-Tải về : Bí mật Ngũ Giác Đài phần III (6)
III. C. 1. CHÚ THÍCH
- CIA Study 0017/66, "Asian Communist Employment of Negotiations as a Political Tactic" (S), p. 42.
- CIA Study 0017/66 (S), p. 43.
- U.S. VerbMin/2, pp. 58 ff.
- Ibid., pp. 65-66.
- Sau Điện Biên Phủ và hầu hết các lực lượng Pháp đã rút về đồng bằng sông Hồng Bắc Bộ, sức mạnh trong và xung quanh vùng châu thổ sông Hồng của Việt Minh được báo cáo là 94 tiểu đoàn bộ binh, một sư đoàn pháo binh, 110 đại đội địa phương, và từ 40.000 đến 50.000 dân quân. Sức mạnh Pháp-Việt là 109 tiểu đoàn (trong đó khoảng 60% là quân đội Việt Nam) và khoảng 80.000 quân phụ trợ và lực lượng dân quân. Mặc dù với thuận lợi về nhân lực của lực lượng Liên hiệp Pháp, giới tình báo ước tính vào khoảng thời gian này cho biết là họ phải đối mặt với vấn đề đào ngủ trên một quy mô rất lớn nếu Việt Minh ghi được chiến thắng lớn hoặc nếu có tin rằng người Pháp sẽ từ bỏ Hà Nội và một phần châu thổ sông Hồng. Xem NIE-63-4-54, "dự đoán về những phát triển có thể về quân sự và chính trị ở Đông Dương trong 30 ngày sắp đến (15 tháng sáu-15 Tháng bảy)," June 15,1954 (bí mật). Hơn nữa, trong báo cáo của tướng Valluy trong hội nghị quân sự của năm cường quốc vào ngày 04 tháng 6, ông tuyên bố không [lực lượng] Nam Việt Nam nào có thể chống lại miền MiềnNam Việt Nam một khi đồng bằng sông Hồng đã bị mất và việc bảo vệ miền Nam đã trở thành cần thiết. Xem Dulles tôi điện thoại.TEDUL 171 tới Lãnh sự Mỹ - Genève, ngày 07 tháng sáu 1954 (TOP SECRET).
- U.S. VerbMin/l, pp. 15-16.
- IC Restricted/l (C), p. 8.
- CIA Study 0017/66 (S), p. 43.
- U.S. VerbMin/5, p. 198.
- U.S. VerbMin/5, pp. 216-228; U.S. VerbMin/7, pp. 333-342.
- CIA Study 0017/66 (S), p. 44.
- IC Restricted/14 (C), pp. 18-19.
- IC Restricted/14 (C), p. 9; CIA Study 0017/66 (S), p. 45.
- IC Restricted/15 (C), p. 16.
- IC Restricted/6 (C), p. 7.
- DULTE 187, Genève to SecState, 16 June 1954 (TOP SECRET)
- SECTO 489, translation of aide memoire, Bonnet to State, 28 June 1954 (TOP SECRET).
- SECTO 557, Genève to State, 3 July 1954 (TOP SECRET).
- SECTO 560, Genève to State, 6 July 1954 (TOP SECRET).
- Lacouture and Devillers, La fin d.tune guerre, p. 268.
- Fall, Viet-Nam Witness, p. 135.
- Lacouture and. Devillers, p. 284.
- Kahin and. Lewis, The United States in Vietnam, pp. 47-48.
- Bator, Vietnam -- A Diplomatic Tragedy, p. 17.
- CIA Study 0017/66 (s), p. 49.
III.C.2 MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC TRUNG CỘNG – LIÊN SÔ
MỤC LỤC
1 | Liên Xô và Trung Quốc được khuyến khích bởi những mục tiêu khác nhau | C-18 | |
| a. Bầu không khí tại Genèvelà khác với Bàn Môn Điếm b. Mục tiêu của Liên Sô | C-18 C-18 | |
|
| (1) Liên Xô tìm cách ngăn chặn một cuộc khủng hoảng quốc tế lớn (2) Liên Xô muốn ngăn việc Pháp hổ trợ EDC (3) Liên Xô nắm cơ hội để tạo ra một nhà nước cộng sản mới |
|
| c. Mục tiêu của Trung Cộng: Nhu cần một biên giới an toàn | C-19 | |
|
| (1) Chính sách của Trung Quốc kêu gọi hỗ trợ "chiến tranh giải phóng quốc gia " (2) Trung Quốc cảnh giác việc Hoa Kỳ can thiệp (3) Trung Quốc muốn ngăn Lào và Cam-pu-chia trở thành Đồng Minh của Mỹ (4) Trung Quốc nỗ lực để nâng cao hình ảnh của "sự cùng tồn tại trong hòa bình" |
|
2 | Liên Xô và Trung Quốc tạo ảnh hưởng ôn hòa lên đoàn Việt Minh | C-21 | |
| a. Vị trí lúc khởi đầu la hỗ trợ lập trường cứng rắn của VNDCCH b. Chuyển qua ủng hộ VNDCCH thảo luận song phương với Pháp có vẻ đã xuất hiện sớm c. Liên Xô và Trung Quốc đã thay đổi phương pháp tiếp cận của VNDCCH về ngưng bắn d. VNDCCH phản ứng đối với áp lực của Trung-Xô về việc phân vùng e. Molotov đề xuất thỏa hiệp về cuộc bầu cử f. VNDCCH bị ép phải bỏ đòi hỏi làm đại diện cho Pathet Lào và Khmer Tự Do g. Trung Quốc đóng vai trò chính trong việc loại Pathet Lào và Khmer Tự Do h. Liên Xô và Trung Quốc đồng ý về Ủy Ban kiểm soát i. Ảnh hưởng Trung-Xô có hiệu ứng đáng kể
| C-21 C-21
C-22
C-23
C-23 C-24 C-25 C-25 |
III. C. Tab 2 – Mục Tiêu và Chiến Lược của Trung-Sô
- Liên Xô và Trung Quốc được khuyến khích bởi những mục tiêu khác nhau
-
- Bầu không khí tại Genèvelà khác với Bàn Môn Điếm
Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, ban đầu phe cộng sản hướng tới các cuộc đàm phán trong một thời gian mà bế tắc quân sự của họ là khá rõ ràng. Các cuộc thảo luận tại Bàn Môn Điếm kéo dài hơn hai năm trong khi quân Liên Hợp Quốc và quân cộng sản đã chiến đấu để chiếm những khu vực nhỏ có địa hình chiến lược giá trị. Ở Đông Dương, ngược lại, những chỉ dấu cho thấy cộng sản bước đầu đã sẵn sàng đàm phán từ tháng 9 năm 1953 (cả Bắc Kinh và Moscow), trong khi Việt Minh đang chuẩn bị cho một cuộc “tổng phản công”, và trong khi các lực lượng Liên hiệp Pháp thắt chặc chu vi phòng thủ của họ và họ phải ngăn chặn một cách tuyệt vọng lính đào ngũ lính Việt Nam ở quy mô lớn. Hơn nữa, một giải quyết cuối cùng đã đạt được sau hai tháng thương lượng. Những lý do để cho thỏa hiệp này được giải quyết nhanh chóng đến bất ngờ là nhờ ở Moscow và Bắc Kinh. Những lý do có khi là cùng của cả hai hay của một trong hai bổ sung nhau, hai cường quốc cộng sản này đã tạo ra một bầu không khí đàm phán nghiêm túc.
-
- Mục tiêu của Liên Sô
Không giống như Trung Quốc, Liên Xô không bao giờ rõ ràng về động cơ của mình khi làm việc hướng tới giải quyết. Tuy nhiên, có căn cớ mạnh mẽ để tin rằng Liên Xô đã có những mục tiêu này trong quan điểm của họ: (l) ngăn chặn một cuộc khủng hoảng lớn hoặc chiến tranh trên Đông Dương mà có thể kích thích sự thống nhất của phương Tây, cung cấp cho Hoa Kỳ những sự hỗ trợ còn thiếu trước đây cho "hành động thống nhất", và có thể hình dung được là chuyện này sẽ buộc Moscow đứng ra bảo vệ giúp Trung Quốc, (2) giảm triển vọng thành công về việc thông qua cộng đồng Quốc phòng châu Âu (EDC) trong Quốc hội Pháp (3) nắm bắt cơ hội để tạo ra một vùng đất do cộng sản kiểm soát ở Việt Nam mà sau đó có thể được mở rộng thành một nhà nước cộng sản mới.
(1)Liên Xô tìm cách ngăn chặn một cuộc khủng hoảng quốc tế lớn
Về điểm thứ nhất, Liên Xô đã chắc chắn nhận thức được rằng Hoa Kỳ có lẽ sẽ chuẩn bị, trong điều kiện nhất định, để xem xét sự tham gia tích cực của mình vào chiến tranh. Trong thời gian này, các bài viết của giới báo chí được đưa ra làm tăng thêm độ tin và độ ngờ về kế hoạch "hành động thống nhất." của Mỹ. Hơn nữa, trong thời kỳ này Liên Xô đã bị dính vào trong một cuộc tranh luận chính thức sôi nổi về việc đưa chính sách quốc phòng của Eisenhower đối với an ninh quốc gia Liên Xô vào chương trình. Khi cuộc tranh luận đã được giải quyết đâu đó trong tháng Tư năm 1954, dường như nhận thức của Bí thư thứ nhất Khrushchev về nguy hiểm là một chiến tranh thế giới mới tiếp tục có thể xảy ra bởi một cuộc tấn công liều lĩnh bằng hạt nhân của Mỹ đã chiến thắng sự lạc quan tương đối của Thủ Tướng Malenkov. Cụ thể, Moscow có thể lý luận rằng một sự thất bại để giải quyết tại Genève sẽ dẫn đến sự tham gia của Mỹ và sự leo thang ở Đông Dương, tại một thời điểm có thể có một cuộc đụng độ trực tiếp giữa lực lượng Mỹ và Trung Quốc, và Liên Xô do đó sẽ được kêu gọi tới trợ giúp đồng minh Trung Quốc của mình.
Khi Liên Xô vào Hội nghị Genève, sau đó, dường như một trong những mục tiêu chính của họ là làm giảm bớt khả năng can thiệp của Hoa Kỳ, hoặc trong vỏ bọc một hành động thống nhất hoặc đơn phương, vào Đông Dương. Trong khi triển vọng này đã không ngăn chặn Liên Xô tìm cách hưởng lợi về việc thay đổi chính phủ ở Paris, từ Laniel qua Mendes-France, họ đã làm việc với hướng chung là một giải quyết hợp lý sẽ là điều vinh dự cho Pháp và nói chung là chấp nhận được cho Việt Minh. Tuy nhiên, rõ ràng là Nga đã tin tưởng rằng, miễn là Pháp (và Anh) đã thỏa thuận giải quyết, người Mỹ sẽ rất khó mà qua mặt các đồng minh của mình và can thiệp.
(2)Liên Xô muốn ngăn việc Pháp hổ trợ EDC
EDC (European Defense Community – Công Đồng Phòng Thủ Âu Châu) cũng là điều gần như chắc chắn đã ăn vào tâm trí của Molotov trong các cuộc đàm phán. Không có bằng chứng nào hỗ trợ các tranh cãi cho rằng trong một số bài viêt Molotov đã mồi chài Mendes-France một cách rõ ràng đưa ra một giải quyết nhân nhượng về Đông Dương để đổi lại việc Quốc Hội [Pháp] từ chối gia nhập EDC, nhưng Molotov cũng không cần phải rõ ràng minh thị như thế. Trong suốt năm 1953 và trong năm 1954, tuyên truyền Liên Xô đã bi chi phối bởi ý kiến về EDC và sự nguy hiểm của một nước Đức tái vũ trang. Chắc chắn vì lợi ích đó mà Liên Xô đã gây áp lực buộc VNDCCH nhượng bộ người Pháp, khi rút quân khỏi Đông Dương, Pháp sẽ khôi phục tầm cỡ quân đội Pháp ở lục địa [Âu Châu] và do đó phần nào sẽ bù đắp cho sự cần thiết một EDC. Lợi ích của Liên Xô, trong ngắn hạn, có thể đưa đến việc hy sinh các mục tiêu của Việt Minh, nếu cần thiết, để ngăn chặn Đức tái vũ trang.
(3)Liên Xô nắm cơ hội để tạo ra một nhà nước cộng sản mới
Những nỗ lực của Liên Xô để giành quyền kiểm soát ở Iran, Mãn Châu, Hy Lạp và Hàn Quốc cho thấy một mục tiêu có thể thứ ba của ngoại giao của họ tại Genève. Trong những trường hợp này, Liên Xô đã cố gắng giành quyền kiểm soát nhà nước bằng cách thiết lập một vùng đất cộng sản ngay trong nước được nhắm đến. Vùng đất này sẽ trở thành, sau đó, "một giai đoạn đầu tiên để cuối cùng đưa toàn bộ nước đó vào trong khối cộng sản." Trong quan điểm của Liên Xô, đó là thời điểm để tiến hành như thế ở Việt Nam là chính xác và việc kiểm soát [toàn bộ] Việt Nam sẽ đến mà không cần thiết phải chinh phục bằng quân sự. 1/
-
- Mục tiêu của Trung Cộng: Nhu cần một biên giới an toàn
Ngược lại vị trí của Liên Xô, Trung Quốc thực hiện mục tiêu của họ tại Genève khá rõ ràng: (1) nhấn mạnh cam kết hỗ trợ các "cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc" (2) bảo vệ chống lại khả năng can thiệp quân sự của Mỹ, (3) ngăn chặn các nước Đông Dương trở thành căn cứ của Mỹ hoặc tham gia các hệ thống liên minh với Hoa Kỳ; và (4) thúc đẩy " 5 nguyên tắc sống chung hòa bình" như là một phần của nỗ lực của Trung Quốc để mở rộng ảnh hưởng của họ khắp Trung Á với mục tiêu là cần tạo ra một vùng an ninh bao phủ Lào, Campuchia, và một nửa phía Bắc của Việt Nam, để bảo đảm sườn phía Tây Nam của Trung Quốc chống lại sự xâm nhập của Hoa Kỳ hoặc bất kỳ thế lực nước ngoài lớn nào khác.
(1) Chính sách của Trung Quốc kêu gọi hỗ trợ "chiến tranh giải phóng quốc gia "
Từ lúc mà quân đội Trung Quốc đến biên giới Việt Trung, hỗ trợ của Trung Quốc cho Việt Minh là rõ ràng phù hợp với chính sách của Bắc Kinh là hỗ trợ các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Chủ đề này thường xuyên được các đại biểu Trung Quốc tại Genève ám chỉ đến. Tuy nhiên, Trung Quốc cẩn thận kiểm soát những viện trợ đó là để hỗ trợ cho chiến tranh, và chỉ sau Hội nghị Berlin họ dã tăng đáng kể viện trợ để đảm bảo sự sụp đổ của Điện Biên Phủ. Bất kể là với lý do chủ nghĩa Mác tiên tiến mà Trung Quốc đã đưa ra trong chính sách của họ đối với Việt Minh, Bất kể là với lý do chủ nghĩa Mác tiên tiến mà Trung Quốc đã đưa ra trong chính sách của họ đối với Việt Minh, trong lịch sử Trung Quốc đã hành động để biến các quốc gia chung quanh thành chư hầu của họ. Sau khi việc hàn gắn [tàn phá chiến tranh] trong nước của Trung Quốc đã được phục hồi, họ sẽ quay lại, phù hợp với chính sách đã nhiều thế kỷ đối với Việt Nam, dự kiến sẽ đưa ảnh hưởng của họ vào Đông Nam Châu Á thông qua Việt Nam.)
(2) Trung Quốc cảnh giác việc Hoa Kỳ can thiệp
Viện trợ ít hơn là họ có thể cho, Bắc Kinh rất có thể đã cảnh giác về sự can thiệp của Mỹ và một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn. Về mặt này, cảnh báo của Hoa Kỳ cho Trung Quốc trong năm 1953 từ một chính quyền Mỹ đã công khai tuyên bố sẽ đưa ra một đường lối cứng rắn đối với khối cộng sản không thể được Bắc Kinh bỏ qua. Hơn nữa vào năm 1954, Trung Quốc đã tỏ ra quan tâm nhiều hơn trước đây về tính hiệu quả quân sự của vũ khí hạt nhân. Vừa qua một cuộc chiến tranh tốn kém ở Hàn Quốc, và đã quyết định sớm nhất là vào mùa thu năm 1952 là đặt ưu tiên cho việc xây dựng " xã hội chủ nghĩa” ở nhà, Bắc Kinh không ở vị trí nào có nguy cơ khiêu khích Hoa Kỳ. Việc Trung Quốc đã sẵn sàng làm việc cho một giải quyết cho chiến tranh Đông Dương có thể đã xuất phát, dưới cái nhìn này, từ những xác tín rằng: (a) VNDCCH đã thực hiện đầy đủ lợi ích quân sự cho Trung Quốc, tức là, kiểm soát lãnh thổ ở miền Bắc Việt Nam, và (b) không nên cho phép VNDCCH khiêu khích phương Tây (đặc biệt là Hoa Kỳ) vì sợ rằng phe này sẽ nhảy vào một phản ứng quân sự mà nó có thể thay đổi bản chất của chiến tranh và có lẽ, cam kết của Trung Quốc.
(3) Trung Quốc muốn ngăn Lào và Cam-pu-chia trở thành Đồng Minh của Mỹ
Bên cạnh việc đảm bảo rằng một nhà nước cộng sản sẽ chiếm phần phía bắc của Việt Nam, Trung Quốc cũng tìm cách để vô hiệu hóa hai quốc gia Đông Dương khác. Chu Ân Lai phát biểu tại Hội nghị rằng ông không phản đối việc đưa vũ khí và nhân viên quân sự vào Campuchia hoặc Lào sau khi đã có lệnh ngừng bắn, 2/ ông cũng không phản đối hình thức quân chủ của chính phủ, 3/ họ được tự do về vấn đề chính trị nội bộ của họ, 4/ hoặc [tự do] gia nhập Liên hiệp Pháp. 5/ Điều đáng ngạc nhiên, là Chu Ân Lai đã không đòi hỏi nhượng bộ của Pháp, mặc dù Pháp đã có một nửa dự kiến rằng Chu sẽ nhấn mạnh về mối quan hệ thương mại tốt hơn, yểm trợ một chỗ ngồi cho Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, hoặc công nhận ngoại giao của Pháp đối với Cộng sản Trung Quốc. 6/ Thay vào đó, Chu Ân Lai đã làm rõ rằng Trung Quốc có nhiều quan tâm đến việc thành lập các căn cứ Mỹ ở Cam-pu-chia và Lào mà tiềm năng là sẽ được xử dụng để chống Trung Hoa Lục địa… Nhượng bộ cho người Pháp có thể được thấy như là một cách của Bắc Kinh “giữ lại” người Pháp và đẩy người Mỹ ra ngoài. Sự sụp đổ nhanh chóng của Pháp có thể tạo ra một khoảng trống mà Mỹ sẽ bị buộc phải di chuyển vào.
Người Trung Quốc đã bị phiền hà về triển vọng việc Cam-pu-chia, Lào, và Nhà nước Việt Nam sẽ trở thành thành viên của hệ thống hiệp ước an ninh do Mỹ đề xuất cho khu vực Đông Nam Á. 7/ Ví dụ như, khi Chu gặp Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia (Nông Kimny) vào ngày 17 tháng 7, Thủ tướng Trung Quốc ngầm cảnh báo chống lại sự tham gia của Campuchia vào một hiệp ước khu vực Đông Nam Á hoặc chấp nhận các căn cứ nước ngoài. Các hậu quả của một trong hai động thái của Campuchia, Chu Ân Lai cho biết, là sẽ rất nghiêm trọng đối với độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia. Và ông đặc biệt nói rằng phát biểu của ông sẽ áp dụng như nhau đối với Lào và Việt Nam. 8/ Bắc Kinh không quan tâm đến việc chiếm thêm lãnh thổ, nhưng họ cũng không cho phép một đe dọa quân sự Mỹ gần kề bên.
(4)Trung Quốc nỗ lực để nâng cao hình ảnh của "sự cùng tồn tại trong hòa bình"
Một mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc là nâng cao hình ảnh của Trung Quốc như một cường quốc châu Á chân thành cống hiến cho sự cùng tồn tại trong hòa bình. Chính sách "chung sống hoà bình" đã được đóng khung trong năm nguyên tắc: thân thiện, không can thiệp lẫn nhau trong các vấn đề nội bộ, không xâm lược, bình đẳng và tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ. Trung Quốc đầu tư nhiều thời gian và đi khắp nơi để thuyết phục các nước láng giềng châu Á về sự chân thành của Bắc Kinh. Trong bối cảnh này, việc giải quyết Đông Dương đã được thúc đẩy mà Chu là phải được ghi nhận là người đã đóng góp phần quan trọng. Hình ảnh Bắc Kinh như là một nhân vật hoạt động cho hòa bình có lời nói được chú ý trong Hội đồng của người Châu Á. Nhưng không phải vì thế, mà giá trị của khối cộng sản Trung Quốc phải tăng.
- Liên Xô và Trung Quốc tạo ảnh hưởng ôn hòa lên đoàn Việt Minh
a. Vị trí lúc khởi đầu là hỗ trợ lập trường cứng rắn của VNDCCH
Có nhiều lý do để Liên Xô và Trung Quốc tìm thấy là trong quyền lợi của họ khi làm việc cho một giải quyết hòa bình cho chiến tranh Đông Dương. Mặc dù ấn tượng đầu tiên là họ hoàn toàn đứng sau lưng vị trí đàm phán Việt Minh, Molotov và Chu Ân-lai đã dần dần chuyển dịch về phía chung chỗ với người Pháp. Hai trưởng đoàn đại biểu cộng sản trong thực tế là những công cụ để đạt được những nhượng bộ của Việt Minh và đã đề xuất những giải pháp thay thế mà người Pháp có thể chấp nhận được. Vào điểm khởi đầu của Hội nghị, Molotov và Chu bề ngoài tỏ ra hỗ trợ nhưng không đánh giá đề nghị của Phạm Văn Đồng về một giải pháp chính trị theo sau bởi một lệnh ngừng bắn. Khi việc đã trở nên rõ ràng rằng Pháp sẽ không chấp nhận đề nghị đó, họ đã đương nhiên đồng ý rằng phải cần bàn cải hơn nữa để đòi tách biệt vấn đề quân sự ra khỏi các cuộc thảo luận chính trị. Đề nghị của Molotov trong buổi họp hạn chế lần thứ nhất ngày 17 tháng Năm là đi theo đường hướng này, và lưu ý của Chu Ân Lai với Eden vào ngày 20 là có thể nên ưu tiên cho việc ngừng bắn, là những tiêu biểu cho bước đột phá thực sự và có thể là nguyên nhân gây ra việc Phạm Văn Đồng sẵn sàng tham gia vào cuộc thảo luận về các vấn đề quân sự riêng với Tướng Delteil của Pháp.
b. Chuyển qua ủng hộ VNDCCH thảo luận song phương với Pháp có vẻ đã xuất hiện sớm
Các đoàn đại biểu Liên Xô và Trung Quốc - nhiều hơn so với đoàn Việt Minh - đã trực tiếp lo toan cho các cuộc thảo luận Pháp-Việt Minh. Việc mà các quan chức Liên Xô vào ngày 30 tháng Ba và một lần nữa vào ngày 5 tháng Năm đã nói với các quan chức phương Tây rằng đàm phán song phương sẽ là hình thức thuận lợi cao nhất cuộc đàm phán cho vấn đề ngưng bắn 9/ cho thấy rằng sự ủng hộ ban đầu của cộng sản đối với đề xuất của Phạm Văn Đồng có thể đơn giản chỉ là trái banh thăm dò. Sau khi Pháp, Anh và Mỹ, không chịu nhúc nhích từ lời kêu gọi của họ về một ngừng bắn ngay lập tức và được kiểm tra chặt chẽ, Chu Ân Lai và Molotov sau đó được tự do bắt đầu các cuộc đàm phán theo hướng thỏa hiệp.
c. Liên Xô và Trung Quốc đã thay đổi phương pháp tiếp cận của VNDCCH về ngưng bắn
Áp lực của Trung Quốc và Liên Xô dường như đã buộc VNDCCH chấp nhận thỏa thuận ngừng bắn trước khi có một giải pháp quân sự. Phạm Văn Đồng đã tranh cải cho một kế hoạch có thể thực hiện một lệnh ngừng bắn trên toàn Đông Dương đáp ứng điều kiện của Việt Minh về cuộc tổng tuyển cử và sự hình thành của ba chính phủ thống nhất. Tuy nhiên, tại kỳ họp hạn chế đầu tiên của Hội nghị vào ngày 17 tháng 5, Molotov đã chỉ ra rằng đề xuất của Pháp đến thời điểm chỉ để xử lý vấn đề quân sự, và do đó đề nghị rằng đề xuất đó nên được xử lý trước khi đi vào các thỏa thuận chính trị. 10/ Trung Quốc đã đồng ý với cách tiếp cận này. Trong một cuộc trò chuyện với Eden, Chu Ân-Lai tán đồng việc tách biệt vấn đề quân đội ra khỏi vấn đề chính trị, ưu tiên cho một cuộc ngưng bắn. 11/ Do đó, khi được báo cáo rằng Hoàng Văn Hoan đã nói với tờ Le Monde ngày 24 tháng Năm là VNDCCH đưa ra "không phải là điều kiện chính trị tiên quyết duy nhất ", [như vậy] ông đã phản ánh quan điểm của Liên Xô và Trung Quốc cũng như đang mở đường cho sáng kiến của Đồng vào ngày hôm sau.
d. VNDCCH phản ứng đối với áp lực của Trung-Xô về việc phân vùng
Có những bằng chứng để tin rằng cả Trung Quốc và Liên Xô là công cụ trong việc đưa đến một loạt các nhượng bộ của Việt Minh về vấn đề nơi để kẽ đường ranh giới ngăn giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Khả năng về việc phân vùng lúc đầu đã được đề xuất với các quan chức Mỹ sớm nhất là ngày 04 tháng Ba bởi một thành viên của Đại sứ quán Liên Xô ở London, dường như họ đã nhận thức được là Pháp-Mỹ sẽ phản đối một thỏa thuận liên minh 12/ Đường phân vùng được đề cập tại thời điểm đó là vĩ tuyến 16, có thể đặt Tourane (Đà Nẵng) vào tay Việt Minh (vĩ tuyến 16 nằm một vài dặm về phía nam của cảng). Cũng chính Liên Xô, vào ngày khai mạc của hội nghị, đã tiếp cận phái đoàn Hoa Kỳ với đề nghị phân vùng này – lần này đã quả quyết rằng việc thành lập một quốc gia đệm ở phía Nam của Trung Quốc là đủ để đáp ứng yêu cầu an ninh của Trung Quốc 13/.
Vào cuối tháng Sáu, sau nhiều vòng của cuộc đàm phán bí mật giữa Pháp-Việt Minh vấn đề quân sự đã không tiến triển, Tạ Quang Bửu (Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) vẫn khẳng định trên vĩ tuyến 13, kẻ từ bờ biển phía nam của Tuy Hòa, là đường chia cắt. 14/ Theo đề nghị của Lacouture và Devillers, Việt Minh có thể đã được tìm cách tận dụng danh tiếng của Mendes-France là một người của hòa bình, và về việc rút quân đang xảy ra của lực lượng Liên Hiệp Pháp về phía Nam đồng bằng sông Hồng. 15/ Vị trí này của Việt Minh đã trải qua một sự thay đổi mạnh mẽ vào giữa tháng Bảy và sự thay đổi có thể được truy nguồn từ một cuộc gặp giữa Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh tại Nam Ninh bên kia biên giới Trung Quốc-Việt Nam. Theo báo cáo của CIA, Chu đã áp lực cho Hồ chấp nhận một đường cắt phân vùng có lẽ là vĩ tuyến 17 hoặc 18, rất xa miền Bắc. 16/ Vị trí tiếp theo mà Phạm Văn Đồng thỏa hiệp cho thấy sự sẵn sàng của Việt Minh để thảo luận về phân vùng ở vĩ tuyến 16 dường như cũng có nguồn gốc trong các cuộc đàm phán giữa Chu Ân Lai và Hồ. 17/
Người Pháp, tuy nhiên, không chịu nhúc nhích gì trên phản đối của họ mặc dù Molotov lập luận rằng vĩ tuyến 16 đã là một nhượng bộ đáng kể của Việt Minh và yêu cầu Pháp cũng nên đáp lại. 18/ đại diện Xô Viết sau đó đã tiến tới với một đề nghị mới để vẽ đường ranh giới ngang vĩ tuyến 17. 19/ Chính xác những gì thúc đẩy Molotov đưa ra đề nghị này là không rõ ràng. Theo suy đoán, Molotov chỉ đơn giản có thể là đã trao đổi lãnh thổ có lợi cho người Pháp (nhiều hơn là vùng đất chiếm đóng bởi quân đội miền Bắc trên thực tế) để đổi lại một vài tiến bộ về vấn đề tổng tuyển cử. Các nhà thương thuyết phương Tây, ít ra, đã công nhận là có khả năng này: Eden đã xem một đường chia cắt nằm giữa vĩ tuyến 17 và 18 là có giá trị để bàn tính mà cả hai bên đều chấp nhận nhau về vấn đề bầu cử, 20/ Mendes-France nhận thấy trong một cuộc hội thoại với Molotov rằng vấn đề bầu cử và đường phân ranh có thể được liên kết với nhau trong ý nghĩa là mỗi bên có thể nhượng bộ trên một trong những vấn đề đó. 21/
e. Molotov đề xuất thỏa hiệp về cuộc bầu cử
Người Pháp đã liên tục giữ vững ý phải có một cuộc tổng tuyển cử tại Việt Nam, nhưng không có một định hạn nào về thời gian. (Ngày bầu cử cho Lào và Cam-pu-chia đã được thiết lập bởi hiến pháp của họ là tháng Tám và Tháng chín năm 1955, tương ứng) Molotov, tuy nhiên, phản ánh tư duy Việt Minh trong việc đề xuất một ngày nhất định, đề nghị bằu cử vào Tháng Sáu 1955, nhưng cho rằng cuộc bầu cử có thể được thoả thuận đâu đó trong năm 1955 với ngày chính xác sẽ được quyết định giữa Việt Nam và các quan chức Việt Minh. 22/ Đoàn Trung Quốc đã chứng tỏ linh hoạt hơn nhiều. Trong một lần nói chuyện với một thành viên của phái đoàn Anh, Li Ko Nung lập luận ủng hộ việc định một ngày bầu cử cụ thể, nhưng nói rằng chính phủ của ông sẵn sàng đưa ra ngày đó trong vòng hai hoặc ba năm sau khi ngừng bắn. 23/ Một lần nữa sự thỏa hiệp đã được làm việc trên sáng kiến của Molotov. Trong cuộc họp ngày 19 tháng Bảy với sự tham dự của Eden, Mendes-France, Chu Ân Lai và Đồng, Molotov đã định thời gian là trong hai năm. 24/ Đối với đòi hỏi [Tổng tuyển cử] phải trong vòng 6 tháng của VNDCCH, Pháp thỏa thuận ở mức 18 tháng, và kế hoạch của Liên Xô là một năm, phương Tây có lý do tốt để chấp nhận đề nghị của Molotov.
f. VNDCCH bị ép phải bỏ đòi hỏi làm đại diện cho Pathet Lào và Khmer Tự Do
Một ví dụ thứ ba, trong đó tham vọng của Việt Minh đã bị cắt bỏ bởi sự can thiệp ngoại giao của các đồng chí của họ liên quan đến qui chế của Pathet Lào và Khmer Tự Do. Trong suốt tháng Năm, VNDCCH đã yêu cầu đại diện các phong trào này phải được mời tham dự Hội nghị, họ cũng như Việt Minh, là những phe đang tham chiến nhằm nắm chính quyền. Đòi hỏi đó luôn bị từ chối bởi phía không cộng sản với lập luận rằng Pathet Lào và Khmer Tự Do là con đẻ của Việt Minh, có tội tấn công chống lại chính phủ Campuchia và Lào (trái ngược với "cuộc chiến tranh dân sự" tại Việt Nam), và họ không xứng đáng hưởng một quy chế mà mà bản thân họ đã không có cách nào đạt được. Khi Molotov, vào ngày 17 Tháng Năm, đề nghị rằng "vấn đề quân sự" nên được xem xét trước, vấn đề chỗ ngồi cho đoàn Pathet Lào và Khmer đã coi như bị bỏ.
Tuy nhiên, Việt Minh tuy vẫn kiên trì với lập trường của họ là phải giải quyết chính trị cho toàn bộ Đông Dương trong khi các cuộc thương lượng chính đã bị giảm thành các cuộc tiếp xúc "ngầm" cho các cuộc đàm phán về quân sự giữa họ và Pháp đã bắt đầu vào đầu tháng Sáu. 25/ Thỏa hiệp đầu tiên của Việt Minh là vào ngày 20 tháng Năm, khi Chu Ân Lai, trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc, trong cùng cuộc trò chuyện với Eden cũng đã nhất trí tách quân sự ra khỏi các vấn đề chính trị, thừa nhận rằng các giải pháp chính trị có thể là khác nhau cho ba nước Đông Dương. Như thế Chu đã chuyển một bước gần hơn đến lập trường của phương Tây cho rằng trường hợp Lào và Campuchia là khác nhau một cách đáng kể với Việt Nam. Không có gì đáng ngạc nhiên, Việt Minh, tại một cuộc họp bí mật với người Pháp vào ngày 10 tháng Sáu, đột nhiên cho thấy ý hướng của họ là tập trung vào Việt Nam hơn là đòi bao gồm cả Lào và Campuchia vào trong các cuộc thảo luận song phương. 26/
g. Trung Quốc đóng vai trò chính trong việc loại Pathet Lào và Khmer Tự Do
Mối quan tâm lớn lao về Việt Minh, như đã cho thấy vào ngày 16 tháng Sáu, rằng họ ít nhất đã kiểm soát tuyệt đối toàn vùng đồng bằng Bắc Bộ, bao gồm cả Hà Nội và Hải Phòng. 27/ Cả Chu lẫn Việt Minh, tuy nhiên, cũng không đi xa tới mức bác bỏ sự tồn tại của các phong trào kháng chiến hợp pháp tại Lào và Campuchia. Tuy nhiên, trong cuộc đàm phán đang diễn ra với người Anh, Chu Ân Lai đã tỏ ra sẵn sàng hơn so với Việt Minh để gạt lợi ích Pathet Lào- Khmer Tự Do sang một bên. Ngày 17 Tháng Sáu, vào thời gian sau khi bốn vòng đàm phán quân sự bí mật Pháp-Việt Minh không tiến triển, Chu nói với Eden "sẽ không khó khăn để đạt được thỏa thuận để Việt Minh rút quân "tình nguyện" của họ ra khỏi Campuchia và Lào. Hơn nữa, Eden có ấn tượng từ cuộc họp của ông với Chu rằng ông này rất tha thiết muốn có một giải quyết và rất lo ngại việc Hội Nghị có thể bị tan vỡ. 28/ Lực lượng kháng chiến Campuchia nhỏ cho nên một giải pháp chính trị với Chính phủ Hoàng gia là có thể "dễ dàng" đạt được. Lào có những lực lượng lớn hơn, các khu vực tập trung quân dọc theo biên giới với Việt Nam và Trung Quốc (hai tỉnh Sam Neua và Phong Saly) [giải pháp chính trị] sẽ được tính đến. Được Eden hỏi liệu có thể có khó khăn trong việc đạt được thỏa thuận với Việt Minh để rút lực lượng của họ ra khỏi hai nước, Chu Ân Lai trả lời sẽ "không khó khăn " trong bối cảnh rút tất cả các lực lượng nước ngoài. 29/
Trung Quốc, gần như chắc chắn với sự hỗ trợ của Liên Xô, 30/ đã thực hiện một bước đột phá lớn trong các cuộc đàm phán bằng cách mặc nhiên chấp nhận quan điểm phương Tây rằng lực lượng Pathet Lào và Khmer Tự Do là không đại diện cho phong trào hợp pháp bản địa và cần được thu hồi. Việt Minh quay ngược lại, như trong các trường hợp khác, không lâu sau đó. Một đại biểu Lào đã báo cáo vào ngày 23 tháng Sáu rằng Việt Minh đã rõ ràng đồng ý về việc rút “quân tình nguyện” của họ "và ngay cả các căn cứ của họ ở Lào đã được thành lập theo điều ước quốc tế với Pháp. Yêu cầu chính của Việt Minh của là quân đội Pháp tại Lào phải được giảm đến mức tối thiểu. Ít rõ ràng hơn, Đồng gợi ý về việc tạo ra một chính phủ “đoàn kết quốc gia” với sự tham gia của Pathet Lào vào cuộc bầu cử quốc hội năm 1955, và "sắp xếp tạm thời" để quản lý các khu vực do quân đội Pathet Lào chi phối. 31/ Nhưng về sau những điều nêu trên chỉ có nghĩa là những gợi ý; Đồng đã gần gũi với lập trường của phương Tây (nay được chia sẻ bởi Liên Xô và Trung Quốc) về việc quan trọng là phải rút quân Việt Minh ra khỏi Lào. Sau đó trong hội nghị, Đồng cũng sẽ phải làm điều tương tự như trên với Cam-pu-chia.
h. Liên Xô và Trung Quốc đồng ý về Ủy Ban kiểm soát
Trong khi Việt Minh từ ngày đầu đã quyết là không cho kiểm soát hoặc giám sát quốc tế cho dù trên hiệp định quân sự hay trên giải quyết chính trị liên quan đến Đông Dương, thì tất cả các đoàn đại biểu khác đã nhanh chóng tiến hành theo hướng ngược lại. Liên Xô lãnh đạo phía cộng sản. Vấn đề chính là thành phần và thủ tục bỏ phiếu của đề xuất về Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế (ICC: International Control Commission). Từ quan điểm phương Tây, thành phần ICC không nên có đại diện cộng sản, khi cộng sản không thể được coi là trung lập. Liên Xô vặn lại, như mong đợi, rằng phương Tây ủng hộ của Nhóm Colombo (Ấn Độ, Pakistan, Indonesia, Tích Lan, Miến Điện) ... để phản đối tương tự, cụ thể là, rằng mỗi thành viên thuộc số các quốc gia này luôn luôn sẽ bỏ phiếu theo với khối phương Tây. Khi vấn đề trở nên căng, giải quyết thỏa hiệp đưa ra là một công thức ba quốc gia bao gồm cả một nước cộng sản. Cả hai khía cạnh của thỏa thuận này đều được dựa trên kế hoạch ban đầu của Molotov. 32/
Như về thủ tục biểu quyết, cũng không đáng ngạc nhiên khi những người cộng sản nhấn mạnh đế sự nhất trí, ít nhất là cho những "vấn đề lớn." Phương Tây, trong khi chấp nhận nguyên tắc đó, đã thúc đẩy xem xét việc chấp nhận biểu quyết theo đa số để xác định xem một vấn đề đưa ra là nhỏ hay lớn. 33/ kết quả (Điều 42 của Hiệp định về sự chấm dứt của chiến tại Việt Nam) là để xác định thỏa thuận nhất trí giữa các đại diện Ủy ban về các vi phạm hiển nhiên, hoặc các đe dọa vi phạm có thể dẫn đến việc nối lại chiến sự. Tuy nhiên, báo cáo thiểu số có thể được đưa ra những khi mà Ủy Ban đã không thể [nhất trí] đồng ý về khuyến cáo.
i. Ảnh hưởng Trung-Xô có hiệu ứng đáng kể
Chướng ngại thứ hai là Việt Minh nhấn mạnh trên một giải pháp chính trị trước khi có một lệnh ngừng bắn. Khả năng của Trung Quốc và Liên Xô vượt qua đề kháng của VNDCCH ở điểm này là điều khuyến khích đã sớm xảy ra trong những ngày đầu thương thuyết. Nga và Trung Quốc đã hoạt động đằng sau hậu trường về vấn đề phân vùng, với Nga chủ động ngay cả trước khi hội nghị bắt đầu, và với ảnh hưởng lớn của cả hai cường quốc, Pháp và Việt Minh đã chuyển hướng tới một đường ranh giới chung tốt nhất cho cả hai. Vai trò có ý nghĩa mà Liên Xô và Trung Quốc đã hành xử liên quan đến đòi hỏi nhập chung Pathet Lào và Khmer Tự Do [vào Hội Nghị] đã đưa lại một sự nhượng bộ quan trọng lúc mà hội nghị đã gần như dừng lại -- cần phải tách biệt Việt Nam ra khỏi Đông Dương. Vấn đề khó khăn cuối cùng, về thành phần và chức năng của Ủy Ban kiểm soát, kéo dài vài tuần, nhưng cuối cùng đã được giải quyết với không ít sự trợ giúp của Liên Xô và Trung Quốc.