---–Nguyễn Quốc Vĩ dịch: Tải về Phần IV- A3 (5)-
6. Hành động của Washington: (một lần nữa) hỗ trợ Diệm
Washington sốt sắng đáp ứng sự thành công của Diệm, mặc dù là hời hợt. [Sứ quán Hoa Kỳ tại] Sài Gòn đã được báo là bỏ qua công điện trước đó của Dulles về việc Hoa Kỳ sẵn sàng xem xét một sự thay đổi trong chính phủ. Cuối cùng thì chính sách đã không thay đổi: Hoa Kỳ [tiếp tục] ủng hộ Diệm. Đại sứ quán [Hoa Kỳ tại] Sài Gòn thiêu hủy công điện đầu tiên. 127/
7. Diệm và những người chống Bảo Đại
Được phấn chấn về việc ra mặt chống lại Bảy Viễn, Diệm đã phớt lờ lệnh của Bảo Đại triệu tập gửi Diệm vào ngày 28 tháng 4 … Hoàng đế ra lệnh cho Diệm và Tướng Tỵ qua gặp ông ở Cannes, bổ nhiệm Tướng Vỹ, người có cảm tình với Bình Xuyên, phụ trách quân đội và phái Tướng Hinh về Sài Gòn với các hướng dẫn riêng của Bảo Đại. 128/ Diệm từ chối rời Sài Gòn, từ chối không cho Tướng Vỹ nhận lệnh chỉ huy, từ chối không cho phép Hinh được vào Việt Nam. 129/
On April 30, một biến chuyển mới xuất hiện. Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia được công bố. Được hỗ trợ của hai Tướng Cao Đài Phương và Thế, Tướng Ngô của Hòa Hảo, các chính trị gia chờ thời khác; Hội Đồng Cách Mạng mới này tuyên bố họ đại diện cho hầu như tất cả các đảng phái chính trị ở miền Nam Việt Nam. Hội Đồng Cách Mạng tuyên bố truất phế Bảo Đại, giải tán chính phủ hiện tại và yêu cầu Diệm thành lập một chính phủ mới và bầu ra một Quốc Hội Lập Hiến. 130/
Diệm tiếp nhận chương trình của Hội Đồng Cách Mạng, đặc biệt là kể từ khi Nhu em trai của ông đã có một bàn tay trong việc soạn thảo ra nó. Có thể ông không phải là người có đầu óc tiếp thu như một số các thành viên hoạt động khác của Hội Đồng Cách Mạng, tuy nhiên, hầu hết mọi người đều tham gia vào Hội Đồng Cách Mạng. Tướng Trịnh Minh Thế và Tướng Phương tâm sự với Lansdale:
Hội Đồng Cách Mạng là thoát thai từ tổ chức Mặt trận Nhân Dân Cách mạng mà Nhu em trai Diệm đã cố gắng tổ chức một vài ngày trước đó; họ đã nghe theo tư vấn (của SMM 's) [SMM: Saigon Military Mission tức Phái Bộ Quân Sự Saigon của Hoa Kỳ] và tham gia với Nhu trong Mặt Trận nhưng đã không hài lòng với một số các tổ chức yếu mà họ cảm thấy Nhu bị tùy thuộc vào, do đó, đã tổ chức một cái gì đó năng động hơn để đáp ứng các mối đe dọa của Vỹ và Bảo Đại và họ đã tự gọi mình là Hội Đồng Cách Mạng. Họ muốn Bảo Đại bị truất phế và muốn Pháp để chấm dứt can thiệp vào các vấn đề của Việt Nam. 131/
Hỗ trợ , mặc dù có vẻ bất ngờ, đã giúp ông Diệm về chính trị tại Việt Nam và tại Hoa Kỳ. Về quân sự, ông đã không bao giờ thực sự bị đe dọa bởi Bảo Đại và các Tướng Vỹ, Hinh (những người không bao giờ có thể thi hành được lệnh đặc biệt của Bảo Đại). Quân đội Quốc Gia mạnh hơn so với những gì mà Pháp và Hoa Kỳ đã nghĩ và họ từ chối tuân lệnh Tướng [Nguyễn Văn] Vỹ. Những tình tiết sau đây, Tướng Tỵ và Đại Tá Trần Văn Đôn đã kể cho Lansdale nghe là sau khi họ bị bắt tạm thời bởi Tướng Vĩ, đã minh họa điều này. Tướng Vỹ khoe khoang về việc ông có thể có được bất cứ điều gì mà ông muốn từ người Pháp. Tỵ và Đôn yêu cầu ông ta để chứng minh điều đó. (Họ)... yêu cầu ông ta [Vỹ] gọi người Pháp và yêu cầu giao các xe bọc thép mà người Pháp đã giữ lại tại Biên Hòa quá lâu mà không chịu cung cấp cho quân đội Việt Nam. Pháp đã nhanh chóng cho một số xe [bọc thép] chạy về nhà của Hinh (trụ sở chính của Vỹ), rõ ràng là xe đã bị [Pháp] sắp xếp giữ lại bên ngoài thành phố cho những trường hợp khẩn cấp này. Nơi đây, quân lính đã nhận và lái đưa xe vào cuộc chiến tấn công lại Bình Xuyên. Đôn cho biết người Pháp vẫn chưa biết chuyện gì đã xảy ra, vẫn nghĩ rằng Vỹ sẽ sử dụng xe thiết giáp để mang đưa quân đội vào việc ngừng tấn công Bình Xuyên và trung thành với Bảo Đại. Đôn thêm rằng quân đội cùng cảm nghĩ như Ủy Ban Cách Mạng: Bảo Đại coi như hết thời" 132/ Tướng Vỹ rút lui về Đà Lạt (với lính Ngự Lâm Quân của Bảo Đại), và sau đó đã rời khỏi đất nước.
Trong những ngày này, Tướng Ely đã tỏ ra bị thuyết phục nhiều hơn là Diệm không những chỉ vô trách nhiệm, mà còn là khá điên. Ely sợ việc đánh nhau sẽ lây lan qua khu vực của người Âu Châu, nhưng cũng không thể giành được sự ủng hộ của Hoa Kỳ hay Anh cho một nỗ lực để áp đặt lệnh ngừng bắn. Kidder, Đại biện Sứ Quán Hoa Kỳ cảm thấy bản thân Ely đang đến gần sự cuồng loạn và sự tham gia đầy cảm xúc của ông sẽ gây tổn hại hơn là giúp ích cho Pháp hoặc Hoa Kỳ. 133/ Linh cảm của Ely về bạo lực [xảy ra] giữa các lực lượng Việt Nam và Pháp đã chứng minh là vô căn cứ. Nhưng bạo lực đã đồng hành với Diệm với trận tấn công cuối cùng chống lại Bình Xuyên đã mở ra ngày 2 tháng Năm khi quân đội Việt Nam vượt qua kinh Tầu Hủ và tấn công lực lượng Bảy Viễn ở Chợ Lớn. Qua ngày kế tiếp, hầu hết các lực lượng Xuyên Bình đã bị đuổi vào khu đầm lầy Rừng Sát.
Khi Collins trở lại Sài Gòn, ông đã thúc giục Diệm phải kiểm soát Hội Đồng Cách Mạng (Collins, đa số người Pháp và tình báo Pháp nghĩ rằng Việt Minh đã thâm nhập vào tổ chức này từ trước, họ sợ Diệm sẽ trở thành tù nhân của họ nếu ông ủng hộ họ quá mạnh mẽ). Collins muốn Diệm thành lập lại chính phủ và tiến hành các cải cách, để vấn đề Bảo Đại lại cho một quốc hội mới được bầu. 135/ Diệm theo lời khuyên này. Ông đã mời khoảng 700 đại diện tư vấn được bầu từ 39 tỉnh để xem xét tính hợp pháp của Bảo Đại. Một Hội Đồng gồm 50 đại biểu tư vấn đã soạn thảo một chương trình yêu cầu Bảo Đại trao lại tất cả các quyền lực dân sự và quân sự cho Diệm để Diệm thi hành chúng cho đến khi một Quốc Hội được thành lập trong vòng sáu tháng để xây dựng một Hiến Pháp. 136/
8. Cuộc họp ba bên vào tháng Năm
a. Dulles ủng hộ Diệm
Vào thời gian này, Pháp, Hoa Kỳ và Anh đã gặp lại một lần nữa ở Paris. Phiên họp ba bên đã được tổ chức để thảo luận về các vấn đề Quốc phòng của Châu Âu nhưng Việt Nam là chủ đề thực sự. Lập trường của cả Bộ Trưởng Ngoại Giao Dulles và Thủ tướng Pháp Edgar Faure (người đã kế nhiệm Mendes-France vào tháng Hai năm 1955) về Diệm đã trở nên cứng rắn. Dulles nhấn mạnh rằng ông giữ vững lập trường:
Diệm là con đường duy nhất mà Hoa Kỳ nhìn thấy để bảo toàn Nam Viet Nam và chống lại (các) phong trào cách mạng đang tiến hành ở Việt Nam. Hoa Kỳ thấy không ai khác có thể làm chuyện đó. Bất kể cái nhìn thế nào của Hoa Kỳ trong quá khứ, Hoa Kỳ hiện nay phải hết lòng hỗ trợ Diệm. Hoa Kỳ không được cho phép Diệm trở thành một Karensky. [nói về chiến dịch Karensky năm 1918 ở Nga, xem http://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%E1%BB%99c_t%E1%BB%95ng_t%E1%BA%A5n_c%C3%B4ng_c%E1%BB%A7a_Kerensky]
... Bảo Đại... đã không còn năng lực để làm bất cứ điều gì, nhưng trên danh nghĩa lại đứng đầu chính phủ.... Cao Đài và Hòa Hảo có thể được sử dụng nhưng không thể với Bình Xuyên.... Với sự hỗ trợ (của Pháp và Hoa Kỳ) Diệm có thể đứng đầu cho cuộc cách mạng. Diệm là lực lượng cân bằng duy nhất. Quân Viễn chinh Pháp có một ảnh hưởng ổn định nhất định. Hoa Kỳ đã được đưa ra chi phí để hỗ trợ quân đội Việt Nam và không thể nhìn thấy bất cứ ai khác để cung cấp chi phí cho họ cho mục đích đó ngoại trừ ông Diệm.
...Quan điểm của Hoa Kỳ xem cuộc cách mạng hiện nay là chưa bi thống trị hoặc chịu ảnh hưởng của Cộng sản với bất kỳ mức độ đáng kể nào... Hỗ trợ cho chính quyền Diệm không có nghĩa là Hoa Kỳ không công nhận những điểm yếu của Diệm. Hoa Kỳ... đã và vẫn sẵn sàng hỗ trợ bất cứ người nào khác, những người có thể được đưa ra theo trình tự của pháp luật. (Dulles) nhận xét rằng ngay trước khi bùng nổ chuyện đánh nhau [giữa quân đội và Bình xuyên], Hoa Kỳ đã chuẩn bị để xem xét một lựa chọn thay thế nhưng bây giờ ông không chắc chắn việc này có còn thực tế hay không... Nếu có một người nào tốt hơn Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng để xem xét, nhưng...không một ai được đề xuất. Mặc dù Collins đã đạt được thỏa thuận với Ely vào đầu tháng Tư để thay Diệm, ông tin rằng chúng ta phải ủng hộ ông ấy [tức Diệm]. 137/
b. Lập trường của Pháp
Bộ trưởng Pháp La Forest đã khai mạc cuộc họp bằng cách đưa ra việc tham vấn (dự kiến vào tháng Bảy) giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam về cuộc bầu cử. Ông cho biết Pháp cảm thấy miền Nam Việt Nam có thể giành chiến thắng trong cuộc thi nếu nó đã được kiểm soát bởi một "chính phủ dân tộc, ổn định và đại diện rộng rãi" và Pháp muốn miền Nam Việt Nam giành chiến thắng.
Không có sự mập mờ nào trong chính sách của Pháp giữa Bắc và Nam Việt Nam. Sự hiện diện của Pháp ở Bắc không thể bị xoá bỏ đi bởi một nét ký của cây bút. Pháp có nhiệm vụ bảo vệ sự hiện diện văn hóa và kinh tế của mình ở đó. Nhiệm vụ của Sainteny là được thiết kế cho mục đích duy nhất đó. Pháp đã từ bỏ ý tưởng của các công ty hỗn hợp là do hậu quả (Hoa Kỳ) phản đối và bây giờ đã đầu hàng với các mỏ than...
La Forest trình bày phân tích các sự kiện của Pháp trong vòng bốn tháng qua. Trong khi Hoa Kỳ không có thể tranh luận gì về những sự việc [mà La Forest] đưa ra, Hoa Kỳ cũng không thể chấp nhận diễn giải của LaForest trên những sự việc đó. Sự khác biệt giữa hai quốc gia trên cơ bản là hơn bất cứ lúc nào trong quá khứ.
… Pháp đã trung thành ủng hộ chính quyền Diệm ngay từ đầu. Bất kỳ cáo buộc ngược lại là không đúng sự thật...Pháp đã đạt được thỏa thuận với Hoa Kỳ vào cuối tháng Mười Hai nhằm thuyết phục ", ép buộc" Diệm mở rộng chính phủ. Nó đã được đồng ý để cho ông ta cho đến tháng Giêng; lúc đó, nếu ông ta đã thất bại, chúng ta sẽ xem xét vấn đề thay thế kín đáo. Điều này đã không được thực hiện. Tháng Ba vừa qua chính phủ hiện nay đã đi vào xung đột với những giáo phái. Mặt Trận các giáo phái đã được thành lập để chống lại Diệm. Thỏa thuận tháng Mười Hai và lương tri, cả hai đều nói với chúng tôi tại thời điểm đó, một cái gì đó (đã có) phải được thực hiện để tránh nội chiến... Vì lý do này, phương án chung của Ely-Collins đã được cố gắng [thực hiện]. Người ta hy vọng họ sẽ đi đến kế hoạch chung cho giải pháp. Washington xuất hiện đầu tiên để chào đón khái niệm này sau đó đã đổi ý. Collins rời Sài Gòn khi cuộc nội chiến đang trong lúc sắp nổ ra. Một thỏa thuận ngưng bắn bấp bênh đã được tuyên bố. Khi thỏa thuận sắp hết hạn Bảo Đại gửi kế hoạch cũ của mình...để cố gắng hòa giải [thuyết phục] Hoa Kỳ và Pháp hành động nhưng không thành công. Hoa Kỳ không trả lời Bảo Đại. Trong khi Collins vắng mặt ở Sài Gòn, Bảo Đại đã hành động.
La Forest tiếp tục...rằng Hội Đồng Cách Mạng mới dường như nắm được quyền kiểm soát. Hội Đồng này đang dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Việt Minh... là chiến dịch bạo lực chống lại quyền kiểm soát của quân viễn chinh Pháp và người Pháp. Cán bộ Việt Minh đã tận dụng tốt nó và một số người Mỹ dường như nhận thức không đủ về điều này. Chính phủ Pháp không muốn hoạt động của quân đội của mình sẽ trở thành nền tảng cho Việt Minh tuyên truyền. Quân đội [Pháp] sẽ không được duy trì với bất cứ giá nào... 138/
c. Faure: Rút khỏi Liên minh Hoa Kỳ-Pháp
Sau đó, M. Faure phát biểu ý kiến, nói Pháp không đồng ý với Hoa Kỳ và rằng đây là lúc để nói chuyện thẳng thắn. Ông Diệm là "không chỉ là người không có khả năng mà còn là người điên," ông đã lợi dụng sự vắng mặt của Collins để thực hiện một "cú vũ lực để giành một chiến thắng nhỏ nhoi, nhưng không góp phần gì vào bất kỳ giải pháp lâu dài nào" và "Pháp không còn có thể chấp nhận gánh rủi ro cùng với ông ta. "Diệm sẽ mang lại một chiến thắng cho Việt Minh, tập trung sự thù nghịch của tất cả mọi người lên trên Pháp và sẽ buộc gây ra sự đổ vỡ giữa Pháp và Hoa Kỳ.
Faure kết thúc với tuyên bố quan trọng này.
Diệm là một sự lựa chọn xấu, một giải pháp bất khả thi, không có cơ hội để thành công và không có cơ hội để cải thiện tình hình. Nếu không có ông ta, một số giải pháp là có thể, nhưng với ông ta là không thể có. Tuy nhiên, tôi không thể đảm bảo là có bất kỳ giải pháp nào khác sẽ làm chạy việc hay một giải pháp nào khác có thể làm cho tình hình trở nên sáng sủa. Dường như đấy là nền tảng bất đồng giữa chúng ta. Tôi đã có thể tuyên bố rằng khi mà vị trí của Pháp là yếu tố chủ đạo tại Việt Nam, ngài [Dulles] nên thích ứng quan điểm của ngài với chúng tôi, nhưng tôi đã từ chối điều này. Những gì nên được thực hiện trong hoàn cảnh [hiện nay]? Ngài sẽ nói gì nếu chúng tôi sẽ rút hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và đưa quân Viễn chinh về nước càng sớm càng tốt. Tôi hoàn toàn nhận ra điều này sẽ là một giải pháp nghiêm trọng, vì nó sẽ để thường dân Pháp ở lại và đưa lợi ích của Pháp vào một vị trí khó khăn...Nếu ngài nghĩ rằng điều này là một giải pháp có thể, tôi nghĩ rằng tôi có thể định hướng bản thân mình đối với nó nếu ngài đồng ý như vậy. Điều có lợi là tránh được tất cả sự chỉ trích vào "chủ nghĩa thực dân" của Pháp cùng lúc đáp ứng với yêu cầu của Diệm rằng Pháp nên ra đi. Kể từ khi đứng nhìn việc thanh lý tình hình và việc hồi hương của quân Viễn chinh, liệu Hoa Kỳ chịu đứng ra giúp bảo vệ thường dân Pháp và những người tị nạn? 139/
Ngoại trưởng Dulles nhắc lại nhận thức của ông về những điểm yếu của Diệm, nhưng đã không đồng ý với ý kiến của Faure. Diệm "cho thấy là có khả năng rất nhiều, điều mà Hoa Kỳ thấy không phải biết làm thế nào để loại ông ta bây giờ... Diệm đã mạnh hơn so với khi bị Bảo Đại lần đầu tiên truất quyền ông ấy." Dulles cho biết khía cạnh tồi tệ nhất của vấn đề là sự khác biệt giữa Pháp và Hoa Kỳ: "Việt Nam không đáng để [Hoa Kỳ] cãi nhau với Pháp." Sau đó, ông đối ứng với đề nghị của Faure bằng cách nói rằng Hoa Kỳ sẽ rút khỏi Việt Nam nếu điều này có thể giải quyết vấn đề.
Lựa chọn còn lại cho chúng ta là hỗ trợ Diệm hoặc rút... Lợi ích của Hoa Kỳ tại Việt Nam chỉ đơn giản là giữ lại vùng đất khỏi lọt vào tay cộng sản. Hoa Kỳ sẽ xem xét thực hiện bất cứ đề nghị nào của Pháp, nhưng phải cảnh báo rằng hỗ trợ tài chính của Hoa Kỳ có thể không được dự kiến cho bất kỳ giải pháp nào mà (Dulles) nghĩ rằng là để thay Diệm. 140/
Ngoại trưởng MacMillan, kêu gọi lợi ích của Anh là gián tiếp nhiều hơn nhưng dù sao cũng rất quan trọng bởi vì (1) lợi ích của chính khu vực đó và (2) sự quan ngại về mối đe dọa Cộng sản trong bất kỳ khu vực nào trên thế giới ", đã tuyên bố rõ ràng rằng một quyết định về Việt Nam là quá nghiêm trọng để hoàn tất thực hiện tối hôm đó. Faure và Dulles đã đồng ý. 141/
d. Dulles: Tiếp tục với Diệm - nhưng độc lập với Pháp
Vào ngày 1 tháng Năm, khi ba Bộ trưởng gặp lại; Dulles đã nhận được tư vấn từ Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân và Tướng Collins. Như thường lệ, Tham Mưu Trưởng Liên Quân không đưa ra ý kiến về việc liệu Diệm nên ở hay không nên tiếp tục (một vấn đề thuộc "việc giải quyết ở cấp chính phủ") nhưng sau đó tuyên bố chính phủ của Diệm đã cho thấy triễn vọng "lớn nhất trong việc đạt được sự ổn định nội bộ cần thiết đối với an ninh của Việt Nam trong tương lai ". Giải quyết các khía cạnh quân sự của vấn đề, các Tham Mưu Trưởng thấy rằng cả việc Pháp rút Quân đoàn viễn chinh lẫn việc Hoa Kỳ rút hỗ trợ quân sự là không chấp nhận được. Quân đội Quốc gia Việt Nam được coi là không có khả năng duy trì an ninh nội bộ, thậm chí ít có khả năng chống lại sự xâm lăng của bên ngoài mà không cần sự trợ giúp quân sự từ bên ngoài. Hoa Kỳ đã bị cấm bởi Hiệp Định Genève không thể tăng lực lượng của mình, hoặc để bảo vệ Việt Nam hoặc để bảo vệ thường dân Pháp, công dân nước ngoài hoặc người tị nạn khác. Như vậy, mặc dù việc rút quân Viễn chinh Pháp là "việc cuối cùng để mong muốn," việc cấp bách thu hồi tại thời điểm này lại là điều không nên: “hậu quả là sẽ đưa đến một tình huống không ổn định và bấp bênh" và cuối cùng là sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam vào tay cộng sản.
Các Tham Mưu Trưởng cảm thấy Pháp một mình sẽ không thể ổn định được tình hình, quân đội Việt Nam sẽ sụp đổ mà không có "hỗ trợ tinh thần và trang thiết bị của Hoa Kỳ," và "lợi ích tốt nhất của Pháp cũng như của Hoa Kỳ" là hành động mạnh mẽ nhằm đảm bảo việc phục hồi an ninh nội bộ và ngăn chặn miền Nam Việt Nam khỏi thiệt hại cho thế giới Tự Do. 142/
Tướng Collins cũng phản đối việc Pháp rút quân vì ba lý do: thứ nhất, FEC chịu trách nhiệm theo Hiệp ước Manila để bảo vệ Đông Dương và cả Hoa Kỳ hay Anh đã được chuẩn bị để đảm nhận trách nhiệm đó. Thứ hai, hỗ trợ của quân đội Pháp (hỗ trợ hậu cần và đào tạo) là điều cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng Việt Nam. Thứ ba, mặc dù sự hiện diện của quân đội Pháp là một nguồn của sự cay đắng cho người Việt Nam, Tướng Collins tin FEC là một yếu tố ảnh hưởng tạo ổn định về chính trị cho Việt Nam. 143/
Những đề nghị của Dulles đưa ra cho Faure ngày 11 tháng Năm phản ánh những phán đoán này. Nhấn mạnh rằng Đông Dương, dù tầm quan trọng của nó, không được phép làm tổn hại quan hệ Pháp-Hoa Kỳ, sự ủng hộ của Hoa Kỳ dành cho Diệm không được cho phép để phân chia các Liên Minh, Dulles đề nghị rằng Pháp tiếp tục hỗ trợ Diệm cho đến khi Quốc Hội có thể được bầu để xác định cấu trúc chính trị cuối cùng của miền Nam Việt Nam, một cấu trúc mà có thể hoặc không có thể có Diệm.144/
Chống lại quan điểm riêng của chính mình, chống lại ý kiến của công chúng Pháp và với một số điều kiện nhất định, Faure đã chấp nhận đề nghị. Thủ tướng Chính phủ [Pháp] nhấn mạnh việc chính quyền Diệm được mở rộng, các cuộc bầu cử được tổ chức càng sớm càng tốt, vấn đề giáo phái được giải quyết, ngừng tuyên truyền chống Pháp, Bảo Đại được giữ lại như như người đứng đầu nhà nước, các quan chức Pháp và Hoa Kỳ bị coi là gây bối rối cho hài hòa Pháp-Hoa Kỳ phải được rút khỏi Việt Nam (Lansdale, là một) và rằng Hoa Kỳ đảm bảo với ông là quan hệ kinh tế, văn hoá, tài chính Pháp ở miền Nam Việt Nam sẽ được nuôi dưỡng. Đồng ý với những điều khoản này, Dulles cho biết thêm là Diệm không phải là một con rối của Hoa Kỳ và ông không thể đảm bảo các điều kiện liên quan đến hành động từ phía Việt Nam sẽ được đáp ứng. Sau đó, [Dulles] nói rằng vấn đề ở Việt Nam tự nó không phải là một hợp đồng được thỏa thuận giữa Pháp và Hoa Kỳ, Dulles đề nghị mỗi bên cần nêu rõ chính sách của mình và tiến hành cho phù hợp. Trong thực tế, Dulles cho biết, những ngày của chính sách chung là chấm dứt, Hoa Kỳ sẽ hành động độc lập (hơn nữa) với Pháp trong tương lai. 146/
Tại Việt Nam, Diệm đã làm rất tốt. Ông đã dứt điểm phe Bình Xuyên, Quân Đội hài lòng với thành công của họ chống lại Bảy Viễn, hỗ trợ Diệm và thay vì thừa cơ hội tiếp tục cuộc chiến chống lại các quân đội giáo phái còn lại. Diệm đã phát động một chiến dịch chống lại các quân đội giáo phái ngày 8 tháng Năm, để giành lại quyền kiểm soát các tỉnh bướng bỉnh và củng cố quyền kiểm soát của Sài Gòn trên toàn nước. Hoa Kỳ, một lần nữa, đã cung cấp những hỗ trợ đủ mọi mặt cho Diệm và người Pháp, một lần nữa, miễn cưỡng ủng hộ ông. Bảo Đại là một mối đe dọa nhỏ, việc ông cố gắng lật đổ Diệm đã là một sai lầm và lòng dân của ông là rất thấp. Vào ngày 10 tháng 5, một nhóm "nhà kỷ trị" tương đối không tiếng tăm đã được bổ nhiệm trong nội các của ông Diệm, hoạt động cho đến khi có cuộc bầu cử quốc hội (tổ chức vào ngày 04 tháng Ba 1956). Tướng Collins rời Việt Nam vào ngày 14 tháng 5, Đại sứ G. Frederick Reinhardt thay thế ông trong cùng tháng. On June 2, nhiệm vụ của Tướng Ely chấm dứt. Tướng Jacquot nhận chức Toàn Quyền Quân Sự, một nhiệm vụ bao gồm chủ yếu là việc giám sát việc rút quân Pháp về nước, tốc độ ngày càng nhanh chóng.
F. Sự hiện diện không rõ ràng của Pháp tại Việt Nam
Mặc dù đã nhượng bộ chính trị cho Hoa Kỳ vào tháng Năm và các hoạt động kinh tế và quân sự thực hiện trước và sau thời điểm này đã làm giảm - gần như bị loại bỏ - sự hiện diện và ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam. Pháp vẫn còn bị ràng buộc phải thực hiện các quy định trong Hiệp định Genève. Dưới áp lực ngày càng tăng từ dư luận Pháp để làm cho Hà Nội không có lý do để tái phát động chiến tranh trong bao lâu mà Quân viễn chinh Pháp vẫn còn ở lại miền Nam Việt Nam, Chính phủ Pháp khẩn trương tìm cách thuyết phục ông Diệm chấp nhận tham vấn [với VNDCCH] về cuộc tổng tuyển cử dự kiến sẽ bắt đầu vào tháng 7 năm 1955. 146/ Anh muốn ngăn chặn bất kỳ thoái thác công khai nào về Hiệp Định và tham gia cùng Pháp đôn đốc Diệm nói chuyện với Việt Minh. Nhưng Diệm đã không thay đổi quan điểm của ông về Hiệp Định: ông đã từ chối ký nó và tiếp tục khăng khăng là ông không bị ràng buộc bởi nó. 147/
Hoa Kỳ đứng giữa hai thái cực. Một dự thảo chính sách đối với cuộc Tổng tuyển cử trên toàn cõi Việt Nam - cuối cùng đã hoàn tất vào tháng năm 1955 – bị cho rằng nó đã được đưa ra để không ấn tượng là cuộc bầu cử đã bị chặn trong khi có thể tránh bị mất [loại bỏ] nó), trong khi đó Diệm nhấn mạnh cuộc bầu cử tự do phải bằng cách bỏ phiếu kín với sự giám sát nghiêm ngặt. Cộng Sản Bắc Hàn và Đức đã từ chối những điều kiện này, hy vọng Việt Minh sẽ được thuận lợi. 148/
Diệm không thể ngồi xuống [bàn thảo] với Việt Minh. Việc xuất hiện để tham vấn tự nó sẽ được diễn giải là đã chấp nhận giải quyết Genève, tham khảo ý kiến với Việt Minh mà không có sự ủng hộ của phương Tây như Rhee [đại diện Bắc Hàn] và Adenouer [đại diện của Đông Đức] sẽ là vô ích. 149/ Ngày 16 Tháng 7, Diệm nói rằng miền Nam Việt Nam có thể "không xem xét bất kỳ đề nghị nào từ những người Cộng sản" mà không có bằng chứng rằng họ đã sửa đổi cách làm của họ và đã được chuẩn bị để tổ chức bầu cử thật sự tự do. 150/ Tuy nhiên, một lý do khác là Diệm tin rằng ông không thể đại diện cho một quốc gia có chủ quyền -- hoặc được miễn nhiễm với tuyên truyền của Việt Minh là ông chỉ là một con rối của thực dân - cho đến khi nào Bộ Tư lệnh Pháp và quân viễn chinh Pháp đã ra đi. 151/ Bộ Trưởng Nguyễn Hữu Châu đã được cử đi Paris để thương lượng việc thu hồi quân Viễn chinh Pháp ra khỏi Việt Nam (trừ hải quân và lực lượng không quân mà Diệm muốn theo nằm dưới quyền của quân đội Việt Nam) và sửa đổi các hiệp định kinh tế, văn hóa, tài chính. 152/ Diệm cũng muốn các vấn đề Việt Nam được chuyển giao từ Bộ Thuộc Địa qua cho cơ quan Ngoại giao Pháp, ông nhấn mạnh chức năng Cao Ủy [Đông Dương] phải được bãi bỏ và người kế nhiệm cho Ely (Henri Hoppenot) được bổ nhiệm làm Đại sứ.
F. Sự hiện diện không rõ ràng của Pháp tại Việt Nam
2. Tranh cãi giữa Pháp-Việt, mùa Thu 1955
Pháp lo lắng để có rút quân Viễn chinh Pháp ra khỏi Việt Nam (và đưa họ vào Bắc Phi), vấn đề trao quyền chỉ huy cho quân đội Việt Nam không phải là một vấn đề. [Nhưng] Đặt đơn vị Pháp dưới sự chỉ huy Việt Nam nhất định là một vấn đề, tuy nhiên, chính trị trong nước sẽ không cho phép bất kỳ sự thay đổi nào ngay lập tức tình trạng của Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp. 153/ Đàm phán bị đình trệ cho đến tháng Bảy. Diệm chấp nhận Đại sứ Hoppenot (có nhiệm vụ, dù tên gọi có khác, là của một Cao Ủy) và mọi thứ được chuyển động một chút, rồi dừng lại khi Diệm bắt giữ hai sĩ quan Pháp bị nghi ngờ trong vụ đánh bom các nhà máy điện ở Sài Gòn và cho biết họ sẽ được xét xử bởi Toà án Việt Nam. Trong tháng Mười, Pháp từ chối nói chuyện trừ khi các sĩ quan phải đươc thả ra. 154/ Bế tắc cuối cùng đã được phá vỡ bởi người Pháp vào tháng Mười Hai. Paris đồng ý Bộ Ngoại Giao [Quai d 'Orsay] sẽ xử lý công việc Việt Nam, đã từ chối chuẩn nhận sự phân công của một đại diện ngoại giao từ VNDCCH sang Pháp và làm rõ là phái bộ Sainteny ở Hà Nội chỉ duy nhất cho vấn đề kinh tế và văn hóa. Pháp đã công nhận Việt Nam là một nước Cộng Hòa sau khi chiến thắng vang dội của Diệm - 98% số phiếu bầu trong một cuộc trưng cầu dân vào Tháng Mười - quá vang dội. Diệm cuối cùng đã cho thả các sĩ quan Pháp bi bắt giữ. 155/
Nhưng những nhượng bộ đó không đưa ra một cải thiện nào trong quan hệ Việt Nam và Pháp. Vào tháng Mười Hai, Diệm đột nhiên chấm dứt các hiệp định về kinh tế và tài chính đã thỏa thuận tại hội nghị Paris năm 1954; những hoạt động nhanh chóng của Hoa Kỳ đã kéo thuộc địa cũ từ đồng quan Pháp qua khu vực đồng đô la và các quy định thương mại nghiêm ngặt áp dụng cho các doanh nghiệp Pháp tại miền Nam Việt Nam đã buộc các doanh nhân giận dữ rời bỏ quốc gia với số lượng ngày càng tăng. Diệm đặt ra những điều kiện mà ông sẽ xem xét lại các mối quan hệ mới mẻ với Pháp:
Pháp phải chối bỏ Hiệp định Genève, từ bỏ nói về cuộc tổng tuyển cử vào năm 1956, phê duyệt công khai và chấp nhận toàn diện chính sách của Diệm, phá vỡ tất cả các mối quan hệ với Việt Minh và tất nhiên phải rút về Pháp Phái bộ Sainteny.
Không lâu sau đó, Diệm rút đại diện Việt Nam ra khỏi Quốc Hội Liên hiệp Pháp. 156/
Pháp không thể làm gì nhiều. Diệm đã nói chuyện nhân danh một chính phủ không còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Pháp, không còn gần bị sụp đổ. Tháng 2 năm 1956, chỉ còn 15,000 quân Pháp còn ở Việt Nam và 10.000 trong số đó đã được rút đi vào cuối tháng Ba. Bộ Tư lệnh Tối Cao đã được bãi bỏ vào ngày 26 tháng Tư năm 1956. Tháng kế tiếp, Phái Bộ Thu Hồi Tạm Thời Các Thiết Bị của Hoa Kỳ (TERM: Temporary Equipment Recovery Mission) vào Việt Nam và 350 nhân viên quân sự khác đã được thêm vào các nỗ lực về tư vấn của Hoa Kỳ. Chỉ còn một ít huấn luyện viên người Pháp vẫn còn ở lại với TRIM.
3. Nghĩa vụ Pháp theo Hiệp định Genève thì sao?
Tuy nhiên, một câu hỏi quan trọng vẫn còn lại. Theo hiệp định Genève, Pháp chịu trách nhiệm bảo vệ và hỗ trợ cho Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát [Đình Chiến]; đại diện của Quân đội Nhân dân Bắc Việt Nam và Pháp ngồi trong Ủy Ban Liên Hợp Đình Chiến chịu trách nhiệm đảm bảo quy định của các thỏa thuận đình chiến được đáp ứng. Pháp không thể nhẹ nhàng bỏ các nghĩa vụ này và Pháp cũng không thể chuyển chúng sang Nam Việt Nam: Diệm đã lên án hiệp định Genève và từ chối bị ràng buộc bởi nó trong bất kỳ cách nào.
Trong tháng Hai, Ngoại trưởng Pháp Pineau mô tả các vị trí khó khăn của Pháp như là một kết quả của một số điều kiện nhất định:
Đây là những hệ luận sinh ra khi Độc Lập được trao cho miền Nam Việt Nam và Genève lại có một số quy định trong đó đã yêu cầu và biện giải cho sự hiện diện của chúng tôi ở đất nước này. 157/
Khó khăn đặc biệt là vấn đề hỗ trợ cho ICC. Diệm từ chối liên kết miền Nam Việt Nam một cách công khai với Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát [ICC: International Control Committee] nhưng đã đồng ý để đảm bảo trách nhiệm phục vụ của nó [ICC] nếu Pháp chịu để lại một phái bộ nhỏ ở Việt Nam để thực hiện các nghĩa vụ của Pháp. 158/ Dulles thích ý tưởng này. Quan điểm của ông là: "trong khi chúng tôi chắc chắn sẽ không có những bước đi tích cực để tăng tốc quá trình phân hủy của Hiệp định Genève, kể cả việc chúng tôi cũng không đưa ra một nỗ lực nhỏ nào để đưa sự sống vào nó." 159/
Tám tháng sau, cuối cùng Diệm đã chịu làm dịu đi lập trường kiên quyết chống lại Genève, đã đồng ý tôn trọng các Hiệp Ước Đình Chiến và cung cấp việc bảo vê cho ICC. Trong tháng 7 năm 1956, Việt Nam hứa sẽ thay thế Phái Bộ liên lạc của Pháp tại ICC. Pháp vẫn duy trì vai trò thành viên Ủy Ban Hỗn Hợp Kiểm Soát Đình Chiến và tiếp tục chịu chi phí cho ICC. 160/ Nhưng Pháp là không bao giờ có thể đáp ứng Genève về nghĩa vụ liên quan đến cuộc bầu cử năm 1956, mà Diệm đã từ chối không tham khảo ý kiến với Việt Minh về cuộc bầu cử với một lòng kiên quyết là không bao giờ tổ chức nó. Cả Anh và Liên Xô không ai ép vấn đề, Hoa Kỳ ủng hộ lập trường của Diệm.
Chú Thích: