Tháng 5 20, 2013
Phạm Thị Hoài
Trong tập 4, bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, có một văn bản ngắn như sau :
Lời kêu gọi đồng bào Bắc Bộ
Hỡi đồng bào Bắc Bộ!
Việc bất hợp tác sáng hôm qua chẳng những không do mệnh lệnh Chính phủ mà trái với chính sách Chính phủ. Việc đó tỏ rằng một số quốc dân chưa hiểu kỷ luật. Biết theo những mệnh lệnh Chính phủ, làm cho thế giới thấy rằng dân tộc ta xứng đáng độc lập, Chính phủ ta có đủ oai quyền. Vậy tôi, Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời, hạ lệnh cho nhân dân Bắc Bộ lập tức đình chỉ việc bất hợp tác, giữ thái độ bình tĩnh giúp Chính phủ giữ gìn trật tự.
Đồng bào yêu mến tôi, nghe lời tôi.
Người đọc không được biết gì về bối cảnh của lời kêu gọi đó, ngoài xuất xứ rằng nó được in trong cuốn Lời Hồ Chủ tịch của Nxb Tiến Hóa, Hà Nội, năm 1946, trang 45. Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với ai và như thế nào [1]? “Sáng hôm qua” là sáng ngày nào trong những ngày đầy ắp sự kiện phức tạp của hai năm 1945-1946[2]? Hi vọng sẽ có nhà nghiên cứu lấp được lỗ hổng thông tin đó. Phần mình, tôi chú ý đến văn bản lạ này vì chỉ qua vài dòng, chân dung ông Hồ được bổ sung thêm một số nét, khiến việc đọc phía sau mặt chữ trở nên thú vị. Phía sau mặt chữ, chứ không phải giữa hai hàng chữ. Thông điệp ở đây là rõ ràng, không có gì hàm hồ, bóng gió.
Một người như thế nào thì có thể cho phép mình phát ngôn: “Tôi hạ lệnh cho nhân dân”? Trong mọi ngôn ngữ, câu này đều tất yếu gây ra ấn tượng về một nhà độc tài. Các nhà lãnh đạo quốc gia ở những thể chế phi độc tài không buột miệng ra một câu như vậy ngay cả khi ngủ mơ, ngay cả trong những khoảnh khắc họ không muốn gì hơn là được làm chính xác như thế. Nhưng ngay cả một Putin, một Lý Quang Diệu, một Hugo Chávez cũng không phát ngôn như vậy. Còn Hồ Chí Minh?
Cho đến trước đó chỉ có kinh nghiệm hoạt động cách mạng và tham gia lãnh đạo một số phong trào, tổ chức, đảng phái bí mật, ông Hồ dường như xa lạ với tất cả những gì làm nên một chính khách chuyên nghiệp. Ông cũng không chuẩn bị cho mình và các đồng chí của ông một cơ sở lí luận và tư tưởng cho việc cầm quyền trong một nhà nước hoàn toàn mới, sinh ra từ việc chôn vùi nhà nước cũ [3]. Những năm tháng đầu tiên đứng đầu một nước Việt Nam mới, tác phong và ngôn ngữ của ông là của một bậc cha chú cai quản gia đình hay của một giáo chủ, một trưởng thượng, hơn là của một nguyên thủ quốc gia. Tuyệt đối tin vào uy tín của mình với quốc dân, toàn bộ uy lực khi hạ lệnh cho nhân dân của ông xuất phát từ lập luận: đồng bào yêu mến tôi thì nghe lời tôi. Các học trò của ông sau này, không người nào có thể tự tin vào uy tín của mình để hồn nhiên buông ra một lời như vậy. Tất nhiên vâng lời lãnh tụ theo tiếng gọi của tình cảm là một trong những cách cai trị ưa thích của các nhà độc tài và không hiếm khi kĩ năng mị dân của họ thăng hoa thành nghệ thuật tự lừa mị [4]. Nhân dân Bắc Triều Tiên chắc chắn cũng được giáo dục để có tình yêu trói buộc như thế với ba đời lãnh tụ họ Kim, và nhân dân Cuba với hai đời lãnh tụ họ Castro. Song ở trường hợp đang đề cập, tôi không khỏi có cảm giác rằng phát ngôn của ông Hồ, với tất cả tính gia trưởng của nó, có một sự ngây thơ và chân thành phù hợp với giai đoạn mà cuộc cách mạng của những người cộng sản Việt Nam còn ấu trĩ, ít nhiều trong trắng, chưa quay ra ăn thịt những đứa con của mình và nhe nanh vuốt với mọi đảng phái chính trị khác từng một thời đồng hành. Nhiều lần tôi đã cảm động khi đọc một số bức thư, lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch ở giai đoạn này và trong vài năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ở đó tôi thấy một chính khách bất đắc dĩ, tầm vóc tư tưởng không có gì kiệt xuất, nhận thức về thế giới tương đối sơ sài, kinh nghiệm điều hành quốc gia ít ỏi, nhưng đầy lãng mạn và còn đậm tính cách riêng tư.
Với thời gian, những nét riêng tư ít nhiều chân thực của Hồ Chí Minh dần nhường chỗ cho một hình ảnh nhân tạo ngày càng hoàn hảo. Sự hấp dẫn của cá nhân con người Hồ Chí Minh dần nhường chỗ cho sự sùng bái biểu tượng Hồ Chí Minh. Ông không còn hạ lệnh cho nhân dânnữa, dù đồng bào không thôi yêu mến ông và vẫn sẵn sàng nghe lờiông. Song nhà nước mà ông liên tục đứng đầu gần một phần tư thế kỉ cho đến khi qua đời đã trở thành một chính thể độc tài hoàn thiện. Ngôn ngữ cá nhân ít nhiều xác thực của lời kêu gọi nêu trên, bất chấp nội dung của nó, sẽ dần nhường chỗ cho một ngôn ngữ tuyên truyền công cộng thô thiển và giáo điều, cơ sở của toàn bộ ngôn ngữ tuyên giáo kinh hoàng mà hiện nay chúng ta còn phải chịu đựng. Càng đọc Hồ Chí Minh sau này, tôi càng thấy là các nhà tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến giờ phút này không làm một việc gì khác ngoài lặp lại chính xác không những cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, mà còn áp dụng trung thành cả những cách diễn đạt, những lập luận và những thuật ngữ chính trị mà ông là cha đẻ.
Hồ Chí Minh là một nhân vật lắp ghép từ rất nhiều mảnh to nhỏ, lỗ đen và khoảng trống. Trong bức tranh chiết trung lạ lùng này, mảng mầu của hai năm 1945-1946 có lẽ là tươi thắm hơn cả.
© 2013 pro&contra
[1] Trong bản đăng lúc đầu, ở đoạn này tôi viết: “Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với chính quyền mới như thế nào? Vì lí do gì?”. Có ý kiến độc giả lưu ý rằng trong bối cảnh lịch sử khi đó, ông Hồ muốn nói đến sự bất hợp tác với Pháp. Tôi ghi nhận góp ý xác đáng đó, và xin phép sửa lại thành: “Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với ai và như thế nào?”. Xin cảm ơn độc giả.
[2] Chính phủ Lâm thời chỉ tồn tại đến hết năm 1945 và từ ngày 01-01-1946 được thay thế bằng Chính phủ Liên hiệp Lâm thời. Như vậy, có thể lời kêu gọi này liên quan đến một sự kiện diễn ra ngay trong năm 1945 nhưng năm 1946 mới được đưa vào sách.
[3] Trước Cách mạng tháng Mười, khi lưu vong và sống trong một túp lều ở Phần Lan, Lenin đã viết tác phẩm kinh điển về nhà nước chuyên chính vô sản Nhà nước và cách mạng. Không ai yêu cầu ở Hồ Chí Minh một tầm vóc tương tự, nhưng trước tác chính luận chủ đạo của ông, nếu ông cũng chính là Nguyễn Ái Quốc, trước tháng Tám 1945, gồm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường cách mệnh (1925-1927) tập hợp bài giảng về kiến thức chính trị phổ thông ở các lớp huấn luyện chính trị Quảng Châu và Chiến thuật du kích (1942-1944), cho thấy một sự nghèo nàn đáng chú ý ở một nhà cách mạng có ảnh hưởng quyết định đến số phận của một dân tộc cho đến tận bây giờ.
[4] Trong phiên họp ngày 13-11-1989 của Quốc hội Cộng hòa Dân chủ Đức, phiên họp đầu tiên sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, khi bị chất vấn trách nhiệm, ông Erich Mielke, Bộ trưởng An ninh Quốc gia (Stasi) Đông Đức đã thốt lên: “Tôi yêu mến tất cả mọi người cơ mà… Tôi phấn đấu cho tình yêu đó cơ mà.” (Ich liebe doch alle Menschen. Ich setze mich doch dafür ein.) Hồ Chí Minh: Tôi hạ lệnh cho nhân dân
Phạm Thị Hoài
Sau đề nghị của tôi về xưng hô, nhiều độc giả lưu ý rằng cha đẻ của cách xưng hô gia đình hóa trong xã hội Việt Nam thời đại xã hội chủ nghĩa là vị “cha già dân tộc”, người tự xưng là “Bác Hồ”. Theo tôi trường hợp “Bác Hồ” không hẳn như vậy.
Khác với những nhà lãnh đạo từ Lê Duẩn trở đi sau này, Hồ Chí Minh thuộc thế hệ các nhà cách mạng xuất thân kẻ sĩ – trí thức trong giai đoạn chuyển tiếp từ Nho học sang Tây học. Xung quanh ông là những người mà tố chất kẻ sĩ – trí thức ấy không chỉ biểu lộ qua sáng tác văn chương, từ Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan… đến Xuân Thủy, Cù Huy Cận, Tố Hữu, Đặng Thai Mai…
Trước khi ngôn ngữ chính trị Việt Nam trở thành một hỗn hợp của sáo mòn, đơn điệu, vô nghĩa và lố bịch như chuẩn mực ngày nay, nó đã từng kết hợp được cả học vấn truyền thống lẫn ngọn lửa nóng rực của cách mạng ở những năm tháng đầu. Cho đến nay tôi chưa thấy một văn bản chính trị viết bằng tiếng Việt nào vượt qua bản Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh soạn thảo năm 1945 về hình thức biểu đạt và chất lượng ngôn ngữ: hàm súc, khúc chiết, sắc bén, chính xác, sáng rõ và giản dị. Ngay cả câu mở đầu lấy từ Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ cũng là một mẫu mực về dịch thuật. Hoặc ngòi bút chính trị của Hồ Chí Minh ở thời điểm ấy đạt đến độ chín thích hợp nhất, hoặc giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp là chủ đề tâm huyết nhất của cuộc đời ông, nên những áng văn sau này của Hồ Chí Minh cũng không vượt qua được Tuyên ngôn Độc lập. Song ngôn ngữ trong hai Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như trong Di chúc vẫn cho thấy một khả năng diễn đạt xuất sắc. Một người làm việc với ngôn ngữ như thế không thể không có ý thức sâu sắc về cách xưng hô trong tiếng Việt.
Tôi không ngại nói quá khi khẳng định rằng trước và sau Hồ Chí Minh, khó tìm thấy một người Việt Nam nào trải qua nhiều tình huống xưng hô một cách tự nhiên và lịch lãm như ông. Trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, chắc chắn ông là người đứng đầu nhà nước giữ kỉ lục về tiếp xúc với các tầng lớp và thành phần đủ mọi lứa tuổi trong xã hội. Chúng ta hãy điểm một số cách xưng hô của Hồ Chí Minh trong giao tiếp, trước khi “Bác Hồ” trở thành quy phạm xưng hô của người Việt[1].
Xưng hô chính thức và đầu tiên của Hồ Chí Minh trước công luận là trong câu hỏi nổi tiếng, khi ông đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945: “Đồng bào nghe tôi nói có rõ không?“. Đồng bào và tôi. Từ bao giờ cách gọi đồng bào này biến mất? Có lẽ từ khi ông qua đời? Mỗi lần nói với toàn thể hay một tập hợp người Việt ông đều dùng chữ đồng bào này. Ở các lời tuyên bố, kêu gọi, thường là Hỡi đồng bào cả nước, Kính cáo đồng bào. Ở các cuộc tiếp xúc, thường là Thưa đồng bào hay Thưa đồng bào yêu quý. Trong thư, thường rất cụ thể: Gửi đồng bào Công giáo, đồng bào Mán, đồng bào nông gia, đồng bào hậu phương, đồng bào tản cư, đồng bào Nam bộ, đồng bào văn hóa và trí thức, đồng bào điền chủ… Và xưng tôi hoặc chúng tôi, khi ông thay mặt chính phủ phát biểu. Xưng hô cuối cùng của ông, trong Di chúc, cũng giữ nguyên như vậy: đồng bàovà tôi.
Từ vị trí xưng tôi hay chúng tôi, Hồ Chí Minh uyển chuyển khi đứng trước những đối tượng khác nhau. Những người như Nguyễn Hải Thần, Vũ Công Khanh được ông gọi là tiên sinh, tướng Trần Tu Hòa là Trần tướng quân, giám mục Lê Hữu Từ là cụ, linh mục Lê Văn Yên là ngài, các ông Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố… đều là cụ, bác sĩ Vũ Đình Tụng là ngài, đại diện các gia đình hảo tâm quyên góp cho chính phủ là các bà và các ngài, hội hảo tâm là quý hội, một ông lang đạo ở Hòa Bình là ông, Chủ tịch Quốc hội là cụ chủ tịch, một bộ trưởng làcụ bộ trưởng, đại diện các ủy ban nhân dân là các bạn… Ông thưa các cụ và các chú, thưa các ngài trong giới công thương, thưa các vị linh mục, thưa các vị kỳ lão và nhân dân, thưa anh chị em thanh niên Nam bộ, thưa toàn quốc đồng bào và toàn thể đồng chí, thưa các bậc phụ huynh, thưa các hiền nhân chí sĩ, thưa các bạn sĩ, nông, công, thương, binh, thưa các ông bộ trưởng, thưa các bạn nhân viên chính phủ, thưa hai cụ già du kích, thưa anh em họa sĩ, thưa các vị thân hào thân sĩ, thưa những người bạn Pháp ở Đông Dương, thưa ngài Thống chế Stalin, thưa bà cụ, thưa lão du kích… Trong một bức thư gửi ngụy binh, ông gọi họ làanh em. Gửi những người đi lính cho Pháp và bù nhìn, ông viết: tôi thiết tha kêu gọi các người. Viết thư cho gia đình mình, ông đề: Gửi họ Nguyễn Sinh và xưng tôi. Tất cả cho thấy một nghệ thuật xưng hô lão luyện.
Vậy “Bác Hồ” từ đâu ra?
Ngay trong tháng 9-1945, Hồ Chí Minh xưng là Già Hồ gửi thư đến các trẻ em yêu quý. Trong “Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” 1945, ông viết: “Các em, đây là Hồ Chí Minh nói chuyện với các em… Các em có hứa với tôi như thế không?… Chào các em, Hồ Chí Minh“, một phong cách không giấu ảnh hưởng của ngôn ngữ và văn hóa phương Tây. Trong thư gửi học sinh, ông cũng xưng là tôi, gọi học sinh là các em. Nói chuyện với thanh niên, ông gọi họ là các anh em, xưng là tôi. Trong một bài thơ tặng cháu Nông Thị Trưng, ông gọi cháu và xưng ta.
Lần đầu tiên Hồ Chí Minh xưng bác và gọi cháu là trong “Trả lời thư chúc mừng của Hội Nhi đồng Công giáo khu Thượng Mỹ, huyện Phú Xuyên, Hà Đông” ngày 10-5-1947: “Bác cảm ơn các cháu. Bác khuyên các cháu: Biết giữ kỉ luật, siêng học siêng làm, yêu Chúa yêu nước. Bác hôn các cháu.” Và kí với Hồ Chí Minh, chứ không với Bác Hồ. Ba tháng sau, trong “Thư gửi nhi đồng toàn quốc nhân kỉ niệm Cách mạng Tháng Tám” năm 1947, danh xưng Bác Hồ xuất hiện và từ đó được sử dụng.
Song tôi phải nhấn mạnh: Hồ Chí Minh chỉ xưng bác trong hai trường hợp quan hệ. Thứ nhất, trường hợp bác – cháu, với nhi đồng. Điều này không có gì là chướng. Ở tuổi 55 khi lên làm Chủ tịch nước, đối với người Việt thuở đó Hồ Chí Minh đã là một người già. Phóng viên báo chí thường gọi ông là Cụ Chủ tịch, cũng như ông gọi những người trạc tuổi mình làcụ. Trong bối cảnh ấy, xưng hô bác – cháu của Hồ Chí Minh với nhi đồng là tự nhiên. Không một nhà lãnh đạo Việt Nam nào cho đến nay biết nói với trẻ em một cách nghiêm túc và tôn trọng mà vẫn không kém thân thiết như “Bác Hồ”[2]. Cuối thư gửi nhi đồng, Hồ Chí Minh thường hôn các cháu. Trong một bức thư, ông còn hôn các cháu rõ kêu, một cử chỉ rất Tây được diễn đạt rất Việt.
Trường hợp xưng bác thứ hai của Hồ Chí Minh là trong quan hệ với những người kém tuổi mình. Bác ở đây không phải là bác – cháu, mà làbác – cô/chú
Chúng ta không lạ cách xưng tôi, gọi một người kém tuổi là chú hay cô nói chung, một cách xưng hô khá trung lập, không nhất thiết gây ấn tượng gia đình chủ nghĩa mà vẫn giữ được sự thân mật và khoảng cách tuổi tác. Với những người cộng sự gần gũi như Vũ Đình Huỳnh, Cù Huy Cận, Đặng Thai Mai, Nguyễn Khánh Toàn…, Hồ Chí Minh sử dụng cách xưng hô này. Xưng tôi hoặc anh. Gọi chú. Trong phạm vi quan hệ hẹp, ít khi trước công luận.
Ở Berlin, nơi có cộng đồng Nghệ An lớn nhất hải ngoại, tôi học được rất nhiều từ Việt cổ và những thói quen ngôn ngữ khác xa tiếng Việt phổ thông. Người xứ Nghệ có thể xưng tôi hay tui, tau với cha mẹ. Cha mẹ có khi gọi con cái, bất kể con trai hay con gái, là ông. Và họ dùng tràn lan bác – chú, cứ nhiều tuổi hơn xưng bác, ít tuổi hơn xưng chú, phơi phới giữa Berlin. Hồ Chí Minh, người xứ Nghệ nổi tiếng nhất, bôn ba qua bao nhiêu xứ sở, ngôn ngữ và văn hóa, có lẽ vẫn giữ thói quen xưng hô ấy.
Ông khá thọ và mất ở tuổi 79. Người hơn tuổi ông thuở ấy không nhiều. Nên với đại đa số thì ông hoặc là bác với các cháu nhi đồng theo trường hợp thứ nhất, hoặc là bác với các cô, các chú theo trường hợp thứ hai. Một lúc nào đó, ông đương nhiên trở thành và chỉ còn là “Bác Hồ”.
Gần nửa thế kỉ sau khi qua đời, Hồ Chí Minh chưa thôi là điểm cọ xát gay gắt cho dân tộc mà ông đã dẫn ra khỏi ách thực dân rồi dắt vào tròng chuyên chế. Cả vị thánh lẫn kẻ tội đồ trong ông đều đã thuộc về lịch sử, đã hết hạn sử dụng, song dân tộc bị chia rẽ sâu sắc này vẫn tiếp tục hoặc lấy ông làm cẩm nang và lá chắn, hoặc dùng ông làm cái ổng nhổ để trút mọi oán hận. Ông là tấm gương khi người ta không biết soi vào đâu nữa. Ông là nguyên ủy của mọi vấn nạn, kể cả vấn nạn xưng hô, khi người ta không biết tìm đáp án từ đâu. Trong sự tuyệt vọng của chúng ta, Hồ Chí Minh là chiếc bung xung lí tưởng.
Không phải vì công bằng mà tôi bênh vực cách xưng hô của Hồ Chí Minh. Một người đầy ý thức tự thêu dệt huyền thoại, một người không chùn tay cho vay khống những khoản tín dụng lịch sử đáng ngờ như ông thì không chờ đợi gì nhiều ở lẽ công bằng cho cá nhân mình. Điều tôi mong muốn đơn giản là: chúng ta hãy thôi tự lố bịch, bằng cách chấm dứt cả những lời ca tụng nực cười lẫn những lời kết án vô lối đối với Hồ Chí Minh. Trách nhiệm thật của ông ở những điểm hệ trọng của lịch sử Việt Nam cận đại cần được phơi bày rốt ráo. Còn trong sự nghiệp phá hoại văn hóa xưng hô của người Việt, vai trò thật của ông nhỏ hơn tai tiếng rất nhiều.
© 2012 pro&contra
[1] Tất cả các trích dẫn trong bài rút từ Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Phạm Thị Hoài: Trường hợp “Bác Hồ” (pro&contra). “Trách nhiệm thật của ông ở những điểm hệ trọng của lịch sử Việt Nam cận đại cần được phơi bày rốt ráo. Còn trong sự nghiệp phá hoại văn hóa xưng hô của người Việt, vai trò thật của ông nhỏ hơn tai tiếng rất nhiều”.
– HẺM “BUÔN” CHUYỆN (KỲ 41) – “Bác Hồ ta đó… không phải là bác Mao!” (Nhật Tuấn).
Chính sách làm khó trí thức
Tuổi Trẻ
TT - Ngày 30-11, đoàn kiểm tra của Bộ Chính trị đã kiểm tra thực hiện nghị quyết 27 của Ban Chấp hành trung ương (khóa X) “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” tại TP.HCM. Đoàn kiểm tra do ông ...
TPHCM chiếm 25% lực lượng khoa học và công nghệ toàn quốcSài gòn Giải Phóng
TP.HCM cần nguồn nhân lực chất lượng caoThanh Niên
Tạo điều kiện làm việc tốt nhất để đội ngũ trí thức yên tâm cống hiến ...Nhân Dân
- Báo Úc khen tư lệnh hồi cuộc chiến VN (BBC). – Huế và chiến tranh (Sống Magazine). Ấn tượng Xuân Thủy (CAND 27-11-12) ◄
Mỗi năm có 500.000 người bị chó cắn (VnEx 30-11-12) -- Hôm qua có tin "cả nước có 30.000 bán dâm", hôm nay có tin 500.000 bị chó cắn. Tôi muốn biết: bao nhiêu người bị chó cắn khi đi mua dâm?
Họ nói một thứ 'na ná' tiếng Anh (TVN 30-11-12)
Bước đầu xác lập một số khái niệm trong phê bình văn học nữ quyền (PBVH 1-12-12)
- Chỉ đạo làm rõ vụ xe biển xanh gây tai nạn, phóng viên bị hành hung (DT). – Đang làm rõ vụ xe công an gây tai nạn, PV bị hành hung (VNN). – Yêu cầu làm rõ vụ phóng viên bị hành hung(NLĐ). - Xe Công an Cần Thơ biển số đẹp bị che (DV).
- Phạt xe không chính chủ: Để dân không phản ứng cực đoan với chính sách (SGTT).
- CSGT nhận bao nhiêu tiền thì tham nhũng? (PN Today).
- CHỦ TỊCH TỔNG LĐLĐ VIỆT NAM ĐẶNG NGỌC TÙNG: Hy vọng ngành điện TPHCM có chiến sĩ thi đua cấp toàn quốc(NLĐ).
Hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao Động: Lùng nhùng, rối rắm
Các quy định về giao quyền cho thanh tra lao động, giải quyết tranh chấp lao động, khiếu nại... còn chung chung, không rõ ràng
Bi kịch lấy vợ trẻ con
“Nếu tôi ở tù, một mình cô ấy làm sao chăm sóc nổi hai đứa nhỏ?”, người chồng - bị cáo rưng rưng nói; người vợ - bị hại cũng nhòe nhoẹt nước mắt nhìn chồng con
- Cướp giật “vây” khách sạn 5 sao (TN). – Cười ra nước mắt với cách ‘sống chung’ cùng… cướp của dân Sài thành (ĐV).
- Quý bà ngây thơ mất 40.000USD vì chiêu lừa rửa USD (ĐV).- Bị gỗ đè, người phụ nữ cô độc chờ chết trong căn nhà rách (DT).
- Độc giả “ném đá” phòng khám sản Vạn Vạn Bảo (NĐT).
- Mỗi năm có 500.000 người bị chó cắn (VNE). - Sửa quy định tiêu hủy chó, mèo vô chủ (DV).
- Biệt đội… thuốc nam (SGTT). - “Có gì… tặng nấy!” (TT).
- “Lãnh địa” của sới bạc lớn nhất miền Bắc (KP/ 24h). – Sới bạc to nhất đất Bắc: Bắt 105 con bạc, thu 2 bao tải tiền (VOV). – Cảnh sát thu gần 6 tỷ đồng tại sới bạc chùa Dận (DV).
- Qua đêm… thành tỷ phú từ trộm “báu vật” của người chết (KT).
- Lạnh lẽo tình thâm (NLĐ).
- Tôi là “Pê đê” (NLĐ).
- Bị xiết nợ, đại gia miền Tây mất 3 biệt thự (VTC).
- Không có tiền chữa bệnh, cựu nữ du kích chờ chết (KT).
- Vợ liệt sỹ kể chuyện bị con ngược đãi (NĐT).
- Dị nhân có khả năng xoay vòng nhiều nhất (NĐT).
- Nông dân điêu đứng vì liên tục mất trộm trâu bò (DT). – Thức trắng đêm canh trâu bò (ĐV).
- Dòi trong mũi cụ ông là ấu trùng ruồi (DT).
- Chất phụ gia trong xúc xích có thể gây ung thư (PN Today). – Vỏ kem ốc quế Trung Quốc chứa thuốc tẩy gây ung thư (VTC/ SD/ SK&ĐS). - Nở nồi “lò” chế biến thực phẩm bẩn (PLTP).
- Rùng mình mắm tép chưng thịt siêu bẩn (ANTĐ).
- “Nhìn vào bữa ăn để suy ngẫm” (DT).
- Thu giữ và tiêu hủy 4,3 tấn cá nóc ở cảng Sa Huỳnh (SGTT).
- Người đàn ông trả lại ví có hàng chục triệu đồng (VNE).
- Vụ tung clip sex trong nhà vệ sinh: Để trốn lấy chồng! (Soha).
- Vụ mua bán trẻ sơ sinh sang Trung Quốc: Buôn bán cả thai phụ (DT). - Vụ lừa “thừa kế gia sản của tỉ phú Mỹ”: Lừa tình, lừa tiền (TN).
- Hà Nội: Người nước ngoài lái xe cứu thương tông chết người (NLĐ).
- ‘Ông già Noel’ rắc mưa tiền 100 USD (VNE).
- Ngăn chặn AIDS – thời cơ của Việt Nam (LĐ). - Việt Nam phòng chống HIV/AIDS (BBC). – Phổ biến sử dụng Methadone giúp ngăn lây nhiễm HIV ở Việt Nam (VOA). - Buộc giảm giá dịch vụ y tế về mức cũ nếu lạm thu (Infonet). – Ở nơi máu quyết định tất cả (TTVH).
- Người Việt có còn gà Việt mà ăn? (TVN).
- Vụ úp cả chậu phân lên đầu: Chồng thuê đầu gấu “xử” vợ? (Sohanews). – Vụ tố chồng tưới phân lên người: Chồng lừa vợ tới nhà nghỉ? (GDVN).
- Khởi tố vụ án hơn 100 con bạc ôm tiền tỉ sát phạt trong nhà nghỉ (DT).
- Tội phạm ngày càng liều lĩnh (TT).
- Nhiều cuộn thép nặng hàng chục tấn văng xuống đường (DT).
- Món ăn: Chặt đầu, lột da vẫn… nhảy tưng tưng (Kiến thức).