Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

Trận Thường Ðức, Cuộc Thư Hùng Nam-Bắc Cuối Cùng - Vann Phan

- tvvn.org
Dẫn nhập
Mặc dù trận đánh tại Thường Ðức (từ ngày 15/08 đến ngày 08/11/1974), cũng như trận Long Khánh hồi tháng 04/1975, không phải là trận đánh sau hết trong Chiến Tranh Việt Nam, nhưng đây phải được coi là cuộc đọ sức cuối cùng trong số hằng trăm, hằng nghìn trận thư hùng lớn, nhỏ của quân đội hai miền Nam-Bắc, một trận Ðiện Biên Phủ khác trên chiến trường Việt Nam mà kẻ chiến thắng là Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Có nhiều lý do dẫn tới nhận định trên
Lý do thứ nhất là mức độ dữ dội của trận đánh tại Thường Ðức khi chưa bao giờ có đông đến như thế các lực lượng tham chiến và hoả lực tập trung của cả hai bên trên một chiến trường nhỏ hẹp chỉ gồm có ngọn Ðồi 1062 và các đồi phụ chung quanh với cao điểm trận đánh kéo dài chưa đầy một tháng.

Lý do thứ hai là trận đánh này, dù mức độ ác liệt chỉ thua sút có trận Cổ Thành Quảng Trị và trận An Lộc, lại không được nhiều người biết đến do địa thế hẻo lánh của vùng giao tranh (giáp giới với vùng Hạ Lào) và do tình hình chính trị vào những ngày cuối của cuộc Chiến Tranh Việt Nam quá sôi động khiến báo chí Tây phương, vốn rất ồn ào, không đưa tin đúng mức vì họ không kịp hiểu hết tầm mức quan trọng của trận đánh mang ý nghĩa của một “cuộc thăm dò khả năng chiến đấu một mình” của quân đội miền Nam Việt Nam chống lại các lực lượng Cộng Sản sau khi quân chiến đấu Hoa Kỳ đã rút về nước.
Lý do thứ ba là số lượng cao của các lực lượng tinh nhuệ tham chiến: Quân Ðội Nhân Dân Cộng Sản Bắc Việt có Sư Ðoàn 304 Ðiện Biên cùng Sư Ðoàn 324B và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có Sư Ðoàn Nhảy Dù.
Lý do thứ tư là cán cân thăng bằng về hoả lực và nhân sự giữa đôi bên coi như đã được tái lập sau khi sau khi các lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ đã thực sự rút lui khỏi chiến trường, đem theo luôn sức yểm trợ mạnh mẽ của máy bay oanh tạc và hải pháo của Không Quân, Hải Quân và Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, trong khi về mặt súng nặng, quân Bắc Việt đã đưa vào sử dụng một số trọng pháo tân tiến chưa thấy dùng trong Mùa Hè Ðỏ Lửa cách đó hơn hai năm (Yếu tố này được đề cập tới để các nhà viết quân sử không còn lý do nào để bảo rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có ưu thế về hoả lực trong mọi trận đánh so với Quân Ðội Nhân Dân Cộng Sản Bắc Việt).
Lý do sau cùng là lòng quyết chiến, quyết thắng của cả đôi bên trong trận đánh khi Sư Ðoàn 304 Ðiện Biên, sau khi đã chiếm được quận lỵ Thường Ðức và ngọn Ðồi 1062, một cao điểm chiến lược cực kỳ hung hiểm, chính thức thách đấu vời Sư Ðoàn Nhảy Dù để phân định cao thấp trong một trận đánh mà từ thời điểm cho tới chiến trường đều do họ chọn lựa. Một số tài liệu về trận đánh này cho biết chính Cộng quân đã dùng giàn thun bắn thư rơi khiêu chiến, “thách ‘Nguỵ’ Dù lên đánh.” Phải biết rằng phe Cộng Sản vẫn hết sức ấm ức khi đành chấp nhận thảm bại trong trận chiến Cổ Thành Quảng Trị hồi Mùa Hè năm 1972 sau khi bị các lực lượng Thuỷ Quân Lục Chiến và Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, có sự yểm trợ của hoả lực hùng hậu của Hải Quân, Thuỷ Quân Lục Chiến và Không Quân Hoa Kỳ, đánh cho tan tác, để rồi các lực lượng “Bộ đội Cụ Hồ” tinh nhuệ dưới quyền Tướng Võ Nguyên Giáp tham chiến đành phải rút lui “không còn manh giáp” (1).
Với các lý do được kể ra ở trên, chiến thắng của các lực lượng Nhảy Dù trước quân Cộng Sản phải được coi là hết sức oanh liệt và dứt khoát. Sau gần ba tháng trời, trận đánh kết thúc với việc các lực lượng Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà -dưới quyền chỉ huy tổng quát của các tướng Ngô Quang Trưởng và Lê Quang Lưỡng- tiêu diệt gần như toàn bộ các lực lượng tham chiến của Cộng Sản Bắc Việt bên trong và chung quanh ngọn đồi chiến lược 1062, khẳng định trước các nhà viết quân sử thế giới tính ưu việt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà so với Quân Ðội Nhân Dân Cộng Sản Bắc Việt. (2)
Bài viết này được thực hiện, phần lớn, dựa trên tài liệu nhan đề “33 Năm Nhớ Về Mặt Trận Thường Ðức” của Ðại Uý Võ Trung Tín và Ðại Uý Nguyễn Hữu Viên, cả hai đều là sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, và đã được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới điện toán từ tháng 11/2008.
Bối cảnh chiến trận
Trong phần nhận định tổng quát về bối cảnh cuộc chiến, các tác giả viết:
- “Sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết vào cuối tháng 01/1973, tình hình chiến cuộc Việt Nam tạm lắng dịu... Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, [Cộng Sản] Bắc Việt không ngần ngại bắt đầu vi phạm Hiệp Ðịnh Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực... Song song với việc Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng I Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đồng thời ào ạt di chuyển bộ đội trên Ðường Mòn Hồ Chí Minh vào các Quân Khu 2 và 3, hai Sư Ðoàn 304 và 324B Bắc Việt, cùng các Trung Đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Ðức thuộc tỉnh Quảng Nam là một điểm chiến lược nhờ địa thế núi rừng hiểm trở...
- “Ðịa hình Thường Ðức rất hiểm yếu, ba bề là núi cao, có nhiều dốc dựng đứng. Phía Ðông bằng phẳng, từ quận Ðiện Bàn trên giao điểm Quốc Lộ 1, Liên Tỉnh Lộ 4 chạy dọc theo Sông Vu Gia dẫn vào Thường Ðức nằm ngay ngã tư Liên Tỉnh Lộ 4 và Quốc Lộ 14 và cũng là nơi hợp lưu của hai con Sông Côn và Sông Vu Gia nước sâu, chạy dài từ Tây sang Ðông. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cho thành lập quận này nhằm cắt đứt con đường 14, không cho Cộng quân sử dụng để di chuyển vào Nam...”.
Nói đến các động lực dẫn đến việc Cộng Sản Bắc Việt xua quân lấn chiếm Chi Khu Thường Ðức và việc Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn I Vùng I Chiến Thuật, giao cho Sư Ðoàn Nhảy Dù trọng trách tái chiếm quận này, các tác giả viết:
“Về mặt chiến lược, Thường Ðức là một vị trí quan trọng xuất phát các cuộc hành quân trinh sát [của các lực lượng Việt Nam Cộng Hoà], khống chế con đường tiếp liệu Trường Sơn Ðông mà Cộng Sản Bắc Việt vừa mới khai dựng sau ngày ký hiệp định 27/01/1973. Từ phía Bắc quân dụng và chiến cụ theo đường mòn Hồ Chí Minh đưa từ A Lưới đến A-Shau qua Trào đến Bến Giàng nằm trên Liên Tỉnh Lộ 4 cách Thường Ðức không xa. Tại đây quân CSBV có những kho lẳm tồn trữ quân dụng tiếp tế cho mặt trận Quân Khu Năm.
Về chính trị, với việc chiếm đóng Thường Ðức, Hà Nội có thể đánh giá được phản ứng của Hoa Kỳ và khả năng viện trợ quân sự cho Sài Gòn. Về quân sự, Hà Nội có thể đánh giá khả năng phản kích, cơ động và hoả lực yểm trợ chủ lực VNCH ở Quân Khu 1, đặc biệt là các lực lượng tổng trừ bị cơ động chiến lược (Nhảy Dù).
“Ðối với Việt Nam Cộng Hoà, trận chiến Thường Ðức đánh dấu việc vi phạm ngưng bắn của CSBV đã đến một mức độ nghiêm trọng mới. Thường Ðức trở thành quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay Cộng Sản sau ngày ngưng bắn. Ðai Lộc và Ðà Nẵng [nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Vùng 1 Chiến Thuật] sẽ bị đe doạ nghiêm trọng từ hướng Tây chỉ cách thung lũng sông Vu Gia”.
Các tác giả liệt kê lực lượng địch và bạn tham chiến như sau:
Lực lượng địch tham chiến gồm có: Sư Ðoàn 324B gồm các Trung Ðoàn 29, Trung Ðoàn 6 và Trung Ðoàn 803 di chuyển từ phía Tây tỉnh Quảng Trị xuống tỉnh Quảng Nam; Sư Ðoàn 304 Ðiện Biên, Tư lệnh là Trương Công Phê, chính uỷ là Trần Bình chỉ huy trực tiếp trận chiến, gồm 3 Trung Đoàn 66, 24 và 36 vừa tham gia trận đánh chiếm căn cứ Dak Pek ở phía Bắc tỉnh Kontum vào giữa Tháng Năm đã bí mật di chuyển vào khu vực Thường Ðức; Trung Ðoàn 31 thuộc Sư Ðoàn 2 CSBV tăng viện vào lúc cuối trận chiến; 2 Tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng Ðà; Một Trung Đoàn Pháo và Trung Đoàn Chiến Xa...
(Các tác giả cũng ghi nhận rằng, về mặt súng nặng, các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt đã đưa vào sử dụng loại súng cối 160 ly có sức công phá lớn, ngoài các loại vũ khí nặng khác mà họ từng sử dụng trong trận chiến như hoả tiễn 122 ly, sơn pháo 130 ly, pháo 105 ly, pháo 85 ly, cối 82 ly và cối 61 ly).
Lực lượng bạn: “Tiểu Ðoàn 79 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng; 2 Ðại đội Ðịa Phương Quân; Một Ðại Ðội Cảnh Sát Dã Chiến; Một Trung Ðội Viễn Thám; 16 Trung Ðội Nghĩa Quân; Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Ðỉnh làm Lữ Ðoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 1, 8, 9 Nhảy Dù và Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù; Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Lê Văn Phát làm Lữ Ðoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 2, 3, 6 Nhảy Dù và Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù”.
Một số diễn tiến đáng chú ý trong trận Thường Ðức
Về diễn tiến các cuộc giao tranh vô cùng ác liệt trong trận Thường Ðức, nhất là trận đánh để tái chiếm Ðồi 1062 đã lọt vào tay Cộng Quân sau khi họ tràn ngập Chi Khu Thượng Ðức ngày 07/08/1974, xin trích dẫn một đoạn tiêu biểu trong bài viết của hai tác giả Võ Trung Tín và Nguyễn Hữu Viên:
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù tấn công 1062:
“Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Ðông làm một trận hoả công. Lực lượng xung kích gồm 2 Trung Ðội với Thiếu Uý Lê Văn Bá chỉ huy một Trung Ðội thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu Uý Trần Thanh Quang chỉ huy một Trung Ðội của Ðại Ðội 11... Ðại Ðội 11 làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công... Hoả lực yểm trợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng”.
“Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn. Hai Trung Ðội bắt đầu xuất phát. Thiếu Uý Quang dẫn Trung Đội đi bên trái, Trung Đội Thiếu Uý Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi ba giờ trôi qua...”.
“Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo binh [ta] ngưng tác xa, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cành Thiếu Uý Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển tác xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi, đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!”. “Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Uý Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sôn pháo 120 ly của địch.
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
- “Chúng pháo dữ dội quá, đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!”.
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!”.
Ban đêm tời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung Đội Thiếu Uý Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được là Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn Claymore... ngay từ lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (Tiểu Ðoàn Trưởng) bảo Quý:
- “Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác”.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Hai Trung Đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù rỉa bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt. Thiếu Uý Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D... Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh Ðồi 1062. Trung Ðội của Thiếu Uý Quang có 15 chiến sĩ anh dũng hy sinh...”.
Mức độ hy sinh không bờ bến của các chiến sĩ Nhảy Dù
Về những hy sinh to lớn của các chiến sĩ Nhảy Dù tại mặt trận Thường Ðức như sự hy sinh vừa kể của Thiếu Uý Quang và 15 chiến sĩ thuộc Trung Ðội dưới quyền của vị sĩ quan này, các tác giả viết: “Cái giá để chiếm được Ðồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm”.
Trong phạm vi của bài viết ngày hôm nay, chỉ xin trích dẫn một vài đoạn tiêu biểu trong bài viết của hai tác giả đã được đề cập tới, nói lên những gai lửa của trận chiến cùng những hy sinh, gian khổ không bút mực nào tả xiết mà các chiến sĩ Nhảy Dù đã cống hiến cho dân chúng miền Nam Việt Nam, chỉ với một mục đích không hề lay chuyển của Sư Ðoàn bách chiến, bách thắng này là bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ của miền Nam tự do trước cuộc tấn công xâm lược điên cuồng của Cộng Sản Bắc Việt, có sự yểm trợ tối đa của Cộng Sản Quốc Tế và sự đồng loã, cố ý cũng có mà vô tình cũng có, của phần còn lại của thế giới hồi các thập niên 1950, 1960 và 1970 trong thế kỷ trước:
“Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với Cộng Sản Bắc Việt. Thiếu Uý Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D (đã trích dẫn)... Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Uý Ðoàn Tấn và Chuẩn Uý Ðến thuộc Ðại Ðội 81 khiến 2 anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Uý Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa... Thiếu Tá Vân nghe tiếng Ðại Uý Ðàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Ðại Uý Ðàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung, hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Ðàng nguyên là cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn gọi 3 phi tuần khu trục giội bom napalm xuống đốt cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt pháo binh bắn hoả tập trợ chiến. Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt lại tràn lên thấy Ðàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị ghim như lông nhím. Ðàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không khuất phục... Ðại Ðội 34 của Trung Uý Thư, lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô: “Hàng sống, chống chết”, nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù mà phải cầm cự với cả Trung Đoàn của Sư Ðoàn 304 [Ðiện Biên], địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù như Ðại Uý Phạm Văn Thư, Thiếu Uý Tô Văn Nhị đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch...”.
Về con số các chiến sĩ Nhảy Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh trong chiến dịch kéo dài gần ba tháng trời tại Thường Ðức, thiết tưởng cũng chỉ cần nêu tên một số các sĩ quan ưu tú Dù đã bỏ mình trong trận chiến này -thêm vào con số hằng trăm, hằng nghìn chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thuộc nhiều quân, binh chủng đã bỏ mình trong trận đánh- cũng đủ thấy mức độ hy sinh to lớn của tập thể chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do trước đây, theo đúng nghĩa của tinh thần thượng võ và khí phách “chiến đấu đến hơi thở cuối cùng”.
Qua bài viết của hai tác giả “35 Năm Nhớ về Mặt Trận Thường Ðức”, các sĩ quan Nhảy Dù sau đây đã bỏ mình ngay trên chiến trường: Thiếu Uý Hoàng Văn Tiến, Thiếu Uý Nghiêm Sĩ Thành, Chuẩn Uý Tuyến, Thiếu Uý Quang, Trung Uý Bằng, Trung Uý Khánh (Truyền Tin), Thiếu Uý Ðoàn Tấn, Chuẩn Uý Ðến, Trung Uý Vũ Ðức Tiềm, Ðại Uý Nguỵ Văn Ðàng, Trung Uý Phạm Văn Thư, Thiếu Uý Tô Văn Nhị, Chuẩn Uý Bảo, Trung Uý Thịnh, Thiếu Uý Trần Ðại Thanh, Thiếu Uý Lê Hải Bằng... Một số sĩ quan khác có thể cũng đã tử trận trong chiến dịch tái chiếm Thường Ðức, mà vì lý do này hay lý do khác, đã không thấy được kể tên. Dĩ nhiên là con số hạ sĩ quan và binh sĩ Thiên Thần Mũ Ðỏ hy sinh trong trận này còn cao hơn nhiều so với số các sĩ quan tử trận.
Trận Thường Ðức ác liệt không thể tưởng
Sau hết, về cường độ các cuộc giao tranh và mức độ ác liệt của trận chiến Thường Ðức, hai tác giả đã đưa ra các nhận định sau đây trong bài viết của họ:
- “Ðỉnh 1062 là một nấm mồ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, thì lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi, giành lại đỉnh 1062 nhiều lần... “Cái giá” để chiếm được Ðồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm (đã trích dẫn)... Gần một tháng quần thảo, ta và địch đều bị tổn thất nặng quanh đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất rồi thì chiếm lại bằng mọi giá... Vào giờ này, lực lượng địch bu quanh 1062 dày đặc như ruồi bu quanh viên kẹo... Cối 75 ly và sơn pháo của địch từ những cao độ phía Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái, và bộ đội Bắc Việt từ hướng đó đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt. Súng bắn không cần nhắm. Lựu đạn ném không cần lấy đà. Hàng hàng, lớp lớp Cộng quân rơi rụng...”.
Theo lời hai tác giả, tổn thất chung cuộc của ta và địch sau ba tháng giao tranh là như sau:
- “Từ khi khởi đầu chiến dịch Thường Ðức vào ngày 15/08 liên tục trong 3 tháng chiến đấu ác liệt quanh khu vực Ðồi 1062, các đơn vị Nhảy Dù đã thiệt hại đến 50 phần trăm quân số, với gần 500 chết và 2 000 bị thương. Sư Ðoàn Nhảy Dù sử dụng luân phiên tổng cộng 7 tiểu đoàn trong chiến dịch này, và đến giữa Tháng Mười Một có đến 6 tiểu đoàn hoạt động trong khu vực Ðồi 1062. Ba Trung Đoàn Cộng Sản Bắc Việt (24, 29, 66) gần như bị xoá tên với 2 000 bộ đội chết và 5 000 bị thương... Cả hai bên đều kiệt sức sau một chiến dịch đẫm máu” (Tài liệu: Col. William E LeGros trong “Vietnam from Ceasefire to Capitulation”).
Từ trận chiến Thường Ðức đến cuộc Chiến Tranh Việt Nam
Trận đánh Thường Ðức, trận đọ sức cuối cùng của quân đội hai miền Nam, Bắc trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa qua, ngoài việc cho thấy tính ưu việt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trước Quân Ðội Nhân Dân Cộng Sản Bắc Việt, còn tiêu biểu cho những hy sinh không bờ bến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, bất kể họ là Nhảy Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Không Quân, Hải Quân, Bộ Binh, Ðịa Phương Quân hoặc Nghĩa Quân, qua cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam trước 1975 trong bối cảnh cuộc chiến đấu cho tự do của nhân loại bị phản bội khi chiếc tiền đồn chống Cộng tại Ðông Nam Á bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn.
Không ai có thể tưởng tượng được rằng, chỉ vì một ngọn đồi khô cằn tại một quận lỵ đèo heo hút gió xa cách những vùng cư dân trù phú dưới miền đồng bằng duyên hải miền Trung, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Vùng I Chiến Thuật, đành phải chấp nhận đưa lá bài chủ lực của mình tại Vùng Hoả Tuyến, là hai Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn Nhảy Dù, vào trận địa để thanh toán mục tiêu, tức là nhổ cho bằng được cái chốt địch đang ngạo nghễ chiếm đóng Ðồi 1062 ngó xuống quận Thường Ðức đặng từ đó đưa pháo tầm xa về khống chế các cơ sở quân sự -trong đó có bản doanh của Quân Ðoàn I- và dân sự cùng phố phường, làng xã của dân chúng tại miền duyên hải Quảng Nam-Ðà Nẵng. Phải biết rằng, trong tình thế lúc bấy giờ, các lực lượng tổng trừ bị trấn đóng tại Quân Ðoàn I, như Sư Ðoàn Nhảy Dù và Sư Ðoàn Thuỷ Quân Lục Chiến cùng với các Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân thiện chiến, đang bị căng kéo và dàn mỏng đến mức tối đa trên địa hình hiểm trở của Vùng I Chiến Thuật, chiếc ải địa đầu của miền Nam Việt Nam, nơi xuất phát và cũng là nơi đánh dấu biết bao nhiêu trận đánh lớn trong cuộc Chiến Tranh Quốc-Cộng kể từ khi đất nước Việt Nam bị chia đôi bằng con Sông Bến Hải cho tới năm 1975.
Ðiều rõ ràng nhất và cũng là điều nổi bật nhất chính là mức độ hy sinh rất cao, cao đến độ không bờ bến, của tất cả các lực lượng tham chiến trong chiến dịch chiếm lại Ðồi 1062 và giành lại quận Thường Ðức khỏi tay Cộng quân, trong đó phải kể tới rất nhiều lần các chiến sĩ Nhảy Dù đã kêu phi pháo dội bão lửa ngay trên đầu mình để thí một mạng của mình đổi lấy bốn, năm mạng của địch quân. Chưa có trận đánh nào mà, chỉ trong khoảng thời gian không đầy ba tháng, lại có nhiều sĩ quan ưu tú và binh sĩ kiên cường của Sư Ðoàn Nhảy Dù phải hy sinh tại mặt trận đến thế. Chưa có trận đánh nào mà, chỉ trong khoảng thời gian không đầy 3 tháng, các lực lượng chính quy Cộng Sản Bắc Việt và du kích địa phương, đặc biệt là Sư Ðoàn 304 Ðiện Biên, đã phải tổn thất nặng nề đến như vậy, mặc dù, giống hệt như quân đội Pháp trong trận Ðiện Biên Phủ 20 năm về trước, chính quân Cộng Sản là kẻ lựa chọn chiến trường và thời điểm giao tranh, tức là đúng vào lúc họ có được ưu thế chiến lược và chiến thuật cao nhất để bảo đảm rằng họ sẽ là kẻ chiến thắng trong trận thư hùng.
Những hy sinh vô bờ bến đó của các chiến sĩ Nhảy Dù càng trở nên cay đắng hơn khi, không đầy một năm sau, toàn bộ miền Nam Việt Nam đành rơi vào tay quân Cộng Sản vì lý do không phải quân đội và nhân dân miền Nam tự do yếu hèn mà chính vì sự phản bội trắng trợn của Ðồng Minh Hoa Kỳ và thái độ a dua đến mức trân tráo của phần còn lại của thế giới vốn đã bị bùa mê, thuốc lú của Cộng Sản Quốc Tế làm cho ngu muội đi tự lúc nào. Những cái chết như thế, vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, phải được coi là những thiệt thòi lớn lao nhất trong đời người chiến sĩ và đối với những người thân yêu của họ còn lại trên cõi đời.
Những người Việt Nam tị nạn Cộng Sản tại Hải Ngoại, mỗi khi đốt một ngọn nến, thắp một nén hương trước bàn thờ tổ quốc và anh linh các anh hùng, liệt nữ cùng các tử sĩ của Việt Nam Cộng Hoà nhân dịp Tết đến, Xuân về, hãy nhớ đến cách riêng những hy sinh to lớn của các chiến sĩ từng tham chiến tại mặt trận Thường Ðức vào những ngày tháng cuối của năm 1974 - y như những hy sinh của các chiến binh đánh trận Xuân Lộc hồi tháng 04/1975 - bởi vì đây là những trận đánh để đời làm vang danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và làm xấu hổ những nhà viết sử đầy thiên vị của cả bạn lẫn thù đã và đang nỗ lực bôi nhọ sức chiến đấu dũng mãnh, tinh thần thượng võ và ý chí quyết chiến, quyết thắng của người chiến binh Cộng Hoà tại miền Nam Việt Nam, chỉ với mục đích không mấy lương thiện là chạy tội cho sự lầm mê và phản bội của thế giới khi họ cùng hè nhau bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà vào tay quân Cộng Sản đặng chuốc lấy hư danh rằng chính họ đã giúp “mang lại hoà bình và chấm dứt đổ máu cho dân chúng Việt Nam ở cả hai miền Nam, Bắc”. Chính sự cầu an và lòng thương hại không đúng chỗ đó của thế giới đã đẩy đưa dân tộc Việt Nam đến thảm cảnh ngày nay, khi toàn bộ một dân tộc gồm gần 90 triệu người đang phải sống lầm than cơ cực và thiếu tự do, dân chủ dưới ách cai trị vừa độc tài vừa ngu muội mà cũng vừa khiếp nhược trước ngoại bang của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thật chẳng được cái tích sự gì khi con, em những người Tị Nạn Việt Nam thuộc các thế hệ thứ nhì, thứ ba, thứ tư... phải đọc và phải học về lịch sử cuộc Chiến Tranh Việt Nam do chính các sử gia Hoa Kỳ viết, có sự tham khảo các sách báo tuyên truyền của Cộng Sản Việt Nam, mà trang nào, chương nào cũng chỉ đổ cái lỗi để mất miền Nam Việt Nam vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược hồi tháng 04/1975 cho dân chúng và chính phủ Việt Nam Cộng Hoà - đặc biệt là đổ thừa cho chính quyền Ngô Ðình Diệm độc tài, gia đình trị và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng, bất lực cũng như viện lý do Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thiếu khả năng chiến đấu- bất chấp các đánh giá trung thực và lương thiện của nhiều danh tướng mang các quốc tịch Mỹ, Pháp, Ðại Hàn, Úc Ðại Lợi, Trung Hoa Dân Quốc, và Israel về quân đội đó.
Lời cuối cho thiên anh hùng ca
Ðến đây, thiết tưởng không gì bằng hãy mượn lời thơ sau đây của SVSQ Lê Chiến, Khoá 8/72 SQTB Ðồng Ðế, Nha Trang, viết để tưởng niệm các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tham dự mặt trận Thường Ðức năm 1974:
“Giặc qua Sông Côn về Thường Ðức
Trong cơn gió lạnh cuối Trường Sơn
Quân ngược dòng sông đêm thao thức
Di binh, chuyển pháo tấn công đồn
Anh Biệt Ðộng Quân đêm phòng thủ
Nhìn qua ánh sáng lỗ châu mai
Thêm một đêm dài không giấc ngủ
Khói thuốc cay mờ trong mắt ai
Anh lính địa phương trong lô-cốt
Tay cầm ống phóng bảy-mươi-hai
Bên xóm nhà xa đèn ai đốt
Lập lòe ánh lửa bóng liêu trai
Anh lính pháo binh ghi toạ độ
Sẵn sàng yểm trợ pháo tầm xa
Chùi súng, thông nòng lo tu bổ
Tay sờ thép lạnh ướt sương pha
Anh Thiết Kỵ về đường liên tỉnh
Băng ngang Ðại Lộc đến Hà Nha
Vó câu dong ruổi như đời lính
Từ độ lửa binh chẳng về nhà
Anh lính Không Quân từ Ðà Nẵng
Phi pháo từng đêm chặn giặc về
Có lẽ đêm nay anh thức trắng
Ðợi chờ phi vụ đắng cà-phê
Anh Nhảy Dù về từ Quảng Trị
Ba-lô, súng đạn tới Cầu Chìm
Nhận đồ tiếp tế trên chiến luỹ
Nghe hờn sông núi dậy trong tim
Ðại pháo từng đêm trên chiến trận
Xe tăng, bộc phá mở hàng rào
Anh vẫn hiên ngang làm bổn phận
Quê mẹ vỉ ai tẩm máu đào
Hơn ba mươi năm ngày lịch sử
Thường Ðức quê tôi những ngày buồn
Cũng bóng tre xanh người Thượng nữ
Vu Gia sông cũ nước xuôi nguồn
Tôi nhớ ơn anh, người lính chiến
Tháng ngày bảo vệ xóm làng tôi
Những kẻ hy sinh trên trận tuyến
Ngàn sau còn nhớ mãi không thôi...”.
Hôm nay đây, 35 năm sau trận đánh Thường Ðức lịch sử, nhân lúc Tết đến, Xuân về, bài này được viết lên như là một nén hương lòng kính dâng đến anh linh các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thuộc mọi quân, binh chủng, Cảnh Sát Quốc Gia, các lực lượng đặc biệt và biệt kích, lực lượng Xây Dựng Nông Thôn và các lực lượng bán quân sự... đã đem chính máu đào của mình ra bảo vệ miền Nam tự do chống lại nanh vuốt Cộng Sản xâm lược cho đến hơi thở cuối cùng. Hỡi những người Tị Nạn Việt Nam đang vui hưởng tự do, dân chủ tại các nước bên ngoài Việt Nam, hãy nhớ lấy cái căn cước tị nạn của mình và chớ quên ơn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã vị quốc vong thân để cho mình và gia đình mình được sống còn trong thịnh vượng và hạnh phúc cho tới ngày nay!
Ghi chú:
(1) “Sau đó, Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Hoà ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy Cộng quân thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối...” (Ðại Uý Võ Trung Tín và Ðại Uý Nguyễn Hữu Viên, “35 Năm Nhớ Về Mặt Trận Thường Ðức”)
(2) Trận Thường Ðức cũng còn là trận đánh vẻ vang để đời sau cùng của vị tư lệnh cuối cùng của Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hoà, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng. Ông đã áp dụng chiến thuật xa luân chiến để hai Lữ Ðoàn Nhảy Dù thay phiên nhau giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai Sư Ðoàn 304 (Ðiện Biên) và 324B cùng một Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 2 Cộng Sản Bắc Việt và các lực lượng địa phương.
-Trận Thường Ðức, Cuộc Thư Hùng Nam-Bắc Cuối Cùng - Vann Phan

**************


-Rơi Trên Đất Địch – Nguyễn Hữu Phước **Chuyện thật xảy ra trong chiến tranh Việt Nam, phóng tác theo nguyệt san Reader’s Digest)
Trong cuộc chiến chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam trước đây, bên cạnh những chiến tích hào hùng, những tấm gương can đảm của người quân nhân QLVNCH, chúng ta cũng không thể không nói đến sự chiến đấu của người bạn đồng minh.
Họ là những quân nhân đã vượt ngàn dặm để chiến đấu tại một vùng đất xa lạ chỉ vì lý tưởng bảo vệ tự do. Có những người ra đi để rồi không bao giờ trở lại, nhưng cũng có người may mắn sống sót. Và một trong những người may mắn nhất phải là Đại Úy Locher của Không lực Hoa Kỳ.
Sau đây mời quý bạn theo dõi câu chuyện về Đại Úy Roger Locher, một sĩ quan phi hành, kiêm chuyên viên vũ khí, đã từng tham dự nhiều phi vụ trên không phận Bắc Việt trong chiến tranh Việt Nam.

Locher thường bay trên loại phi cơ phản lực F-4 Phantom và đã hạ được nhiều phản lực MiG của địch trước khi chính phi cơ của anh bị bắn hạ trên không phận Bắc Việt. Anh tìm cách lẩn trốn và sau 23 ngày đã được toán cấp cứu bốc ra khỏi miền Bắc một cách an toàn. Tên tuổi của Locher được ghi lại với một kỷ lục trong cuộc chiến Việt Nam: Sống sót và được cứu thoát sau 23 ngày kẹt trong lòng địch.
*****
Trong khi đang đu đưa với chiếc dù lơ lửng trên bầu trời phía Tây Bắc, cách Hà Nội 40 dặm, Đại Úy Locher vẫn chưa thể tin đó là sự thật: mình bị bắn rơi. Tương tự như những người đi bay khác, anh không bao giờ nghĩ rằng chuyện đó có thể xảy ra cho mình.
Nhưng nó đã xảy ra. Một cảm giác nghẹt thở vì sự sợ hãi, bơ vơ đến càng lúc càng rõ rệt. Hai chiếc MiG màu bạc bóng loáng lướt qua phía trên Locher ở cao độ 10,000 bộ. Rồi những đám rừng cây hiện lờ mờ phía dưới. Anh đáp xuyên qua những ngọn cây và cuối cùng đôi bốt đã chạm đất…
Roger Locher là một sĩ quan trẻ mới 25 tuổi, vóc dáng cao lớn. Anh cất cánh vào sáng ngày 10 tháng 5 năm 1972 từ một căn cứ không quân bên Thái Lan. Mục tiêu: Hà Nội. Nhiệm vụ: ngăn chận và tiêu diệt các phi cơ MiG của địch trước khi chúng có thể tấn công các oanh tạc cơ của Hoa Kỳ.
Đây là phi vụ thứ 407 của Locher. Anh ngồi ghế sau của chiếc chiến đấu cơ phản lực F-4 Phantom hai chỗ ngồi, có nhiệm vụ điều khiển hệ thống vũ khí gồm các loại hỏa tiển, đại bác và bom. Trước đó không lâu, Locher đã bắn hạ được hai chiến đấu cơ MiG-21 của không quân Bắc Việt.
Lúc này, trước mặt Locher về phía Tây Hà Nội, một chiếc MiG đang nhào xuống một chiếc Phantom. Anh khai hỏa hai hỏa tiển không-đối-không, chiếc MiG bốc cháy. Thêm hai chiếc MiG nữa bị các Phantom của Hoa Kỳ bắn hạ trước khi người phi công lái chiếc Phantom của Locher thét lên: Chúng mình bị trúng đạn rồi!
Khi ngọn lửa đã lan dần và chiếc Phantom không còn kiểm soát được nữa, lao đi vùn vụt, Locher hét lên: Tôi sắp sửa rời phi cơ. Rồi anh kéo mạnh cần máy tống, sau một tiếng ‘bụp’ khô khan, thân người anh bị bắn văng ra không gian và anh ngất đi vài giây đông hồ…
Sau khi chạm đất, Locher đã hoàn toàn tĩnh táo. Anh biết chắc hai chiếc MiG vừa bay ngang đã liên lạc vô tuyến thông báo cho các lực lượng dưới đất biết về vị trí của mình. Cái dù của Locher bị vướng trên những cành cây mà anh không thể kéo ra được sẽ khiến địch xác định được vị trí một cách dễ dàng. Locher vội vã tháo dù ra khỏi người và bắt đầu di chuyển một cách khó nhọc, tiến lên phía sườn núi. Anh cẩn thận không để lại một dấu vết sau những bước chân của mình.
Khoảng mười phút sau, Locher thở thật khó khăn, cảm thấy chóng mặt, đôi chân mềm tựa như cao-su, hai bàn chân lạnh ngắt. Anh nghĩ thầm ‘Mình bị shock. Hãy dừng lại. Bình tĩnh. Hãy bắt bộ óc mình hoạt động’. Rồi anh bò sâu vào cánh rừng đầy cây lá rậm rạp và nằm rạp xuống theo tư thế đôi chân cao hơn đầu.
Nghĩ đến tình trạng nguy hiểm hiện tại, Locher biết rằng mọi việc đang diễn ra một cách tệ hại. Vị trí anh đang ở quá xa về hướng Bắc. Điểm gần nhất mà anh có thể dùng máy liên lạc cấp cứu loại bỏ túi với các phi cơ bạn đang bay trên bầu trời là 90 dặm về phía Nam. Locher tính toán: 90 dặm! Tìm cách lẩn trốn và bám chặt theo sườn núi, làm sao đi bộ ít nhất hai dặm trong một ngày, trong vòng 45 ngày, không lương thực và trên một địa thế hoàn toàn xa lạ. Nhưng bắt buộc phải cố gắng. Nếu kẻ thù có bắt được mình thì cũng thể để chúng bắt được một cách dễ dàng!
Locher lấy bình nước từ trong áo cấp cứu mặc trên người và từ từ uống hết một nửa, sửa lại cái nón lưới chống muỗi đội trên đầu, rồi với một cái địa bàn cầm tay và bản đồ hướng dẫn, anh thận trọng khởi hành về hướng Tây Nam. Sau mỗi bước chân, anh phải xem xét lại để xóa bỏ mọi dấu vết của đôi giày bốt, của những cành cây nhỏ bị đạp gẫy và tất cả những dấu vết khác có thể làm lộ tung tích của mình.
Tới trưa, đang đi bỗng Locher khựng lại, chết điếng. Từ phía trước mặt có những tiếng réo gọi nhau và những tiếng la hét như giận dữ tiến thẳng về phía anh. Anh vội vã bò sâu vào một bụi cây và nằm yên, trong lúc bọn người lùng sục tiến đến càng lúc càng gần.
Locher bỗng nhớ lại thời niên thiếu của mình ở vùng quê Sabetha, tiểu bang Akansas, nơi mà anh thường chơi trò giả làm vịt trời trốn trong bụi lau, cố gắng ẩn náu, để người thợ săn đang đến gần không thể phát giác. Locher nhủ thầm: Hãy thở thật nhẹ, đừng đầu hàng…Mồ hôi đổ ướt lưng, anh thầm cầu nguyện. Mũi anh có thể ngữi thấy cả mùi thuốc lá của những người đang sục sạo chung quanh. Có lúc tiếng chân người bước qua sát chổ anh đang ẩn nấp…
Ngày kế tiếp, sự việc trên lại tái diễn. Nhưng lần này, ngoài tiếng người la hét, Locher còn nghe thấy tiếng súng nổ. Anh nghĩ thầm: Họ đang tìm cách làm mình phải rời khỏi chổ ẩn nấp, giống như xua đuổi một con vịt trời bay ra khỏi bụi để bắn. Mình phải nằm yên. Họ có đạp lên mình mới mong tìm thấy…
Kẻ thù đã suýt chút nữa thì làm được viêc đó: Locher nghe thấy tiếng cành lá bị nghiền nát bởi bước chân người, sau đó hai người đàn ông với súng tiểu liên trên tay tiến tới cách chỗ anh chỉ có vài mét và…ngồi xuống nghỉ mệt. Một lúc sau, họ bỏ đi. Tiếp theo là một sự yên lặng rất đáng nghi ngờ. Họ bỏ đi thật hay gài bẫy chờ con chim bay ra khỏi cành? Locher quyết định tiếp tục nằm im tại chỗ cho đến hết ngày, thỉnh thoảng chỉ dám duỗi nhẹ chân tay, để cho các bắp thịt đỡ mỏi.
Sang ngày thứ ba, Locher thử mở cái máy liên lạc dò tìm tần số cấp cứu và anh đã bắt được đối thoại của những phi công đang bay tìm kiếm một nhân viên phi hành vừa bị bắn rơi. Nhân viên này báo cáo rằng kẻ thù đang theo đuổi ông ta, đã rất gần và yêu cầu nên oanh tạc vị trí của mình. Ông ta đã chọn lựa cái chết hơn là bị cầm tù!…
Tín hiệu yếu dần, Locher tắt máy liên lạc. Sau đó anh nghe thấy tiếng nói chuyện của những tên cộng sản đang đi truy lùng mình, cách chỗ anh ẩn nấp khoảng 200 thước… Cái gì thế này? Locher vừa thắc mắc tự hỏi vừa tìm cách tống khứ những con vắt đang lợi dụng tình thế ngặt nghèo này để tấn công cổ và cườm tay của anh. Rồi Locher nghĩ thầm: Trong ba ngày qua mình đã không đi đưọc quá một dặm. Có thể mình sẽ không thoát khỏi nơi này. Nhưng thôi, cứ hãy cố gắng xem mình sẽ trì hoãn bao lâu cái kết cuộc không thể nào tránh né được.
Sang ngày thứ tư, mặc dù phải bước đi một cách mệt nhọc, Locher vẫn kiên trì men theo sườn núi, lên xuống hết ngọn đồi này tới ngọn đồi khác. Nước không thành vấn đề. Trời mưa cách đêm, và vào buổi sáng anh phải hong quần áo cho khô, cẩn thận tránh không để cho giầy và vớ bị hôi thối.
Nhưng Locher không có lương thực. Anh đã thử ba loại trái cây rừng. Lúc đầu gậm nhấm một chút ít, rồi chờ khoảng nửa giờ xem phản ứng cơ thể ra sao. Kết quả, anh thấy những loại trái cây này không có hại. Nhưng số lượng tìm được cũng chẳng bao nhiêu…
Locher có thể cảm thấy sức lực trong người mình sa sút một cách rõ rệt theo từng ngày. Điều này rất dễ dàng đưa đến sự chấp nhận đầu hàng. Không, nhất định không. Locher tự nhủ mỗi ngày. Hãy để cho kẻ thù phải khổ công tìm kiếm mình!
Ngày thứ 12, sau khi trời hừng sáng, Locher tìm thấy một con đường mòn khá tốt dẫn về hướng Nam. Đối với Locher, con đường này thật tuyệt hảo, vì anh không còn phải dùng sức nhiều như khi đi xuyên rừng. Bất chợt, Locher nghe thấy nhều giọng nói đang tiến gần về phía mình. Những đứa trẻ chăn trâu đang lùa trâu về phía cánh đồng cỏ. Locher vội nhào vào một bụi rậm, bò đi cách đường mòn vài thước và nằm im. Nhưng những con trâu đã dừng lại gặm cỏ bên vệ đường, có con chỉ cách chỗ chàng nằm vài thước. Thời gian trôi qua một cách chậm chạp, hành hạ Locher trong khi anh nằm im giờ này qua giờ khác.
Mãi tới gần hoàng hôn, Locher mới nghe thấy tiếng bọn trẻ gọi nhau, anh nghĩ: chúng bắt đầu lùa trâu về làng! Anh nghe thấy tiếng thở hồng hộc của từng con trâu và tiếng roi của bọn trẻ quất trên lưng những con vật để thúc chúng đi về. Một con trâu giận dữ khịt mũi, đạp chân vào một cành cây sát chỗ Locher nằm, khiến cành cây này đập mạnh vào mắt cá chân. Anh há hốc miệng vì đau, nhưng cố giữ không cho âm thanh thoát ra. Sau khi con trâu đi qua, lại tới đúa bé dẩm lên cành cây hồi nãy, khiến nó đập xuống đùi Locher. Cuối cùng là sự im lặng.
Sau khi trời tối, Locher lén đi bọc vòng quanh làng và tiến lên phía sườn núi để do xét tình hình chung quanh. Rồi anh lấy lá cây xếp thành một cái giường để ngủ. Thỉnh thoảng anh lại thức giấc, để tống khứ những con vắt đang hút máu mình. Mỗi con để lại một vết đau. Sau đó một trận mưa đổ xuống.
Trời sáng, Locher vừa sưởi nắng cho khô quần áo, vừa nghiên cứu cẩn thận lại bản đồ, rồi đi tới một kết luận kinh hoàng…là trong 12 ngày qua, anh chưa đi được quá 10 dặm đường chim bay! Nếu vẫn còn ở khu vực phía Bắc quá xa này, anh không có hy vọng được cứu thoát. Phải tiếp tục đi về phía Nam. Nhưng từ đây ra đồng bằng sông Hồng, với bề rộng chừng 20 dặm, khó lòng mà tìm được nơi trú ẩn khi hữu sự.
Không biết phải giải quyết ra sao, Locher đành ở lại vị trí ẩn náu của mình. Ngôi làng trải dài khoảng 500 mét dưới chân núi, và Locher có thể nghe thấy tiếng kẻng hàng ngày. Kẻng báo thức buổi sáng, kẻng đi làm, kẻng nghỉ giải lao, kẻng ăn trưa.v.v…
Ngày lại ngày trôi qua. Tới ngày thứ 20, Locher biết mình đã phí công sức. Anh sờ xuống đôi mông và cảm thấy chỉ còn da bọc xương. Đầu óc anh trống rỗng và chỉ còn nghĩ tới miếng ăn. Chỉ có hai giải pháp: một, nằm chết đói ở đây, hai, là đi xuống đồng bằng tìm cách lấy trộm thực phẩm.
Nhưng Locher cũng biết rằng, sau khi anh bắt đầu vượt qua cái thung lũng trống trải để xuống đồng bằng thì hầu như nắm chắc trong tay việc bị bắt làm tù binh. Locher nghĩ tới viễn tượng khủng khiếp khi bị giam cầm và xác định quyết tâm sẽ tự hành xử một cách danh dự, không để trở thành tù binh của địch. Thượng đế đã ban cho anh hai mươi lăm năm tự do và anh đã tận hưởng.
Vào tối ngày thứ 21, sau khi quyết định sẽ đi xuống đồng bằng vào trước rạng đông ngày hôm sau, Locher cảm thấy tâm hồn mình bình thản. Anh nhìn lên vần trăng vàng từ từ trôi ngang bầu trời, hít thở mùi vị tươi mát của không khí và thưởng thức sự cô quạnh của mình: anh vẫn còn tự do…
Một cơn mưa dài và nặng hạt làm Locher tĩnh giấc vào buổi sáng ngày thứ 22. Thì ra anh ngủ quên! Mặt trời đã lên cao. Locher tức giận với chính mình. Dù đã có quyết định tự hành xử, nhưng anh không thể liều mạng một cách vô lý, đi ngang qua làng vào giữa thanh thiên bạch nhật. Thế là lại thêm một ngày chờ đợi và chiến đấu với đàn muỗi rừng…
Locher vừa thiếp đi thì chợt tĩnh vì những tiếng đạn. Anh nhìn thấy cả ánh chớp của những hỏa tiển địa-không được bắn lên từ ngôi làng kế cận, cách chỗ anh khoảng 8 dặm. Địch đang bắn lên các phi cơ Mỹ. Không chậm trể một giây, Locher vội vã nhấn nút máy liên lạc cấp cứu và nói: Bất cứ phi cơ Mỹ nào nghe tên OYSTER ONE BRAVO xin trả lời. (Oyster=tên hiệu anh trong phi vụ ; One=phi cơ dẫn đầu ; Bravo=ghế sau)
Sau đó, Locher nhấn nút nhận tín hiệu và nghe thấy tiếng người trả lời: Go ahead, Oyster One Bravo
” Ê anh bạn, tôi bị bắn hạ ở đây đã hơn 22 ngày. Chuyển tin dùm tôi vẫn bình an”
“Sẽ chuyển và tiếp tục liên lạc”
Mười phút sau, Locher nghe tiếng trả lời:
“Toán cấp cứu trên đường đến”
Toán cấp cứu đến liền sau đó nhưng đã bị các phi cơ MiG và đủ loại phòng không của địch đẩy lui. Locher tin tưởng một cách tuyệt đối rằng những người bạn của mình sẽ trở lại vào sáng hôm sau, và chắc chắn họ sẽ được địch ‘đón tiếp nồng hậu’.
Thực vậy, suốt buổi chiều và tối, Locher nghe thấy tiếng xe chở bộ đội tới và tiếng phi cơ MiG đáp xuống một phi trường gần đó. Như vậy, địch cũng đoán biết những gì sẽ xảy ra vào ngày hôm sau. Locher lo lắng không biết sự việc rồi đây sẽ ra sao…
Buổi sáng ngày thứ 23, kể từ ngày Đại Úy Roger Locher bị bắn rơi, một lực lượng 38 phi cơ Mỹ gồm chiến đấu cơ, oanh tạc cơ phản lực, khu trục cánh quạt, trực thăng cấp cứu và phi cơ tiếp tế nhiên liệu trên không, cất cánh từ Thái Lan tới Bắc Việt để cứu người bị nạn. Đầu tiên, hai phi cơ mở tần số liên lạc với Locher và xử dụng các máy móc điện tử để xác định vị trí của anh. Một phi công nói qua máy: “Chúng tôi đã biết anh đang ở đâu rồi. Bây giờ anh cứ đúng tại chỗ, chúng tôi sắp kéo anh ra khỏi nơi này”
Bên dưới mặt đất, Locher lạnh và run rẩy: “Xin Thượng đế bảo vệ họ, đừng để ai bị bắn rơi vì con”.
Khoảng 30 phút sau, hai trực thăng xuất hiện. Trong khi Locher làm dấu hiệu xác định vị trí của mình bằng kính phản chiếu, một trong hai chiếc bay về phía anh, chiếc còn lại chờ đợi tiếp cứu trong trường hợp khẩn cấp. Phía trên, các chiến đấu cơ vần vũ, gầm thét uy hiếp tinh thần địch.
Chiếc trực thăng dừng lại, lơ lửng phía trên vị trí của Locher khoảng 15 mét và thả xuống một ‘penetrator’ (dụng cụ có hình trái thủy lôi, có trọng lượng vừa đủ để làm xuyên thủng những tàng cây che phủ vị trí Locher đang ẩn nấp).
Tiếng súng liên thanh đồng loạt bắn ra từ ngôi làng dưới chân núi, nhưng sau đó đã vội im tiếng, vì bị trực thăng võ trang trả đũa.
Locher nhào về phia penetrator. Anh nhanh nhẹn kéo dây an toàn từ penetrator ra nịt vào người, và banh ba càng ngồi hình mỏ neo ra ngồi vào. Sau đó anh giơ ngón tay ra hiệu…
Trong khoảnh khắc, Locher đã được kéo lên và đưa vào trong thân trực thăng. Lực lượng cấp cứu trở về căn cứ. Một số MiG của địch bay lượn ở xa xa, hậm hực chứng kiến mà không dám lại gần, vì biết không thể địch lại lực lượng hùng hậu của Mỹ.
Về phần Đại Úy Roger Locher, chuyến bay về Thái Lan phải là chuyến bay hạnh phúc nhất đời. Lúc đó anh không thể biết mình đã sút đi gần 15 kí-lô sau 23 ngày hoạn nạn, anh cũng không biết rằng mình là người sống sót lâu nhất trong số các phi công lâm nạn và đã được cứu thoát trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, và dĩ nhiên, anh cũng không thể biết rằng, cuộc cấp cứu anh là cuộc cấp cứu vào sâu trong lãnh thổ địch nhất và tất cả đã trở về an toàn.
Anh chỉ biết có một điều là mình đã được bạn bè cứu thoát. Họ đã liều chết để cứu anh. Bây giờ, ngồi trên phi cơ, họ luôn miệng cười đùa như thể đã quên mất việc mình vừa đi vào đất địch. Họ không cho Locher một dịp may nào để nói một lời cảm ơn. Anh chỉ biết nhìn họ với đôi mắt mở to, với nụ cười dễ thương, và những giọt lệ từ khóe mắt tràn ra, rồi từ từ lăn xuống bộ râu rậm của mình…

Thủy quân Lục chiến trao “Toys for Tet”

2/2/2013

Đội Lính Thuỷ quân Lục chiến của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội trao các món quà tới các trẻ em tại Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương. Đội Lính Thuỷ quân Lục chiến của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội trao các món quà tới các trẻ em tại Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương.
Các trẻ em và các sĩ quan thủy quân lục chiến cùng vui. Các trẻ em và các sĩ quan thủy quân lục chiến cùng vui.
Tiếp ngay sau sự kiện Đại sứ Shear hiến máu tại Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương vào ngày 8 tháng 1, Đội Thuỷ quân Lục chiến của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội đã quyên tặng 100 đồ chơi tới các trẻ em tại Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương vào ngày 2 tháng 2. Mang theo tinh thần cho tặng vào mỗi dịp Tết Nguyên đán, các sĩ quan lính thủy đã mang theo những đồ chơi và thú bông còn mới nguyên hộp được quyên góp bởi cộng đồng nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ trong đợt phát động thường niên “Đồ chơi dành cho Tết”.
Đồ chơi dành cho Tết (Toys for Tet) tại Việt Nam có hình thức tương tự như Toys for Tots, một sáng kiến của Thủy quân Lục chiến vào năm 1947, khi Thị trưởng Bill Hendricks và một nhóm lính thủy dự bị ở Los Angeles đã thu lượm và phân phát 5000 món đồ chơi tới các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Chương trình hiện nay diễn ra trên toàn thế giới, với những đồ chơi mới được Thủy quân Lục chiến thu thập trong những tháng cuối cùng của năm và tặng lại cho trẻ em nghèo trong cộng đồng vào dịp lễ Tết. Tại Việt Nam, Đội Lính Thuỷ quân Lục chiến đã trao tặng đồ chơi cho những trẻ em trong trại trẻ mồ côi hoặc nơi tạm trú tại địa phương trong khoảng thời gian của Tết Nguyên đán.

Nguồn:

http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/highlight-020213.html

_________________________________________

Thủy quân Lục chiến Mỹ trao quà Tết cho trẻ em Việt Nam

VOA- 12.02.2013

Binh sĩ TQLC Mỹ trao quà cho trẻ em Việt Nam (Ảnh: Ðại sứ quán Hoa Kỳ)

Đội Thủy quân Lục chiến của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội mới đây đã trao tặng 100 đồ chơi và thú bông cho các trẻ em tại Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương.
Các sĩ quan đã mang theo các đồ chơi mà các nhân viên cơ quan ngoại giao Mỹ đã quyên góp trong đợt phát động thường niên có tên gọi ‘Đồ chơi dành cho Tết’.
Các giới cấp cao Mỹ trong đó có Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng John Kerry mới đây cũng đã gửi lời chúc mừng năm mới tới người dân các nước đón Tết Nguyên Đán, trong đó có Việt Nam.
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam David Shear cũng đã chúc mừng người dân Việt qua một thông điệp bằng video.
Ông Shear cho biết ông vui vì được đón cái Tết thứ hai tại Việt Nam, và ấn tượng với hoa đào hiện diện khắp các phố phường khi Tết đến.
Đồ chơi dành cho Tết (Toys for Tet) tại Việt Nam có hình thức tương tự như ‘Toys for Tots’, một sáng kiến của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ năm 1947.
Khi ấy Thị trưởng Bill Hendricks và một nhóm quân nhân dự bị ở Los Angeles đã gom góp và phân phát 5.000 đồ chơi tới các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Chương trình hiện nay diễn ra trên toàn thế giới, với những đồ chơi mới được Thủy quân Lục chiến thu thập trong những tháng cuối cùng của năm và tặng lại cho trẻ em nghèo trong cộng đồng vào dịp lễ Tết.
Tại Việt Nam, Đội quân nhân Thuỷ quân Lục chiến đã trao tặng đồ chơi cho những trẻ em trong trại trẻ mồ côi hoặc nơi tạm trú tại địa phương trong khoảng thời gian của Tết Nguyên đán.
Nguồn:

http://www.voatiengviet.com/content/tqlc-my-trao-qua-tet-cho-tre-em-vietnam/1601968.html
– Mỹ có thể không giữ được vị thế cường quốc quân sự số 1 (VOV) .Việt Nam lún sâu lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc Nguoi Viet Online
Trong khi nhiều loại sản phẩm, hàng hóa sản xuất ở Việt Nam không bán được, hàng tồn kho rất lớn thì hàng Trung Quốc bán phá giá vẫn cứ ồ ạt đổ vào Việt Nam.

Tổng số lượt xem trang