Ngô Nhân Dụng
Ðầu năm 2013 một nhà kinh tế mới qua đời nhưng ít được báo chí ở Mỹ loan tin. Ông là một người đã tiên đoán tình trạng khiếm hụt ngân sách và nợ chồng chất gây tê liệt trong chính quyền và Quốc hội từ hai năm nay; tháng tới lại sẽ tái diễn.
Chỉ phân tích cách quyết định việc chi thu của Quốc hội trong ngân sách quốc gia, James Buchanan đã báo trước là chính phủ liên bang sẽ càng ngày càng thiếu hụt, các món nợ công sẽ lên ngập đầu. Lý do chính là vì các đại biểu Quốc hội phải lo đáp ứng những đòi hỏi của các cử tri đã giúp họ đắc cử, tiêu biểu là những nhóm quyền lợi riêng biệt (tư lợi, special interests). Các ý kiến của ông được đặt tên là Lý thuyết về Lựa chọn Tập thể (Public Choice Theory); ông được trao giải Nobel về Kinh tế học năm 1986 về những đóng góp này.
Buchanan thường được coi như một nhà kinh tế bảo thủ, vì ông chủ trương phải giảm bớt luật lệ và thu gọn vai trò của chính phủ đến mức tối thiểu. Nhưng ông cũng là người chủ trương nên đánh thuế di sản tới 100%, một điều mà giới bảo thủ kịch liệt chống, vì họ thấy suất thuế 35% đã là quá cao rồi! Buchanan lý luận rằng việc thừa hưởng di sản là trái với quy tắc bình đẳng trong cơ hội, vì những người hưởng di sản được chiếm địa vị ưu đãi so với người khác. Ông viết, “Bảo đảm một số quyền bình đẳng về cơ hội là triết lý căn bản của một xã hội tự do,” trong cuốn The Limits of Liberty, năm 1975 viết chung với Robert P. Tollison. Cho đến khi qua đời, thọ 93 tuổi, ông vẫn là một người suy nghĩ tự do và độc lập, mối quan tâm chính là ích lợi chung.
Người Việt Nam nên biết cách suy nghĩ của James Buchanan. Cách phân tích của ông có thể giúp chúng ta hiểu rõ nguyên ủy của nạn tham nhũng lan tràn hiện nay cũng như tình trạng đấu đá tranh quyền trong nội bộ đảng Cộng sản. Tất cả bắt nguồn từ những Lựa chọn Tập thể sai lầm ngay từ đầu.
Trong cuốn “Bài toán về Thỏa thuận,” The Calculus of Consent, viết cùng Gordon Tullock năm 1962, Buchanan đặt tựa nhỏ: “Những Nền tảng Luận lý của Chế độ Dân chủ Hiến định,” Logical Foundations of Constitutional Democracy. Ông phân biệt hai cấp bậc của lựa chọn tập thể trong một quốc gia. Thứ nhất là ấn định các “luật chơi,” thứ hai là tham dự trong cuộc chơi, dựa trên các luật lệ “hiến định” đó.
Lý thuyết Lựa chọn Tập thể buộc mọi người phải chú ý nghiên cứu vai trò của nhà nước trong sinh hoạt kinh tế. Trong khi các nhà kinh tế khác chỉ lo tìm hiểu cách vận hành của cơ chế thị trường rồi đề nghị những giải pháp đáng được thi hành, Buchanan chú ý đến cơ chế chính trị, là nơi nắm quyền và được trao trách nhiệm áp dụng các chính sách kinh tế. Cho nên, phải dùng phương pháp kinh tế học soi sáng hành động của các nhà chính trị cũng như guồng máy công quyền; nhờ đó đặt ra các “luật chơi” nhằm bảo vệ các nguyên lý chung của cả xã hội như tự do, bình đẳng.
Bởi vì trong thực tế, các chính sách kinh tế đều chịu ảnh hưởng của những nhóm, những người nắm quyền quyết định, mọi người đều nhắm đến tư lợi. Trong kinh tế học người ta vẫn giả thiết là con người hành động vì tư lợi. Buchanan nhấn mạnh rằng những công chức và các đại biểu do dân bầu lên đều không phải sinh ra đã là những người vô vị lợi. Trong khi làm nhiệm vụ được mô tả là phục vụ công ích, họ cũng tự nhiên lo cho chính mình. Con người ai cũng muốn gia tăng quyền hành và lợi lộc. Các đại biểu Quốc hội bao giờ cũng muốn được đắc cử và tái đắc cử. Cử tri và những người có thể ảnh hưởng trong việc bỏ phiếu cũng có những quyền lợi riêng. Bỏ quên giả thiết này thì sống trong ảo tưởng.
Do đó, việc đầu tiên của một hệ thống chính trị là ấn định các “luật chơi chung,” để ngăn ngừa không cho tư lợi lấn lướt, làm chệch hướng, có khi làm hại công ích. Một luật chơi căn bản là bảo vệ tính công bằng trong xã hội, quan trọng nhất là bảo đảm mọi người đều có cơ hội bình đẳng. Phải bảo vệ lợi ích chung của xã hội bằng cách vạch rõ ranh giới giữa công và tư; khi nào quyền lợi công và tư xung khắc thì phải đạt công ích lên trên tư lợi. Ðó là những luật chơi căn bản mà một xã hội tự do dân chủ không thể thiếu được.
Phân tích theo lối của James Buchanan, chúng ta thấy đảng cộng sản đã “gian lận” ngay khi thiết lập các định chế làm “luật chơi” cho đời sống kinh tế. Thí dụ, họ đặt ra một luật chơi: “Ðất, ruộng thuộc quyền sở hữu của toàn dân;” không một cá nhân hay một tập hợp nào được hưởng quyền sở hữu. Kèm theo, là một luật chơi thứ nhì: “Ðảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước và xã hội.”
Với hai “luật chơi” này, đảng Cộng sản đã gian lận, giành quyền thủ lợi tối đa cho những kẻ nắm quyền trong đảng. Gian lận, vì họ hô hào nông dân giết địa chủ, rồi biến đảng thành chủ nhân duy nhất của tất cả đất đai, ruộng, rừng, sông, biển. Họ nắm quyền ban phát, cho ai được phép sử dụng các tài nguyên đó, ai được dùng nhiều hơn ai, còn đảng đóng vai thu tô, thu thuế. Họ nắm quyền cho nên có thể trao đất, trao rừng, trao quặng mỏ cho người Trung Quốc khai thác, không cần biết dân Việt Nam muốn thế nào. Ngày xưa quyền của các địa chủ còn bị giới hạn. Quyền hành của ông địa chủ đời nay là tuyệt đối và vô giới hạn.
Ông địa chủ đảng Cộng sản lại có quyền biến đổi giá trị của đất đai tùy thích, không theo một quy tắc giá cả nào theo lối kinh tế thị trường. Họ có thể chiếm lại một vùng đất ruộng của nông dân, đền bù với giá bồi hoàn rất rẻ, biện minh rằng đó là “thời giá” trong thị trường. Ðiều này có thể đúng, vì một thửa ruộng sinh lợi được bao nhiêu mỗi năm có thể kiểm chứng được. Nhưng ngay sau khi cướp đất hợp pháp rồi, với quyền hành vô hạn, họ biến mảnh đất thành khu công nghiệp, khu thương mại, cư trú hay du lịch. Trong chớp mắt, giá trị đất tăng lên hàng chục, hàng trăm, hay ngàn lần. Ðọc những lời biện minh của đảng Cộng sản ở thành phố Ðà Nẵng, chúng ta thấy lúc nào họ cũng biện minh rằng họ tính giá đất theo “thời giá” cả. Nhưng ai cũng biết các cán bộ nắm quyền lúc nào cũng nắm những pháp thuật biến đất thành vàng. Pháp thuật nào đã tạo ra giá trị gia tăng đó? Quyền. Ai được hưởng những giá trị gia tăng? Những kẻ nắm quyền.
Với những “luật chơi kinh tế” như vậy, cả guồng máy đảng Cộng sản là một hệ thống chia chác quyền hành cho nhau, để kiếm lợi trên đất đai, rừng biển của dân tộc Việt Nam. Ðảng Cộng sản đã tước đoạt tài sản của quốc gia để cho một tập đoàn tham ô làm giầu. Ngay từ khi họ đặt ra những luật chơi kinh tế bắt toàn dân phải chấp nhận, không ai được từ chối. Giống như một chủ sòng bài có quyền bắt cả nước phải tham dự trò đen đỏ với họ, với một quy luật: “Chẵn thì tôi ăn, lẻ thì anh thua.” Chưa bao giờ có một vụ cờ gian bạc lận rộng lớn và kéo dài như thế.
Những phân tích của James Buchanan đã dẫn tới những cải tổ về luật chơi trong đời sống chính trị và kinh tế ở nước Mỹ. Ông yêu cầu mọi người phải đề phòng những xung khắc giữa tư lợi và công ích; khi trao quyền cho ông tổng thống, các đại biểu Quốc hội hay các viên chức nhà nước, phải biết rằng họ đều có những quyền lợi riêng, không thể giả thiết là ai cũng chỉ nghĩ đến công ích. Chế độ Cộng sản không quan tâm đến vấn đề này. Trước hết, chủ nghĩa Cộng sản đặt trên một ảo tưởng. Trên lý thuyết, họ giả thiết là các người nắm quyền, từ giới lãnh đạo cho tới các cán bộ, sẽ thi hành các quyết định của đảng, không cán bộ nào nghĩ tới tư lợi cả. Họ đưa ra những cương lĩnh, những nghị quyết, chỉ tiêu, vân vân. Họ giả thiết các cán bộ sẽ thi hành những quy tắc hay khẩu hiệu trừu tượng đó; không bao giờ lo ngại để đề phòng là mọi người, mọi nhóm người đều chứa sẵn những động cơ riêng tư. Tất nhiên, giả thuyết đó sai lầm, hoàn toàn trái ngược với thực tế. Khi kết quả hoàn toàn trái ngược với các chỉ tiêu và khẩu hiệu, cả chế độ phải nói dối quẩn quanh, dối lẫn nhau và dối người ngoài, một tình trạng dối trá có hệ thống. Gốc rễ của chế độ tham nhũng, lạm quyền hiện nay là do một sai lầm căn bản, sai lầm nằm trong cốt lõi của hệ thống, ngay từ khi thiết lập các chế độ cộng sản đầu tiên.
Một chế độ đặt trên một giả thiết hoàn toàn trái ngược với bản tính con người, cuối cùng phải tan rã, như chúng ta đã chứng kiến ở Ðông Âu và Nga Xô.
Ðáng lẽ ra khi các đảng Cộng sản còn sống sót phải quay ngược đầu, bắt chước lối tư bản, gọi là kinh tế thị trường, thì những người cầm đầu phải chấp nhận một giả thiết thực tế, là trong phạm vi kinh tế mỗi người thường lo cho lợi ích của riêng mình trước hết. Nhưng để tiếp tục nắm quyền, họ vẫn giả bộ như không biết. Họ tiếp tục bảo vệ cái chủ nghĩa đầy ảo tưởng như cũ, vẫn coi lý thuyết Mác-Lê Nin là kim chỉ nam. Ðứng trước các hành động tham ô rừng rú, họ vẫn chỉ hô khẩu hiệu phải “cải tạo tư tưởng” các cán bộ. Họ không dám thay đổi cơ cấu để tác động ngay trên hành vi và thái độ của các cán bộ đang nắm quyền. Mà quyền hành của những người này thường vô giới hạn, hoặc chỉ giới hạn rất mơ hồ.
Quyền hạn mơ hồ cũng là một “luật chơi” căn bản của các chế độ Cộng sản. Vì mỗi lãnh tụ, cho đến mỗi cán bộ, đều bất chấp các quy tắc hành chánh và pháp lý. Xưa nay, “luật chơi” của chế độ Cộng sản là “không cần luật.” Các lãnh tụ cộng sản biết rằng khi nào luật lệ còn mơ hồ, lỏng lẻo, còn có thể thay đổi tùy tiện, thì họ còn có cơ hội thủ lợi. Vì vậy, những nhà kinh doanh thành công, như Trần Huỳnh Duy Thức, cũng thấy không thể sống được trong một xã hội mà ngay trong bước đầu ấn định luật chơi kinh tế đã không công bằng, không ngay thẳng. Khi một nhà kinh doanh thành công như Trần Huỳnh Duy Thức lên tiếng đòi thay đổi luật chơi, anh cũng biết là anh sẽ phải vào tù.
Nhưng kẻ dùng gươm sẽ chết bằng gươm. Ðảng Cộng sản bắt đầu tan rã khi chính những luật chơi họ đặt ra cũng quay ngược mũi dao, đâm vào chính họ. Chúng ta đang chứng kiến cảnh các lãnh tụ tranh giành nhau, cấu xé nhau, vì những luật chơi mơ hồ đang đưa tất cả vào bế tắc, sắp đến ngày tan rã.-Một cơ cấu đang tan rã
-- Nguyễn Hưng Quốc: Xã hội dân sự tại Việt Nam: Theo quan điểm của Gramsci (VOA’s blog). Muốn nghiên cứu về xã hội dân sự tại Việt Nam, có một vấn đề cần phải giải quyết trước tiên: Phương pháp luận.
Trong một bài viết về xã hội dân sự ở Malaysia (1), P. Ramasamy nêu lên một nhận xét đáng chú ý: Các quan điểm của các lý thuyết gia tự do, từ Locke đến Kant, Mill và Adam Smith, xem xã hội dân sự như một không gian riêng và độc lập với nhà nước và là một dấu chỉ của dân chủ dường như chỉ thích hợp với Tây phương. Rồi ông đề nghị: Với các nước Đông Nam Á, khung lý thuyết về xã hội dân sự của Antonio Gramsci có vẻ hữu ích hơn. Trong một bài viết về xã hội dân sự ở Campuchia và Việt Nam, Ingrid Landau tán đồng quan điểm ấy (2). Tôi cũng tán đồng. Nhưng xin nhấn mạnh: Tôi chỉ tán đồng việc sử dụng lý thuyết của Gramsci như một công cụ phân tích để nghiên cứu về bản chất của xã hội dân sự tại Việt Nam, đặc biệt, để hiểu quan niệm và từ đó, chủ trương của nhà cầm quyền Việt Nam.
Gramsci, sinh năm 1891 tại Ý, là một người tài hoa trong nhiều lãnh vực: ngôn ngữ học, văn học, xã hội học và chính trị học. Là một trong những người sáng lập đảng Cộng sản tại Ý, ông bị nhà cầm quyền Mussolini bắt bỏ tù từ năm 1926 đến năm 1934. Ba năm sau ngày được tự do, ông mất lúc mới 46 tuổi. Trong thời gian ở tù (hơn tám năm), ông viết trên 30 cuốn sổ tay và 3000 trang sách về nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến lịch sử, chính trị, văn hóa và tư tưởng. Tất cả đều theo quan điểm của chủ nghĩa Mác.
Gramsci chia xã hội thành hai lãnh vực: xã hội chính trị (political society, bao gồm chính phủ, cảnh sát, quân đội, hệ thống luật pháp…) và xã hội dân sự (civil society, bao gồm từ gia đình đến giáo dục, các tổ chức nghề nghiệp…). Gramsci, giống Marx, cho, một, hai lãnh vực này đều gắn liền với việc phân chia giai cấp và quan hệ sản xuất; hai, dưới chế độ tư bản, đều là công cụ của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, ở khía cạnh này, Gramsci có một số điểm khác với Marx. Trước hết, ông đi sâu hơn Marx trong việc phân tích bản chất chính trị của cái gọi là nhà nước tư bản. Gramsci cho nhà nước tư bản cai trị bằng cả lực lượng lẫn sự đồng thuận: xã hội chính trị là lãnh giới của lực lượng (cả quân sự, cảnh sát lẫn kinh tế) trong khi xã hội dân sự là lãnh giới của sự đồng thuận. Trong khi với Marx, việc giải quyết hai lãnh vực này của chế độ tư bản tương đối đơn giản: triệt tiêu; với Gramsci, sau khi nhà nước tư bản sụp đổ, xã hội dân sự vẫn tiếp tục là một trận địa, một vùng tranh chấp giữa các ý tưởng và lý tưởng khác nhau, mâu thuẫn với nhau, không ngừng xung đột với nhau. Đó cũng là nơi nhà nước phải chiến thắng để bảo vệ vai trò thống trị của mình. Nói cách khác, đó là nơi để nhà nước tuyên truyền và vận động quần chúng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như các đảng Cộng sản khác hiểu rất rõ và áp dụng một cách rất triệt để các quan niệm của Gramsci.
Thứ nhất, trước thời đổi mới, họ hoàn toàn cấm đoán mọi hình thức xã hội dân sự. Trên hiến pháp, họ vẫn thừa nhận quyền lập hội cũng như quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng của dân chúng, nhưng trên thực tế, họ không cho phép bất cứ một tổ chức nào được hoạt động mà không nằm dưới sự chỉ đạo cũng như quản lý của họ.
Thứ hai, họ tạo nên một thứ xã hội dân sự giả để, một, chứng tỏ với thế giới là họ có dân chủ; hai, để làm thành một vùng độn giữa nhà cầm quyền và dân chúng. Hình thức giả ấy chính là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (3), bao gồm trên 30 tổ chức khác nhau:
Nhìn vào danh sách trên cũng như đọc các điều khoản trong bộ Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, ví dụ: khoản 2, điều 1 “Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân mới…” (5), chúng ta thấy ngay Mặt trận Tổ Quốc cũng như tất cả các tổ chức con của nó không phải, tuyệt đối không phải là xã hội dân sự. Đó chỉ là một tổ chức chính trị nằm trong bộ máy nhà nước: Tất cả các thành viên ở đó đều là cán bộ nhà nước và tất cả những người lãnh đạo của nó đều do đảng cầm quyền bổ nhiệm, hơn nữa, bao giờ cũng phải nằm trong Trung ương đảng.
Thứ ba, từ thời đổi mới, dưới áp lực từ cả quốc tế lẫn quốc nội, nhà cầm quyền Việt Nam phải ít nhiều mở cửa cho xã hội dân sự. Chỉ mở he hé ở hai khía cạnh: Một, cho phép một số tổ chức phi chính phủ quốc tế đặt văn phòng tại Việt Nam (vừa để nhận tiền viện trợ vừa để ve vãn thế giới); hai, cho phép, một cách hạn chế, một số tổ chức vô thưởng vô phạt như các hội nuôi chim, chơi cá cảnh, các câu lạc bộ thơ văn của người già, hội doanh nhân, v.v. hoạt động. Kết quả là trong hơn hai thập niên vừa qua, số lượng các tổ chức phi lợi nhuận có vẻ như nở rộ ở Việt Nam. Năm 1990, số hội đoàn đăng ký ở cấp địa phương là trên 300, cấp quốc gia là 124; mười năm sau, vào năm 2000, thuộc loại trên là hơn 1400, loại dưới là hơn 200 (6). Tổ chức Asia Foundation ước tính ở thời điểm từ cuối năm 2011 đến đầu năm 2012, ở Việt Nam có khoảng từ 1700 đến 2000 tổ chức xã hội dân sự (7). Tuy nhiên, dù nở rộ, những con số lớn lao ấy cũng không làm thay đổi diện mạo xã hội dân sự tại Việt Nam. Chính quyền Việt Nam vẫn tìm mọi cách để vô hiệu hóa các tổ chức phi chính phủ đang có mặt trong nước: Họ giới hạn chức năng của các tổ chức ấy vào việc hỗ trợ thay vì phê phán hay thách thức quyền lực của nhà nước (8). Về mặt tuyên truyền, với dân chúng Việt Nam, họ vẫn xem xã hội dân sự là một âm mưu “diễn tiến hoà bình” do các “thế lực thù địch ở nước ngoài” giật dây (9).
Hầu hết những người nghiên cứu về xã hội dân sự tại Việt Nam đều đi đến kết luận giống nhau: Cái gọi là xã hội dân sự hiểu theo nghĩa một khu vực thứ ba, như một thiết chế chính thức, tồn tại một cách độc lập với cả thị trường lẫn nhà nước, được hình thành trên cơ sở sự tự nguyện, chưa thực sự hiện hữu tại Việt Nam.
Chú thích:
– Và có lúc chúng ta nghĩ khác nhau… (DLB).
- - Nguyễn Thị Từ Huy: GÓP Ý CHO DỰ THẢO SỬA ĐỐI HIẾN PHÁP 1992 (BoxitVN).
- Nguyễn Tường Tâm – Sửa Hiến Pháp – Bịp có bằng chứng (Dân Luận). - Chức sắc và giáo dân Công Giáo ký kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992 (Người Buôn Gió). - Đóng góp ý kiến cho dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992: GS Nguyễn Minh Thuyết nói về điều 71 và sự tồn tại của người đồng tính (GDVN).
- - KỶ NIỆM 83 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3/2/1930 – 3/2/2013): Bác Hồ bàn về chữ LIÊM (PT).
- Nguyễn Quang Duy, Úc: ‘Tù mù về Chủ nghĩa Marx’ (BBC). – Thương nhau như thế bằng mười giết nhau (Minh Văn). – Lạc Nam – Chẳng Duy (Dân Luận).
- Nguyễn Thanh: “XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI” CÓ LÀ CHÍNH SÁCH: “CƯỚP NƠI KHỐ RÁCH ĐỂ ĐÃI KẺ QUẦN HỒNG” ?(Phạm Viết Đào).
- Ban Nội chính có thêm hai phó ban (PLTP). - Ban Nội chính Trung ương sẽ là “cú đấm thép” vào nạn tham nhũng (GDVN). - Hôm nay, Ban Nội chính Trung ương họp phiên đầu tiên (VOV). - Ban Nội chính Trung ương họp phiên thứ nhất (NLĐ). – Hôm nay, ra mắt Ban Chỉ đạo TƯ về phòng, chống tham nhũng (LĐ). – Ông Nguyễn Bá Thanh – Trưởng Ban Nội chính Trung ương: Làm cho kẻ tham nhũng phải biết sợ (LĐ).
– Viết cho Ban Nội chính ngày đầu hoạt động(Cầu Nhật Tân). Bày đặt ra ban bệ chống tham nhũng là chuyện không mới. Ban bệ sinh ra rồi lại tham nhũng ác hơn đã trở nên thường tình. Năm xưa, khi nạn tham nhũng mới lên đến độ ác liệt, Ban Chống tham nhũng được thành lập với ông Nguyễn Kỳ Cẩm tức “Chánh Cẩm”, được đặt lên ghế Trưởng ban. Lúc đó ông Chánh là Ủy viên trung ương Đảng, nguyên Chánh thanh tra nhà nước. Trong mắt các đồng chí, ông là người nổi tiếng liêm khiết và trong sạch lúc bấy giờ. Vẻ khó tính với khuôn mặt sắt đen sì rất kỳ dị của ông khiến người ta dễ sợ khi mới gần. Người thường nhìn vào đã thấy khiếp. Chắc bọn tham nhũng nhìn ông còn khiếp hơn. Ông không đi nhậu nhẹt, liêm khiết từ cử chỉ đến lời nói. Tên ông là Kỳ Cẩm nhưng đám nhân viên thường gọi là Kỳ Cục với lý do như vậy.
Ðầu năm 2013 một nhà kinh tế mới qua đời nhưng ít được báo chí ở Mỹ loan tin. Ông là một người đã tiên đoán tình trạng khiếm hụt ngân sách và nợ chồng chất gây tê liệt trong chính quyền và Quốc hội từ hai năm nay; tháng tới lại sẽ tái diễn.
Chỉ phân tích cách quyết định việc chi thu của Quốc hội trong ngân sách quốc gia, James Buchanan đã báo trước là chính phủ liên bang sẽ càng ngày càng thiếu hụt, các món nợ công sẽ lên ngập đầu. Lý do chính là vì các đại biểu Quốc hội phải lo đáp ứng những đòi hỏi của các cử tri đã giúp họ đắc cử, tiêu biểu là những nhóm quyền lợi riêng biệt (tư lợi, special interests). Các ý kiến của ông được đặt tên là Lý thuyết về Lựa chọn Tập thể (Public Choice Theory); ông được trao giải Nobel về Kinh tế học năm 1986 về những đóng góp này.
Buchanan thường được coi như một nhà kinh tế bảo thủ, vì ông chủ trương phải giảm bớt luật lệ và thu gọn vai trò của chính phủ đến mức tối thiểu. Nhưng ông cũng là người chủ trương nên đánh thuế di sản tới 100%, một điều mà giới bảo thủ kịch liệt chống, vì họ thấy suất thuế 35% đã là quá cao rồi! Buchanan lý luận rằng việc thừa hưởng di sản là trái với quy tắc bình đẳng trong cơ hội, vì những người hưởng di sản được chiếm địa vị ưu đãi so với người khác. Ông viết, “Bảo đảm một số quyền bình đẳng về cơ hội là triết lý căn bản của một xã hội tự do,” trong cuốn The Limits of Liberty, năm 1975 viết chung với Robert P. Tollison. Cho đến khi qua đời, thọ 93 tuổi, ông vẫn là một người suy nghĩ tự do và độc lập, mối quan tâm chính là ích lợi chung.
Người Việt Nam nên biết cách suy nghĩ của James Buchanan. Cách phân tích của ông có thể giúp chúng ta hiểu rõ nguyên ủy của nạn tham nhũng lan tràn hiện nay cũng như tình trạng đấu đá tranh quyền trong nội bộ đảng Cộng sản. Tất cả bắt nguồn từ những Lựa chọn Tập thể sai lầm ngay từ đầu.
Trong cuốn “Bài toán về Thỏa thuận,” The Calculus of Consent, viết cùng Gordon Tullock năm 1962, Buchanan đặt tựa nhỏ: “Những Nền tảng Luận lý của Chế độ Dân chủ Hiến định,” Logical Foundations of Constitutional Democracy. Ông phân biệt hai cấp bậc của lựa chọn tập thể trong một quốc gia. Thứ nhất là ấn định các “luật chơi,” thứ hai là tham dự trong cuộc chơi, dựa trên các luật lệ “hiến định” đó.
Lý thuyết Lựa chọn Tập thể buộc mọi người phải chú ý nghiên cứu vai trò của nhà nước trong sinh hoạt kinh tế. Trong khi các nhà kinh tế khác chỉ lo tìm hiểu cách vận hành của cơ chế thị trường rồi đề nghị những giải pháp đáng được thi hành, Buchanan chú ý đến cơ chế chính trị, là nơi nắm quyền và được trao trách nhiệm áp dụng các chính sách kinh tế. Cho nên, phải dùng phương pháp kinh tế học soi sáng hành động của các nhà chính trị cũng như guồng máy công quyền; nhờ đó đặt ra các “luật chơi” nhằm bảo vệ các nguyên lý chung của cả xã hội như tự do, bình đẳng.
Bởi vì trong thực tế, các chính sách kinh tế đều chịu ảnh hưởng của những nhóm, những người nắm quyền quyết định, mọi người đều nhắm đến tư lợi. Trong kinh tế học người ta vẫn giả thiết là con người hành động vì tư lợi. Buchanan nhấn mạnh rằng những công chức và các đại biểu do dân bầu lên đều không phải sinh ra đã là những người vô vị lợi. Trong khi làm nhiệm vụ được mô tả là phục vụ công ích, họ cũng tự nhiên lo cho chính mình. Con người ai cũng muốn gia tăng quyền hành và lợi lộc. Các đại biểu Quốc hội bao giờ cũng muốn được đắc cử và tái đắc cử. Cử tri và những người có thể ảnh hưởng trong việc bỏ phiếu cũng có những quyền lợi riêng. Bỏ quên giả thiết này thì sống trong ảo tưởng.
Do đó, việc đầu tiên của một hệ thống chính trị là ấn định các “luật chơi chung,” để ngăn ngừa không cho tư lợi lấn lướt, làm chệch hướng, có khi làm hại công ích. Một luật chơi căn bản là bảo vệ tính công bằng trong xã hội, quan trọng nhất là bảo đảm mọi người đều có cơ hội bình đẳng. Phải bảo vệ lợi ích chung của xã hội bằng cách vạch rõ ranh giới giữa công và tư; khi nào quyền lợi công và tư xung khắc thì phải đạt công ích lên trên tư lợi. Ðó là những luật chơi căn bản mà một xã hội tự do dân chủ không thể thiếu được.
Phân tích theo lối của James Buchanan, chúng ta thấy đảng cộng sản đã “gian lận” ngay khi thiết lập các định chế làm “luật chơi” cho đời sống kinh tế. Thí dụ, họ đặt ra một luật chơi: “Ðất, ruộng thuộc quyền sở hữu của toàn dân;” không một cá nhân hay một tập hợp nào được hưởng quyền sở hữu. Kèm theo, là một luật chơi thứ nhì: “Ðảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước và xã hội.”
Với hai “luật chơi” này, đảng Cộng sản đã gian lận, giành quyền thủ lợi tối đa cho những kẻ nắm quyền trong đảng. Gian lận, vì họ hô hào nông dân giết địa chủ, rồi biến đảng thành chủ nhân duy nhất của tất cả đất đai, ruộng, rừng, sông, biển. Họ nắm quyền ban phát, cho ai được phép sử dụng các tài nguyên đó, ai được dùng nhiều hơn ai, còn đảng đóng vai thu tô, thu thuế. Họ nắm quyền cho nên có thể trao đất, trao rừng, trao quặng mỏ cho người Trung Quốc khai thác, không cần biết dân Việt Nam muốn thế nào. Ngày xưa quyền của các địa chủ còn bị giới hạn. Quyền hành của ông địa chủ đời nay là tuyệt đối và vô giới hạn.
Ông địa chủ đảng Cộng sản lại có quyền biến đổi giá trị của đất đai tùy thích, không theo một quy tắc giá cả nào theo lối kinh tế thị trường. Họ có thể chiếm lại một vùng đất ruộng của nông dân, đền bù với giá bồi hoàn rất rẻ, biện minh rằng đó là “thời giá” trong thị trường. Ðiều này có thể đúng, vì một thửa ruộng sinh lợi được bao nhiêu mỗi năm có thể kiểm chứng được. Nhưng ngay sau khi cướp đất hợp pháp rồi, với quyền hành vô hạn, họ biến mảnh đất thành khu công nghiệp, khu thương mại, cư trú hay du lịch. Trong chớp mắt, giá trị đất tăng lên hàng chục, hàng trăm, hay ngàn lần. Ðọc những lời biện minh của đảng Cộng sản ở thành phố Ðà Nẵng, chúng ta thấy lúc nào họ cũng biện minh rằng họ tính giá đất theo “thời giá” cả. Nhưng ai cũng biết các cán bộ nắm quyền lúc nào cũng nắm những pháp thuật biến đất thành vàng. Pháp thuật nào đã tạo ra giá trị gia tăng đó? Quyền. Ai được hưởng những giá trị gia tăng? Những kẻ nắm quyền.
Với những “luật chơi kinh tế” như vậy, cả guồng máy đảng Cộng sản là một hệ thống chia chác quyền hành cho nhau, để kiếm lợi trên đất đai, rừng biển của dân tộc Việt Nam. Ðảng Cộng sản đã tước đoạt tài sản của quốc gia để cho một tập đoàn tham ô làm giầu. Ngay từ khi họ đặt ra những luật chơi kinh tế bắt toàn dân phải chấp nhận, không ai được từ chối. Giống như một chủ sòng bài có quyền bắt cả nước phải tham dự trò đen đỏ với họ, với một quy luật: “Chẵn thì tôi ăn, lẻ thì anh thua.” Chưa bao giờ có một vụ cờ gian bạc lận rộng lớn và kéo dài như thế.
Những phân tích của James Buchanan đã dẫn tới những cải tổ về luật chơi trong đời sống chính trị và kinh tế ở nước Mỹ. Ông yêu cầu mọi người phải đề phòng những xung khắc giữa tư lợi và công ích; khi trao quyền cho ông tổng thống, các đại biểu Quốc hội hay các viên chức nhà nước, phải biết rằng họ đều có những quyền lợi riêng, không thể giả thiết là ai cũng chỉ nghĩ đến công ích. Chế độ Cộng sản không quan tâm đến vấn đề này. Trước hết, chủ nghĩa Cộng sản đặt trên một ảo tưởng. Trên lý thuyết, họ giả thiết là các người nắm quyền, từ giới lãnh đạo cho tới các cán bộ, sẽ thi hành các quyết định của đảng, không cán bộ nào nghĩ tới tư lợi cả. Họ đưa ra những cương lĩnh, những nghị quyết, chỉ tiêu, vân vân. Họ giả thiết các cán bộ sẽ thi hành những quy tắc hay khẩu hiệu trừu tượng đó; không bao giờ lo ngại để đề phòng là mọi người, mọi nhóm người đều chứa sẵn những động cơ riêng tư. Tất nhiên, giả thuyết đó sai lầm, hoàn toàn trái ngược với thực tế. Khi kết quả hoàn toàn trái ngược với các chỉ tiêu và khẩu hiệu, cả chế độ phải nói dối quẩn quanh, dối lẫn nhau và dối người ngoài, một tình trạng dối trá có hệ thống. Gốc rễ của chế độ tham nhũng, lạm quyền hiện nay là do một sai lầm căn bản, sai lầm nằm trong cốt lõi của hệ thống, ngay từ khi thiết lập các chế độ cộng sản đầu tiên.
Một chế độ đặt trên một giả thiết hoàn toàn trái ngược với bản tính con người, cuối cùng phải tan rã, như chúng ta đã chứng kiến ở Ðông Âu và Nga Xô.
Ðáng lẽ ra khi các đảng Cộng sản còn sống sót phải quay ngược đầu, bắt chước lối tư bản, gọi là kinh tế thị trường, thì những người cầm đầu phải chấp nhận một giả thiết thực tế, là trong phạm vi kinh tế mỗi người thường lo cho lợi ích của riêng mình trước hết. Nhưng để tiếp tục nắm quyền, họ vẫn giả bộ như không biết. Họ tiếp tục bảo vệ cái chủ nghĩa đầy ảo tưởng như cũ, vẫn coi lý thuyết Mác-Lê Nin là kim chỉ nam. Ðứng trước các hành động tham ô rừng rú, họ vẫn chỉ hô khẩu hiệu phải “cải tạo tư tưởng” các cán bộ. Họ không dám thay đổi cơ cấu để tác động ngay trên hành vi và thái độ của các cán bộ đang nắm quyền. Mà quyền hành của những người này thường vô giới hạn, hoặc chỉ giới hạn rất mơ hồ.
Quyền hạn mơ hồ cũng là một “luật chơi” căn bản của các chế độ Cộng sản. Vì mỗi lãnh tụ, cho đến mỗi cán bộ, đều bất chấp các quy tắc hành chánh và pháp lý. Xưa nay, “luật chơi” của chế độ Cộng sản là “không cần luật.” Các lãnh tụ cộng sản biết rằng khi nào luật lệ còn mơ hồ, lỏng lẻo, còn có thể thay đổi tùy tiện, thì họ còn có cơ hội thủ lợi. Vì vậy, những nhà kinh doanh thành công, như Trần Huỳnh Duy Thức, cũng thấy không thể sống được trong một xã hội mà ngay trong bước đầu ấn định luật chơi kinh tế đã không công bằng, không ngay thẳng. Khi một nhà kinh doanh thành công như Trần Huỳnh Duy Thức lên tiếng đòi thay đổi luật chơi, anh cũng biết là anh sẽ phải vào tù.
Nhưng kẻ dùng gươm sẽ chết bằng gươm. Ðảng Cộng sản bắt đầu tan rã khi chính những luật chơi họ đặt ra cũng quay ngược mũi dao, đâm vào chính họ. Chúng ta đang chứng kiến cảnh các lãnh tụ tranh giành nhau, cấu xé nhau, vì những luật chơi mơ hồ đang đưa tất cả vào bế tắc, sắp đến ngày tan rã.-Một cơ cấu đang tan rã
-- Nguyễn Hưng Quốc: Xã hội dân sự tại Việt Nam: Theo quan điểm của Gramsci (VOA’s blog). Muốn nghiên cứu về xã hội dân sự tại Việt Nam, có một vấn đề cần phải giải quyết trước tiên: Phương pháp luận.
Trong một bài viết về xã hội dân sự ở Malaysia (1), P. Ramasamy nêu lên một nhận xét đáng chú ý: Các quan điểm của các lý thuyết gia tự do, từ Locke đến Kant, Mill và Adam Smith, xem xã hội dân sự như một không gian riêng và độc lập với nhà nước và là một dấu chỉ của dân chủ dường như chỉ thích hợp với Tây phương. Rồi ông đề nghị: Với các nước Đông Nam Á, khung lý thuyết về xã hội dân sự của Antonio Gramsci có vẻ hữu ích hơn. Trong một bài viết về xã hội dân sự ở Campuchia và Việt Nam, Ingrid Landau tán đồng quan điểm ấy (2). Tôi cũng tán đồng. Nhưng xin nhấn mạnh: Tôi chỉ tán đồng việc sử dụng lý thuyết của Gramsci như một công cụ phân tích để nghiên cứu về bản chất của xã hội dân sự tại Việt Nam, đặc biệt, để hiểu quan niệm và từ đó, chủ trương của nhà cầm quyền Việt Nam.
Gramsci, sinh năm 1891 tại Ý, là một người tài hoa trong nhiều lãnh vực: ngôn ngữ học, văn học, xã hội học và chính trị học. Là một trong những người sáng lập đảng Cộng sản tại Ý, ông bị nhà cầm quyền Mussolini bắt bỏ tù từ năm 1926 đến năm 1934. Ba năm sau ngày được tự do, ông mất lúc mới 46 tuổi. Trong thời gian ở tù (hơn tám năm), ông viết trên 30 cuốn sổ tay và 3000 trang sách về nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến lịch sử, chính trị, văn hóa và tư tưởng. Tất cả đều theo quan điểm của chủ nghĩa Mác.
Gramsci chia xã hội thành hai lãnh vực: xã hội chính trị (political society, bao gồm chính phủ, cảnh sát, quân đội, hệ thống luật pháp…) và xã hội dân sự (civil society, bao gồm từ gia đình đến giáo dục, các tổ chức nghề nghiệp…). Gramsci, giống Marx, cho, một, hai lãnh vực này đều gắn liền với việc phân chia giai cấp và quan hệ sản xuất; hai, dưới chế độ tư bản, đều là công cụ của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, ở khía cạnh này, Gramsci có một số điểm khác với Marx. Trước hết, ông đi sâu hơn Marx trong việc phân tích bản chất chính trị của cái gọi là nhà nước tư bản. Gramsci cho nhà nước tư bản cai trị bằng cả lực lượng lẫn sự đồng thuận: xã hội chính trị là lãnh giới của lực lượng (cả quân sự, cảnh sát lẫn kinh tế) trong khi xã hội dân sự là lãnh giới của sự đồng thuận. Trong khi với Marx, việc giải quyết hai lãnh vực này của chế độ tư bản tương đối đơn giản: triệt tiêu; với Gramsci, sau khi nhà nước tư bản sụp đổ, xã hội dân sự vẫn tiếp tục là một trận địa, một vùng tranh chấp giữa các ý tưởng và lý tưởng khác nhau, mâu thuẫn với nhau, không ngừng xung đột với nhau. Đó cũng là nơi nhà nước phải chiến thắng để bảo vệ vai trò thống trị của mình. Nói cách khác, đó là nơi để nhà nước tuyên truyền và vận động quần chúng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như các đảng Cộng sản khác hiểu rất rõ và áp dụng một cách rất triệt để các quan niệm của Gramsci.
Thứ nhất, trước thời đổi mới, họ hoàn toàn cấm đoán mọi hình thức xã hội dân sự. Trên hiến pháp, họ vẫn thừa nhận quyền lập hội cũng như quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng của dân chúng, nhưng trên thực tế, họ không cho phép bất cứ một tổ chức nào được hoạt động mà không nằm dưới sự chỉ đạo cũng như quản lý của họ.
Thứ hai, họ tạo nên một thứ xã hội dân sự giả để, một, chứng tỏ với thế giới là họ có dân chủ; hai, để làm thành một vùng độn giữa nhà cầm quyền và dân chúng. Hình thức giả ấy chính là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (3), bao gồm trên 30 tổ chức khác nhau:
- Đảng Cộng sản Việt Nam
- Quân đội nhân dân Việt Nam
- Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
- Hội nông dân Việt Nam
- Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
- Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
- Hội cựu chiến binh Việt Nam
- Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam
- Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam
- Liên hiệp các tổ chức hòa bình, đoàn kết hữu nghị Việt Nam
- Hội luật gia Việt Nam
- Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam
- Hội nhà báo Việt Nam
- Hội chữ thập đỏ Việt Nam
- Tổng hội y dược học Việt Nam
- Hội Đông y Việt Nam
- Hội khoa học lịch sử Việt Nam
- Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Tổng hội thánh Tin Lành Việt Nam
- Hội người mù Việt Nam
- Hội làm vườn Việt Nam
- Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt Nam
- Hội sinh vật cảnh Việt Nam
- Hội dân số và kế hoạch hóa gia đình Việt Nam
- Hội người cao tuổi Việt Nam
- Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam
- Hội khuyến học Việt Nam
- Hội châm cứu Việt Nam
- Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài
- Phòng thương mại và công nghiệp
- Hội nạn nhân chất độc da cam – dioxin (4)
Nhìn vào danh sách trên cũng như đọc các điều khoản trong bộ Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, ví dụ: khoản 2, điều 1 “Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân mới…” (5), chúng ta thấy ngay Mặt trận Tổ Quốc cũng như tất cả các tổ chức con của nó không phải, tuyệt đối không phải là xã hội dân sự. Đó chỉ là một tổ chức chính trị nằm trong bộ máy nhà nước: Tất cả các thành viên ở đó đều là cán bộ nhà nước và tất cả những người lãnh đạo của nó đều do đảng cầm quyền bổ nhiệm, hơn nữa, bao giờ cũng phải nằm trong Trung ương đảng.
Thứ ba, từ thời đổi mới, dưới áp lực từ cả quốc tế lẫn quốc nội, nhà cầm quyền Việt Nam phải ít nhiều mở cửa cho xã hội dân sự. Chỉ mở he hé ở hai khía cạnh: Một, cho phép một số tổ chức phi chính phủ quốc tế đặt văn phòng tại Việt Nam (vừa để nhận tiền viện trợ vừa để ve vãn thế giới); hai, cho phép, một cách hạn chế, một số tổ chức vô thưởng vô phạt như các hội nuôi chim, chơi cá cảnh, các câu lạc bộ thơ văn của người già, hội doanh nhân, v.v. hoạt động. Kết quả là trong hơn hai thập niên vừa qua, số lượng các tổ chức phi lợi nhuận có vẻ như nở rộ ở Việt Nam. Năm 1990, số hội đoàn đăng ký ở cấp địa phương là trên 300, cấp quốc gia là 124; mười năm sau, vào năm 2000, thuộc loại trên là hơn 1400, loại dưới là hơn 200 (6). Tổ chức Asia Foundation ước tính ở thời điểm từ cuối năm 2011 đến đầu năm 2012, ở Việt Nam có khoảng từ 1700 đến 2000 tổ chức xã hội dân sự (7). Tuy nhiên, dù nở rộ, những con số lớn lao ấy cũng không làm thay đổi diện mạo xã hội dân sự tại Việt Nam. Chính quyền Việt Nam vẫn tìm mọi cách để vô hiệu hóa các tổ chức phi chính phủ đang có mặt trong nước: Họ giới hạn chức năng của các tổ chức ấy vào việc hỗ trợ thay vì phê phán hay thách thức quyền lực của nhà nước (8). Về mặt tuyên truyền, với dân chúng Việt Nam, họ vẫn xem xã hội dân sự là một âm mưu “diễn tiến hoà bình” do các “thế lực thù địch ở nước ngoài” giật dây (9).
Hầu hết những người nghiên cứu về xã hội dân sự tại Việt Nam đều đi đến kết luận giống nhau: Cái gọi là xã hội dân sự hiểu theo nghĩa một khu vực thứ ba, như một thiết chế chính thức, tồn tại một cách độc lập với cả thị trường lẫn nhà nước, được hình thành trên cơ sở sự tự nguyện, chưa thực sự hiện hữu tại Việt Nam.
Chú thích:
- “Civil Society in Malaysia: An Arena of Contestations?” in trong cuốn Civil Society in Southeast Asia do Lee Hock Guan biên tập (2004), Institute of Southeast Asian Studies xuất bản tại Singapore. (Trong cuốn này có một bài về Việt Nam: “Civil Society Effectiveness and the Vietnamese State – Despite or Because of the Lack of Autonomy của Russell Hiang-Khng Heng.)
- Đăng trên Journal of Comtemporary Asia số 38, 2008, tr. 244-258.
- Trong bài “Civil Society in Vietnam, Social Organisations and Approaches to New Concepts” đăng trên ASIEN số 105 (10/2007), Irene Norlund xem Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là một tổ chức xã hội dân sự (tr. 74) nên có một con số đầy “lạc quan”: 74% công dân Việt Nam là thành viên của ít nhất một tổ chức xã hội dân sự (tr. 78).
- Nguyễn Văn Bình (chủ biên) (2009), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, những chặng đường lịch sử, Hà Nội: nxb Lao Động, tr. 371-7.
- Như trên, tr. 394.
- Ingrid Lanlau, bài đã dẫn, tr. 250.
- William Taylor, “Survey Reveals Increasing Diversity of Civil Society in Vietnam” đăng trên In Asia ngày 31/10/2012. http://asiafoundation.org/in-asia/2012/10/31/survey-reveals-increasing-diversity-of-civil-society-in-vietnam/
- Ingrid Lanlau (2008), bài đã dẫn, tr. 252. Xem thêm bài “Creating Civil Society? The Emergence of NGOs in Vietnam” của Michael L. Gray trênDevelopment and Change, số tháng 10, 1999.
- Xem bài "Xã hội dân sự - một thủ đoạn của diễn biến hoà bình” của Dương Văn Cừ trên báo Nhân Dân ngày 31/8/2012:http://www.nhandan.com.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/chinh-tri/2.670/x-h-i-dan-s-m-t-th-o-n-c-a-di-n-bi-n-hoa-binh-1.365283
– Và có lúc chúng ta nghĩ khác nhau… (DLB).
- - Nguyễn Thị Từ Huy: GÓP Ý CHO DỰ THẢO SỬA ĐỐI HIẾN PHÁP 1992 (BoxitVN).
- Nguyễn Tường Tâm – Sửa Hiến Pháp – Bịp có bằng chứng (Dân Luận). - Chức sắc và giáo dân Công Giáo ký kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992 (Người Buôn Gió). - Đóng góp ý kiến cho dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992: GS Nguyễn Minh Thuyết nói về điều 71 và sự tồn tại của người đồng tính (GDVN).
- - KỶ NIỆM 83 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3/2/1930 – 3/2/2013): Bác Hồ bàn về chữ LIÊM (PT).
- Nguyễn Quang Duy, Úc: ‘Tù mù về Chủ nghĩa Marx’ (BBC). – Thương nhau như thế bằng mười giết nhau (Minh Văn). – Lạc Nam – Chẳng Duy (Dân Luận).
- Nguyễn Thanh: “XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI” CÓ LÀ CHÍNH SÁCH: “CƯỚP NƠI KHỐ RÁCH ĐỂ ĐÃI KẺ QUẦN HỒNG” ?(Phạm Viết Đào).
- Ban Nội chính có thêm hai phó ban (PLTP). - Ban Nội chính Trung ương sẽ là “cú đấm thép” vào nạn tham nhũng (GDVN). - Hôm nay, Ban Nội chính Trung ương họp phiên đầu tiên (VOV). - Ban Nội chính Trung ương họp phiên thứ nhất (NLĐ). – Hôm nay, ra mắt Ban Chỉ đạo TƯ về phòng, chống tham nhũng (LĐ). – Ông Nguyễn Bá Thanh – Trưởng Ban Nội chính Trung ương: Làm cho kẻ tham nhũng phải biết sợ (LĐ).
– Viết cho Ban Nội chính ngày đầu hoạt động(Cầu Nhật Tân). Bày đặt ra ban bệ chống tham nhũng là chuyện không mới. Ban bệ sinh ra rồi lại tham nhũng ác hơn đã trở nên thường tình. Năm xưa, khi nạn tham nhũng mới lên đến độ ác liệt, Ban Chống tham nhũng được thành lập với ông Nguyễn Kỳ Cẩm tức “Chánh Cẩm”, được đặt lên ghế Trưởng ban. Lúc đó ông Chánh là Ủy viên trung ương Đảng, nguyên Chánh thanh tra nhà nước. Trong mắt các đồng chí, ông là người nổi tiếng liêm khiết và trong sạch lúc bấy giờ. Vẻ khó tính với khuôn mặt sắt đen sì rất kỳ dị của ông khiến người ta dễ sợ khi mới gần. Người thường nhìn vào đã thấy khiếp. Chắc bọn tham nhũng nhìn ông còn khiếp hơn. Ông không đi nhậu nhẹt, liêm khiết từ cử chỉ đến lời nói. Tên ông là Kỳ Cẩm nhưng đám nhân viên thường gọi là Kỳ Cục với lý do như vậy.
Vài năm ngồi ghế này, tháng 9/1996, nhà ông Nguyễn Kỳ Cẩm – Trưởng ban Chống tham nhũng của CP bị cháy (cơ sở 2 ở Sài Gòn). Phải nêu rõ như vậy vì ông có rất nhiều “cơ sở” trên toàn quốc. Cảnh sát phòng cháy chữa cháy nhiệt tình thế nào mà khi dập xong đám cháy nhà thì vợ ông làm đơn kêu mất 200 lạng vàng. Phải nhờ cậy Bộ Công an vào điều tra mới xong. Ra là mấy lính thấy đống vàng, hoa cả mắt, nhanh tay đút một mớ vào túi. Chỉ một cái quơ tay thôi đã khiến ông Chánh Cẩm mất 200 lạng vàng. Số còn lại gấp 5, gấp 10 lần như vậy.
Những năm Chánh Cẩm ngồi ghế Trưởng ban chống tham nhũng, ông có thành tích là không đưa được vụ nào ra ánh sáng trong khi nạn tham nhũng hoành hành ngày một dữ dội khắp cả nước. Thậm chí Phó Chủ tịch QH Mai Thúc Lân buộc phải chất vấn trước QH thì Chánh Cẩm nhanh miệng đổ cho cơ chế.
Ông Chánh Cẩm ra đi không kèn, không trống cùng với quyết định giải thể cái ban
vô tích sự. Nhiều người nói, nó ra đời chỉ tiếp tay tham nhũng chứ làm được việc
gì. Đẻ ra nó, dân lại phải nuôi thêm một thằng tham nhũng.
vô tích sự. Nhiều người nói, nó ra đời chỉ tiếp tay tham nhũng chứ làm được việc
gì. Đẻ ra nó, dân lại phải nuôi thêm một thằng tham nhũng.
Sở dĩ ông phải ra đi vì chính các đồng chí trước kia đã giới thiệu và ủng hộ Chánh Cẩm, sau lại là những người đả phá ông mạnh nhất. Ông làm gì để có đống vàng to như vậy? Trong khi ông xuất thân từ thành phần bần cố nông, “cả đời theo cách mạng” như ông Chánh Cẩm vẫn tự bạch. Dân thì mỉa mai: cuộc đời cách mạng của ông ăn nhau ở vài năm cuối khi ghế Trưởng ban Chống tham nhũng, tuy muộn mằn, đã kịp đưa vào tay ông cả vài nghìn lạng vàng.
Chân dung ông Chánh Cẩm: