Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

Về ngày 30/4: Chỗ đứng của Đảng CS phải là vành móng ngựa



Ngược lại, một bộ phận không ít người Việt coi đây là ngày «quốc hận».

Suốt 40 năm nay, tôi đã suy nghĩ, tìm hiểu, đắn đo, đọc không biết bao nhiêu tài liệu, tranh luận với hàng trăm bạn bè trong và ngoài nước, với gần một trăm nhà báo nước ngoài - Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản,Trung Quốc - để rồi cố gắng độc lập suy nghĩ bằng đầu óc tỉnh táo của chính mình, không theo đuôi số đông, không dựa dẫm, lập dị, chỉ lấy sự thật và lẽ phải làm mục tiêu.

Từ đó tôi hoàn toàn tự tin để kết luận trong dịp này là trong 70 năm qua Đảng CSVN đã liên tiếp phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác:

- đã chọn sai lầm học thuyết chính trị Mác – Lênin và chế độ toàn trị độc đảng cực kỳ tệ hại,

- đã phạm tôị ác chồng chất trong việc chủ trương bạo lực vũ trang, chủ động gây nên cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn với hàng mấy triệu sinh mạng nhân dân, chủ yếu là thanh niên ưu tú thuộc cả 2 bên chiến tuyến,

- đã tàn phá vô kể sức lao động và của cải xã hội trong thời gian dài, trong các cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, cải tạo công thương nghiệp trong cả nước, đã vi phạm những hiệp định đã long trọng ký kết tại các Hội nghị Geneve năm 1954 và Hội nghị Paris năm 1973, đặc biệt là các điều khoản về «tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam», «không đe dọa dùng vũ lực và không dùng vũ lực», «thực hiện hòa hợp và hòa giải dân tộc», «không trả thù những người đã hợp tác với đối phương».

- đã đày đọa, trả thù hàng chục vạn viên chức và sỹ quan VN Cộng hòa trong hệ thống nhà tù mang nhãn hiệu «các lớp học cải tạo» để đánh lừa dư luận thế giói..

Có thể nói trên đây là những tội ác hiển nhiên có suy tính theo hệ thống, không thể chối cãi của đảng CSVN, của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, bằng chứng là các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 15 khóa II đầu năm 1959 chủ trương đồng khởi và khởi nghĩa ở miền Nam, xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam qua đất Lào và Campuchia, rồi Nghị quyết Trung ương 9 khóa III cuối năm 1963 chủ trương tăng cường chi viện quân sự quy mô của miền Bắc cho miền Nam, các quyết định về chiến lược của Bộ Chính trị năm 1974 và đầu năm 1975 dốc toàn bộ lực lượng để giải phóng miền Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

Các văn kiện trên chứng tỏ Bộ Chính trị đảng CSVN đã sớm xé bỏ triệt để các Hiệp định Geneve và Paris, công khai vi phạm sự cam kết và phản bội chữ ký của chính mình, chà đạp thô bạo «quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN được tự do lựa chọn chế độ của mình», 2 lần gây nên thảm họa di cư quy mô lớn năm 1954-1955 từ Bắc vào Nam và thảm kịch thuyền nhân từ 1975 đến 1980, với biết bao sinh mạng bị biển cả cuốn đi, bộ máy công an còn thu cơ man nào là vàng của hàng triệu người vượt biên.

Tất cả những điều kể trên là tội ác đối với toàn dân tộc, đặc biệt là đối với nhân dân miền Nam Việt Nam đã bị thôn tính bằng vũ lực công khai, phi pháp, trắng trợn, cũng là tội ác chống nhân loại, vi phạm Hiến chương của Liên Hiệp Quốc chủ trương quyền Tự quyết của các dân tộc là bất khả xâm phạm. Do đó ngày 30/4 có thể gọi là ngày Đen Tối , ngày Tội Ác, từ đó cũng là ngày Ô Nhục của Đảng CSVN.

Nếu như nhân dân Việt Nam được sống dưới một chế độ pháp quyền đầy đủ thì Bộ Chính trị đảng CSVN tự nhận là cơ quan lãnh đạo thường xuyên, liên tục và toàn diện đất nước phải bị đưa ra vành móng ngựa của Tòa án Nhân dân và của Tòa án Quốc tế về những Tội ác chồng chất trên đây.

Nhân dân Việt Nam vào thời điểm hiện tại số đông không còn ngu ngơ để đảng CS lừa dối bằng những thủ đoạn gian manh như Mặt trận Tổ Quốc (do chính đảng CS dựng lên), Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời (cũng do đảng CS tổ chức), tự giải tán đảng CS Đông dương tháng 11/1945 (thật ra chỉ là rút vào bí mật), đổi tên đảng Lao động VN từ 1952 đến 1976 (vẫn là bản chất Cộng sản, luôn theo lệnh từ Moscow), đế quốc Mỹ xâm lược (là một kiểu vu khống), ngụy quân ngụy quyền (cũng là vu cáo bỉ ổi vì chính CS mới tự nguyện làm ngụy quân ngụy quyền cho CS Quốc tế). Họ cho trên đây là những nét sáng tạo cao tay, thật ra là trò bịp rẻ tiền.

Trống kèn ầm ỹ, pháo hoa khắp nơi, duyệt binh hoành tráng chỉ còn là màn khói mỏng che đậy những sai lầm và tội ác chồng chất cùng những bất công kinh khủng mà xã hội không còn có thể chịu đựng nổi.

Đến nay mọi sự sai lầm, giả dối, lừa lọc, mỵ dân của các khóa Bộ Chính trị đều đã và đang phá sản, nhiều đảng viên CS có công tâm, trọng danh dự đã lên tiếng đòi đảng phải từ bỏ cái tên CS tội lỗi, thực hiện chế độ đa nguyên để có kiểm tra, tranh đua, thay thế cùng với các đảng khác trên cơ sở bình đẳng, tạ tội với toàn dân. Nếu Bộ Chính trị vẫn cứ chủ quan ngang ngược, họ sẽ vấp phải sự phẫn nộ của toàn dân được thế giới dân chủ hỗ trợ, họ sẽ ngày càng bị cô lập, và họ sẽ không trách khỏi là những kẻ phạm tội ác bị toàn dân hỏi tội trước vành móng ngựa của luật pháp công minh.

Hồ sơ tội phạm đã đầy đủ đến thừa thãi.

Tôi xin thách nhân dịp này, Học viện chính trị Mác – Lenin mang tên Hồ Chí Minh tranh luận tay đôi với tôi về Hồ sơ Tội ác của đảng CSVN tôi phác họa trên đây. Tôi là một nhà báo tự do đang sống ở nước ngoài, từng ở trong đảng CS 44 năm, am hiểu không ít về chế độ CS, cuộc tranh luận công khai này sẽ lấy dư luận xã hội làm trọng tài.
Nhận định của ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân về 40 năm 30/4
NHÌN LẠI 40 NĂM NGÀY QUỐC HẬN 30/4
RadioCTM - Thanh Thảo

Ngày Quốc Hận 30/4 năm nay đánh dấu đúng 40 năm ngày miền Nam Việt Nam rơi vào tay lực lượng cộng sản miền Bắc. So với chiều dài lịch sử dân tộc thì 40 năm là thời gian quá ngắn; nhưng so với một đời người thì 40 năm quả là khoảng thời gian dài mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, 40 năm đủ cho một thế hệ đã sinh ra vào lúc đó bước vào thời kỳ trưởng thành để gánh vác trách nhiệm trong xã hội. Thứ hai, 40 năm là khoảng thời gian đủ chín muồi để nhìn lại ý nghĩa và kết quả của một biến cố lịch sử dựa trên những lời kể của các chứng nhân và dựa trên sự chuyển biến của xã hội kể từ lúc xảy ra sự thay đổi.

Để nhìn lại Việt Nam 40 năm qua dưới chế độ Cộng sản từ sau khi cuộc chiến tranh tương tàn chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi xin mời quý thính giả theo dõi phần chia sẻ sau đây của ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân, trong chương trình phát thanh hôm nay.

***

Thanh Thảo: Ngày 30/4/1975 là ngày kết thúc cuộc chiến sau khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Lãnh đạo Hà Nội gọi đây là ngày “giải phóng miền Nam”. Nhiều người dân miền Bắc thì gọi là ngày “thống nhất đất nước”. Người dân miền Nam và Cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại thì gọi là ngày Quốc Hận. Theo quan điểm của ông thì 30/4 mang ý nghĩa gì?

Lý Thái Hùng: Đúng như chị chia sẻ ngày 30/4 của 40 năm trước đã mang ba tên gọi khác nhau tùy theo vị trí của từng người vào thời điểm xảy ra biến cố này. Nhưng sau 40 năm trải qua những thăng trầm của đất nuớc dưới sự cai trị độc tài của đảng CSVN, cái gọi là ngày “giải phóng” không còn ai nhắc đến nữa, ngoại trừ lãnh đạo và bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản Việt Nam mà thôi.

Những người đã từng vào sinh ra tử ở cả hai miền Nam Bắc, đóng góp vào biến cố 30/4 hầu hết đã cảm thấy bị phản bội và không còn coi ngày này là ngày giải phóng như CSVN rêu rao.

Thay vì gọi là ngày giải phóng, cách gọi ngày 30/4/1975 là ngày thống nhất chỉ nói lên sự gượng ép theo vở tuồng “Hội nghị hiệp thương thống nhất hai miền Nam và miền Bắc” do chính những người của đảng CSVN diễn xuất vào năm 1976.

Theo tôi, ngày 30/4 đích thực phải là ngày Quốc Hận từ những sai lầm sau đây của CSVN:

Sai lầm đầu tiên của chế độ chính là sự trả thù quân cán chính và thân nhân của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa do chính sách hận thù và ngược đãi của kẻ chiến thắng, khiến cho hàng triệu người phải sống trong nỗi kinh hoàng trên một đất nước gọi là hòa bình, thống nhất. Điều đau xót nhất sau năm 1975 là hàng trăm ngàn người ở vào tuổi thanh xuân, có nhiều năng lực nhất để đóng góp cho công cuôc phục hưng đất nước sau chiến tranh, lại bị giam cầm trong những trại tù khắc nghiệt gọi là trại cải tạo không biết ngày về.

Sai lầm thứ hai là CSVN đã phá đổ toàn bộ xã hội miền Nam vốn được xây dựng trên nền tảng tự do, nhân bản và tiến bộ trong hai mươi năm (từ 1955 đến 1975) để thay thế bằng chế độ tem phiếu, công an trị và giáo dục ngu dân. Hậu quả là xã hội ở miền Nam đã nhanh chóng bị san bằng bởi chính sách bần cùng hóa của miền Bắc, nền tảng gia đình đã bị phá nát khi không còn là chỗ dựa mà đã biến thành nơi canh chừng, nghi ngờ, tố cáo lẫn nhau giữa các thành viên.

Sai lầm thứ ba là tham vọng cộng sản hóa miền Nam để thành lập Liên bang Đông Dương làm bàn đạp cộng sản hóa Đông Nam Á. Chính vì tham vọng bành trướng chủ nghĩa vô sản quốc tế này, ngay sau khi chiếm miền Nam, lãnh đạo Hà Nội đã lập tức khống chế Lào và tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Campuchia, gây ra một cuộc chiến tương tàn đe dọa nền hòa bình Đông Nam Á từ năm 1979 đến khi Hà Nội buộc phải rút quân ra khỏi Campuchia năm 1989.

Những chính sách sai lầm khủng khiếp này đã đưa đến cuộc bỏ phiếu bằng chân của hàng triệu người Việt, đánh đổi mạng sống của chính mình bằng hành trình vượt biên, vượt biển để tìm tự do – chưa từng xảy ra trong lịch sử nước nhà. Thảm kịch thuyền nhân Việt Nam đã trở thành một bi kịch lớn của nhân loại vào đầu thập niên 80 khi hàng trăm ngàn thuyền nhân bị vùi thây trên biển Đông, đánh động lòng từ tâm của thế giới; nhưng lãnh đạo CSVN thì lại dửng dưng gọi đó là “tàn dư của Mỹ Ngụy”.

Những bi kịch đau thương xảy ra cho người dân Việt Nam sau ngày 30/4 vẫn còn tiếp tục kéo dài cho đến ngày hôm nay, và chỉ có hai chữ Quốc Hận mới lột tả hết ý nghĩa của ngày 30/4. Song song, cũng chính tinh thần Quốc Hận của 30/4 đã phát sinh ra cuộc đấu tranh mới của toàn thể dân tộc ở cả hai miền Nam Bắc.



Thanh Thảo: Như vậy thì 40 năm qua, Việt Nam dưới chế độ Cộng sản Việt Nam là một đất nước như thế nào, thưa ông?

Lý Thái Hùng: Sự sụp đổ nhanh chóng của miền Nam vào thời điểm tháng 4/1975 đã khiến cho lãnh đạo Hà Nội tự mãn và cho rằng họ đứng trên “đỉnh cao trí tuệ” của loài người, là trung tâm của thế giới vì đã chiến thắng cường quốc Hoa Kỳ và lãnh đạo của thế giới tự do.

Chính sự cao ngạo này đã khiến Hà Nội vội vã đưa Việt Nam rơi vào bốn thảm kịch lớn tiếp tục kéo dài đến ngày nay.

Thứ nhất là bần cùng hóa xã hội Việt Nam bằng chế độ vô sản chuyên chính triệt để. Hậu quả của chủ trương này đã phá hủy toàn bộ xã hội miền Nam từ vật chất đến tinh thần, làm ảnh hưởmg trầm trọng đến khả năng vươn lên của miền Nam nói riêng và toàn thể đất nước nói chung.

Thứ hai là gieo rắc chiến tranh và thù nghịch đến các lân quốc, đặc biệt là đối với Campuchia và biên giới phía Bắc với Trung Cộng, khiến cho Việt Nam bị thế giới cô lập trong nhiều năm dài, đồng thời làm hao tổn thêm sinh mạng và tài nguyên dân tộc. Hậu quả là CSVN phải dựa vào khối cộng sản Liên Xô thời đó để sống còn.

Thứ ba là ngược đãi và phân biệt đối xử đối với người dân miền Nam, đặc biệt là đối với con em trong các gia đình có người thân là quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa như không được ghi danh vào đại học, không được nhận vào các cơ quan quốc doanh. Hậu quả của chính sách ngược đãi này đã biến hàng triệu người thành loại “công dân hạng hai” trên một đất nước gọi là hòa bình, thống nhất, làm phí phạm nhân tài của đất nước, và khiến hiện tượng “chảy máu chất xám”, vượt biên gia tăng.

Thứ tư là nạn tham ô, cửa quyền phát sinh từ bộ máy độc đảng, độc quyền của đảng CSVN đã làm cho đất nước Việt Nam tiếp tục suy kiệt vì tài nguyên quốc gia chạy vào túi riêng của cán bộ các cấp với những kế hoạch đầu tư hoang tưởng.

Nói tóm lại, 40 năm qua, đất nước Việt Nam đã bị biến thái thành một xã hội phân cực giàu nghèo một cách cùng cực vì nạn tham ô, chuyên quyền và sứ quân của chế độ toàn trị.



Thanh Thảo: Trong phần chia sẻ vừa rồi ông có đề cập ngày 30/4 là khởi điểm của một cuộc đấu tranh mới. Tại sao gọi là mới và nhìn lại 40 năm qua, cuộc đấu tranh đã có những diễn tiến và thành tựu như thế nào thưa ông?

Lý Thái Hùng: Tôi nghĩ cuộc đấu tranh mà dân tộc Việt Nam đang tiến hành kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc đấu tranh mới vì hai lý do sau đây:

Thứ nhất, đây là cuộc đấu tranh không nhằm phục hồi lại chính thể Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam mà có mục tiêu triệt để là chấm dứt ách độc tài của đảng cộng sản trên toàn thể đất nước. Chính vì mục tiêu này mà cuộc đấu tranh đã không chỉ giới hạn ở miền Nam hay ở miền Bắc mà đã lan rộng trên toàn thế giới với sự tham gia và hưởng ứng của người Việt yêu nước khắp nơi.

Thứ hai, đây không phải là cuộc chiến tranh dựa trên súng đạn, xe tăng, máy bay theo lối đánh quy ước trước năm 1975, mà là cuộc đấu tranh dựa trên sự căm phẫn của người dân vùng lên chống lại một thiểu số cai trị độc tài. Nói cách khác, cuộc đấu tranh hiện nay là cuộc đấu tranh “dựa trên chính nghĩa để huy động toàn dân, dựa trên chính nghĩa để tranh thủ thế giới và dựa trên chính nghĩa để khuất phục đối thủ”. Đây là cuộc đấu tranh “toàn dân, toàn diện” mà ai cũng có thể tham gia và cần tới tất cả mọi người, trong mọi lãnh vực để bao vây, tạo áp lực và làm ruỗng nát các cột trụ chống đỡ chế độ.

Với nền tảng mới của cuộc đấu tranh sau năm 1975 như vậy, nhìn lại những nỗ lực đấu tranh và tình hình đất nước trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi Khối 8406 ra đời vào tháng 4 năm 2006 cho đến nay, chúng ta có thể tóm gọn qua hình ảnh của 5 đợt sóng như sau:

Đợt sóng đầu tiên phải nói đến sức đấu tranh bền bỉ và can đảm của các nhà đấu tranh dân chủ và bà con dân oan đã từng lớp nhồi cưỡi lên nhau, chồng chất vươn cao: đợt đầu bị bắt, bỏ tù thì lại có đợt sau xuất hiện đông hơn, tỏa rộng hơn, quyết liệt hơn.
Đợt sóng thứ hai chính là sự chán chường, mất niềm tin trong nội bộ đảng CSVN tạo ra làn sóng thoái đảng, chống đảng, bỏ đảng đang đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Đợt sóng thứ ba là những hỗ trợ của dư luận quốc tế, của các tổ chức nhân quyền thế giới tỷ lệ thuận với nỗ lực đấu tranh của người Việt Nam. Đặc biệt là những hỗ trợ này đã tiến hành ngay tại Việt Nam.
Đợt sóng thứ tư là sự xuất hiện của mạng Internet và mạng xã hội đã phá vỡ bức màn bưng bít của CSVN với sự ra đời của làn sóng truyền thông lề trái – còn gọi là truyền thông phi nhà nước – gây rất nhiều lúng túng cho chế độ.
Đợt sóng ngầm sau cùng chính là thượng tầng lãnh đạo không còn là khối thuần nhất với sự kèn cựa, đấu đá lẫn nhau giữa các phe nhóm mà biểu hiện rõ nhất hiện nay là phe bám vào Trung Quốc và phe chủ trương thoát vòng lệ thuộc Trung Cộng.


Cả 5 đợt sóng đang hòa mình trổi dậy thành ngọn sóng thần, có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong hoàn cảnh sôi sục và chín mùi của đất nước chúng ta ngày hôm nay, và sẽ quét sạch đi mọi tàn tích của độc tài đảng trị để dân tộc có cơ hội vươn lên. Và mỗi một chúng ta đều có thể đóng góp phần nhỏ bé nhưng thiết yếu của mình vào đại cuộc chung.

Thanh Thảo: Song song với công cuộc đấu tranh tại Quốc Nội, theo ông thì trong 40 năm qua, Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại đã có những đóng góp gì đáng kể vào công cuộc chung bên cạnh những thành tựu trên con đường hội nhập nơi xứ người?

Nhờ sống trong môi trường tự do và dân chủ tại các quốc gia tiếp cư, người Việt tỵ nạn – tuy rất vất vả trong những ngày đầu lưu vong – nhưng hầu hết mọi người đã nhanh chóng tạo dựng một cuộc sống ổn định và đa số có mức sống trên trung bình.

Đây là những nhân tố quan trọng góp phần tạo ra những trung tâm thương mại to lớn của Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc Châu, Pháp, Đức… Đồng thời những trung tâm này đã trở thành một tiêu biểu cho sức vươn lên của khối người Việt hải ngoại trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với quốc gia tiếp cư.

Nhưng điểm đáng nói của Cộng đồng người Việt hải ngoại trong 40 năm tỵ nạn là giữ vững lập trường đấu tranh chống độc tài cộng sản một cách quyết liệt và không khoan nhượng trước những chính sách chiêu dụ “hòa giải, hòa hợp” của thiểu số lãnh đạo CSVN. Nhờ vậy mà Cộng đồng hải ngoại đã đóng góp 3 nỗ lực rất thiết yếu cho công cuộc đấu tranh chung hiện nay.

1/Tranh thủ sự hậu thuẫn của thế giới đối với công cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa hiện nay của dân tộc Việt Nam. Đồng thời vận động thế giới áp lực CSVN phải tôn trọng nhân quyền và ngăn chận những đàn áp đối với các nhà dân chủ tại Việt Nam.

2/Làm cho CSVN thất bại trong kế hoạch bao vây kinh tế đối với các nhà dân chủ và những người yêu nước bằng sự kiên trì hỗ trợ tài chánh, phương tiện để bà con quốc nội có điều kiện thăm nuôi thân nhân bị tù, thuốc men chữa bệnh; mướn luật sư bênh vực, nhất là giúp bà con dân oan có phương tiện đi tìm công lý…

3/Góp phần phá vỡ bức màn bưng bít của CSVN dưới nhiều hình thức và nhất là tạo một chỗ dựa tình thần cho các nhà dân chủ, các tổ chức đấu tranh trong nước để có thể vượt qua tình trạng khống chế, cô lập của bộ máy an ninh.

Nói tóm lại, sự hiện hữu của Cộng đồng người Việt tại hải ngoại sau năm 1975 đã trở thành một nhân tố quan trọng hỗ trợ cho phong trào dân chủ ngày một lớn mạnh, vượt qua mọi khó khăn, sóng gió để từng bước đối đầu công khai với chế độ Hà Nội.



Thanh Thảo: Nhìn lại sức mạnh của đảng CSVN vào lúc họ chiếm miền Nam ngày 30/4 năm 1975 so với tình trạng của đảng CSVN ngày nay, ông nhìn về viễn cảnh tương lai Việt Nam trong thời gian tới như thế nào thưa ông?

Lý Thái Hùng: So sánh CSVN khi tiến chiếm Sài Gòn 40 năm trước đây với ngày hôm nay, chế độ Hà Nội hiện đang bị suy yếu đi rất nhiều. Sự suy yếu này là hệ quả tất nhiên của đường lối cai trị thoái hóa, lạc hậu của chế độ; nhưng quan trọng nhất vẫn là ý chí và sức mạnh đấu tranh của đại khối dân tộc ở trong và ngoài nước đang ngày càng thêm lớn mạnh; CSVN không còn có thể dập tắt như nhiều thập niên trước đây.

Những diễn biến xã hội như vụ chống chặt cây xanh ở Hà Nội, chống lấn, lấp sông Đồng Nai, chiếm Quốc lộ 1A để chống ô nhiễm nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân II tại Bình Thuận, vụ đình công tại khu chế xuất Tân Tạo chống điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội v.v… đã đưa ra tín hiệu rằng tình hình Việt Nam đang bước vào một giai đoạn bất ổn khó lường.

Từ nền kinh tế suy sụp trầm trọng, tới những rạn nứt không thể phủ nhận trong nội bộ lãnh đạo đảng CSVN và nhất là tình trạng biến loạn xã hội đang chực chờ bùng nổ; tất cả đang tạo ra những áp lực thay đổi thể chế chính trị mạnh mẽ tại Việt Nam trong một tương lai rất gần.



Thanh Thảo: Xin cảm ơn ông Lý Thái Hùng.
To Cam Hoa Bài viết không tựa đề của Xuân Trần 

Cộng sản rêu rao là họ thắng lợi nhờ chủ thuyết Mác-Lê. (CS VN thêm tư tưởng Hồ Chí Minh cho có vẻ “dân tộc”!)Sự thực đó chỉ là những lợi khí đấu tranh, rút ra từ kinh nghiệm xã hội đầy dẫy bắt công, người bóc lột người. Mác nêu chiêu bài “giải phóng vô sản, đòi công bằng xã hội”. Thuyết đó đã được nhiều người theo. Xã hội càng nghèo đói, càng lạc hậu thì càng có nhiều người theo. Nhưng khi đã thành công, cộng sản cũng không làm cho đời sống tuyệt đại đa số tốt đẹp hơn. Có khi vì kỹ thuật kiểm soát của cộng sản khoa học hơn, con người còn cảm thấy khốn nạn hơn! Do đó, sau 70 năm, cộng sản quốc tế tan rã như bùn lầy.

Tại Việt Nam, từ nửa thế kỷ 20 tới nay, chúng ta chống cộng mà vẫn chưa thành công. Vì quan niệm chống cộng của ta, có lẽ vì tính chất di truyền, không thực tế. Chúng ta nói cộng sản có lý thuyết, chúng ta cũng phải có lý thuyết đối chọi. Rốt cuộc chúng ta có quá nhiều lý thuyết, nhiều giả thuyết. Có người chủ trương lấy lập trường “quốc gia dân tộc” chống lập trường quốc tế cuả cộng sản. Chúng ta quên rằng cộng sản đề xướng chủ nghĩa quốc tế, nhưng vẫn nêu chiêu bài phát triển quốc gia, khích động lòng tự ái dân tộc để huy động quần chúng. Có người dựa vào thuyết duy linh, duy tâm, và nhiều thứ duy khác, để chống thuyết duy vật của cộng sản. Duy vật là căn bản tư tưởng và lý luận cộng sản dùng để hướng dẫn quần chúng tranh đấu giành cơm áo và quyền lợi (tối hậu là cho đảng). Trên thực tế,mỗi khi cần huy động quần chúng, họ khơi động thất tình lục dục của con người một cách tinh vi. Triết gia Jean Paul Sartre, lý thuyết gia mác xít Trần Đức Thảo, rồi nhà khoa học Hà Sĩ Phu, tướng Trần Độ, và rất nhiều đảng viên cộng sản gộc khác, đã xác nhận là “Mác xít duy vật trên lý thuyết, mà khi áp dụng, thì lại duy tâm cùng cực”. Không có chế độ nào giỏi hứa hẹn, làm cho người ta hi vọng, tin tưởng vào thiên đường hạ giới như cộng sản. Lý thuyết chống cộng của chúng ta đã nhiều, mà vẫn có người luôn luôn đẻ ra nhiều lý thuyết mới. Nhiều, nhưng kết quả vẫn là chưa giúp gì cho công cuộc phục hồi tư do cho xứ sở và đồng bào ta. Lý thuyết nhiều, thì người theo cũng nhiều hướng. Rốt cuộc chia năm xẻ bẩy. Tiềm lực chống cộng mỗi ngày một yếu đi! Thậm chí còn xem đường lối lý thuyết của mình là nhất. Ai không theo là cộng sản! Chắc chắn không có gì làm cho cộng sản vui mừng hơn!
Nguyên lý giản dị là hễ đã là lý thuyết, thì không hẳn là thực tế. Càc lý thuyết gia có thể cãi nhau đến tận thế mà không có kết luận! Và mỗi phe vẫn bám vào lý thuyết của mình. Nhất là các ngài lãnh tụ không biết mà cũng không dám phục thiện, kể cả khi đã thất bại vì đụng chạm với thực tế! Phục thiện thì sợ bị “mất uy tín” với người đã nghe theo mính! Đó là cái vòng lẩn quẩn!

Nếu Âu Châu mà đẻ ra được một lý thuyết chống cộng hữu hiệu, thì họ đã không phải chờ gần cả thế kỷ, cho đến khi Liên Xô và khối cộng sản tự tan rã vì kính tế cộng sản suy sụp, xã hội cộng sản lầm than điều đứng. Tây phương thắng cộng sản không phải nhờ vào lý thuyết,mà nhờ xây dựng xã hội tư do dân chủ, phú cường. Nếu có một lý thuyết,thì đó là lý thuyết phục vụ hạnh phúc con người.
Tại nước ta, có người nghĩ rằng nên dựa vào tín ngưỡng, tôn giáo để chiến thắng cộng sản. Tín ngưỡng là một nhu cầu thiêng liêng của con người, để giải quyết những vấn đề nan giải trên trần thế. Do đó không ai phủ nhận được khả năng tập họp của tôn giáo. Cộng sản đàn áp tín ngưỡng vì họ sợ khả năng qui tụ của tôn giáo, lúc nào cũng đe dọa quyền độc tôn lãnh đạo của đảng. Nhưng sự qui tụ do tín ngưỡng chú trọng phần tâm linh, phần linh hồn,thuộc về đời sống ngoài cuộc sống hiện tại. Trước khi có cộng sản hay độc tài, đã có tín ngưỡng, và tôn giáo đã có khả năng qui tụ vô địch! Do đó, lực lượng tôn giáo chỉ thành sức mạnh chống cộng sản, độc tài, khi tôn giáo bị đàn áp. Nếu sự đàn áp chấm dứt thì sức chống cũng chấm dứt. Trong trường hợp việc đàn áp chưa rõ rệt, thì tôn giáo tự nó chưa có điều kiện thành một thế lực chống đối, trừ khi có người lèo lái, dàn cảnh tôn giáo bị đàn áp như thời Đệ Nhất Cộng Hoà. Mà kết quả cũng chỉ nhất thời.

Trong các cuộc nội chiến, chiêu bài tôn giáo được nêu lên để phục vụ cho nhiều phe phái tranh giành quyền lợi. Vì tôn giáo tự nó không thể là chất xúc tác mạnh, nên các lãnh tụ luôn luôn khai thác tình trạng xã hội cần thay đổi để làm lợi thế cho mình. Khi đã thành công, nhiều lãnh tụ dựa vào tôn giáo để cai trị, điển hình là Iran. Cũng không được bao lâu, vì người dân tuy thiết tha với tôn giáo, nhưng nếu lãnh tụ không đem lại tự do, hạnh phúc như đã hứa, thì dân chúng cũng không thể tin tưởng lâu dài Cộng sản Việt-Nam đã học được bài học đó, cho nên hành động của họ vừa đánh vừa thoa. Hiện nay, họ lập các tổ chức tôn giáo quốc doanh, là để thỏa mãn nhu cầu thiêng liêng của tín đồ các tôn giáo. Cộng sản quan niệm tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ. Do đó họ cô lập tôn giáo đối với các sinh hoạt khác của quốc gia. Họ muốn tín đồ chỉ biết tụng niệm, cầu nguyện, mà quên các lãnh vực khác của đời sống. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng đã thấy âm mưu thâm độc đó, nên vẫn đề cao cảnh giác và thức tỉnh tín hữu của họ.

Nhưng dù tín đồ có chống cộng, thì đó cũng chưa phải là hành động tích cực, vì họ vẫn chỉ chống để bảo vệ đức tin của họ. Muốn cho tôn giáo thành lực lượng chống cộng tích cực, hữu hiệu, tôn
giáo phải vận dụng khả năng qui tụ của mình, dùng vào mục đích giải quyết các vấn đề thiết thực của đời sống. Hơn nữa, một quốc gia gồm nhiều cộng đồng tôn giáo. Giáo lý khác nhau, nhiều khi đối nghịch, cũng như các triết thuyết và chủ thuyết chính trị. Thành thử dựa vào tôn giáo để thực hiện mục tiêu chống cộng sản độc tài, có khi còn tạo sự chia rẽ, xung đột trong cộng đồng quốc gia, như chúng ta đã từng thấy.
Cộng sản rất sợ quan niệm “nhập thếù cứu đời” của tôn giáo, nên họ đã tạo muôn ngàn khó khăn để ngăn cản tôn giáo tham gia tích cực xây dựng đời sống xã hội. Cứ xem việc họ bỏ tù các nhà lãnh đạo Phật Giáo cứu trợ nạn lụt mấy năm trước đây thì biết!

Tổ chức Pháp Luân Công bên Trung Hoa làm cho giai cấp cộng sản thống trị lo sợ vì tuy người ta gọi là giáo phái, nhưng họ không có sự gò bó nào, chỉ nhằm tạo cho tín hữu cơ hội thoải mái tầm hồn và thể xác. Sống trong một xã hội bị kiểm soát gắt gao, con người sẽ sung sướng có được cơ hội đó mà không bận bịu, tốn hơi sức gì cả. Không rõ ông Lý Hồng Chi thuộc thành phần xã hội nào, nhưng chắc chắc là người rất thạo khoa tâm lý. Giới bình dân tin là giáo phái này có khả năng trị bệnh không cần thuốc men. Điều đó không biết có đúng không, nhưng người mặc bệnh thông thường, nhức đầu nghẹt mũi, mà theo cách tập luyện đó thì cũng có thể có kết quả.Đã sẵn có niềm tin,lại gập một vài sự trùng hợp, họ đinh ninh là linh nghiệm, rồi tin hơn nữa,cũng là chuyện thường. Cứu nhân độ thế được hay không chưa rõ, nhưng rõ ràng là họ đáp ứng được nhu cầu của dân chúng cần giải tỏa những cực nhọc, lo âu, khó chịu của xã hội Trung Hoa dưới chế độ cộng sản hiện nay
.
Sau khi nỗ lực đàn áp, bắt bớ, Trung Cộng đã có hành động rất lố bịch yêu cầu Hoa Kỳ dẫn độ,Cảnh Sát Quốc Tế (Interpol) tróc nã ông Lý Hồng Chi cư ngụ tại New York. Hoa Kỳ và Interpol từ chối,vì ông không phạm tội hình sự! Pháp Luân là bánh xe lăn, biểu tượng của Phật Giáo, biến chuyển không ngừng theo thuyết vô thường. Đã biến chuyển, vô thường thì đàn áp thế nào được? Oâng Lý quả quyết Pháp Luân Công không có mục tiêu chính trị, không chống chế độ Trung Cộng. Nhưng nếu bị đàn áp, tự nó sẽ trở thành một thế lực chính trị chống đối, cùng với những tôn giáo, tổ chức chính trị khác cũng đang bị đàn áp. Không ai nói trước được kết quả. Nhưng sau nhiều năm đàn áp ráo riết, T C không dập tắt được phong trào này, dưới nhiều dạng khác nhau. Nhiều dạng nhưng cốt lõi vẫn là một. Trong cái vô thường của bánh xe lân, vẫn có cái thường muôn thuở, lăn đi tìm tự do hạnh phúc.

Nói một cách khác, chúng ta không thể chống cộng,chống độc tài hữu hiệu, nếu chúng ta trụ vào một triết thuyết, một tôn giáo nào đó. Nếu vin vào một lý thuyết, chúng ta không thể tập trung toàn lực để chống cộng, nên đại cuộc của chúng ta khó khăn hơn gấp bội. Khi thành công rồi, chúng ta lại cũng phải trụ vào lý thuyết đó, trở thành giai cấp cai trị mới. Đó là thực trạng của các chế độ cộng sản, độc tài từ xưa nay.

Do đó,để chống cộng thành công,chúng ta phải làm hai việc:
1.- Tìm hiểu hiện trạng và nhu cầu của cộng đồng dân tộc.
2.- Có một giải pháp khác, thay cho giải pháp cộng sản.
Có thể nói là từ lâu, chúng ta chống cộng một cách tiêu cực. Tiêu cực đây không phải là không chống đối mạnh mẽ, với hết sức lực, khả năng của mình. Nhưng vì chúng ta xem việc chống cộng là mục đích. Chúng ta gần như tranh nhau thành tích chống cộng! Như vậy, ngay trong lúc chống cộng chúng ta đã chia rẽ. Nói chi đến lúc thành công, được hưởng quyền lợi! Nếu có một biến cố nào đó giúp chúng ta thắng CS, trong khi không có giải pháp thay thế cộng sản, thì nguyên nhân để cho cộng sản tồn tại vẫn còn đó. Cứ xem Nga và nhiều nước Đông Âu hiện nay thì biết. Hơn nữa công cuộc chống cộng của chúng ta đang gập muôn ngàn khó khăn ngoại lai, vì các thế lực quốc tế. Phải thành thực mà nhận rằng hiện nay Hoa Kỳ và Tây Phương chẳng những không muốn, mà còn ngăn cản việc lật đổ chế độ CSVN. Chúng ta càng làm sáng tỏ chính nghĩa quốc gia, họ càng ngần ngại. CSVN đang o bế họ, thì việc gì họ phải buông ra để đón mời chúng ta?

Đã vậy, lợi khí quốc gia dân tộc của ta, về phương diện tư tưởng, bị hiểu là tiêu cực, vì chỉ nói chống cộng mà không nói rõ, không có kế hoạch chống cộng rồi làm gì và làm thế nào. Lợi khí đó lại không được xử dụng một cách sắc bén. Các chủ thuyết chính trị hiện nay của chúng ta quá nhiều, quá loãng, không có khả năng qui tụ. Tôn giáo tự nó có khả năng qui tụ, nhưng không xử dụng được hữu hiệu, vì tựu trung tôn giáo chỉ giải quyết các vấn đề riêng rẽ, đặc thù của họ, mà không có chương trình hành động để giải quyết được các vấn đề của quốc gia dân tộc.

Thỉnh thoảng, chúng ta có vài cơ hội để qui tụ quần chúng, nhưng căn bản là sự điều hoà giữa lãnh đạo và quần chúng lại không có,không liên tục, nên có tiến được một bước,rồi cũng nằm lại đó. Phải nhìn nhận là cộng sản có kỹ thuật dân vận cao. Nhưng phương pháp của họ đòi hỏi sự đóng góp hi sinh qua lớn, mà thiên đàng hứa hẹn lại mãi mãi xa vời, nên sự bất mãn tiềm tàng đã biến thành hiện tượng chống đối rất rõ và rất mạnh. Nếu thời cơ đến, bất cứ một thế lực nào cũng có thể phất cờ giải phóng thành công. Vì vậy mà cộng sản rất lo sợ, ra sức bóp chết nguy cơ dù lớn dù nhỏ, ngay từ trong trứng nước. Tiếc là bài học thất bại của cộng sản thế giới, và nguy cơ thất bại của cộng sản VN chưa được chúng ta khai thác đúng mức. Chính vì chúng ta đang có những khuyết điểm nội tại, mà chúng ta không thấy, hay không chịu thấy.

Hãy lấy một ví dụ: Vào cuối thập niên 50, chính sách Phát Triển Cộng Đồng của Đệ Nhất Cộng Hòa, tuy có đem lại cho xứ sở bộ mặt tươi sáng hơn, nhưng lại đòi hỏi sự đóng góp quá nhiều của quân chúng, nhất là ở thôn quê. Vì chúng ta muốn làm gấp, nên thiếu sự giải thích thông cảm với quần chúng. Cộng sản Bắc Việt khai thác triệt để tâm lý này, vừa căn cứ trên một phần thực tế, vừa tuyên truyền xuyên tạc để khích động sự bất mãn. Đầu thập niên 60, cộng sản VN được Trung Cộng dậy khôn, thành lập quân đội, Mặt Trận,rồi Chính phủ “Giải Phóng Miền Nam”, được sự hưởng ứng của một số ngưới Việt bất mãn, đứng núi này trông núi no. Để đối phó,Đệ Nhất Cộng Hòa đưa ra Quốc Sách Ấp Chiến Lược. Cũng như lần trước, chúng ta cô lập được cộng sản, nhưng cũng vì làm gấp, dân chúng lại phải đóng góp, phải thay đổi nếp sống mau chóng, mà không được giải thích. Do đó có sự cách biệt giữa quần chúng và lãnh đạo. Đành rằng nguyên nhân chính là vì Hoa Kỳ muốn nắm quyền lãnh đạo chiến tranh, thuê mướn một số người làm đảo chính, nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là do sự thiếu thông cảm giữa quần chúng và lãnh đạo.

Cộng sản miền Bắc đầy đọa dân chúng. Dĩ nhiên nỗi bất mãn không bút nào tả xiết. Nhưng miền Nam không khai thác được, vì chính mình cũng có những khuyết điểm không khắc phục kịp thời. Chế độ Cộng Hòa Miền Nam cho rằng chính sách của mình tốt, do thiện chí yêu dân yêu nước.Nhưng Đệ Nhất Cộng Hòa thất bại. Rồi Đệ Nhị Cộng Hoà càng bết bát hơn gấp bội. Công cuộc chống cộng của chúng ta ngày nay cũng vậy, đang gập những trở lực ngoại lai và nội tại như thế. Do đó quan niệm chống cộng của chúng ta cần phải chấn chỉnh.

Chúng ta biết rằng lý do của cuộc sống là một lý do cá nhân, ai cũng có quyền tự do hành động. Không có tự do thì không có lý do để tồn tại. Nhưng điều kiện của cuộc sống lại là điều kiện tùy thuộc cộng đồng. Ngoài cộng đồng, cá nhân không thể tồn tại phát triển. Một phi công tài ba bay lộn trên vòm trời cao vút, nhưng rốt cuộc vẫn phải có sân đáp. Bay mãi rồi cũng phải hết xăng!
Giới tự nhận là lãnh đạo chống cộng của chúng ta hiện nay có thể chia làm hai hạng. Hạng thứ nhất là “lãnh đạo tháp ngà”, vừa cô đơn, vừa lập dị, không muốn hội nhập vào cộng đồng. Hạng thú hai là hạng “bung xung như Don Quichote”, chỉ muốn dùng cộng đồng để làm nổi vai trò cá nhân, đưa tới tình trạng chia rẽ, có khi thù nghịch, giết nhau trước khi giết được kẻ thù. Chỉ khi nào chúng ta có được những người lãnh đạo thành tâm hòa mình với cộng đồng, không nhất thiết phải hi sinh cá nhân, nhưng biết đặt mục đích, nhu cầu cá nhân, phe nhóm sau nhu cầu và mục đích của cộng đồng, lúc đó chúng ta mới có hi vọng chiến thắng cộng sản vậy. -Gieo gì thì gặt đấy

Nguyễn Bắc Truyển (Danlambao) - Tháng 6 năm 2007, tôi bị chuyển từ nơi tạm giam số 4 Phan Đăng Lưu đến trại giam Chí Hòa, sau đó chuyển tiếp đến trại giam Bố Lá (Bình Dương). Tháng 8/2007, tôi đến phân trại số 1 - trại giam Xuân Lộc để bắt đầu thi hành án tù 3 năm 6 tháng với tội danh bị gán "tuyên truyền chống nhà nước". Thời gian 1 năm 5 tháng, tôi bị giam chung với tù thường phạm (hình sự, kinh tế) trước khi bị chuyển vào K2 - trại giam Xuân Lộc giam riêng hay còn gọi là biệt giam trong khu tù nhân chính trị.

Tại số 4 Phan Đăng Lưu, tôi chung phòng giam với Phong tự Út đẹt. Em khoảng 20 tuổi nhưng vóc dáng thì chỉ bằng đứa trẻ 15-16 tuổi, bị bắt vì tội "trộm dây điện", có nghĩa là em trèo lên cây cột điện rồi cắt dây điện (đang có điện) lấy lỏi đồng đem bán ve chai, một công việc liều mạng giống như cưa bom lấy thuốc nổ. Phong bị cáo buộc là đầu vụ (người cầm đầu), nếu bị kết án cũng từ 5 đến 10 năm tù giam. Phong không có người thăm nuôi, mẹ sống trong nhà dưỡng lão, cha qua đời, người chị ruột bán vé số. Trước khi bị bắt, Phong cũng không có nơi ở cố định, sống lang thang bằng đủ thứ nghề lương thiện và không lương thiện ở khu vực An Sương (quận 12, Sài Gòn). Phong là người tù hình sự duy nhất muốn trở thành người lương thiện sau khi hết án tù mà tôi gặp. Em nói với tôi là hãy giúp em được học nghề sửa xe gắn máy để có một công việc ổn định không đi ăn trộm, ăn cắp và tôi đã hứa sẽ giúp em thực hiện ước mơ đó sau khi gặp nhau bên ngoài. Sau này ra tù, tôi có dò hỏi tin về Phong thì được biết em đã mất tại trại giam Chí Hòa vì căn bệnh kiết lỵ. 

Tôi bị chuyển đến Chí Hòa vào tháng 6/2007, khu F gác 3. Trong phòng trên 40 người hầu hết là tù hình sự vài người là tù kinh tế. Có dịp nói chuyện với các em còn rất trẻ tôi ngạc nhiên với thành tích vào tù ra khám dù rằng có em còn chưa đủ tuổi thành niên. Khóa tù đầu tiên là trộm cắp, khóa tiếp theo là cướp giật, khóa tiếp là cướp xỉ (chĩa dao cướp), cướp bằng hàng nóng (súng)... Như vậy sau mỗi lần vào tù, kinh nghiệm và tay nghề của các em được nâng lên một bậc, số má trong giang hồ cũng tăng lên. Trước đây là đàn em của đại ca thì bây giờ đã là đại ca của nhiều người. Có em hỏi tôi: chú là giám đốc, vậy chú trả lương cho nhân viên chú bao nhiêu? Tôi trả lời là từ hai triệu đến vài triệu tùy theo công việc và năng lực. Em nói, như vậy không bằng con vào vũ trường một đêm thì làm sao con làm việc cho chú được. Tôi hỏi, vậy sau khi ra tù con dự tính làm gì? Em nói không một chút do dự là sẽ tiếp tục đi cướp, đời con kiếp này đã tàn rồi, không có cơ hội quay đầu. Các trại giam tôi đi qua không còn một ai mà tôi gặp tỏ ra hối hận về những tội ác mình gây ra, họ cho rằng sở dĩ phải phạm tội là do hoàn cảnh bắt buộc, có người còn nói họ là nạn nhân của xã hội và chế độ này, nghe ra cũng có lý lắm chứ. 

Sự ngạc nhiên chưa dừng lại, khi lên đến Bố Lá, Xuân Lộc, tôi còn bị bất ngờ hơn khi đa số là án tù "khủng" với nhiều người ra vô từ hai khóa trở lên, có người thời gian trong tù còn nhiều hơn bên ngoài. Vừa ra tù chưa về đến nhà là nghe tin đã bị bắt lại vì trộm cắp. Tôi tự hỏi nhà tù đã làm gì để cho con người hướng thiện sau khi rà tù? hay chỉ là nơi đào tạo con người ranh mãnh hơn, ma lanh hơn và ra tay tàn độc hơn? Tôi đã từng đề xuất với trại giam nên có tủ sách về pháp luật cho người tù đọc, nên cho các tổ chức tôn giáo vào ủy lạo và thuyết giảng, nhưng không biết Ban giám thị sợ chuyện gì mà không dám thực hiện. 

Một Lê Văn Luyện giết người, chặt tay em bé để cướp vàng, rồi bây giờ tới một lũ côn đồ chặt tay cô gái cướp xe, Nghe mà kinh khủng, thấy tàn ác và dã man như xã hội thời Trung cổ. Nhớ lại sau tháng 4/75, cái gì cũng đỗ cho "tàn dư chế độ cũ", ma túy xì ke, gái điếm, trộm cắp, cướp... còn bây giờ tội phạm ngày càng được trẻ hóa, có người còn được thừa hưởng nền giáo dục XHCN. Xã hội suy đồi đến mức nghe mà lắc đầu ngao ngán vì không biết phải bắt đầu từ đâu để ngăn ngừa tội ác, chỉ có những kẻ tâm thần mới nói không có vấn đề. 

Trước năm 75, miền Nam chỉ có vài nhà tù, án trên 5 năm là đã ra Côn Đảo, còn ngày nay, trại giam cấp bộ, trại giam cấp tỉnh, huyện/quận nào cũng có trại tạm giam; chưa nói đến trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục mà không khác gì nhà tù, án tù 5 năm được xem là án nhẹ trong khung hình phạt tù hình sự. Đâu rồi tính ưu việt của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa? 

Ông bà ta nói: gieo gì thì gặt đấy. Chuyện trẻ em dưới vị thành niên phạm tội giờ đây không còn là chuyện lạ, đến nỗi các ông bà nghị sỹ quốc hội đã đề xuất giảm tuổi chịu trách nhiệm hình sự xuống dưới 18 tuổi. Một thời gian quá dài và quá đủ để sản sinh ra một thế hệ hay vài thế hệ con người dửng dưng vô cảm với tội ác. Giáo dục không lấy nền tảng đạo đức làm trọng, chỉ lấy thành tích giả dối làm thước đo đánh giá hiệu quả thì làm sao mà có được những con người lương thiện tránh xa cái ác, cái xấu, may mà tôn giáo vẫn còn là cứu cánh cho con người đi vào con đường thiện. 

Hội đồng nhân dân TP HCM đang bàn thảo về nạn cướp giật trên đường phố, thật ra đó chỉ là một mảng của tội phạm, Giết người cướp của, giết người vì va chạm xe cộ, giết người chỉ vì lời qua tiếng lại, giết người vì tranh giành khu vực bảo kê, giết người vì say rượu, phê ma túy hay đơn giản là lấy tiền chơi game, cách đây không lâu một vụ giết người (quan chức) vì vợ của kẻ thủ ác bị sa thải... các tội ác này đang diễn ra trên khắp các thành thị náo nhiệt hay vùng quê hiền hòa của đất nước Việt Nam. Mạng con người trở nến rẻ rúng, lơ lửng như chỉ mành treo chuông, có người bị chết mà chẳng biết vì sao mình phải chết. 

Thưa các ông, các bà nghị viên, nếu như đất nước Việt Nam còn vẫn duy trì chế độ cai trị độc tài thì tội ác sẽ tiếp tục gia tăng, nhà tù sẽ nhiều hơn trường học, bệnh viện. Đó là vấn đề mà các ông bà nghị sỹ quốc hội, nghị viên hội đồng cần bàn bạc để kiến nghị với cái đảng mà ông bà đang tham gia nên sáng suốt mà thay đổi triệt để, đừng mị dân nữa, đừng cho dân ăn cái bánh vẽ thiên đường XHCN. Hãy trả lại cho người dân Việt Nam quyền tự quyết, đừng cho mình cái quyền muốn làm gì thì làm, đem đất nước dân tộc ra làm thí nghiệm. 

Thể chế cộng sản ngày nay đâu còn tồn tại bao nhiêu quốc gia, sự thịnh vượng bền vững của nhân dân của đất nước đâu có trong bất kỳ chế độ cộng sản nào. Trung cộng được xem là nền kinh tế thứ hai Thế giới cũng chỉ là anh chàng khổng lồ trên đôi chân bằng đất sét, quá nhiều mâu thuẫn bất công, chênh lệch trong xã hội. CNXH mang màu sắc Trung quốc (tương tự của cái gọi kinh tế thị trường định hướng XHCN) cũng chỉ là kinh tế tư bản cộng với cai trị độc tài, nó đang bộc lộ những khuyết tật mà trong tương lai gần sẽ làm cho Trung quốc vỡ ra thành nhiều quốc gia nhỏ hơn, điều mà Liên Xô đã từng mắc phải và Trung quốc cố tránh nhưng không thể. 











Tổng số lượt xem trang