Thứ Hai, 4 tháng 3, 2013

DẤU ẤN TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG

-
TBT Nguyễn Phú Trọng tiếp xúc cử tri quận Tây Hồ BÙI VĂN BỒNG
            Vậy là đã hơn 2 năm, ông Nguyễn Phú Trọng giữ cương vị Tổng Bí thư. Vào thời điểm ông trúng cử Tổng Bí thư tại Đại hội XI, phần nhiều đảng viên và nhân dân cả nước, cũng như Việt kiều ở nước ngaoì đều “phấp phỏng” chờ đợi xem lần này sẽ có quyết sách gì mới, có thay đổi gì lớn ích nước lợi dân, có gì đem lợi cho ‘quốc kế dân sinh’, xem vấn đề bảo vệ chủ quyền biên giới, biển-đảo của đất nước có những hiệu quả thực tế gì? Và nhất là xem việc quan tâm và quyết tâm chính đồn Đảng của tân TBT sẽ làm đến đâu?

                 Ai cũng biết, gọi là Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, đưa ra quan điểm và quyết tâm đổi mới đất nước tại Đại hội VI từ năm 1986 đến nay, đã 5 kỳ Đại hội Đảng (tính đến 3-2013 là hơn 28 năm), nhưng chỉ là “đổi mới cách gọi”, chưa thấy thực sự “đổi mới cách làm”, hiệu quả đổi mới đất nước thực sự chưa thấy bao nhiêu, vẫn chỉ là “sáng ngời” trong các trang nghị quyết. 
             Ông Nguyễn Văn Linh có sự ủng hộ quan điểm từ ông Trường Chinh và những lãnh đạo cấp tiến thời kỳ đó, nhất quyết xóa bỏ chế độ quan liêu, bao cấp, trì trệ, bảo thủ, để đưa đất nước bước vào sự nghiệp đổi mới. Nhưng, khi gần hết nhiệm kỳ, với Hội nghị Thành Đô mà ông Đỗ Mười thông đồng với Trung Quốc, ông Nguyễn Văn Linh đang hăng hái đổi mới như vậy bỗng như bị ‘bùa mê thuốc lú’ của Tàu Cộng, cuối nhiệm kỳ quay phắt 180 độ trở lại với cái cũ, cái đã kiên quyết xóa bỏ, cái đang có đà chuyển đổi trong Nghị quyết Đại hội 6. Nói như nhà thơ Việt Phương, cửa mới mỏ hé ra, đã bị ông khép lại. Ông không muốn kinh tế thị trường, nhất là với phương Tây nữa, mà “Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Hiện nay, riêng Biển Đông đã bị Trung Quốc coi là “ao nhà” của họ và liên tục quấy cho sôi sục, đục ngầu! Cái mô hình “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” nay thấy tắc tị như bài toán còn đầy ẩn số X,Y,Z, không tìm ra đâu là cơ sở lý luận lẫn thực tiễn.
              Ông Đỗ Mười, nhà ‘hùng hổ học’, chuyên gia ‘hô hét đập bàn’, mỗi lần lên diễn đàn cứ thấy như đánh vật, dư luận nói là hầu như được dịp hỗ trợ, dàn xếp của Trung Quốc liền nhảy ra làm Tổng Bí thư Đại hội VII, điều mà ông mong ước, thậm chí đã nhiều thủ đoạn, nhiều vận động vậy là đã đạt được. Nhà thân Tàu từ trong máu, bài bác tư bản và phương Tây quyết liệt đã uống say luận thuyết “diễn biến hòa bình” do Trung Quốc pha chế, bắt sử dụng, nhà cải tạo công thương quyết liệt không cần tính toán, thậm chí thẳng tay độc ác phá tanh bành, nhà ‘hùng’ mà không thể ‘biện’ lại dẫn dắt đất nước đi quặt trở lại theo cái đuôi dài ngoằng của bảo thủ, giáo điều, quan liêu, rập khuôn đến mức trì trệ. Biểu hiện bảo thủ, độc đoán chuyên quyền là thế, vậy mà ông Đỗ Mười làm trọn TBT khóa VII, lại còn tái đắc cử khóa VIII.
              Sự nghiệp đổi mới bị rơi vào thực trạng nửa vời. Tình huống đến mức cần “thay ngựa giữa dòng”, ông Lê Khả Phiêu thay ông Đỗ Mười làm nửa nhiệm kỳ cuối Khóa VIII, muốn ra tay lên hương khởi sắc bằng chí quyết người lính. Ông Lê Khả Phiêu lên thay đã làm mọi người thở phào, cũng đặt kỳ vọng. Có một số đổi thay, trong đó ra được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (2) kiên quyết chống tham nhũng. Nhưng rồi, thời bĩ của đất nước lại chưa được vận may, ông Nông Đức Mạnh lên thay, làm TBT hai nhiệm kỳ khóa IX và X. Ông Mạnh lờ tịt, bỏ Nghị quyết Trung ương 6 (2) vào sọt rác, thả cho tham nhũng loang nhanh thoải mái trên diện rộng, nguy hại hơn. Đảm cháy suốt hai nhiệm kỳ do ông Mạnh gây ra làm thiêu trụi hết uy tín Đảng lãnh đạo. Trong hai nhiệm kỳ Đại hội IX và X ông Mạnh còn vô trách nhiệm, đi chơi và hô khẩu hiệu là chủ yếu, làm suy giảm vai trò lãnh đạo và mất uy tín Đảng nhanh, mạnh và liều hơn ông Đỗ Mười! Hai nhiệm kỳ đầy bất mãn cho toàn dân ấy, Đảng, Nhà nước, Quốc hội đều rất mờ nhạt, mọi việc lớn nhỏ như là "khoán trắng" cho Chính phủ, hình thành quyền bính tập trung quá nhiều vào Chính phủ, sinh ra các biểu hiện độc đoán, chuyên quyền.

          Ông Nguyễn Phú Trọng lên thay ông Mạnh, 9h30 sáng 19/1/2011, gần 1.400 đại biểu đã vỗ tay chúc mừng ông Nguyễn Phú Trọng (67 tuổi, Chủ tịch Quốc hội) trúng cử Tổng bí thư khóa XI. Danh sách 14 Ủy viên Bộ Chính trị cũng được xác định với 5 người mới, bên cạnh 9 vị tái cử.
              Dấu ẩn hơn 2 năm qua của ông TBT Nguyễn Phú Trọng đã được toàn đảng, toàn dân ghi nhận là hô hào mạnh, nêu vấn đề nguy cơ tồn vong của dảng, của đất nước và chế độ đã rất cấp bách, nhưng ông là con người điềm tĩnh, thận trọng, nên khi làm rất nhẩn nha, từ từ, đến đâu hay đến đó.
               Dư luận đánh giá ông là thiếu bản lĩnh, kém chí quyết, nhu nhược, có những biểu hiện yếu hèn, lại nhát gan, chần chừ, chậm chạp, lý luận cũ rích khô cứng, lại thường phát ngôn nhiều câu trái tai “để đời"...
          Nhưng mà, xem xét, nhận định, đánh giá một TBT như ông phải khách quan, biện chứng. Ông là người trung thực, nghĩ sao vậy. Đầu năm 2012, nói chuyện với cán bộ và nhân dân trong chuyến thăm các tình Nam Trung bộ, ông để lại dấu ấn một câu nói rất thẳng thắn, nhìn thẳng vào sự thật: “Thấy đảng viên nhan nhản, cộng sản được mấy người!”. Một Tổng Bí thư dám nói ra những điều ấy quả là cùng hiếm có, dù sao cũng không che đậy, khen một chiều, né tránh như cụ Nông, cụ Đõ và nhiều cụ khác.
         Tiếp xúc cử tri quận Tây Hồ và quận Ba Đình (Hà Nội), ông để lại dấu ấn khó phai nhạt là dám nêu bật thực trạng bi đát, lại thể hiện là nhà lý luận Mác-Lê-nin xuất sắc: “Tiêu cực, tham nhũng, nhìn ở đâu cũng thấy, sờ vào đâu cũng có, nhưng phải xem xét khách quan, biện chứng”. Và thể hiện tự phê khi mình nói trước dây chưa trúng lắm, mấy tháng sau, cũng ở quận Tây Hồ, ông lại nói: “Chỉ có điều bộ phận không nhỏ là bao nhiêu thì khó quá, trừu tượng lắm. Mà tách bạch ra hoàn toàn người này thuộc bộ phận không nhỏ, người kia thuộc bộ phận nhỏ cũng khó lắm, sợ không biện chứng”.
Viếng lăng Bác sau Hội nghị TW 6
"thành công tốt đẹp!"
     Dấu ấn sâu sắc nhất là khi nói về những tồn tại trong đảng và cảm động khi Ban chấp hành Trung ương tại Hội nghị TW 6 không kỷ luật Bộ Chính trị và đồng chí X. Ông tỏ rõ xúc động, mếu máo, phát khóc, thấy đau cho đời, đau cho đảng, tâm trạng đầy nỗi niềm và bấn loạn.  Rồi ông thể hiện tình đồng chí trong Đảng rất sâu sắc, đối xử với đồng chí nhân hậu, rằng: “Kỷ luật nhiều đâu phải tốt…Kỷ luật lại sinh ra hằn thù…”. Rằng:“phải trong tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, giúp nhau cùng tiến bộ; …chỉ để cánh báo, cảnh tỉnh, giáo dục, răn đe”, là đạt yêu cầu NQTW 4…Đó là dấu ấn làm tăng thêm chất lý luận khách quan, biện chứng của ông, lấy "thực tiễn làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt" để có sự điều chỉnh thái độ, có phương pháp cách mạng khoa học dựa trên nền tảng các quy luật và phạm trù triết học Mác-xít. Ông không những là nhà lý luận có tài, mà cũng là nhà khoa học có kiến thức chuyên sâu về “nhóm lửa”, cơ sở từ vật lý học và hóa học trên tầm đại cương. Ông nói: “quan trọng nhất là bước đầu phải nhóm được cái lò lên, tạo thành hơi ấm thì khi đó củi khô, củi tươi đưa vào cũng phải cháy hết. Sâu xa là như thế. Phải đồng lòng, nhất trí hết, nhóm lò lên”...
     Đi thăm Cu Ba 4-2012, ông đã chỉ ra rằng: "Có người phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Có phải như vậy không? Có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không?". Phát biểu của TBT có những câu nói về chủ nghĩa tư bản, sao lại na ná như "một bộ phận không nhỏ" ở nước XHCN Việt Nam đã được đánh giá, kết luận trong NQTƯ 4. Ví dụ: "Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át"...  Và nữa: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội".Đúng! Chúng ta cần vậy, nhưng trong thực tế "xã hội ưu việt" của Đất Việt ta đã có được bao nhiêu phần trăm đạt được những quý giá ấy? 
   Thế thì những vị đang khoác áo cộng sản giữ trọng trách  "có chức có quyền" (theo NQTW 4)  hiện nay là "tư sản Đỏ" rõ quá còn gì? Thế sao họ lại ngả theo tư bản dế dàng và rất ngang nhiên thế nhỉ? Liệu rồi vì quyền lợi của quốc gia, dân tộc và nhân dân, vì CNXH, họ có thực sự biết sám hối hay không?.
          Chưa hết nửa nhiệm kỳ, mới ở cương vị Tổng bí thư 2 năm 01 tháng, 13 ngày mà ông để lại biết bao dấu ấn khó nhạt phai. Vậy mà ông rất khiêm tốn, ngay hôm trúng cử Tổng Bí thư 19/1/2011, trả lời phỏng vấn của báo mạng VnExpress, ông nói là “Tôi không chủ trương để lại dấu ấn!”.
           Nhân đây, trang BVB xin trích dẫn TBT Nguyễn Phú Trọng trả lời phỏng vấn của báo chí hơn 2 năm trước:

‘Tôi không chủ trương
làm để tạo dấu ấn’ (*)
VnExpress - Thứ tư, 19/1/2011, 09:08 GMT+7 :
"Thực sự tôi không nghĩ rằng, mình làm điều gì với mục đích tạo dấu ấn, để đánh bóng mình', tân Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong cuộc họp báo ra mắt sáng nay.
Trong 30 phút, hơn 10 câu hỏi của 6 nhà báo trong nước và quốc tế được đặt ra cho tân Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Không có văn bản chuẩn bị sẵn, tân Tổng bí thư: "sẵn sàng trả lời trực tiếp mọi câu hỏi". Cùng tham gia trả lời với người đứng đầu Đảng có đại diện của Ngoại Giao, Ban tổ chức, Văn phòng TƯ Đảng.. .


... - Tổng bí thư quan tâm tạo dấu ấn của mình trong lĩnh vực nào? - Thực sự, tôi làm cái gì không nghĩ với mục đích để tạo dấu ấn, không phải để đánh bóng mình. Trách nhiệm của người đảng viên, cán bộ là thực hiện nghiêm túc nghị quyết của Đảng, cứ làm cho tốt nghị quyết của Đảng là đã tốt rồi.
            - Mời bạn đọc trở lại tham khảo qua LINK sau đây:
http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/dai-hoi-dang-xi/2011/01/3ba258d1/
------------/
* Tư liệu liên quan:
..." Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới"...
(Nguyễn Phú Trọng - bài Diễn thuyết tại trường Đảng Cao cấp Nico Lopez Cu Ba - 9/4/2012).
LINK: 

http://vov.vn/Chinh-tri/Bai-noi-chuyen-ve-Chu-nghia-Xa-hoi-cua-Tong-Bi-thu-tai-Cuba/205986.vov



- Phạm Thị Hoài: Hãy mừng cho sự đa dạng nhiều hơn lo cho sự chia rẽ (pro&contra).

Tháng 3 3, 2013
Phạm Thị Hoài
Bình luận về phát biểu của ông Phạm Hồng Sơn trên BBC Việt ngữ về vấn đề Hiến pháp, trang tin nổi tiếng mang tên Thông tấn xã Vỉa hè củaAnh Ba Sàm cho rằng nhà hoạt động dân chủ này đã “dùng thứ từ ngữ lập lờ” để “bài bác“, “miệt thị và xuyên tạc bản chất việc làm của những người khởi xướng Kiến nghị 72“, mà bản thân mình – tức ông Phạm Hồng Sơn – thì chỉ đưa ra một “tiên đoán ngon lành cho tương lai Việt Nam” hoặc “một giải pháp cụ thể duy nhất nghe như mơ” bằng cách “khuyên khéo hàng triệu người bỏ Đảng” chứ “chẳng đưa ra được một phương cách gì cho người dân Việt Nam để cải thiện tình hình“. Trang tin này cũng nhận định rằng ông Phạm Hồng Sơn “diễn giải méo mó tình hình thực tế, trích dẫn què cụt“, “ngụy biện khi thổi phồng thực tế“, “loanh quanh gây lóa mắt người đọc bằng đôi ba kiến thức vặt ‘Đông Tây kim cổ’ làm lạc hướng chủ đề“, “ảo tưởng“, đồng thời xác định ông như một người “giả bộ cấp tiến” để phân biệt với “một con người cấp tiến thực sự” và nêu ra nghi vấn “để có ngày sẽ đi tới kết luận có hay không một ‘nhà đấu tranh dân chủ cuội“.
Cùng với một số nhận định khác, đặc biệt trong đợt thảo luận về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi này, chẳng hạn về trang Cùng viết Hiến phápvề trang Việt-Studies, hay về cá nhân tôi sau bài “Bao nhiêu ý dân thì đủ“, cũng như sau đề nghị về một “Đặc khu thông tin” và thao tác mẫu cho sản phẩm của một đặc khu như thế, Anh Ba Sàm đã ngày càng làm rõ quan điểm, chỗ đứng, ngôn ngữ và phong cách văn hóa chính trị của mình. Từ đó tôi ngày càng được nhận thấy rằng mình không gần gũi với quan điểm, chỗ đứng, ngôn ngữ và phong cách ấy, dù đánh giá cao cống hiến của trang tin này. Song khác với những lo ngại về sự chia rẽ trong những người thường được coi là cùng chung một mục đích, tôi hoan nghênh việc bày tỏ rõ ràng diện mạo của mình như vậy. Chúng ta đã có một sự đồng thuận bao trùm trên truyền thông lề phải. Không có gì đáng chán và ăn mòn cả tư duy lẫn cảm hứng hơn, nếu lề trái cũng chỉ biểu dương một lòng đồng thuận tràn trề. Chúng ta vẫn giễu cợt rằng 600 tờ báo lề phải chỉ cần một tổng biên tập là đủ, vậy việc lề trái không có chung một tổng chỉ huy như thế là đáng mừng. Chúng ta đã ngấy đến tận cổ chính thống lề phải, song tôi sẽ nói với bạn rằng nếu chẳng may có một chính thống lề trái thì nó cũng rất khó tiêu hóa. Hãy mừng cho sự đa dạng nhiều hơn lo cho sự chia rẽ.
Sau đây là nguyên văn phát biểu trên BBC của ông Phạm Hồng Sơn mà tôi chia sẻ.
© 2013 pro&contra
_________________

‘Góp ý hiến pháp: hơn một sự ngộ nhận’

Đợt góp ý cho sửa đổi Hiến pháp hiện hành ở Việt Nam đang tiến gần tới thời hạn chót mà Quốc hội và chính quyền do Đảng Cộng sản lãnh đạo đặt ra, nhân dịp này, bác sỹ Phạm Hồng Sơn, nhà vận động cho dân chủ và nhân quyền trong nước, dành cho BBC Việt ngữ một cuộc trao đổi.
Mở đầu cuộc phỏng vấn bằng bút đàm gồm hai phần, ông Phạm Hồng Sơn bình luận về lưu ý gì cần tính tới liên quan trước hết quy trình của cuộc sửa đổi Hiến pháp lần này, trong đó đặc biệt cần lấy gì để đảm bảo người dân có thực quyền và chủ quyền để định đoạt việc lập hiến:
BS. Phạm Hồng Sơn: Trước tiên tôi xin nêu ra hai vấn đề có thể đang bị ngộ nhận, nhầm lẫn lớn trong dư luận về việc sửa đổi hiến pháp. Những bàn luận, thông tin hiện nay gây ra một cảm giác rằng hiến pháp có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc xây dựng chế độ dân chủ hay thực hiện, bảo vệ quyền tự do, nhân quyền cho nhân dân và hiến pháp khởi thủy là nhằm xây dựng nhà nước hay là khế ước giữa người dân và kẻ cầm quyền. Nhưng thực sự không hoàn toàn như thế.
Thứ nhất, hiến pháp chỉ là một thiết chế trong nhiều thiết chế của chế độ dân chủ và không có hiến pháp thì không hẳn xã hội sẽ không có (hay thiếu hơn) tự do, dân chủ. Anh Quốc hay Israel không có hiến pháp (đúng hơn là không có bản văn hiến pháp) nhưng đều là những xã hội rất tự do, dân chủ. Hoặc đơn giản hơn nữa, nhìn vào Việt Nam trước năm 1945 dưới thời thuộc địa (cũng không có hiến pháp) thì rõ ràng lúc đó người dân Việt Nam có nhiều quyền tự do cơ bản hơn hiện nay. Thứ hai, nguồn cội của tư tưởng hiến pháp (constitutionalism) không phải là việc xây dựng nhà nước hay là khế ước giữa người dân và kẻ cầm quyền – đó chỉ là sự tiến triển và là hệ quả cụ thể sau này như chúng ta đang thấy – mà nguồn cội của hiến pháp chính là tinh thần thượng tôn pháp luật (rule of law) – tư tưởng có nguồn gốc từ phương Tây từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại và được củng cố mạnh mẽ trong thời Trung cổ châu Âu và tiếp tục trong những thời kỳ sau này- bất kể ai, từ vua tới dân, giáo hoàng cho tới con chiên, đều phải tuân thủ pháp luật – những qui ước chung.
Ngay trong đêm trường Trung cổ, những điển cố về tuyên hứa tuân thủ và thực thi nghiêm ngặt pháp luật của các ông vua bạo chúa như Pepin (714-768), Charlemagne (742-814), Charles the Bold (1433-1477) vẫn còn được sử sách ghi rõ. Hay đơn giản là nhìn vào vụ án Tống Văn Sơ tại Hong Kong năm 1931 ta cũng thấy nguyên tắc ‘rule of law’ được tuân thủ nghiêm ngặt. Dẫu cho pháp luật những thời đó còn nhiều bất công và man rợ nhưng tập quán giữ lời và tôn trọng pháp luật là một di sản vô cùng lớn đã làm nền cho văn minh nhân loại hôm nay.
Chính trên thiết chế ‘rule of law’ đó của phương Tây, hiến pháp với ý nghĩa là một bộ luật chung cho một cộng đồng-quốc gia-dân tộc mới được phát triển. Nhìn lại những bản văn có tính hiến pháp quan trọng của nhân loại như Magna Carta 1215, Fundamental Orders of Connecticut 1638, Hiến pháp Mỹ 1787 hay Hiến pháp Meiji Nhật Bản 1889, dù khác nhau về không gian và thời gian và còn nhiều khiếm khuyết nhưng tất cả đều có chung một đặc tính: những người chủ xướng thảo ra và hạ bút ký đều tuân thủ rule of law và, do đó, tất cả cùng làm thành nền tảng văn minh, tự do cho các thế hệ kế tiếp ở những nơi đó. Nghĩa là về nguồn gốc chỉ khi một nhóm người đã cùng có ý thức tuân thủ nghiêm ngặt những cam kết, nguyên tắc chung (luật) thì mới có hiến pháp và chỉ khi đó hiến pháp mới có ý nghĩa.

‘Vô ích, ảo tưởng’

Nhìn lại cái gốc của hiến pháp Việt Nam hiện nay là gì? Đó là vụ “Ôn Như Hầu”, là bà Nguyễn Thị Năm-Cát Thành Long (ân nhân của Hồ Chí Minh) bị bắn chết tươi, là mấy chục năm trên Cổng Trời của Nguyễn Hữu Đang (người dựng lễ đài khai sinh ra Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), là “rút phép thông công” của Nguyễn Mạnh Tường (tư vấn pháp luật cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), là chín năm tù không án của Vũ Thư Hiên – con trai ân nhân và thư ký riêng của Hồ Chí Minh – lãnh tụ, tác giả chính của Hiến pháp 1946, là bảo người ta đi học tập vài tuần, vài tháng nhưng rồi đưa người ta đi tù mút mùa hàng chục năm hoặc mãi mãi, vân vân và vân vân, vô vàn những đau thương, tủi hờn khác còn ghê gớm, xót xa hơn nữa. Và nếu chỉ tính trong vài tháng trở lại đây, trong đợt “cải cách hiến pháp”, có ai đếm được hết những vụ bất chấp luật pháp, bách hại, sỉ nhục con người tại Việt Nam do chính người cầm quyền thực hiện (?).
Với cái nền “rule of law”, cả từ đáy cho tới hiện tại, như thế thì sao có thể nói đến hiến pháp hay sửa hiến pháp được? Do đó, theo tôi, một cách thẳng thắn, nếu bàn đến xây dựng hay ủng hộ việc cải cách hiến pháp với chính quyền Việt Nam hiện tại là một việc làm kỳ cục, gần như vô ích hoặc hết sức ảo tưởng.
Nhưng bình tĩnh lại, chúng ta cũng cần thấy thế này: chính sự phát triển lâu dài hàng thế kỷ sau đó của hiến pháp trên thế giới và đặc biệt là việc các lãnh đạo độc tài thường xuyên lấy hiến pháp làm mặt tiền (façade) cho cách cầm quyền độc đoán, bất chấp pháp luật (phi thượng tôn pháp luật – rule by law) của họ đã làm cho chúng ta lãng quên mất cái gốc quan trọng của hiến pháp (thực sự) – là rule of law – và làm cho chúng ta rối mù trong cái vòng xoắn luẩn quẩn: Độc tài thời dân chủ – Hiến pháp mặt tiền – Dân chủ giả hiệu – Dân chúng bối rối, mất tự do – Độc tài thời dân chủ.
Dân chúng bối rối vì phản đối thì sẽ bị qui ngay là chống lại pháp luật, chống lại văn minh còn đồng ý, tán thành thì hậu quả như chúng ta đã thấy: một nhà nước vẫn hoàn toàn độc tài còn nhân dân thì bị kìm kẹp, hắt hủi tệ hơn với những hệ thống pháp luật đồ sộ, luôn được cải cách và cũng không kém đẹp đẽ.
Trong khi đó, cả thực tế như ở Việt Nam và các kết luận của giới học giả chính trị, như Hayek hay Dicey, đã chứng minh rõ là ‘rule of law’ phụ thuộc chủ yếu vào thái độ, thiên hướng đạo đức và các hành động chính trị hơn là phụ thuộc vào ngôn từ của các văn bản luật.
Hơn nữa chúng ta cũng không nên kỳ vọng hiến pháp sẽ giải quyết được mọi thứ vì không thể có một văn bản nào dù thành thực, chi tiết đến mấy có thể qui định và đưa ra được các giải pháp luôn đúng cho mọi vấn đề cá nhân và xã hội. Ví dụ, tôi tin rằng ngay cả bây giờ nếu không có hiến pháp nhưng một nhà cầm quyền lương thiện sẽ không bao giờ cấm cản, sách nhiễu, sỉ nhục, vu cho những người xuống đường phản đối quân xâm lược Trung Quốc là gây rối hay không thể nào lại hắt hủi vị tướng già gần 100 tuổi muốn đặt vòng hoa tưởng niệm các binh sĩ đã bỏ mình vì quân Trung Quốc.

‘Không nên khẩn cầu’

BBC: Vậy theo ông nhóm 72 người (đầu tiên) mới đây kiến nghị về cải cách hiến pháp do ĐCSVN đề ra có những ý nghĩa gì?
Đó là việc có thể tăng cường hiểu biết, nhận thức về pháp luật và tập dượt trong việc tập hợp dân chúng. Nhưng nếu chỉ nhằm hai mục đích đó thôi thì những nhân sĩ có uy tín lớn vào hạng nhất như thế lẽ ra không nên khẩn cầu hay kiến nghị cho Quốc hội – cơ quan đã tỏ rõ là vô trách nhiệm với tất cả các vấn đề hệ trọng nhất của đất nước, đã bị thế giới dân chủ gọi là con dấu cao su của ĐCSVN. Nếu các vị đó không cần phải đề đạt, khẩn cầu ai, ngoài dân chúng, tôi tin rằng các vị đó vẫn khởi động được một phong trào nâng cao nhận thức của xã hội về hiến pháp, pháp luật, vừa tập được tính chủ động cho người dân và vừa tránh được mọi sự lợi dụng (chắc chắn đã hoặc sẽ có) của chính quyền và loại hoàn toàn được hiệu ứng (vô tình hay cố ý) tạo thêm tính chính đáng cho một thủ đoạn chính trị lừa dối. Và còn tránh được nhiều hệ quả có thể xấu hơn nữa.
Nhưng nói đến hiến pháp, pháp luật mà không nhấn mạnh, đòi hỏi rule of law, không tố cáo, phản bác sự chà đạp ‘rule of law’, bất chấp hiến pháp thì cũng chả khác mấy với các tuyên truyền của ĐCSVN từ xưa tới nay. Hơn nữa, chúng ta cần hết sức lưu ý rằng ĐCSVN đã luôn chứng tỏ là ông “trùm” trong việc thao túng, lèo lái dư luận, lôi kéo, thao túng quần chúng, kể cả những khi họ chưa nắm chắc quyền hoặc lâm khủng hoảng. Chính đợt “cải cách hiến pháp” này cũng là một ví dụ chứng tỏ ĐCSVN vẫn thừa khả năng áp đặt “lối chơi”. Vấn đề hệ trọng này tôi xin đề cập thêm vào một dịp khác.
BBC:Thế còn ý kiến cho rằng “Kiến nghị 72” có tác dụng ‘hỗ trợ một phe đang muốn đa nguyên trong Đảng’, thì ông nghĩ sao?
Vâng, cũng có thể có manh nha của một sự biến chuyển thành đa đảng. Các phe phái trong ĐCSVN gần như đang hình thành ngày càng rõ và họ còn đã chuẩn bị xong những bước đầu tiên cho sự truyền ngôi cho thế hệ con cháu của họ. Và chính cái nguy hiểm nằm ở chỗ đó vì nếu như thế thì rất có thể Việt Nam sẽ lặp lại tình trạng nước Nga thời hậu Yeltsin như hiện nay và chắc chắn sẽ tệ hơn nước Nga vì Việt Nam là bạn vàng của Anh cả Đỏ phương Bắc. Lúc đó các phe phái độc tài sẽ thay nhau nắm quyền sắt đá, sẽ có truyền thông tư nhân hốt bạc là cánh hẩu của giới chính trị nói tiếng Anh làu làu, lái Rolls-Royce điệu nghệ, còn tự do của nhân dân và chủ quyền quốc gia chắc sẽ được đếm xỉa nhiều ít là phụ thuộc vào sự lên xuống cao thấp của những ly rượu Mao Đài.
Một đất nước thiếu hay yếu về xã hội dân sự và người dân chưa có nhiều thao luyện chính trị luôn là mảnh đất màu mỡ cho độc tài độc đảng hay vài đảng lũng đoạn.
BBC: Ông nghĩ sao về con số được cho là ‘đã có gần bảy nghìn người’, tính tới thời điểm này, ký tên vào “Kiến nghị 72”?
Tôi nghĩ đó là một kết quả rất đáng khích lệ không chỉ cho những người chủ xướng mà còn cho cả những người muốn dân Việt Nam tích cực hơn với các vấn đề chung của xã hội. Nhưng số lượng không phải là yếu tố duy nhất hay yếu tố quyết định cho chất lượng hay xác định tính đúng/sai của một xu hướng/phong trào chính trị nhất là khi quyền lực độc đoán vẫn giữ thế thượng phong, bao trùm trong xã hội. Còn về phân tích thống kê thì những đặc điểm như phân bổ vùng miền, giới, nghề nghiệp, tôn giáo và nhất là trình độ chính trị của người ký và cách thức tập hợp, lấy chữ ký như thế nào cũng là yếu tố không thể bỏ qua khi xem xét tính chất của sự ủng hộ. Đó là những điều tôi chưa biết rõ.
Nhưng chúng ta rất cần lưu ý các cuộc bầu cử do ĐCSVN tổ chức từ năm 1945 đến nay và các cuộc bầu cử ở nước Nga thời hậu cộng sản vẫn là những bài học sâu sắc về số lượng cho chúng ta – những người muốn có dân chủ, tự do đích thực.
‘Sửa hiến pháp-phương thuốc của độc tài’
Nhà vận động cho dân chủ, nhân quyền và cải tổ chính trị ở trong nước, Bác sỹ Phạm Hồng Sơn, cho rằng sửa hiến pháp là một thủ thuật mà ông gọi là “phương thức kinh điển” của các thể chế và các nhà độc tài khi họ muốn “duy trì,” “cố thủ” quyền lực.
Ông cũng cho rằng người dân, kể cả giới trí thức, giới bất đồng chính kiến trong nước, muốn đấu tranh để đạt được dân chủ, nhân quyền thực sự, cũng như giành lại quyền lực đích thực của nhân dân, cần có sự thay đổi ‘chủ động’ và ‘căn bản’ từ tư duy tới chiến lược, chiến thuật trước đảng cộng sản.
Mở đầu phần II cuộc phỏng vấnbằng bút đàm với BBC, bác sỹ Sơn bình luận về một luồng ý kiến cho rằng có thể “có ai đó đang lèo lái và thi triển ý đồ” phía sau lần đưa ra sửa đổi Hiến pháp hiện tại, theo hướng có thể “dùng” lần tu chỉnh như một dịp để “kéo dài thời gian, tạo lợi thế chính trị cho mình” hay thậm chí “đánh lạc hướng xã hội và dư luận.”
BS. Phạm Hồng Sơn:Đặt vấn đề như vậy đã chính là câu trả lời nếu bỏ đi các dấu hỏi, bớt đi dăm chữ và thêm vào chữ “Đảng cộng sản Việt Nam” (ĐCSVN). “Sửa hiến pháp” luôn là một phương thuốc kinh điển của mọi kẻ độc tài trong thời dân chủ mỗi khi chúng muốn tiếm quyền, củng cố lại quyền lực hay vượt thoát khủng hoảng. Chỉ cần xem qua dư luận vài tháng nay thì thấy phương thuốc đó còn khá hiệu nghiệm, gần như tất cả các vấn đề nghiêm trọng khác của đất nước đã bị mờ hoặc biến hẳn trên truyền thông, cả của Đảng lẫn của dân, trước các núi thông tin về hiến pháp – một bản văn chưa bao giờ được ĐCSVN tôn trọng.
Tuy nhiên, nếu chỉ nói như thế thì dễ gây hiểu lầm hoặc làm tổn thương những người thật lòng muốn tận dụng cơ hội này để thúc đẩy tiến bộ thực sự. Nhưng cá nhân tôi rất lo lắng cho những người có thiện ý tiến bộ thực sự đó vì đảng hoàn toàn chủ động trong việc này và đảng có rất nhiều cách thức, nguồn lực để tận dụng ngược trở lại như lèo lái, thậm chí mua chuộc. Những thủ đoạn nhằm tận dụng trở lại đó của ĐCSVN thì chính bản thân tôi và nhiều thân hữu của tôi đã phải trải nghiệm.

‘Góp ý nào ấn tượng?’

BBC: Trong số các ý kiến đóng góp về đợt sửa Hiến pháp lần này, ông thấy có ý kiến nào, của ai, đáng chú ý vì tính thực tế, thực chất của nó?
Ngoài giới đấu tranh ly khai khỏi ĐCSVN, tôi thấy ấn tượng với ý kiến của hai người là ông Nguyễn Trung, đảng viên cộng sản, cựu đại sứ Việt Nam tại Thái Lan và ông Nguyễn Huy Canh một đảng viên cộng sản. Ý kiến ấn tượng của ông Nguyễn Trung đối với tôi là ông đã đi đến nhận định rằng ĐCSVN đang “quyết cố thủ” tính “độc quyền toàn trị đối với quốc gia” và ông nêu quan điểm rõ rằng nếu hiến pháp chỉ sửa đổi sơ sơ như dự thảo thì nên dừng việc cải cách hiến pháp lại. Còn ý kiến gây ấn tượng cho tôi từ ông Nguyễn Huy Canh là ông khẳng định các hoạt động chính trị “không thể lý giải theo cách của các khoa học tự nhiên được.” Nhưng đáng tiếc tôi lại không đồng ý với các giải pháp đề nghị của hai người này. Ông Nguyễn Trung rất trông chờ vào chữ “tâm” của các lãnh đạo đảng, còn ông Nguyễn Huy Canh thì kỳ vọng vào việc luật hóa Điều 4. Sự vô ích của luật hóa Điều 4 (nếu có thể được luật hóa) đã được tôi chứng minh ở phần trên. Còn việc trông chờ vào thiện ý hay tâm nguyện của lãnh đạo lại là một tinh thần thụ động, ảo tưởng hết sức vô lý ở một người đã tự thừa nhận đảng của mình đang “cố thủ” sự độc tài.
Còn về tổng thể, tôi thấy đa phần ý kiến trong dư luận hiện nay vẫn là mang tính khuyến dụ đảng bỏ Điều 4 hay luật hóa Điều 4 với lý lẽ là nhằm để ĐCSVN trường tồn hay chính là giúp để đảng trong sạch hơn, có uy tín hay lấy lại uy tín với nhân dân hoặc bỏ Điều 4 là theo đúng tư tưởng tiến bộ của Hồ Chí Minh. Theo tôi kiểu khuyến dụ đó là không đúng, nhầm lẫn (hoặc thiếu thành thật) về bản chất hiện tượng và không chân thật nhìn từ vị thế của ĐCSVN. Vì nếu bỏ Điều 4 không thôi thì không hẳn đã tương đương với xã hội có đa đảng, có dân chủ, tự do hay ĐCSVN chấp nhận những điều đó. Chúng ta nên nhớ lại trước khi có Điều 4 Hiến pháp năm 1980 thì đảng vẫn hoàn toàn “lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện”. Còn về Hồ Chí Minh, tôi xin khẳng định lại một lần nữa rằng chính thực tế cầm quyền và những phát biểu của Hồ Chí Minh, đã được ghi lại trên các văn bản của ĐCSVN, đã minh chứng rõ rằng Hồ Chí Minh là con người mang tư tưởng độc tài quyết liệt nhưng khéo léo, xảo quyệt.
Còn việc đảng sẽ thấy người khuyến dụ kiểu đó không chân thật là vì ngay một chính trị gia thiếu kinh nghiệm nhất cũng phải hiểu rằng khi bắt đầu phải cạnh tranh với người khác cũng là bắt đầu phải từ bỏ việc kiểm soát tuyệt đối quyền lực. Mà đảng thì lại không phải là một tổ chức chính trị thiếu kinh nghiệm và chính đảng đã nhiều lần tuyên bố dứt khoát rằng không chấp nhận đối lập chứ chưa nói đến việc cạnh tranh. Vì vậy kiểu khuyến dụ đó chỉ có thể mang lại sự an toàn, tính ít đối đầu cho người nói chứ hoàn toàn không có tác dụng để đảng tin cậy vào người nói, sẽ không làm đảng tự từ bỏ độc quyền quyền lực. Mà khi ĐCSVN đã nghi ngờ, vì thấy vô lý, thì đảng sẽ càng phòng thủ và càng tìm ra nhiều cách để đối phó, chống chế, trấn áp cái nguy cơ mà thâm tâm đảng cảm thấy có thể bị giăng bẫy (vô tình hay cố ý) bởi chính những người thân cận với mình. Như vậy, lối khuyến dụ kể trên còn gây tổn hại cho lòng tin, vốn đã yếu, giữa người Việt với nhau.

‘Sự chủ động của dân’

BBC: Theo ông, cả chính quyền, người dân và các giới cần nỗ lực theo hướng nào, nguyên tắc nào và cách thức ra sao để đảm bảo sớm có nhân quyền, tự do, dân chủ thực sự ở Việt Nam, không chỉ giới hạn ở việc sửa Hiến pháp lần này?
Về chính quyền, thú thật tôi không có kỳ vọng gì vào việc góp ý để họ thay đổi hay lắng nghe. Và nếu họ trở nên biết lắng nghe thì những gì mọi người đã nói trong khoảng 5 năm qua thôi cũng đã quá đủ để họ biết cần phải làm gì để đất nước thoát khỏi tình trạng lâm nguy hiện nay. Vì vậy, ở đây tôi sẽ chỉ đề cập đến sự chủ động của nhân dân – những người đang bị kìm kẹp.
Theo tôi trước hết nhân dân cần nhận thức rằng việc xây dựng dân chủ, giành và thực hiện các quyền tự do hay nhân quyền là một công việc phải luôn chủ động và là một quá trình lâu dài, liên tục, phải trải qua nhiều giai đoạn. Đó là công việc của chính mỗi người dân – những người đang bị trị – chứ không phải của bất cứ ai hay bất cứ quốc gia, tổ chức quốc tế nào, dù họ là người tài giỏi hay giàu mạnh, tốt bụng đến mấy. Với tư cách là công dân, ta không nên trông mong ở chính quyền, kể cả chính quyền dân chủ. Trong công cuộc tranh đấu đó, mỗi quốc gia gần như đều có những cách thức riêng để tiến tới tự do nhưng, theo tôi, có những nguyên tắc và những vấn đề chung không thể né tránh.
BBC: Ông có thể cho biết rõ thêm những điểm chung đó?
Chẳng hạn như, nguyên tắc trả giá, hy sinh. Mọi tiến bộ của cá nhân hay xã hội đều buộc phải đi kèm với một cái giá nào đó. Dĩ nhiên hiện nay không ai lại đi cổ vũ và ủng hộ cho đấu tranh vũ trang, bạo động nhưng điều đó không có nghĩa là những cuộc đấu tranh bất bạo động không phải hy sinh, mất mát. Nhưng cái giá đó đắt hay rẻ, lớn hay nhỏ lại tùy thuộc quan niệm trong sự so sánh giữa các cặp giá trị như nhân phẩm-thân thể, tự do-nô lệ, lợi ích gia đình – tiến bộ xã hội hay quyền lợi đảng phái-chủ quyền dân tộc…
Hoặc một đặc điểm chung khác là chúng ta cần phải học và thực hành những đặc tính văn hóa dân chủ. Ví như nếu chúng ta muốn có tam quyền phân lập, muốn có đối trọng về quyền lực thì chúng ta không thể không thấy lợi ích từ sự hiện diện của những tổ chức, ý kiến khác biệt với mình. Nếu nhân dân muốn có một chính quyền biết đối thoại, lắng nghe dân chúng thì chúng ta không thể giữ thái độ im lặng, bất chấp hoặc xúc xiểm, trấn áp những phê bình, cảnh báo của người khác. Hay các đảng phái chính trị là cần thiết trong chế độ dân chủ nhằm vận động, tập hợp dân chúng trong việc cạnh tranh tìm ra lãnh đạo tối ưu và phòng chống độc tài nhưng chúng ta không nên nhầm cạnh tranh chính trị với đầu óc bè phái, cục bộ, quên mất cái mục đích tối thượng của cạnh tranh chính trị là giúp cho chân lý, điều hay lẽ phải không bị kẻ cầm quyền vùi dập chứ không phải là việc trung thành mãi mãi hay cứ cố bảo vệ cho người cùng nhóm, cùng đảng với mình bất chấp phải, trái. Nếu những nét văn hóa dân chủ cơ bản như thế chưa được thấm nhuần và trở thành phổ biến thì rất khó có thể đạt được một xã hội dân chủ, văn minh.

‘Cần thẳng thắn hơn’

Một điểm quan trọng nữa là nhân dân cần thay đổi cách tiếp cận trong vận động, đấu tranh. Chúng ta cần thẳng thắn hơn với ĐCSVN và thành thật hơn với bản thân mình. Chúng ta sẽ không thể thuyết phục được người khác chấp nhận chân lý nếu chính chúng ta lại né tránh hay nói ngược với những sự thật hiển nhiên hoặc lại đặt chân lý xuống dưới an toàn. Nhân dân sẽ không thể đòi hỏi người khác phải dũng cảm rũ bỏ sự khống chế, mua chuộc của Trung Quốc khi chúng ta lại luôn cần một bình phong để che chắn cho chính kiến của mình. Làm sao có thể khiến độc tài đương quyền thức tỉnh “trở về với nhân dân” khi chúng ta cứ thản nhiên dùng hình ảnh, trước tác của cố lãnh tụ độc tài, cựu tướng lĩnh phi dân chủ vẫn một lòng theo Chủ nghĩa Marx-Lenin làm phông cho những kêu gọi, vận động dân chủ.
Chúng ta sẽ không thể có một xã hội tôn trọng pháp luật (rule of law) nếu chúng ta vẫn giữ lối thuyết khách “làm như thế là có lợi cho Đảng, là giúp Đảng tránh sụp đổ chứ không phải lật đổ hay chống Đảng” thay cho việc minh định đơn giản rằng “cần phải làm thế vì pháp luật, vì công bằng”. Chúng ta cũng không thể đòi hỏi người khác phải khí phách trước kẻ xâm lược khi chúng ta lại thế thủ trước họ bằng sự thừa nhận rất mù mờ “có thể có những kẻ lợi dụng để xuyên tạc nhưng không phải ai có ý kiến khác cũng đều là xuyên tạc, phản động.” Hoặc làm sao chúng ta có thể đòi hỏi lãnh đạo ĐCSVN phải biết đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của họ khi của cải của chúng ta đã đủ sống cho mấy đời con cháu mà chúng ta vẫn lo bị đảng cắt mất sổ hưu.
Còn về cụ thể, tôi nghĩ, vì mọi nguồn lực và thời gian của chúng ta đều có hạn, chúng ta nên gắng tập trung vào những điều vừa thiết thực lại vừa có tính nền tảng (cả về hàn lâm lẫn thực tiễn) cho một xã hội dân chủ tự do trong tương lai như: quyền ra báo tư nhân, xuất bản tư nhân: Đòi hỏi phải cấp phép hay chính thức thừa nhận (hợp pháp hóa) các trang mạng như Anh Ba Sàm, Bauxite VN, Quê Choa,… các tờ báo “chui” như Tự do Ngôn luận, Tổ Quốc,… nhà xuất bản Giấy vụn,…; quyền tự do đi lại: Không được đưa người đến chặn ở nhà hay lần mò, theo rõi, đe dọa nhằm ngăn chặn sự di chuyển của người dân…; quyền được xuất nhập cảnh tự do: Không được lén lút đưa ra những đòi hỏi, áp lực hay cam kết này nọ rồi mới cấp hộ chiếu hay cho thông quan xuất nhập đối với mọi công dân; quyền tham dự các phiên tòa công khai: Đã là công khai thì mọi người dân phải được bình đẳng vào dự, nhất là người thân của bị cáo, báo chí; quyền gặp gỡ, nhóm họp hay xuống đường tuần hành một cách ôn hòa mà không cần phải xin phép…
Hoặc các vận động rất thiết thực như “Tuyên bố kêu gọi thực thi quyền con người và bãi bỏ Điều 88”, theo tôi, đang đi khá chủ động và đúng hướng nhưng đáng tiếc đến nay lại bị “cải cách hiến pháp” làm chìm đi mất. Những quyền như thế, phần lớn đều đã được qui định trong bản hiến pháp hiện hành, nếu được cải thiện dù ít hay nhiều cũng sẽ là cái thực, cái tốt ngay cho chúng ta hơn là nếu đạt được một bản hiến pháp tuyệt vời đến mấy thì nó vẫn mới chỉ là giấy.
Và có một cách thức nữa tôi muốn nêu ra ở đây vì nếu thực hiện được thì sẽ tạo ra một uy lực chuyển đổi về phía tiến bộ vô cùng lớn mà lại rất ôn hòa, nhẹ nhàng. Đó là quyền từ giã những chiếc thẻ màu đỏ một cách công khai của vài triệu người. Nhưng cho tới nay, ngoài vài người rất đáng kính đã thực hiện, rất tiếc chưa có nhiều người đáng kính khác tỏ ra có dấu hiệu sẽ thực hiện, kể cả những người đã đi tới nhận định cái tổ chức phát ra những chiếc thẻ đỏ đó đã “hư hỏng, suy đồi” hay nó đang “cố thủ độc quyền toàn trị đối với quốc gia.”
Điều cuối cùng, theo tôi, khi xem lại lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến nay với bao mất mát thương đau mà người Việt Nam chỉ được hưởng một chế độ chính trị tàn bạo, ngoan cố thì giới tinh hoa hôm nay cần phải mạnh dạn hơn trong việc khẳng định tư cách độc lập. Giới tinh hoa độc lập thì dân mới độc lập. Dân độc lập thì nước mới độc lập, tự do.



- Không ai có thể phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam (ND/VOV). - Không thể áp đặt (QĐND).

- Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992: Bàn về vị trí, chức năng, quyền hạn của Quốc hội (VOV). - Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng: Không bảo thủ, sẵn sàng tiếp thu mọi góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (LĐ). - Ghi nhận rõ hơn các hình thức dân chủ trực tiếp (PLTP). - Đoàn Luật sư Vĩnh Phúc góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (PLVN). - Doanh nhân muốn được Hiến pháp “ghi danh” (PLVN). - Không thể hạn chế quyền cư trú (TT).

.

- Hoàng Mai: Lập hiến với tính đảng (BoxitVN). - Kiểm soát quyền lực nhà nước để tránh lạm quyền (TP). – Đức Thành: Cần đa Đảng để chống chảy máu chất xám. –- Vài nét về trưng cầu dân ý (referendum) (Lilia).- Lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): Tránh “siêu nghị định” (SGGP). - Ngần ấy năm cầm quyền, họ đã : TÀN PHÁ NHÂN CÁCH CỦA CHÍNH HỌ VÀ CỦA BAO LỚP NGƯỜI VIỆT NAM (DĐCN). - Nhóm Đặc trách về Giam giữ Tùy tiện yêu cầu trả tự do cho 3 nhà hoạt động Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương (RFA).


Nguyễn Trung: Sự vận động của ngôn ngữ qua đời sống hàng ngày (viet-studies 3-3-13) ◄◄
Quan sát sự vận động của các từ ngữ có tính là dạng khái niệm có thể cung cấp cho chúng ta một cái nhìn khái quát bất ngờ. Để đơn giản hóa câu chuyện cho chủ đề này, xin tạm phân chia các giá trị trong đời sống thành 2 nhóm thiện và ác.

          Phiếm đàm hôm nay chỉ xin điểm một vài cụm từ hay khái niệm của nhóm “ác”.

          Lâu rồi, thời bao cấp, cụm từ “móc-ngoặc” lúc đầu chỉ là một cách nói dân dã, vui cợt, tinh quái.., diễn đạt sự trao đổi rất tự nhiên với nhau trong phạm vi có thể (tem phiếu, chỉ tiêu…) những thứ như thực phẩm, lương thực, các vật dụng khác… rất khan hiếm của nền kinh tế kế hoạch. Đương nhiên, đây là sự trao đổi thường tình, lúc đầu là vô thưởng vô phạt, thậm chí có ích và đáng khuyến khích. Nhưng rồi qui mô ngày càng lớn của “móc-ngoặc” và cách thực hiện, nó dần dần lấn vào vòng phi pháp. Dần dần “móc-ngoặc” trở thành một khái niệm, được đưa vào các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước để phê phán. Sự việc lên ngôi như thế của khái niệm “móc-ngoặc” đánh dấu sự leo thang của một dạng tha hóa và tham nhũng thời đó…

          Thời bung ra, cái phong bì lúc đầu chỉ là một sự đơn giản hóa cho thuận tiện và đỡ phải làm bao nhiêu việc phiền toái. Ví dụ: Thay vì sau một cuộc họp phải bồi dưỡng cho cán bộ một bát phở hay một bữa cơm trưa cho đỡ đói thì đưa một cái phong bì 5 – 10 nghìn đồng gì đó. Trong đám cưới cũng thế, ai ai cũng mừng cô dâu chú rể phích nước, soong nồi, bộ ấm chén… - vì thị trường chẳng có cái gì khác. Cho nên sau đám cưới, cô dâu chú rể phải đem bán đỡ đi, mệt lắm, vừa mất giá nữa.., nếu không thì phải đem cho bớt... Thế là cái phong bì được thay thế. Quá tiện và quá hợp lý…

Nhưng một khi cái phong bì lên ngôi thành văn hóa phong bì, đất nước bắt đầu nguy khốn mọi mặt, mở đường một quá trình sa đọa mới. Không phải chỉ sự nặng/nhẹ được tính theo giá trị tiền trong phong bì mới là vấn đề. Ngày càng nhiều  trường hợp cái phong bì bằng giấy trở nên quá mong manh, không mang nổi cái phải chứa trong nó, người tặng gói thành gói tiền, nhiều khi gói bằng đô-la cho gọn nhẹ, cần thì bó luôn cả một cục tiền, thậm chí có khi đưa luôn cả một bao tải tiền, hay thay thế bằng các “cây” cho thuận tiện… Việc phong bì lên ngôi thành văn hóa phong bì đánh dấu thời kỳ tham nhũng trở thành quốc nạn, đúng với nghĩa đen của câu chữ: Nén bạc đâm toạc công lý, giết chết mọi đạo đức…

          Như một tính quy luật, văn hóa phong bì dần dà cũng phải trở thành lạc hậu, cuối cùng chỉ còn thích ứng cho những “chuyện vặt”. Văn hóa phong bì buộc phải đẻ ra kẻ nối dõi đúng với nghĩa hậu sinh khả úy. Sự đổi chác trong tham nhũng dần dà không được tính bằng phong bì nữa, mà phải đo bằng “quan hệ”.

Thoạt đầu, “quan hệ” cũng được đo bằng các đơn vị tiền tỷ, song chưa đủ. Trong trao đổi với nhau, thường thường xẩy ra tại các bữa ăn trưa giữa giờ ngoài cơ quan, các chầu “nhậu” có phụ lục “từ A đến Z”, các buổi “tươi mát” ở nước ngoài.., đã hình thành cách đo lường mới, ví dụ: phi vụ này (affair) là bao nhiêu “quan hệ”?…

Nhưng “quan hệ” ngày càng mang trong nó hầu như bất kể cái gì trí tuệ của tham nhũng có thể nghĩ ra được, do đó ngôn ngữ nhanh chóng trở nên chật hẹp hơn cuộc sống.

Phạm trù “quan hệ” của tham nhũng ngày nay có thể hàm nghĩa là một hay nhiều sổ đỏ, là khối lượng cổ phiếu trong một ngân hàng hay một đơn vị kinh tế có máu mặt nào đó, là con số “phần trăm” của sự chia chác, là một cặp hay đôi ba cặp “chân dài”.., một cái “ghế”, một tấm bằng thật (chứ không phải in nhái), một vụ xóa tội, một ân huệ mưa móc các kiểu được ban phát như vua chúa thường làm ngày xưa cho việc tính kế lâu dài, một sự ăn miếng trả miếng, một quy hoạch, một cuộc “ông ăn chả bà ăn nem”.., một cuộc yểm bùa hay yểm long mạch do một lý do nào đấy, một cuộc lễ bái mang tính mê tính dị đoan để cầu mong chạy tội hay để tiến thủ.., thậm chí có thể là một quyết định, một chính sách, một hội nghị, một cuộc vận động, một phong trào.., một sự trao đổi lẫn nhau giữa tất cả những gì đã được sơ sơ liệt kê ra ở đây, thậm chí có khi chỉ là một thứ đã qua sử dụng đằng sau cái lá nho… Vân vân và vân vân… Lần đầu tiên ngôn ngữ bị phá tung, vì bất lực không làm sao mô tả hết được nội hàm của khái niệm “quan hệ”. Bởi vì trí tuệ của tham nhũng luôn sinh sôi nẩy nở và diễn biến tùy hoàn cảnh, do đó nội hàm của khái niệm “quan hệ” cũng thường xuyên sinh sôi nẩy nở và diễn biến theo hoàn cảnh.

Hiện tượng ngôn ngữ bị phá tung như vậy là cái bóng cho thấy hiện tượng kỷ cương, luật pháp và các giá trị văn hóa - đạo đức của xã hội, của thể chế chính trị quốc gia đang bị phá tung như thế nào.

Quan hệ” như thế sinh sôi nảy nở trên mảnh đất vốn có được tạo ra từ tình trạng mất tự do dân chủ và sự thiếu vắng công khai minh bạch trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Song trong khoảng mươi năm nay, được sự kích thích của các hiện tượng phản văn hóa khác – trong đó có văn hóa mê tín dị đoanvăn hóa phong bì như đã nêu trên, “quan hệ” thực sự đã trở thành một hiện tượng phản văn hóa mới đầy nguy hiểm. Đúng là đến mức thách thức sự tồn vong của Đảng, của chế độ chính trị như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thừa nhận.

Mới gần đây thôi, kể từ sau Đại hội XI, trong ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày xuất hiện khái niệm “dư luận viên”. Câu chuyện độc quyền chân lý, độc quyền yêu nước… vốn dĩ không mới và là bản chất của chế độ toàn trị. Song một khi “dư luận viên” được tôn vinh là một đội ngũ hùng hậu, và nó xuất hiện như một binh chủng, hiển nhiên cho thấy tham nhũng – tiêu cựckhông chỉ thống soái phần xác, mà đang tìm cách thôn tính nốt phần hồn của cuộc sống đất nước.

Phải ngả mũ bái phục trí tuệ của tham nhũng – tiêu cực đã thiết lập được binh chủng này, nhưng còn phải bái phục hơn việc nghĩ ra được cái tên gọi độc nhất vô nhị như thế mà tư duy bình thường của những con người bình thường không thể nghĩ ra được. Đem hồng vệ binh trong cách mạng văn hóa của Trung Quốc ra mà nói, dư luận viên và binh chủng này không phải là đối tượng để so sánh về phương diện quy mô cũng như về phương diện bạo lực, nhưng khó mà nói được mèo nào cắn mỉu nào nếu so sánh về mặt công dụng và tác dụng.

Chặng đường các cột mốc đi từ khái niệm “móc ngoặc” đến “dư luận viên” kéo dài mấy thập kỷ. Mỗi một cột mốc là một bước leo thang mới của tha hóa, tiêu cực và tham nhũng. Điều cảnh báo phải nói lên ở đây là cột mốc “dư luận viên” đang nhằm vào thôn tính nốt phần hồn của đất nước. Người dân cả nước, dù là ai, đảng viên ĐCSVN hay không phải đảng viên, phải cảnh giác và phải có tiếng nói của mình để ngăn chặn./.

Hà Nội, ngày 03-03-2013

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 3-3-13 

Tổng số lượt xem trang