mất hàng chục năm sau may ra mới có cách xử lý.
Báo cáo của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia ước tính, khu vực bất động sản đã được các ngân hàng bơm gần 350 nghìn tỷ đồng, một số vốn khổng lồ tương đương trên 17 tỉ USD. Đó là chưa tính các dự án “ma” được các ngân hàng cho đội tên khác nhưng vốn vẫn chảy vào bất động sản mà không thể thu hồi được.
Một nhà nghiên cứu kinh tế cho biết, nếu tính cả dự án “ma”, tổng vốn đang chôn vào bất động sản ước khoảng trên 30 tỉ USD trên địa bàn cả nước. Toàn bộ các doanh nghiệp bất động sản đều rơi vào tình trạng không bán được hàng, không thu được tiền vốn, đang ngập sâu trong nợ ngân hàng và hoàn toàn đủ điều kiện phá sản.
Nhìn ra khu vực công, tình hình cũng không sáng sủa hơn. Năm 2011, tổng số nợ vốn đầu tư của 63 tỉnh và thành phố là 91.273 tỷ đồng của 47.209 dự án; trong đó, nợ vốn các công trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành là 25.423 tỷ đồng, nợ vốn của 20.921 dự án đang triển khai là 65.850 tỷ đồng, dãn tiến độ 41 dự án với tổng số vốn là 38.320 tỷ đồng. Hậu quả của tình trạng trên, không gì khác là số phận hẩm hiu của các doanh nghiệp và người lao động. Đang có nhiều doanh nghiệp “chết” hoặc “chờ chết” vì không thu được món nợ này.
Doanh nghiệp Nhà nước - những con nợ khổng lồ
.
Doanh nghiệp Nhà nước hiện sử dụng vốn tín dụng chiếm tới khoảng 70% tổng số nợ xấu, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Ngoài ra, nợ xấu của khu vực tập đoàn, tổng công ty chiếm tới 30 – 35% tổng dư nợ của khối này trong vay nợ từ hệ thống ngân hàng thương mại.
Tổng dư nợ đó của 12 tập đoàn kinh tế Nhà nước lên tới gần 218.740 tỷ đồng, theo Đề án tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Tài chính năm 2012. Trong đó dư nợ lớn nhất thuộc về Tập đoàn Dầu khí (PVN – 72.300 tỷ đồng), Điện lực (EVN-62.800 tỷ đồng), Than và Khoáng sản (Vinacomin – 19.600 tỷ đồng).
Ngoài khu vực ngân hàng, nợ xấu của khu vực doanh nghiệp đang “rất lớn” ở Ngân hàng Phát triển (VDB). Chẳng hạn, Vinashin vay ưu đãi VDB gần 300 tỷ đồng lãi suất bằng 0% để hỗ trợ trả lương và phụ cấp; EVN được vay hơn 5.000 tỷ đồng. Còn trong các năm trước đó, Vinalines cũng vay VDB để phát triển tàu mới; Xi măng Đồng bành vay 290 tỷ đồng…
Hiện nay, nợ của các tập đoàn, tổng công ty… chiếm độ 75 – 80% tổng dư nợ của Ngân hàng Phát triển VDB. Các doanh nghiệp Nhà nước mặc dù số lượng thấp hơn doanh nghiệp tư nhân nhưng nợ thuế cũng khổng lồ. Con số nợ thuế chưa trả của các DN Nhà nước chiếm khoảng 13% trên tổng số nợ thuế.
Khối các ngân hàng thương mại cũng không khá hơn. Bởi lẽ, giữa năm 2012 NHNN công bố tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam là 8,6% tổng dư nợ nghĩa là vào khoảng 202 nghìn tỷ đồng, nhưng trên diễn đàn Quốc hội, Thống đốc NHNN lại thông báo con số 10%, và dư luận lại đánh giá có thể ở mức cao hơn 10%. Gánh nặng này thật sự đã đè gần bẹp khả năng phát triển của nền kinh tế vì vốn là một trong những điều kiện tiên quyết của hoạt động doanh nghiệp.
DNNN nợ nần chồng chất, nhà nước dùng tiền của dân đứng ra trả nợ thay
Những số liệu mới nhất cho thấy khu vực DNNN hiện đóng góp vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống tín dụng, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Nếu ước tính nợ xấu của hệ thống là 10% tổng dư nợ tín dụng, như theo công bố của NHNN, thì nợ xấu của khu vực DNNN sẽ ước khoảng 200 nghìn tỷ đồng và nợ xấu của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty sẽ vào khoảng 153 nghìn tỷ đồng.
Còn một khối nợ lớn nữa là khối nợ do Nhà nước bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Hiện, Bộ Tài chính chưa có con số chính xác nhưng ước tính tổng nợ loại này khoảng 7-10 tỉ USD và nhiều con nợ là các doanh nghiệp nhà nước đã mất khả năng trả nợ. Gần đây nhất, với tư cách là người bảo lãnh, Bộ Tài chính đã phải đứng ra trả 3,5 triệu USD cho ngân hàng ANZ thay cho Xi măng Đồng Bành, trả nợ vốn vay đầu tư đến hạn của Vinaincon tại Ngân hàng BNP Paribas, với số tiền 4,2 triệu Euro.
Hậu quả
Những món nợ trong nợ ngoài, những cú ảo thuật rót đi rót lại hiện đã ngốn của quốc gia khoảng 65-70 tỉ USD. Đây thực sự là những cú đấm chí mạng khiến nền kinh tế quốc dân chao đảo, ngã gục không gượng dậy được. Nhân dân thì không có công ăn việc làm, mất thu nhập, đối mặt với lạm phát, giá cả leo thang, đời sống ngày càng cùng cực. Hơn lúc nào hết, Việt Nam đang bị xoáy vào một cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc nhất kể từ 1985, đang phải đối mặt với nhiều thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài.
Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần ...
Dân Trí
(Dân trí) - Phát biểu bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Thành công của Hội nghị có phần đóng góp rất quan trọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước. >> Bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ...
Kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 ...Báo Phú Yên
'Lựa chọn ai là bài toán rất lớn'Báo Đất Việt
Quyết định của Bộ Chính trị bị cho là vội vàng và chưa toàn diện
15/10/2012 Cầu Nhật Tân
Hội nghị TƯ6 với chương trình họp dài chưa từng có, cách triệu tập và khai mạc bất ngờ nhất, đã dành phần lớn thời gian để bàn về xây dựng đảng, thông qua tự kiểm điểm các lãnh đạo cao cấp. Cách triệu tập, khai mạc Hội nghị gấp gáp, bất ngờ bao nhiêu thì cách bế mạc lại chậm chạp, bí ẩn bấy nhiêu. Hết ngày mồng 10/10/2012, Ban Chấp hành đã tiến hành xong phần quan trọng nhất của chương trình họp, tức là thông qua nội dung kiểm điểm Thủ tướng. Công tác “vân vê” kết quả thì được thực hiện sau rèm giữa các Ủy viên Bộ Chính trị với nhau. Quyết định cuối cùng của Bộ Chính trị được đưa ra có tính chất “ép” về thời gian, theo một số ý kiến là rất vội vàng, chưa thể hiện hết ý kiến đánh giá của Trung ương.
——————————-
Hội nghị Trung ương 6 với chương trình họp dài chưa từng có, cách triệu tập và khai mạc bất ngờ nhất đã dành phần lớn thời gian để bàn về xây dựng đảng, thông qua tự kiểm điểm các lãnh đạo cao cấp. Các nội dung: kinh tế – xã hội; phát triển giáo dục- đào tạo, khoa học – công nghệ, cũng được đưa vào chương trình song Hội nghị đã không đủ thời gian bàn cụ thể.
Cách triệu tập, khai mạc Hội nghị gấp gáp, bất ngờ bao nhiêu thì cách bế mạc lại chậm chạp, bí ẩn bấy nhiêu. Hết ngày mồng 10/10/2012, Ban Chấp hành đã tiến hành xong phần quan trọng nhất của chương trình họp, tức là thông qua nội dung kiểm điểm Thủ tướng (để kịp cho đồng chí Doan – Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước – đi dự Hội nghị Pháp ngữ tại Công-Gô từ ngày 11 đến 15/10/2012, đồng chí Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội, chủ trì họp Ủy ban Thường vụ quốc hội ngày 11-13/10/2012). Công tác “vân vê” kết quả thì được thực hiện sau rèm giữa các Ủy viên Bộ Chính trị với nhau. Các Ủy viên Trung ương cứ dài cổ chờ trong trạng thái “sẵn sàng chiến đấu” rất căng thẳng. Sau 5 ngày chờ đợi, mãi tận sáng 15/10/2012, các Ủy viên Trung ương mới chính thức được thông báo là Bộ Chính trị đã thống nhất được quyết định.
Thông tin bên trong cho biết quyết định cuối cùng của Bộ Chính trị được đưa ra có tính chất “ép” về thời gian, theo một số ý kiến là rất vội vàng, chưa thể hiện hết ý kiến đánh giá của Trung ương. Cách thức điều hành cuộc họp khiến nhiều ý kiến tranh luận bị “ẩn” đi. Trong khi đó, có ý kiến mang tính bênh vực ê-kíp lại được cho “nổi trội”. Một số quan điểm muốn kéo dài thời gian tranh luận của Hội nghị, thậm chí tổ chức lấy phiếu lại trong Trung ương để thận trọng đi đến quyết định. Viện lý do không còn thời gian nữa, nhiều Ủy viên Bộ Chính trị vướng ngay các chương trình công tác quan trọng tiếp theo nên quyết định cuối cùng, mặc dù bị chỉ trích là “vội vàng, chưa toàn diện”, vẫn cứ được đưa ra.
Đồng chí Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương sẽ bận chủ trì phiên họp thứ 7 vào 17/10. Tham dự còn có Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo; Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang, Thành viên Ban Chỉ đạo; lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương là thành viên Ban Chỉ đạo.
Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng sẽ bận chủ trì điều khiển kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII khai mạc vào sáng 20/10/2012. Ngoài ra, toàn bộ các Ủy viên Bộ Chính trị sẽ tham dự buổi khai mạc để truyền hình trực tiếp.
Sáng 15/10, sau khi các Ủy viên Trung ương được thông báo rằng Bộ Chính trị đã có quyết định cuối cùng, Ban Tuyên giáo Trung ương đã “hỏa tốc” triệu tập toàn bộ Tổng biên tập các báo, đài trung ương đến để nghe phổ biến những định hướng thông tin báo chí về Hội nghị.
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 11 sẽ bế mạc vào chiều nay 15/10/2012 và chắc chắn sẽ không thi hành hình thức kỷ luật nào đối với Thủ tướng.
--
Bức tranh ảm đạm sau Hội nghị Trung ương
15/10/2012 Cầu Nhật Tân
Trong buổi gặp Chủ tịch nước hôm 13/10, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc cùng các doanh nhân tiêu biểu cả nước đã báo cáo với Chủ tịch nước:“trong 9 tháng đầu năm 2012 đã có trên 40.000 doanh nghiệp phải giải thể và ngừng hoạt động. Số doanh nghiệp còn lại hoạt động trong tình trạng khó khăn chật vật”.
.
Sản xuất kinh doanh đình đốn, thất nghiệp trầm trọng, tiền vốn ngập hết vào bất động sản
Theo thống kê chính thức của Bộ Kế hoạch Đầu tư: tính riêng năm 2011 đã có tới 53.000 doanh nghiệp đóng cửa và phá sản, và gần 40.000 doanh nghiệp lâm vào cảnh tương tự trong 8 tháng đầu năm 2012. Con số này gần bằng một nửa con số các doanh nghiệp đóng cửa và phá sản kể từ năm 1986 tới nay. Đáng lo hơn hoạt động của các doanh nghiệp đang tồn tại trên thị trường cũng không khá hơn. Thống kê cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đã giảm công suất hoạt động, thậm chí nhiều doanh nghiệp chỉ còn tồn tại hình thức bởi không tiêu thụ được sản phẩm, lượng hàng tồn kho cao. Nếu tính trung bình các doanh nghiệp này giảm công suất 20% tương đương với khoảng 150.000 doanh nghiệp nữa đóng cửa và phá sản. Số người thất nghiệp do doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, kinh doanh lên đến hàng triệu người.
Do kinh tế khủng hoảng, người dân đã tự thắt lưng buộc bụng. Hàng hóa do đó không tiêu thị được. Hàng triệu tỷ đồng vốn đang bị chôn trong hàng hóa tồn kho, trong đó hàng tồn bất động sản lớn nhất. Tính riêng ở Hà Nội và Sài Gòn, thị trường bất động sản có tới trên 70.000 căn hộ đang bị ế. Ít nhất có tới 140 nghìn tỷ đồng đang bị chôn, mà phải mất hàng chục năm sau may ra mới có cách xử lý.
Báo cáo của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia ước tính, khu vực bất động sản đã được các ngân hàng bơm gần 350 nghìn tỷ đồng, một số vốn khổng lồ tương đương trên 17 tỉ USD. Đó là chưa tính các dự án “ma” được các ngân hàng cho đội tên khác nhưng vốn vẫn chảy vào bất động sản mà không thể thu hồi được.
Một nhà nghiên cứu kinh tế cho biết, nếu tính cả dự án “ma”, tổng vốn đang chôn vào bất động sản ước khoảng trên 30 tỉ USD trên địa bàn cả nước. Toàn bộ các doanh nghiệp bất động sản đều rơi vào tình trạng không bán được hàng, không thu được tiền vốn, đang ngập sâu trong nợ ngân hàng và hoàn toàn đủ điều kiện phá sản.
Nhìn ra khu vực công, tình hình cũng không sáng sủa hơn. Năm 2011, tổng số nợ vốn đầu tư của 63 tỉnh và thành phố là 91.273 tỷ đồng của 47.209 dự án; trong đó, nợ vốn các công trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành là 25.423 tỷ đồng, nợ vốn của 20.921 dự án đang triển khai là 65.850 tỷ đồng, dãn tiến độ 41 dự án với tổng số vốn là 38.320 tỷ đồng. Hậu quả của tình trạng trên, không gì khác là số phận hẩm hiu của các doanh nghiệp và người lao động. Đang có nhiều doanh nghiệp “chết” hoặc “chờ chết” vì không thu được món nợ này.
Doanh nghiệp Nhà nước - những con nợ khổng lồ
.
Doanh nghiệp Nhà nước hiện sử dụng vốn tín dụng chiếm tới khoảng 70% tổng số nợ xấu, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Ngoài ra, nợ xấu của khu vực tập đoàn, tổng công ty chiếm tới 30 – 35% tổng dư nợ của khối này trong vay nợ từ hệ thống ngân hàng thương mại.
Tổng dư nợ đó của 12 tập đoàn kinh tế Nhà nước lên tới gần 218.740 tỷ đồng, theo Đề án tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Tài chính năm 2012. Trong đó dư nợ lớn nhất thuộc về Tập đoàn Dầu khí (PVN – 72.300 tỷ đồng), Điện lực (EVN-62.800 tỷ đồng), Than và Khoáng sản (Vinacomin – 19.600 tỷ đồng).
Ngoài khu vực ngân hàng, nợ xấu của khu vực doanh nghiệp đang “rất lớn” ở Ngân hàng Phát triển (VDB). Chẳng hạn, Vinashin vay ưu đãi VDB gần 300 tỷ đồng lãi suất bằng 0% để hỗ trợ trả lương và phụ cấp; EVN được vay hơn 5.000 tỷ đồng. Còn trong các năm trước đó, Vinalines cũng vay VDB để phát triển tàu mới; Xi măng Đồng bành vay 290 tỷ đồng…
Hiện nay, nợ của các tập đoàn, tổng công ty… chiếm độ 75 – 80% tổng dư nợ của Ngân hàng Phát triển VDB. Các doanh nghiệp Nhà nước mặc dù số lượng thấp hơn doanh nghiệp tư nhân nhưng nợ thuế cũng khổng lồ. Con số nợ thuế chưa trả của các DN Nhà nước chiếm khoảng 13% trên tổng số nợ thuế.
Khối các ngân hàng thương mại cũng không khá hơn. Bởi lẽ, giữa năm 2012 NHNN công bố tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam là 8,6% tổng dư nợ nghĩa là vào khoảng 202 nghìn tỷ đồng, nhưng trên diễn đàn Quốc hội, Thống đốc NHNN lại thông báo con số 10%, và dư luận lại đánh giá có thể ở mức cao hơn 10%. Gánh nặng này thật sự đã đè gần bẹp khả năng phát triển của nền kinh tế vì vốn là một trong những điều kiện tiên quyết của hoạt động doanh nghiệp.
DNNN nợ nần chồng chất, nhà nước dùng tiền của dân đứng ra trả nợ thay
Những số liệu mới nhất cho thấy khu vực DNNN hiện đóng góp vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống tín dụng, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Nếu ước tính nợ xấu của hệ thống là 10% tổng dư nợ tín dụng, như theo công bố của NHNN, thì nợ xấu của khu vực DNNN sẽ ước khoảng 200 nghìn tỷ đồng và nợ xấu của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty sẽ vào khoảng 153 nghìn tỷ đồng.
Còn một khối nợ lớn nữa là khối nợ do Nhà nước bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Hiện, Bộ Tài chính chưa có con số chính xác nhưng ước tính tổng nợ loại này khoảng 7-10 tỉ USD và nhiều con nợ là các doanh nghiệp nhà nước đã mất khả năng trả nợ. Gần đây nhất, với tư cách là người bảo lãnh, Bộ Tài chính đã phải đứng ra trả 3,5 triệu USD cho ngân hàng ANZ thay cho Xi măng Đồng Bành, trả nợ vốn vay đầu tư đến hạn của Vinaincon tại Ngân hàng BNP Paribas, với số tiền 4,2 triệu Euro.
Hậu quả
Những món nợ trong nợ ngoài, những cú ảo thuật rót đi rót lại hiện đã ngốn của quốc gia khoảng 65-70 tỉ USD. Đây thực sự là những cú đấm chí mạng khiến nền kinh tế quốc dân chao đảo, ngã gục không gượng dậy được. Nhân dân thì không có công ăn việc làm, mất thu nhập, đối mặt với lạm phát, giá cả leo thang, đời sống ngày càng cùng cực. Hơn lúc nào hết, Việt Nam đang bị xoáy vào một cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc nhất kể từ 1985, đang phải đối mặt với nhiều thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài.
Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần ...
Dân Trí
(Dân trí) - Phát biểu bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Thành công của Hội nghị có phần đóng góp rất quan trọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước. >> Bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ...
Kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 ...Báo Phú Yên
'Lựa chọn ai là bài toán rất lớn'Báo Đất Việt
(ĐCSVN) - Chiều 15/10, sau 15 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã hoàn thành chương trình đề ra. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị.
Tại Hội nghị, các đồng chí Uỷ viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc vào các tờ trình, báo cáo, đề án. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất thông qua một số Nghị quyết và Kết luận của Hội nghị.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương đã thành công tốt đẹp với một khối lượng công việc rất lớn. Trung ương đã bàn và nhất trí cao về nhiều chủ trương, chính sách quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và xây dựng Đảng, kể cả việc quyết định thành lập lại Ban Kinh tế Trung ương; và lần đầu tiên tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn rất thành công trong không khí dân chủ, thẳng thắn và xây dựng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả quan trọng đã đạt được tại Hội nghị lần này:
1- Về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013, Hội nghị đã thống nhất nhận định: Trong bối cảnh tình hình có nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm có những chuyển biến nhất định. Kinh tế vĩ mô ổn định hơn; lạm phát được kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng giảm; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện; tỉ giá cơ bản ổn định, niềm tin vào giá trị tiền đồng Việt Nam được củng cố. Tuy nhiên, áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn còn lớn. Thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp. Tăng trưởng GDP và tổng vốn đầu tư xã hội không đạt được kế hoạch đề ra; số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoặc thu hẹp hoạt động vẫn ở mức cao; việc làm và thu nhập của người lao động khó khăn. Trật tự, an toàn xã hội và các tệ nạn xã hội, tội phạm, tham nhũng, tiêu cực còn nhiều phức tạp,… Vì vậy, trong những tháng còn lại của năm 2012 và năm 2013, đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường lành mạnh hoá, ổn định kinh tế vĩ mô; đặc biệt chú trọng ổn định, lành mạnh hoá, bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu công. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tập trung giải quyết tình trạng nợ xấu, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư trong nước và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài; ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp và du lịch. Đồng thời đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo. Quá trình tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại cần phải được đặt trong tổng thể và gắn kết chặt chẽ với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, tái cấu trúc đầu tư và tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung.
2- Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Trung ương tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt và những kết quả quan trọng đã đạt được của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém còn tồn tại; trên cơ sở đó đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp khắc phục.
Trung ương yêu cầu phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết, kết luận của Trung ương về vấn đề này phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng đi vào chiều sâu. Kiên quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, đi đầu trong đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, tập trung vào những khâu, công đoạn then chốt của bốn lĩnh vực chính, bao gồm: Công nghiệp quốc phòng; công nghiệp độc quyền tự nhiên; lĩnh vực cung cấp hàng hoá dịch vụ công thiết yếu; và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan toả lớn. Sớm chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước.
Khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước phải được tổ chức lại theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với Luật Doanh nghiệp; áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị trường và thực hiện chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch trên cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường chứng khoán. Chức năng điều tiết vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội của doanh nghiệp phải được đổi mới và thay thế bằng cơ chế đặt hàng của Nhà nước, được hạch toán theo cơ chế thị trường. Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn phải được cấu trúc lại theo mô hình công ty mẹ - công ty con; được kiểm toán hằng năm. Kết thúc giai đoạn thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế nhà nước; xem xét chuyển một số tập đoàn kinh tế nhà nước thành tổng công ty. Đồng thời với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, phải tăng cường vai trò và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là trong việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp. Đổi mới quy trình, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc xem xét, quyết định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là nhân sự chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc. Nêu cao vai trò và trách nhiệm của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và ban thường vụ đảng uỷ; thực hiện việc chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên kiêm bí thư đảng uỷ doanh nghiệp. Mở rộng diện áp dụng chế độ thi tuyển, hợp đồng có thời hạn tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất, kinh doanh đối với giám đốc, tổng giám đốc. Nghiên cứu hình thành cơ quan cấp bộ thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công giữa Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền các địa phương trong việc thực hiện chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước cấp trên của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên mà không trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các đại biểu tham dự Hội nghị. Ảnh: HH
3- Về vấn đề đất đai, thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khoá XI, tại Hội nghị này, Trung ương tiếp tục thảo luận và đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết của Trung ương để lãnh đạo, chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội. Khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai; đặc biệt là tình trạng đầu cơ, lãng phí, tham nhũng, tranh chấp, khiếu kiện kéo dài; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư, góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo khẩn trương tổng kết, đánh giá tình hình sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh theo Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX, trong đó có đánh giá việc quản lý, sử dụng đất nông, lâm trường để có chính sách, biện pháp quản lý phù hợp. Có cơ chế, chính sách đặc thù về việc giao đất, chuyển quyền sử dụng đất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
4- Về giáo dục và đào tạo, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận sôi nổi và cho nhiều ý kiến về Đề án "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Trung ương nhận thấy, sau 16 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực có hạn, với sự cố gắng, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của đội ngũ nhà giáo, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta đã thu được những kết quả, thành tựu rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, đến nay giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất cho phát triển; thậm chí còn không ít hạn chế, yếu kém, nhất là về chất lượng giáo dục - đào tạo; công tác quản lý và cơ chế tạo nguồn lực và động lực cho phát triển. Để có thể cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, nước ta đang đứng trước yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh dựa nhiều hơn vào yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) và kinh tế tri thức. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại toàn cầu hoá, phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ đòi hỏi và cũng tạo điều kiện để nước ta đẩy mạnh toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Những kết quả, thành tựu đã đạt được về quy mô, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có cũng cho phép chúng ta chuyển sang giai đoạn phát triển mới, cao hơn về chất. Đó chính là lý do giải thích vì sao Đại hội XI của Đảng đề ra chủ trương phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
5- Về phát triển khoa học và công nghệ, Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhân lực khoa học và công nghệ là tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức khoa học và công nghệ là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức. Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt, là lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ 21.
Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, sự tham gia chủ động, tích cực của mọi lực lượng xã hội và tài năng, tâm huyết của các nhà khoa học đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ nước nhà. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực cho phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường khoa học và công nghệ.
Trung ương yêu cầu phải đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng và chính quyền về vai trò của khoa học và công nghệ, coi phát huy ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ là một bộ phận không thể thiếu của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương. Nhà nước có chính sách, cơ chế đặc biệt trọng dụng và đãi ngộ đối với cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ được giao chủ trì nhiệm vụ quốc gia; cán bộ trẻ tài năng. Khuyến khích, tạo điều kiện để sinh viên, nghiên cứu sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc. Đồng thời, phải vận dụng đúng đắn cơ chế thị trường để đổi mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước; cơ chế, chính sách; xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ lớn của Nhà nước. Tăng cường và phát huy tiềm lực khoa học quốc gia; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thu hút nguồn lực và chuyên gia người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học - công nghệ của Việt Nam… Trong đó, đổi mới công tác quản lý nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho các hoạt động khoa học và công nghệ.
6- Về xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Đây là lần đầu tiên Trung ương bàn và ra Nghị quyết về vấn đề này. Trung ương nhấn mạnh, việc xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chủ động và sớm phát hiện cán bộ có triển vọng lãnh đạo, quản lý trưởng thành từ thực tiễn; chú trọng cán bộ xuất thân từ công nhân, nông dân, trí thức; tăng tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, con em gia đình có công với cách mạng, cán bộ khoa học - công nghệ, văn hoá, nghệ thuật... Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công tâm, minh bạch, khách quan; lấy quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước làm cơ sở cho công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng toàn quốc.
Về phương châm, cần thực hiện quy hoạch "động" và "mở", định kỳ rà soát, đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện; bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới. Chuẩn bị nguồn quy hoạch dồi dào, mỗi chức danh có thể quy hoạch vài ba người, một người có thể quy hoạch vào vài ba chức danh. Lấy quy hoạch lãnh đạo chủ chốt ở các cấp làm cơ sở cho quy hoạch cấp chiến lược. Lấy quy hoạch cấp chiến lược thúc đẩy quy hoạch chủ chốt cấp dưới. Tạo điều kiện công bằng và cơ chế đặc thù để cán bộ trong quy hoạch cấp chiến lược thể hiện năng lực, phấn đấu, cống hiến và trưởng thành. Coi công tác quy hoạch cán bộ cấp chiến lược là công việc thường xuyên, bình thường trong công tác cán bộ của Đảng.
Nhân sự đưa vào quy hoạch phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện. Ban Chấp hành Trung ương phải có 3 độ tuổi để bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển; có cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện. Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải là cán bộ tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công tác, có uy tín cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đang đảm nhiệm. Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là Uỷ viên Trung ương có phẩm chất, năng lực tiêu biểu, uy tín cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; có tầm nhìn và tư duy chiến lược, quyết đoán, nhanh nhạy nắm bắt tình hình trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; dự báo và đề ra được phương án giải quyết các tình huống hệ trọng của Đảng, của đất nước; có tư duy và trình độ cao về lý luận chính trị; phát hiện và sử dụng người tài; đã kinh qua các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, thành phố hoặc ban, bộ, ngành trực thuộc Trung ương. Các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước phải là những Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, uy tín và có khả năng quy tụ, đoàn kết, thuyết phục trong toàn Đảng; am hiểu tương đối toàn diện về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: HH
7- Về Báo cáo kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương đã dành gần một phần ba thời gian của Hội nghị để nghe báo cáo, nghiên cứu và cho ý kiến về nội dung rất quan trọng này. Trung ương đánh giá cao sự chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm hết sức nghiêm túc, trách nhiệm và sự gương mẫu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Sau hơn 2 tháng chuẩn bị, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành 21 ngày, chia làm 4 đợt (trong 3 tháng) để kiểm điểm tự phê bình và phê bình, coi đây là đợt sinh hoạt chính trị đặc biệt quan trọng vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng; của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo là giữ đúng nguyên tắc, có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí; vừa có lý, có tình, vừa phải xử lý nghiêm minh những trường hợp có khuyết điểm, vi phạm, theo phương châm "trị bệnh cứu người", giúp nhau cùng tiến bộ. Nội dung kiểm điểm đã bám sát vào các nội dung, yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4. Các vấn đề nổi cộm, bức xúc đều được đặt ra, phân tích, mổ xẻ và rút ra những bài học sâu sắc. Không khí thảo luận, góp ý, tự phê bình và phê bình dân chủ, thẳng thắn, xây dựng, chân thành.
Qua kiểm điểm tự phê bình, phê bình và lắng nghe ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên, nhân dân, tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những ưu điểm và nhất là khuyết điểm của mình; phân tích, làm rõ nguyên nhân của các khuyết điểm, hạn chế, từ đó đề ra các biện pháp sửa chữa, khắc phục. Các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều hết sức thấm thía, day dứt trước những thiếu sót, khuyết điểm, tự nhận thấy phải nghiêm khắc với mình hơn, không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ hiểu biết, đổi mới lề lối làm việc; gương mẫu giữ gìn đạo đức, lối sống; đoàn kết, gắn bó hơn trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Và trên thực tế, nhiều đồng chí đã tự giác xem xét, nhìn lại mình, bước đầu có tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh một số hành vi trong công tác và cuộc sống hằng ngày của mình, của gia đình, vợ con và người thân. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bàn và chỉ đạo giải quyết ngay một số vấn đề nổi cộm, bức xúc; phát huy các nhân tố tích cực, xiết lại kỷ luật, kỷ cương, có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn các hành vi tiêu cực. Cũng qua việc kiểm điểm lần này, các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư có điều kiện hiểu biết nhau hơn, chia sẻ, học hỏi lẫn nhau, đoàn kết, gắn bó hơn. Quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm cũng đã có tác động lan toả, nêu gương cho cấp dưới học tập và làm theo, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương khẳng định, Bộ Chính trị, Ban Bí thư là một tập thể lãnh đạo đoàn kết, vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Nhìn chung, các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn có ý thức giữ gìn đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị, khiêm tốn; nêu cao trách nhiệm vì sự nghiệp của Đảng, của dân tộc. Trước tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường, Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, bám sát các quan điểm, đường lối nêu trong Cương lĩnh, Chiến lược, Nghị quyết Đại hội toàn quốc của Đảng và tình hình thực tiễn, quyết định nhiều chủ trương, quyết sách đúng đắn, sáng suốt; lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về đối nội và đối ngoại.
Tuy nhiên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư từ nhiều khoá nay có một số khuyết điểm lớn, đặc biệt là chưa ngăn chặn và khắc phục được tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Việc một số cán bộ cao cấp (cả đương chức và nguyên chức) có lúc, có việc còn biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó. Chưa tập trung chỉ đạo làm rõ, đánh giá đầy đủ thực chất tình hình để kịp thời có biện pháp kiên quyết khắc phục một số tiêu cực (như chạy chức, chạy quyền, chạy tội...) và một số trường hợp phân công, đề bạt cán bộ chưa chính xác, chưa được dư luận đồng tình. Trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết và kết luận của Trung ương, nhất là về doanh nghiệp nhà nước, còn lúng túng, buông lỏng; kiểm tra, giám sát không chặt chẽ, dẫn đến một số tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước (điển hình là Vinashin, Vinalines) hoạt động kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất lớn, để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Một số hạn chế, khuyết điểm, chưa được làm rõ thực chất, mức độ, địa chỉ cụ thể, ai phải chịu trách nhiệm, như tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm…
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương về những yếu kém, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, những suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu. Mặc dù nhiều khuyết điểm, hạn chế có từ các khoá trước, nhưng với trách nhiệm chính trị của cơ quan lãnh đạo hiện nay, Bộ Chính trị và từng Uỷ viên Bộ Chính trị tự nhận thấy sâu sắc trách nhiệm chính trị của mình trước những khuyết điểm, hạn chế đó. Và để giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, góp phần giữ gìn uy tín, hình ảnh thiêng liêng của Đảng và làm gương trong toàn Đảng, Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị.
Ban Chấp hành Trung ương hoan nghênh, đánh giá rất cao sự nghiêm túc, gương mẫu và cầu thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình đợt này cũng như sự quyết tâm, nỗ lực lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4; nhất trí cao với Báo cáo của Bộ Chính trị, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến phê bình rất thẳng thắn, sâu sắc. Kinh nghiệm lịch sử Đảng ta cho thấy, một khi Đảng tự nhận ra sai lầm, khuyết điểm và tự nghiêm khắc, quyết tâm khắc phục, sửa chữa thì sức mạnh của Đảng càng được nâng lên; nhân dân càng tin yêu và ủng hộ Đảng. Trong bối cảnh đầy khó khăn, thách thức hiện nay, điều đó càng hết sức cần thiết. Đó cũng chính là một bài học sâu sắc, một nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự vững mạnh của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị và sự phát triển bền vững của đất nước . Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá.
Ban Chấp hành Trung ương cũng tự kiểm điểm và nhận phần trách nhiệm của mình trong việc để xảy ra và chưa ngăn chặn được những khuyết điểm, yếu kém trong thời gian qua. Ban Chấp hành Trung ương xin nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân, và sẽ cố gắng làm hết sức mình để từng bước khắc phục. Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu, lúc này, hơn lúc nào hết, chúng ta càng phải nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước dân, xiết chặt đội ngũ, tăng cường đoàn kết, thống nhất, giữ vững niềm tin, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phát huy những kết quả bước đầu quan trọng của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục những hạn chế, yếu kém, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thật sự là đảng cách mạng chân chính, gắn bó máu thịt với nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra.
Nhân dịp này, Ban Chấp hành Trung ương cũng ghi nhận, biểu dương các cấp uỷ đảng, chính quyền và toàn hệ thống chính trị đã bước đầu tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng. Trung ương yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, từ Trung ương đến cơ sở, từng cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phải tiếp tục thực hiện thật tốt việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4, không làm qua loa, hình thức. Càng xuống cấp dưới, cấp cơ sở càng phải được chỉ đạo chặt chẽ, hết sức tránh tư tưởng đại khái, "làm chiếu lệ", "làm cho xong"; đặc biệt phải có những việc làm thật cụ thể, thiết thực, tạo chuyển biến rõ rệt trong thực tế để mỗi tổ chức mạnh hơn, mỗi cá nhân tiến bộ, gương mẫu hơn, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Thành công của Hội nghị, ngoài sự đóng góp tích cực của các đồng chí Trung ương, các cơ quan và cán bộ tham mưu, giúp việc, còn có phần đóng góp rất quan trọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong cả nước, đặc biệt là các đồng chí cán bộ lão thành, các nhà nghiên cứu, nhà giáo, nhà khoa học, những người luôn luôn quan tâm, nhiệt tình hưởng ứng và có nhiều ý kiến đóng góp hết sức tâm huyết, trí tuệ cho công việc chung của Đảng. Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư trân trọng cảm ơn những tình cảm và sự đóng góp vô cùng quý báu đó. Tổng Bí thư tin tưởng rằng, với thành công của Hội nghị lần này và sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự ủng hộ hưởng ứng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất định chúng ta sẽ tổ chức thực hiện thành công các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương lần này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng./.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị. Ảnh: HH |
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương đã thành công tốt đẹp với một khối lượng công việc rất lớn. Trung ương đã bàn và nhất trí cao về nhiều chủ trương, chính sách quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và xây dựng Đảng, kể cả việc quyết định thành lập lại Ban Kinh tế Trung ương; và lần đầu tiên tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn rất thành công trong không khí dân chủ, thẳng thắn và xây dựng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả quan trọng đã đạt được tại Hội nghị lần này:
1- Về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013, Hội nghị đã thống nhất nhận định: Trong bối cảnh tình hình có nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm có những chuyển biến nhất định. Kinh tế vĩ mô ổn định hơn; lạm phát được kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng giảm; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện; tỉ giá cơ bản ổn định, niềm tin vào giá trị tiền đồng Việt Nam được củng cố. Tuy nhiên, áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn còn lớn. Thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp. Tăng trưởng GDP và tổng vốn đầu tư xã hội không đạt được kế hoạch đề ra; số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoặc thu hẹp hoạt động vẫn ở mức cao; việc làm và thu nhập của người lao động khó khăn. Trật tự, an toàn xã hội và các tệ nạn xã hội, tội phạm, tham nhũng, tiêu cực còn nhiều phức tạp,… Vì vậy, trong những tháng còn lại của năm 2012 và năm 2013, đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường lành mạnh hoá, ổn định kinh tế vĩ mô; đặc biệt chú trọng ổn định, lành mạnh hoá, bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu công. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tập trung giải quyết tình trạng nợ xấu, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư trong nước và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài; ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp và du lịch. Đồng thời đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo. Quá trình tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại cần phải được đặt trong tổng thể và gắn kết chặt chẽ với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, tái cấu trúc đầu tư và tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung.
2- Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Trung ương tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt và những kết quả quan trọng đã đạt được của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém còn tồn tại; trên cơ sở đó đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp khắc phục.
Trung ương yêu cầu phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết, kết luận của Trung ương về vấn đề này phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng đi vào chiều sâu. Kiên quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, đi đầu trong đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, tập trung vào những khâu, công đoạn then chốt của bốn lĩnh vực chính, bao gồm: Công nghiệp quốc phòng; công nghiệp độc quyền tự nhiên; lĩnh vực cung cấp hàng hoá dịch vụ công thiết yếu; và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan toả lớn. Sớm chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước.
Khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước phải được tổ chức lại theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với Luật Doanh nghiệp; áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị trường và thực hiện chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch trên cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường chứng khoán. Chức năng điều tiết vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội của doanh nghiệp phải được đổi mới và thay thế bằng cơ chế đặt hàng của Nhà nước, được hạch toán theo cơ chế thị trường. Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn phải được cấu trúc lại theo mô hình công ty mẹ - công ty con; được kiểm toán hằng năm. Kết thúc giai đoạn thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế nhà nước; xem xét chuyển một số tập đoàn kinh tế nhà nước thành tổng công ty. Đồng thời với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, phải tăng cường vai trò và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là trong việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp. Đổi mới quy trình, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc xem xét, quyết định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là nhân sự chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc. Nêu cao vai trò và trách nhiệm của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và ban thường vụ đảng uỷ; thực hiện việc chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên kiêm bí thư đảng uỷ doanh nghiệp. Mở rộng diện áp dụng chế độ thi tuyển, hợp đồng có thời hạn tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất, kinh doanh đối với giám đốc, tổng giám đốc. Nghiên cứu hình thành cơ quan cấp bộ thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công giữa Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền các địa phương trong việc thực hiện chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước cấp trên của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên mà không trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các đại biểu tham dự Hội nghị. Ảnh: HH
3- Về vấn đề đất đai, thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khoá XI, tại Hội nghị này, Trung ương tiếp tục thảo luận và đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết của Trung ương để lãnh đạo, chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội. Khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai; đặc biệt là tình trạng đầu cơ, lãng phí, tham nhũng, tranh chấp, khiếu kiện kéo dài; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư, góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo khẩn trương tổng kết, đánh giá tình hình sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh theo Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX, trong đó có đánh giá việc quản lý, sử dụng đất nông, lâm trường để có chính sách, biện pháp quản lý phù hợp. Có cơ chế, chính sách đặc thù về việc giao đất, chuyển quyền sử dụng đất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
4- Về giáo dục và đào tạo, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận sôi nổi và cho nhiều ý kiến về Đề án "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Trung ương nhận thấy, sau 16 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực có hạn, với sự cố gắng, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của đội ngũ nhà giáo, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta đã thu được những kết quả, thành tựu rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, đến nay giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất cho phát triển; thậm chí còn không ít hạn chế, yếu kém, nhất là về chất lượng giáo dục - đào tạo; công tác quản lý và cơ chế tạo nguồn lực và động lực cho phát triển. Để có thể cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, nước ta đang đứng trước yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh dựa nhiều hơn vào yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) và kinh tế tri thức. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại toàn cầu hoá, phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ đòi hỏi và cũng tạo điều kiện để nước ta đẩy mạnh toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Những kết quả, thành tựu đã đạt được về quy mô, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có cũng cho phép chúng ta chuyển sang giai đoạn phát triển mới, cao hơn về chất. Đó chính là lý do giải thích vì sao Đại hội XI của Đảng đề ra chủ trương phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
5- Về phát triển khoa học và công nghệ, Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhân lực khoa học và công nghệ là tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức khoa học và công nghệ là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức. Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt, là lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ 21.
Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, sự tham gia chủ động, tích cực của mọi lực lượng xã hội và tài năng, tâm huyết của các nhà khoa học đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ nước nhà. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực cho phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường khoa học và công nghệ.
Trung ương yêu cầu phải đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng và chính quyền về vai trò của khoa học và công nghệ, coi phát huy ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ là một bộ phận không thể thiếu của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương. Nhà nước có chính sách, cơ chế đặc biệt trọng dụng và đãi ngộ đối với cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ được giao chủ trì nhiệm vụ quốc gia; cán bộ trẻ tài năng. Khuyến khích, tạo điều kiện để sinh viên, nghiên cứu sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc. Đồng thời, phải vận dụng đúng đắn cơ chế thị trường để đổi mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước; cơ chế, chính sách; xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ lớn của Nhà nước. Tăng cường và phát huy tiềm lực khoa học quốc gia; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thu hút nguồn lực và chuyên gia người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học - công nghệ của Việt Nam… Trong đó, đổi mới công tác quản lý nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho các hoạt động khoa học và công nghệ.
6- Về xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Đây là lần đầu tiên Trung ương bàn và ra Nghị quyết về vấn đề này. Trung ương nhấn mạnh, việc xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chủ động và sớm phát hiện cán bộ có triển vọng lãnh đạo, quản lý trưởng thành từ thực tiễn; chú trọng cán bộ xuất thân từ công nhân, nông dân, trí thức; tăng tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, con em gia đình có công với cách mạng, cán bộ khoa học - công nghệ, văn hoá, nghệ thuật... Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công tâm, minh bạch, khách quan; lấy quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước làm cơ sở cho công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng toàn quốc.
Về phương châm, cần thực hiện quy hoạch "động" và "mở", định kỳ rà soát, đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện; bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới. Chuẩn bị nguồn quy hoạch dồi dào, mỗi chức danh có thể quy hoạch vài ba người, một người có thể quy hoạch vào vài ba chức danh. Lấy quy hoạch lãnh đạo chủ chốt ở các cấp làm cơ sở cho quy hoạch cấp chiến lược. Lấy quy hoạch cấp chiến lược thúc đẩy quy hoạch chủ chốt cấp dưới. Tạo điều kiện công bằng và cơ chế đặc thù để cán bộ trong quy hoạch cấp chiến lược thể hiện năng lực, phấn đấu, cống hiến và trưởng thành. Coi công tác quy hoạch cán bộ cấp chiến lược là công việc thường xuyên, bình thường trong công tác cán bộ của Đảng.
Nhân sự đưa vào quy hoạch phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện. Ban Chấp hành Trung ương phải có 3 độ tuổi để bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển; có cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện. Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải là cán bộ tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công tác, có uy tín cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đang đảm nhiệm. Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là Uỷ viên Trung ương có phẩm chất, năng lực tiêu biểu, uy tín cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; có tầm nhìn và tư duy chiến lược, quyết đoán, nhanh nhạy nắm bắt tình hình trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; dự báo và đề ra được phương án giải quyết các tình huống hệ trọng của Đảng, của đất nước; có tư duy và trình độ cao về lý luận chính trị; phát hiện và sử dụng người tài; đã kinh qua các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, thành phố hoặc ban, bộ, ngành trực thuộc Trung ương. Các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước phải là những Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, uy tín và có khả năng quy tụ, đoàn kết, thuyết phục trong toàn Đảng; am hiểu tương đối toàn diện về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: HH
7- Về Báo cáo kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương đã dành gần một phần ba thời gian của Hội nghị để nghe báo cáo, nghiên cứu và cho ý kiến về nội dung rất quan trọng này. Trung ương đánh giá cao sự chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm hết sức nghiêm túc, trách nhiệm và sự gương mẫu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Sau hơn 2 tháng chuẩn bị, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành 21 ngày, chia làm 4 đợt (trong 3 tháng) để kiểm điểm tự phê bình và phê bình, coi đây là đợt sinh hoạt chính trị đặc biệt quan trọng vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng; của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo là giữ đúng nguyên tắc, có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí; vừa có lý, có tình, vừa phải xử lý nghiêm minh những trường hợp có khuyết điểm, vi phạm, theo phương châm "trị bệnh cứu người", giúp nhau cùng tiến bộ. Nội dung kiểm điểm đã bám sát vào các nội dung, yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4. Các vấn đề nổi cộm, bức xúc đều được đặt ra, phân tích, mổ xẻ và rút ra những bài học sâu sắc. Không khí thảo luận, góp ý, tự phê bình và phê bình dân chủ, thẳng thắn, xây dựng, chân thành.
Qua kiểm điểm tự phê bình, phê bình và lắng nghe ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên, nhân dân, tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những ưu điểm và nhất là khuyết điểm của mình; phân tích, làm rõ nguyên nhân của các khuyết điểm, hạn chế, từ đó đề ra các biện pháp sửa chữa, khắc phục. Các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều hết sức thấm thía, day dứt trước những thiếu sót, khuyết điểm, tự nhận thấy phải nghiêm khắc với mình hơn, không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ hiểu biết, đổi mới lề lối làm việc; gương mẫu giữ gìn đạo đức, lối sống; đoàn kết, gắn bó hơn trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Và trên thực tế, nhiều đồng chí đã tự giác xem xét, nhìn lại mình, bước đầu có tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh một số hành vi trong công tác và cuộc sống hằng ngày của mình, của gia đình, vợ con và người thân. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bàn và chỉ đạo giải quyết ngay một số vấn đề nổi cộm, bức xúc; phát huy các nhân tố tích cực, xiết lại kỷ luật, kỷ cương, có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn các hành vi tiêu cực. Cũng qua việc kiểm điểm lần này, các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư có điều kiện hiểu biết nhau hơn, chia sẻ, học hỏi lẫn nhau, đoàn kết, gắn bó hơn. Quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm cũng đã có tác động lan toả, nêu gương cho cấp dưới học tập và làm theo, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương khẳng định, Bộ Chính trị, Ban Bí thư là một tập thể lãnh đạo đoàn kết, vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Nhìn chung, các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn có ý thức giữ gìn đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị, khiêm tốn; nêu cao trách nhiệm vì sự nghiệp của Đảng, của dân tộc. Trước tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường, Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, bám sát các quan điểm, đường lối nêu trong Cương lĩnh, Chiến lược, Nghị quyết Đại hội toàn quốc của Đảng và tình hình thực tiễn, quyết định nhiều chủ trương, quyết sách đúng đắn, sáng suốt; lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về đối nội và đối ngoại.
Tuy nhiên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư từ nhiều khoá nay có một số khuyết điểm lớn, đặc biệt là chưa ngăn chặn và khắc phục được tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Việc một số cán bộ cao cấp (cả đương chức và nguyên chức) có lúc, có việc còn biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó. Chưa tập trung chỉ đạo làm rõ, đánh giá đầy đủ thực chất tình hình để kịp thời có biện pháp kiên quyết khắc phục một số tiêu cực (như chạy chức, chạy quyền, chạy tội...) và một số trường hợp phân công, đề bạt cán bộ chưa chính xác, chưa được dư luận đồng tình. Trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết và kết luận của Trung ương, nhất là về doanh nghiệp nhà nước, còn lúng túng, buông lỏng; kiểm tra, giám sát không chặt chẽ, dẫn đến một số tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước (điển hình là Vinashin, Vinalines) hoạt động kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất lớn, để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Một số hạn chế, khuyết điểm, chưa được làm rõ thực chất, mức độ, địa chỉ cụ thể, ai phải chịu trách nhiệm, như tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm…
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương về những yếu kém, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, những suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu. Mặc dù nhiều khuyết điểm, hạn chế có từ các khoá trước, nhưng với trách nhiệm chính trị của cơ quan lãnh đạo hiện nay, Bộ Chính trị và từng Uỷ viên Bộ Chính trị tự nhận thấy sâu sắc trách nhiệm chính trị của mình trước những khuyết điểm, hạn chế đó. Và để giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, góp phần giữ gìn uy tín, hình ảnh thiêng liêng của Đảng và làm gương trong toàn Đảng, Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị.
Ban Chấp hành Trung ương hoan nghênh, đánh giá rất cao sự nghiêm túc, gương mẫu và cầu thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình đợt này cũng như sự quyết tâm, nỗ lực lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4; nhất trí cao với Báo cáo của Bộ Chính trị, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến phê bình rất thẳng thắn, sâu sắc. Kinh nghiệm lịch sử Đảng ta cho thấy, một khi Đảng tự nhận ra sai lầm, khuyết điểm và tự nghiêm khắc, quyết tâm khắc phục, sửa chữa thì sức mạnh của Đảng càng được nâng lên; nhân dân càng tin yêu và ủng hộ Đảng. Trong bối cảnh đầy khó khăn, thách thức hiện nay, điều đó càng hết sức cần thiết. Đó cũng chính là một bài học sâu sắc, một nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự vững mạnh của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị và sự phát triển bền vững của đất nước . Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá.
Ban Chấp hành Trung ương cũng tự kiểm điểm và nhận phần trách nhiệm của mình trong việc để xảy ra và chưa ngăn chặn được những khuyết điểm, yếu kém trong thời gian qua. Ban Chấp hành Trung ương xin nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân, và sẽ cố gắng làm hết sức mình để từng bước khắc phục. Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu, lúc này, hơn lúc nào hết, chúng ta càng phải nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước dân, xiết chặt đội ngũ, tăng cường đoàn kết, thống nhất, giữ vững niềm tin, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phát huy những kết quả bước đầu quan trọng của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục những hạn chế, yếu kém, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thật sự là đảng cách mạng chân chính, gắn bó máu thịt với nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra.
Nhân dịp này, Ban Chấp hành Trung ương cũng ghi nhận, biểu dương các cấp uỷ đảng, chính quyền và toàn hệ thống chính trị đã bước đầu tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng. Trung ương yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, từ Trung ương đến cơ sở, từng cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phải tiếp tục thực hiện thật tốt việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4, không làm qua loa, hình thức. Càng xuống cấp dưới, cấp cơ sở càng phải được chỉ đạo chặt chẽ, hết sức tránh tư tưởng đại khái, "làm chiếu lệ", "làm cho xong"; đặc biệt phải có những việc làm thật cụ thể, thiết thực, tạo chuyển biến rõ rệt trong thực tế để mỗi tổ chức mạnh hơn, mỗi cá nhân tiến bộ, gương mẫu hơn, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Thành công của Hội nghị, ngoài sự đóng góp tích cực của các đồng chí Trung ương, các cơ quan và cán bộ tham mưu, giúp việc, còn có phần đóng góp rất quan trọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong cả nước, đặc biệt là các đồng chí cán bộ lão thành, các nhà nghiên cứu, nhà giáo, nhà khoa học, những người luôn luôn quan tâm, nhiệt tình hưởng ứng và có nhiều ý kiến đóng góp hết sức tâm huyết, trí tuệ cho công việc chung của Đảng. Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư trân trọng cảm ơn những tình cảm và sự đóng góp vô cùng quý báu đó. Tổng Bí thư tin tưởng rằng, với thành công của Hội nghị lần này và sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự ủng hộ hưởng ứng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất định chúng ta sẽ tổ chức thực hiện thành công các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương lần này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng./.