-- -Tải về : Bí mật Ngũ Giác Đài – Phần IV – A2 (2)
Nguyễn Quốc Vĩ dịch -1. Ngăn chận của chủ nghĩa Cộng Sản
Sự thất vọng và mối quan tâm ngày càng tăng của Hoa Kỳ trong thời kỳ sau Thế chiến II là sự bành trướng của Liên Xô ở Châu Âu, được tăng thêm bởi nỗi sợ hãi cộng sản, đã cấu thành các giai điệu của chính sách của Hoa Kỳ đối với các quốc gia Châu Á cộng sản trong giai đoạn 1948-1950. Theo như tuyên bố trên đây của Bộ Trưởng Ngoại Giao, đây là những ngày của "khối Cộng sản thuần nhất” được Liên Xô thống trị. Báo cáo của Hội đồng An ninh Quốc gia về chính sách năm 1949 tuyên bố rằng:
"Liên Xô bây giờ là một cường quốc Châu Á số một với việc đang mở rộng ảnh hưởng và đang mở rộng lợi ích trên khắp lục địa Châu Á và vùng Thái Bình Dương. Kể từ sự thất bại của Nhật Bản... Liên Xô đã có thể để củng cố vị trí chiến lược của họ cho đến lúc các cơ sở quyền lực của Liên Xô ở Châu Á bao gồm không chỉ vùng Viễn Đông của Liên Xô, mà còn cả Trung Quốc ở phía bắc của Vạn Lý Trường Thành, Bắc Triều Tiên, vùng đảo Sakahalin, và Kuriles. " 9/
Vấn đề đâu là cách tốt nhất để chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á đã được nâng lên tầm mức khủng hoảng vì sự "mất" Trung Quốc. Một cuộc tranh luận rộng lớn và gay gắt ở bình diện quốc gia về chính sách đối ngoại đã được khuấy động, và đã xảy ra giữa sự lo sợ ngày càng tăng của công chúng về sự thâm nhập, gián điệp, và lật đổ của cộng sản ở Châu Âu và kể cả chính Hoa Kỳ. Tại Quốc Hội, một nhóm đặc biệt năng động và lớn giọng chủ trương tăng viện trợ cho Quốc Dân Đảng Trung Quốc là lực lượng vẫn còn được nhiều người cho rằng, ngay cả trong những ngày cuối [tàn quân] này, vẫn là bức tường thành ngăn chận chủ nghĩa cộng sản ở Châu Á. 10/ Mặc dù không có sự nhấn mạnh lớn nào cho Đông Dương vào năm 1949, tài liệu của NSC [Hội Đồng An Ninh Quốc Gia] đã thảo luận về tầm quan trọng của cuộc chiến Pháp-Việt Minh, và sự liên kết trong tương lai của Đông Dương với phần còn lại của thế giới:
"Trong mọi trường hợp, cuộc đấu tranh “dân tộc-thuộc địa” đều cung ứng một môi trường màu mỡ cho các hoạt động lật đổ của cộng sản, và bây giờ chuyện đã rõ ràng rằng Đông Nam Á là mục tiêu của một cuộc tấn công phối hợp mà điện Kremlin là đạo diễn đang tìm cách giành quyền kiểm soát khu vực Đông Nam Á, điện Kremlin thúc đẩy một phần bởi một tham vọng có được các nguồn tài nguyên của Đông Nam Á và các tuyến giao thông, và ngăn chận chúng ta. Tuy nhiên, các lợi ích chính trị tích luỹ khi mà Liên Xô áp đặt được chủ nghĩa Cộng Sản lên toàn khu vực Đông Nam Á cũng không kém phần quan trọng. Sự lan rộng của cộng sản ở Trung Quốc tiêu biểu cho một thất bại đau thương cho chính trị của Hoa Kỳ: nếu khu vực Đông Nam Á cũng bị cộng sản tràn ngập, chúng ta sẽ phải chịu đựng một thất bại chính trị to lớn mà những dư chấn của nó sẽ được cảm nhận trong suốt phần còn lại của thế giới, đặc biệt là ở Trung Đông và sau đó là nguy cơ cho Úc. 11/
Điều chính xác là việc lan rộng của chính quyền cộng sản trên khắp nước Trung Hoa được đề cập trên đây đã dẫn đến việc nhấn mạnh về Đông Dương trong chính sách của Hoa Kỳ vào cuối năm 1949 và năm 1950.
Sau những chiến thắng Cộng sản Trung Quốc năm 1949 và quân đội Trung Cộng đã chuyển động đến biên giới Đông Dương vào tháng Mười năm đó, NSC 64 (07 tháng 2 1950) kết luận rằng Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc phòng cần ưu tiên chuẩn bị một chương trình bao gồm tất cả các biện pháp áp dụng thiết kế để bảo vệ lợi ích an ninh của Hoa Kỳ ở Đông Dương. 12/ Cùng ngày, 13/ sau khi Cộng sản Trung Quốc (ngày 18 tháng 1) và Liên Xô (ngày 30 tháng 1) công nhận của chế độ Hồ Chí Minh, 14/ Hoa Kỳ công bố công nhận của Chính phủ Bảo Đại. Đến lúc đó, Hoa Kỳ vẫn đứng giữa, lưỡng lự trước sự lựa chọn hoặc viện trợ cho Pháp là một nước bạn [nhưng] thực dân, tham gia vào việc tái lập quyền lực của họ, hoặc viện trợ cho Việt Minh, một phong trào đấu tranh dành Độc Lập do Cộng Sản chế ngự như thế sẽ đi vào thế chống đối lại đồng minh Châu Âu của mình. Tiến thoái lưỡng nan này đã được giải quyết bởi sự chiến thắng của Trung Cộng [phe Mao] đối với Trung Hoa Quốc Gia [phe Tưởng], và mối đe dọa [cộng sản hóa] ở Đông Dương. Chính sách viện trợ cho Pháp và các nước Đông Đương được coi là phù hợp trong việc xây dựng một nền dân chủ chống thực dân: viện trợ cho chủ nghĩa Dân Tộc và Độc Lập, đối kháng với những âm mưu bành trướng của Quốc Tế Cộng Sản.
2. "Đường ngăn chận" và "Lý thuyết Domino"
Logic trong sự thay đổi chính sách của Hoa Kỳ được tìm thấy không chỉ ở mối đe dọa trực tiếp tới khu vực Đông Nam Á bởi Cộng sản Trung Quốc (và Liên Xô), mà còn nằm trong một khái niệm chiến lược rộng lớn hơn của một phòng tuyến ngăn chận, và qua những sắp xếp lý luận ban đầu đã đưa đến ý niệm mà sau này được biết đến như "lý thuyết domino". Những thảo luận về phòng tuyến ngăn chận tập trung về nơi mà phòng tuyến đã được rút ra: Đông Dương, và, sau đó là Hàn Quốc, về phía của Thế Giới Tự Do. 15/ Khái niệm “domino” đã được Tướng Claire Chennault, một trong số nhiều người khác, khởi xướng, khi bàn cải liên quan đến Trung Hoa Quốc gia. 16/ lý thuyết “domino” áp dụng cho Đông Dương đã củng cố cho quyết định chỉ định nơi để vạch đường ngăn chận. Cả hai ý tưởng đã được thể hiện bởi các Tham Mưu Trưởng Liên Quân trong một bản ghi nhớ vào năm 1950 gửi đến Bộ trưởng Quốc phòng đánh giá "tầm quan trọng chiến lược, trên quan điểm quân sự của khu vực Đông Nam Á":
"c. Đông Nam Á là một phân đoạn quan trọng trong phòng tuyến ngăn chận Cộng Sản trải dài từ Nhật Bản về phía nam, và chung quanh bán đảo Ấn Độ... An ninh của ba khu vực lớn, chính, không cộng sản trong vùng này của thế giới - Nhật Bản, Ấn Độ và Úc – tùy thuộc rất lớn vào việc khu vực Đông Nam Á không bị mất vào tay Cộng Sản. Nếu khu vực Đông Nam Á bị mất, ba khu vực cơ bản này sẽ có xu hướng bị cách biệt với nhau;
"d. Sự sụp đổ của Đông Dương chắc chắn sẽ dẫn đến sự sụp đổ của các nước trên lục địa khác của khu vực Đông Nam Á...
"e. Sự sụp đổ của khu vực Đông Nam Á, sẽ dẫn đến ngăn cản hầu như hoàn toàn việc Hoa Kỳ tiếp cận vùng bờ biển Thái Bình Dương của châu Á...
"f. … Việc Liên Xô nắm giữ tất cả các con chủ bài chính trong cuộc chiến tranh tiềm năng ở Châu Á có thể trở thành một yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến cán cân quyền lực giữa Hoa Kỳ và Liên Xô...
"g. Một vị trí thống trị trên vùng Viễn Đông của Liên Xô cũng sẽ đe dọa vị trí của Hoa Kỳ tại Nhật Bản... tính khả thi trong việc giữ chân các cơ sở của Hoa Kỳ trên các hòn đảo ngoài khơi như vậy, có thể sẽ bị hủy hoại. 17/
Lý thuyết này, cho dù nhiều hay ít đã được hoàn toàn khớp nối, đã xuất hiện trong các tài liệu của NSC liên quan của thời kỳ chiến tranh Đông Dương, và là nguồn cội cơ bản của tất cả các quyết định chính sách chủ yếu của Hoa Kỳ đã được thực hiện liên quan đến khu vực.
Trong ngôn từ của NSC 64 (tháng Hai, 1950), "Sự hiện diện của quân đội Cộng sản Trung Quốc dọc theo biên giới Đông Dương đã làm cho việc vận chuyển vũ khí, vật liệu và quân đội một cách tự do từ Trung Cộng đến khu vực phía Bắc của Bắc Bộ, vùng lãnh thổ hiện nay được điều khiển bởi Hồ Chí Minh. Đã có những bằng chứng rõ ràng về việc chuyển vận vũ khí. " 19/ NIE 5 đã giữ lại một phần [bằng chứng], và sau đó quyết định giúp Pháp đã được xem xét lại, rằng: "Chế độ Cộng sản Trung Quốc đã trang bị, đào tạo, viện trợ kỹ thuật cho Việt Minh". Nguồn tin chính thức của Pháp báo cáo rằng một số lượng quân Trung Cộng đã xuất hiện ở Bắc Kỳ... 20/ Can thiệp trực tiếp của quân Trung Cộng có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Điều đó gần như chắc chắn sẽ xảy ra một cách mạnh mẽ một khi Việt Minh bị nguy hiểm hay thất bại trong việc loại Pháp ra khỏi Đông Dương, hoặc khi chính phủ Bảo Đại thành công trong việc phá vỡ sự ủng hộ [của dân chúng] cho Việt Minh. 21/ Báo cáo NIE 5 xuất hiện vào ngày 29 Tháng 12 năm 1950.
Mặc dù mối đe dọa can thiệp từ Cộng sản Trung Quốc đã được chờ đợi, việc này đã không lần nào lại đạt mức cường độ như thế và không lần nào trong thời gian còn lại của chiến tranh - xác suất được ước tính về sự can thiệp đó liên tục giảm sau công bố của NIE 5 – những ước tính trong suốt giai đoạn đó cho thấy Cộng sản Trung Quốc vẫn tiếp tục cung cấp vũ khí quân sự, trang thiết bị, và đào tạo cho Việt Minh, và sự tồn tại của tiềm năng can thiệp trực tiếp của Cộng sản Trung Quốc. [Trung Cộng] Tránh không có tham chiến trực tiếp để có thể tránh làm cho Việt Minh oán giận hoặc kháng cự lại sự can thiệp trực tiếp của Trung Quốc.
Tóm lại, Hoa Kỳ nhận thấy mối đe dọa lớn từ Trung Quốc tại thời điểm quyết định viện trợ cho Pháp và các nước Dông Dương được thực hiện; việc Cộng sản Trung Quốc có thể can thiệp tại thời điểm quyết định này được khẳng định là đánh giá có xác xuất cao, xác suất này sau đó đã giảm đi nhanh chóng, và nó nằm ở mức độ thấp trong thời kỳ chiến tranh Hàn Quốc. Người ta tin rằng người Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Minh trong suốt thời gian cuối năm 1949-1954.
4. Nhận thức về tình hình ở Việt Nam
Ngày 05 tháng Tư năm 1950, Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, đề cập về các thẩm định tình báo, đã đưa ra cho Bộ trưởng Quốc Phòng quan điểm của họ rằng "tình hình ở Đông Nam Á đã xuống cấp", và rằng, nếu tiếp tục "mà không có sự trợ giúp của Hoa Kỳ, sự suy giảm này sẽ còn tăng tốc." 22/ (Các hàm ý cho rằng viện trợ của Hoa Kỳ sẽ dẫn đến việc cải thiện tình hình hiện nay là không thể phát hiện được trong tuyên bố này mà câu cú chữ nghĩa đã được đưa ra một cách cẩn thận). Các Tham Mưu Trưởng còn đi đến nhận định rằng: "Nhìn chung, những điều kiện cơ bản về chính trị và kinh tế ổn định trong lĩnh vực này, cũng như các điều kiện về an ninh quân sự và nội an, là không đạt yêu cầu. Những yếu tố này có liên quan chặt chẽ với nhau, và chắc chắn rằng, từ quan điểm lâu dài của sự ổn định chính trị và kinh tế là yếu tố dẫn đạo. Mặt khác, tình hình quân sự ở một số khu vực, đặc biệt là Đông Dương, là khẩn cấp. "
NIE 5 là báo cáo đánh giá tình hình cao nhất về Việt Nam gần nhất vào thời gian mà Hoa Kỳ quyết định viện trợ Pháp và các nước Đông Dương. Đánh giá vị trí Pháp là đang bị đe dọa bởi Việt Minh một cách “khẩn cấp”, "và rất “mong manh." 23/ Kết hợp các chi tiết trong tài liệu này với các báo cáo và những chi tiết trong các tuyên bố và tài liệu tình báo cùng thời của Hoa Kỳ với NIE 5, các hình ảnh sau đây xuất hiện:
(3) Thiết bị - Pháp trong tình trạng ưu thế, nhưng Việt Minh đạt cải thiện do viện trợ của Trung Quốc.
(4) Tính di động - Việt Minh cơ động; Pháp bám quanh các trục lộ.
(5) Chiến lược - Pháp chiến lược thiếu tính tấn công, nặng phòng thủ, với các giá trị đáng nghi ngờ.
(6) Tình trạng của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam - về cơ bản là không có, "Pháp chỉ có một cơ may rất nhỏ để có thể duy trì vị trí quân sự của họ đủ lâu" 24/ để xây dựng một đội quân như vậy.
(7) Khả năng tương đối - nguy cơ một thất bại quân sự lớn của Pháp đối diện với Việt Minh ở Bắc Kỳ trong vòng 6-9 tháng. Việc này sẽ gây nguy hiểm cho Pháp trong phần còn lại của Việt Nam, Lào, và Campuchia.
Tài lực của Pháp bị chảy cạn, thực tế ít có hoặc không có chính phủ Quốc Gia nào lãnh đạo, chế độ Bảo Đại ít được lòng dân 25/, tình hình chính trị và kinh tế nói chung là yếu kém.
c. Mục tiêu của Pháp trong Việt Nam
Sự chậm chạp và kình chống của Pháp trong những năm qua trong việc tạo ra một chính phủ Việt Nam quốc gia và một quân đội quốc gia (ngày 08 tháng 3 năm 1949, thỏa thuận chỉ được Pháp phê duyệt [mấy tháng sau] vào ngày 02 tháng 2 năm 1950), và sự chậm chạm còn tiếp tục trong việc chuyển giao bộ máy hành chính cho người Việt Nam kiểm soát, đã cho thấy sự [Pháp] bỏ cuộc, từ bỏ mục tiêu thuộc địa, là miễn cưỡng.
d. Pháp quyết tâm duy trì tại Việt Nam
"... Có nhiều cơ sở để đặt vấn đề về ý định của Pháp là vẫn muốn ở lại Đông Dương." 26/ Như vậy, nhận thức của Hoa Kỳ về tình hình tại Việt Nam trong năm 1950 nói chung là ảm đạm, tuy đã có chút ánh sáng ở cuối đường hầm. Nay khi nhìn lại, nhận thức ấy có vẻ như hợp lý chính xác.
6. Quyết định Viện trợ cho Pháp và các nước Đông Dương
a. Pháp yêu cầu trợ giúp
Hoa Kỳ vội vã tham gia vào tình hình Đông Dương đang ảm đạm khi mà, vào ngày 16 Tháng 2 năm 1950, Pháp yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ quân sự và kinh tế để tiếp tục chiến tranh Đông Dương. Pháp đã gửi yêu cầu của họ sau khi quyết định "thông báo cho Chính phủ Hoa Kỳ một cách đầy đủ và thẳng thắn về tình hình cực kỳ nghiêm trọng ở Đông Dương..."
"Sự thật của vấn đề là các nỗ lực ở Đông Dương là làm tiêu hao Pháp đến mức là cần thiết phải có một chương trình viện trợ dài hạn và nó chỉ có thể đến từ Hoa Kỳ. Nếu không... rất có khả năng Pháp có thể bị buộc phải xem xét lại chính sách của mình với quan điểm là cắt giảm tiêu hao và rút khỏi Đông Dương... nhìn vào tương lai rõ ràng là... Pháp không thể tiếp tục vô thời hạn để chịu gánh nặng này một mình nếu các viện trợ [từ Trung Cộng] cho Hồ Chí Minh dự kiến vẫn tiếp tục tăng... Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, hiện nay Chính phủ Pháp cũng phải đối mặt với nhu cầu cắt giảm các lực lượng Pháp ở Đông Dương ít nhất 25.000 người không chỉ vì lý do ngân sách, nhưng bởi vì số người cần thiết đã được bổ sung vào các chương trình quốc gia của quân đội Pháp. " 27/
Tuy nhiên, trong lời kêu gọi viện trợ này, che đậy bằng một tấm màn mỏng mong manh các luận điệu mạnh mẽ về việc rút quân [Pháp] và việc bảo vệ Châu Âu (một ngày sau khi quan hệ [Ngoại Giao] Hoa Kỳ-Bun-ga-ri bị cắt đứt), được kèm theo một mong muốn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của Hoa Kỳ đòi Pháp phải tuyên bố về sự "tiến hóa tự nhiên" của các chính phủ các nước Đông Dương, hoặc nếu không, Pháp cần phải làm sáng tỏ ý định của mình đối với Đông Dương.
Ngày 27 tháng 2, báo cáo của Bộ Ngoại Giao về lập trường của Hoa Kỳ đối với Đông Dương đã được nộp cho Hội Đồng An Ninh Quốc gia để xem xét. Ban hành ngày 27 tháng 2, báo cáo NSC 64 kết luận rằng:
"10. Điều quan trọng đối với lợi ích an ninh của Hoa Kỳ rằng tất cả các biện pháp khả thi phải được thực hiện để ngăn chận việc tiếp tục mở rộng của Cộng sản ở Đông Nam Á. Đông Dương là một khu vực quan trọng của Đông Nam Á và ngay lúc này đang bị đe dọa."11. Các nước láng giềng là Thái Lan và Miến Điện dự kiến là sẽ rơi vào vòng thống trị của Cộng Sản nếu Đông Dương có một chính phủ bị Cộng sản kiểm soát. Sự cân bằng của khu vực Đông Nam Á sau đó sẽ bị mối nguy hiểm nghiêm trọng.
"12. Vì vậy, Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc phòng nên chuẩn bị, như là một vấn đề ưu tiên, một chương trình gồm tất cả các biện pháp khả thi được thiết kế để bảo vệ lợi ích an ninh của Hoa Kỳ ở Đông Dương. 28/
Để "tạo điều kiện" cho Bộ Quốc phòng trong việc xem xét quyết định NSC 64, Phó Bộ Trưởng Ngoại giao Dean Rusk đã cung cấp cho Thiếu Tướng James H. Burns OSD một bản tóm lược về Chính sách của Bộ Ngoại Giao về Đông Dương và Đông Nam Á:
“Bộ Ngoại Giao tin rằng, trong những hạn chế bị áp đặt bởi các cam kết hiện có và các ưu tiên chiến lược, các nguồn lực của Hoa Kỳ nên được triển khai để bảo vệ Đông Dương và Đông Nam Á chống lại sự xâm lấn thêm nữa của Cộng Sản. Vì vậy, Bộ Ngoại giao đã đưa ra tất cả các nguồn tài nguyên chính trị của mình để bảo đảm cho mục tiêu đó. Bộ Ngoại Giao hiện đang trong quá trình khẩn trương tìm ra thêm các nguồn lực kinh tế để xử dụng chúng một cách hửu hiện vào các hoạt động tương tự.
"Hiện nay, theo ý kiến của Bộ, vấn đề có tính khẩn cấp lớn nhất mà Bộ Quốc Phòng cần đánh giá các khía cạnh chiến lược của tình hình và xem xét, từ quan điểm quân sự, bằng cách nào tốt nhất Hoa Kỳ có thể góp phần trong việc chống lại lấn chiếm hơn nữa của Cộng sản trong khu vực đó ". 29/
Trong một bản ghi nhớ gửi cho Tổng thống ngày 06 Tháng 3 năm 1950, Bộ Trưởng Quốc phòng mô tả những chọn lựa cho Hoa Kỳ như sau:
"Người Pháp không thể hủy bỏ cam kết của họ ở Đông Dương và việc viện trợ ba nước Đông Dương là một động thái nhằm đạt được sự ổn định chính trị không cộng sản... Cái lựa chọn mà Hoa Kỳ phải đối đầu hoặc là viện trợ cho các chính phủ hợp pháp ở Đông Dương hoặc phải đối mặt với sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản trên phần còn lại của khu vực lục địa Đông Nam Á và có thể [cả các khu vực] về phía Tây… 30/
b. Đoàn Công Tác Griffin
Trong khi chờ đợi quan điểm chính thức của các Tham Mưu Trưởng Liên Quân và các Bộ quân sự [Hải, Lục, Không Quân] về lựa chọn của họ đối với các lựa chọn được đưa ra, 31/ Bộ Ngoại Giao gửi đến Viễn Đông Đoàn Công Tác Griffin có nhiệm vụ điều tra khảo sát để "phỏng chừng giá phí của các viện trợ cần thiết " 32/ ở Đông Dương (trong số các nước khác). Khi đoàn khởi hành lên đường, 5 tháng đã trôi qua kể từ khi phe Quốc Gia ở Trung Hoa bại trận, và đứng đầu là phó Trưởng đoàn Cơ Quan Viện Trợ Hoa Kỳ ở Trung Hoa đại lục, có lẽ Đoàn Công Tác Griffin là nhắm đến việc tránh cho Bộ Ngoại giao bị chỉ trích nhiều hơn nữa về chính sách Châu Á của họ cũng như làm thế nào để xác định được các nguồn lực kinh tế của Hoa Kỳ có thể được sử dụng hiệu quả ở khu vực Đông Nam Á.
Ngày 22 tháng 3, báo cáo của đoàn công tác Griffin đề nghị Hoa Kỳ viện trợ cho một chương trình phục hồi chức năng nông thôn, cung cấp số lượng hạn chế hàng hóa và thiết bị công nghiệp, và một chương trình viện trợ kỹ thuật. Những biện pháp này được ước tính trị giá $ 23.500.000 cho giai đoạn cho hết tháng Sáu, 1951. Đoàn công tác cũng đề nghị một "cú sốc tâm lý với những chuyến tầu chở vật liệu viện trợ quân sự trong tương lai ngay lập tức" 33/ như một biện pháp để nhấn mạnh sự cam kết của Hoa Kỳ với những người đang trong bối cảnh đó.