-Hà Nội cuối 1973 - kỳ II13/10
Gần mười tháng sau chiến tranh. Thời gian đang qua là những hoàng hôn của một ngày nóng nực đến điên cuồng. Tôi biết rằng có thể phải qua đêm đen nữa, rồi ngày hôm sau yên lành mới tới.
Những người sống sót sau chiến tranh là những người phải sống đến hai ba cuộc đời. Phải sống cho mình, và phải sống cho những người đã chết. Phải sống bù vào những gì người chết vì không có mặt nên không làm được. Và vì ta còn đây nên phải oằn lưng gánh vác, trong khi chính mình cũng yếu đuối, mà lòng đầy dục vọng. Chiến tranh đẩy lùi xã hội lại, trong khi những yêu cầu ghê gớm của con người thì vồng mãi lên.
15/10
Một thanh niên như bạn tôi, Trần Đức Kiểm vừa đi bộ đội về. Tôi cảm thấy xa lạ với Kiểm, xa lạ ở hai điều này:
1/ Nó sống nhiều mặt hơn, lan man, dài rạc; tôi chỉ sống một hai mặt cho kỹ lưỡng.
2/ Nhưng nhìn chung, hoá ra nó lại là phía ảo tưởng của tôi. Tôi ráo riết, cuồng nhiệt trong khi đó nhiều thanh niên ít tuổi hơn tôi mà sống dềnh dàng quá. Họ lì ra, chậm trễ. Phải vì xã hội không hứa hẹn với họ một điều tốt đẹp nào?
Kiểm là hình ảnh của tôi ngày hôm qua, Kiểm là tất cả những gì văn học có thể mang lại cho những người thường (nền văn học này và những người thường này, cố nhiên!). Nhưng Kiểm cũng không thể giữ được cái đó, trong cuộc đời quá nhiều phiền tạp.
Nhàn: Về đây, ông thấy ai thông cảm với ông hơn cả.
Kiểm: Không có ai cả. Ông Niệm cũng nhạt. Tôi chỉ nhớ một lần tôi đi dự đám cưới, tự nhiên lại gặp một thằng bộ đội, hai đứa nói chuyện với nhau rất lâu.
20/10
Mùa đông đến sớm. Những buổi chiều Hà Nội âm u, mặt đất nhớp nháp vì mưa phùn, những nền đá hoa cũng nhớp nháp, một ít hơi dầu, những con ruồi mùa đông sinh ra kỳ quái mò mẫm đây đó. Cứ chìm đắm vào cái đám này xem, rồi người ta cũng không thể nào giẫy ra nổi, người ta cũng mù xám mà chết theo mất. Tôi nhớ những mùa đông ở nông thôn. Dẫu sao nó cũng còn những cánh đồng khoảng khoát. Dẫu sao nó còn sinh lực.
24/10
Hà Nội không thể đứng riêng rẽ. Những ngày vừa qua mưa ghê mưa gớm, chúng tôi không chỉ khổ vì đi lại, mà còn vì những nơi đang đói kém tràn tới. Trưa ra chỗ Hàng Lược, gặp bao nhiêu người gồng gánh lũ lượt. Tận Thanh Hoá ra. Theo tàu hoả tới ga Hàng Cỏ, rồi sang tàu điện lên đây, để ra bến xe Long Biên, ngược lên mạn Bắc Ninh Bắc Giang tìm cách kiếm ăn. Cái tiếng Thanh Hoá trộn không lẫn.
Duật kể ở Thanh Hoá, trẻ con cầm con gà giơ lên ngang đầu như dân Lào, miệng lắp bắp đổi gạo, đổi gạo. Một cậu khác kể, ngoài ga, thỉnh thoảng người ta tức cửa hàng cơm phở mậu dịch, bán cơm nắm, hai hào một nắm.
Có một cái gì như một thứ chia sẻ chung. Lại có một cái gì như Hà Nội bị xâm lấn, và điều đó là không thể khác.
2/11
Một kẻ mà mỗi buổi sáng lại xét lại bước đi của mình trong đời sống -- kẻ đó không phải là người biết sống, biết làm việc. Mà tôi đang là vậy.
Dẫu sao thì cuộc đời cũng vẫn phải đi thành vệt, vẫn phải có những nền nếp. Những nền nếp cần phải luôn luôn được kiểm tra lại, nhưng trước hết, anh phải cho nó thành những nền nếp, để biết mà tính.
Có một quy luật của tiền bạc, đối với người Việt Nam ở nước ngoài: càng xa nước, anh lại càng cảm thấy nước mình nghèo nước người ta giàu. Và anh lại càng tự cho phép nhặt nhạnh vơ vét, để làm lưng vốn khi quay về.
Nỗi sợ khi trở về nước, như một nỗi sợ phải xuống địa ngục. Do đó, mỗi đồng tiền anh cầm đều có thêm quyền lực đối với anh. Anh không đám động hệ tới nó.
Còn như là về công việc viết lách của bọn tôi. Không biết chừng càng đọc nước ngoài, anh càng cảm thấy xa lạ. Hoặc họ là văn học, hoặc mình là văn học. Họ thì đúng hơn.
Và càng làm việc, càng viết, anh càng cảm thấy là mình viết quá ít, càng hậm hụi viết thêm. Cái chuyện bất lực trong cuộc đời là một lẽ đương nhiên. Vấn đề không phải là anh vượt qua mọi sự bất lực đó. Vấn đề chỉ là cố vượt qua ở từng nơi, từng chỗ. Và có người vượt được nhiều, có người vượt được ít.
4/11
Một khía cạnh khốn khổ của Hà Nội. Nơi đây, sự năng động -- đặc tính tưởng chỉ có ở cái mới – thường khi nó lại rơi vào những người lạc hậu nhất.
Đi trên đường phố, hỏi ai nhếch nhác nhất, chắc phải kể những người đi xe bò. Nhưng về nhà, ai ăn sang nhất, lại có lẽ là những người xe bò. Ở nhà của mình, họ nghe nhạc, đón những đĩa hát mới nhất -- họ văn minh, lịch sự, theo như họ nghĩ.
Những ngày cuối năm 1973 này, Hà Nội vẫn là một sự chờ đợi. Mãi không thấy bắt đầu một cái gì mới. Mọi chuyện cứ dề dà, đến mức không chịu được.
Hà Nội là thành phố của rất nhiều con người cô đơn. Hà Nội là thành phố của những ý đồ hèn hạ, những cuộc mưu sinh rách nát. Và bây giờ Hà Nội là thành phố của cướp bóc, cướp giật ban ngày, dí dao vào mạng sườn, cướp xe đạp, cướp mũ cối của những người lính đi qua đường. Tại sao ư? Tại vì cả xã hội lâu nay chỉ khuyến khích người đi đánh nhau. Yêu nước, chiến đấu thì cũng là đánh nhau chứ còn là gì khác? Mà đánh nhau là đặc tính thường trực của người nghèo. Được xã hội thức tỉnh, sau thời gian lao ra hành động, đến lúc quay về nhìn vào mình, người ta nhận thấy mình vẫn nghèo quá. So với yêu cầu và hiểu biết thì nghèo khó lúc này là không được phép.
Mất mùa khoảng 50%. Nhiều tỉnh đói. Cuộc vật lộn sinh sống ở xã hội này đôi khi mang lại những màu sắc cổ điển nhất. Là vật lộn cho mỗi miếng ăn. Làm sao mà còn dám đòi hỏi cái nọ cái kia? Làm sao mà còn tính chuyện hưởng thụ.
Nhàn: Những người như tôi, có lẽ chỉ thích hợp với hoàn cảnh thời bình.
Lê Đường Phong: Thế bây giờ thời chiến hay thời bình?
Nhàn: Thời chiến chứ. Đúng hơn là thời loạn. Còn phải coi là thời loạn vài năm nữa, cho đến bao giờ xã hội bình ổn.
Đã rất nhiều lần, những người như tôi nghĩ đây là một thời đại suy vi. Đây là những ngày tàn của một thể chế không thể tự đổi mới. Tương lai nào sẽ đến với một xã hội già cỗi như thế này, ao tù nước đọng như thế này?
11/11
Rất nhiều tin cho biết có thể đánh nhau lại. Sao không đánh nhau được? Nó lấn, nó muốn hất mình đi.
Ng Khải:
-- Thời gian mà nó dò mình, là thời gian mới hoà bình. Nó chỉ sợ mình lật. Còn bây giờ, nó nắm vững những vùng nó kiểm soát. Lực lượng thứ ba anh nào thò ra, nó thịt ngay. Nên chỉ có cách im tho! Đến lúc nó không tha mình rồi. Lính mình lại ở trong rừng, tư tưởng sa sút. Cho nên nhất định là phải đánh thôi, đánh để lấy không khí mà sống.
Nhàn: Không một sự thất bại nào là có thể nửa vời.
Hầm hố Hà Nội lại có lệnh không được phá. Nhiều công trình xây dựng (nhiều?) lại phải tạm hoãn.
Đài địch đưa tin: quân số Bắc Việt ở trong kia đã vượt quá thời gian cuộc tiến công 1972.
Thế còn ngoài này?
Mọi người đều nói cái chính là công tác tổ chức, tức là cách quản lý. Xã hội hoá ra hỗn loạn, theo nghĩa không ai bảo được ai, không ai nói được ai, vô nguyên tắc, tuỳ tiện. Thế thì còn ra sao nữa?
Tôi nhớ tới những buổi tối. Những cái xe Volga, Moskovíts nối nhau trên đường Điện Biên Phủ, rồi kéo sang Hùng Vương theo ngả đường Thanh Niên lên Nghi Tàm Quảng Bá. Đoàn xe đen trùi trũi, vùn vụt lao tới, phóng ra những luồng ánh sáng bao phủ một vùng. Còn chung quanh, là bóng tối hung hãn, những chiếc xe đạp, những người đi bộ chìm trong bóng tối, họ có vụt sáng lên trong ánh đèn, thì lại vụt biến mất.
Ở đất nước này bây giờ chỉ có những lãnh tụ, và những người dân thường, hai bên như bóng tối và ánh sáng, cách nhau thăm thẳm nghìn trùng.
Và tôi nhớ tới những buổi các lãnh tụ từ Gia Lâm về, hoặc là họ đi nước ngoài hoặc là đón khách. Một chiếc xe Công an đi trước dọn dẹp. Rất nhiều mô tô phóng, để bảo vệ, mà cũng là để hù doạ. Không bao giờ có một sự tiếp xúc bình thường giữa những người cầm đầu nhà nước, và người dân thường. Tôi cứ nghĩ, không hiểu người ta có biết rằng chúng tôi không có lốp xe đạp mà đi, không có thuốc đánh răng -- hình như họ không thể biết được điều đó.
Một xã hội ngưng đọng, xô đẩy theo một thói quen vô nguyên tắc -- tôi chỉ còn nghĩ được có thế.
Một nghị quyết, như nghị quyết cán bộ, cuối cùng cũng phải tan tành khi húc đầu vào thực tế. Người ta giải thích nghị quyết đó đại khái là:
- Đổi mới trình độ chung, chứ không phải đổi mới cán bộ.
- Phấn đấu làm sao để cấp phó trẻ khoẻ hơn cấp trưởng; cấp dưới trẻ khoẻ hơn cấp trên.
Mọi người hiểu biết đều nói không làm sao có thể thay đổi được mọi chuyện, những sự thay đổi bé nhỏ bây giờ đều là vớ vẩn, cần có những sự thay đổi rất lớn.
Một người như tôi chẳng hạn, chưa bao giờ tôi thấy luôn phải giáp mặt với xã hội như lúc này. Bất cứ lúc nào, động vào một chuyện bé nhỏ gì đấy -- đi ra đường, chữa một cái xe, viết một bài báo -- cũng cảm thấy một không khí trì trệ, ngưng đọng bao quanh. Chẳng những cái việc mình đang làm đây vấp váp, mà mọi việc khác cũng vấp váp. Tôi đâm ra tự nhủ tình hình này không tiếp xúc với ai càng tốt. Giáp mặt với cái gì cũng buồn, gặp thêm bất cứ người lạ nào cũng buồn. Cả những việc vớ vẩn lặt vặt, việc gì cũng phải tự lo lấy. Không tìm được chỗ để tin cậy, bàn bạc. Thậm chí cả số phận của mình -- tất cả những cái đó, đều không thể gửi gấm vào tay những người khác.
Cuộc đời mỗi người thật ngắn, mỗi ngày qua đi, như là cái vệt số mệnh của mình lại phải cưa bớt đi một đoạn, vậy mà từng giây từng phút một thì thật dài. Thấy công việc phải làm nhiều quá, trongkhi tự mình chả làm được trò gì.
17/11
Nay là thời gian tách rời giữa trí tuệ và sự dũng cảm. Tôi biết đó là hai vũ khí mạnh nhất của con người. Vậy mà bây giờ ở nước tôi, cái trí tuệ lớn, tách rời cái dũng cảm lớn. Chỉ những người không trí tuệ, trí tuệ quanh quẩn, mới dũng cảm, được gọi là dũng cảm.
Chẳng lẽ ý nghĩa của đời sống, rút lại chỉ là ở chỗ nó cực khổ như vậy, mà mình cũng vượt nổi, mình cũng vẫn còn sống.
Nguyễn Khải mới nói mấy ý:
- Bây giờ mình đúng là kiểu một nước Nga sa hoàng. Nước Nga lúc ấy chỉ toàn những tướng tá, và hàng ngũ quan liêu, viên chức nhà nước. Ở ta bây giờ thì người nào cũng cán bộ. Cán bộ nhiều đến nỗi thành một mạng lưới đè trĩu người dân xuống. Thế mà tìm một ê kíp cán bộ dùng được thật rất khó. Nói chung là thiếu những người đáp ứng đúng nhu cầu của thực tiễn.
- Thế nhưng cái ông Đốt, một lần ông ấy nói ngược lại, thì cũng phải, mà nó cũng là một cách để châm biếm. Ông ấy bảo nói thế chứ người Nga rất giàu đầu óc thực tiễn. Bằng chứng là chúng ta, trong khi giải quyết các vấn đề của đời sống rất thiếu người có cá tính, và có những ý kiến riêng. Người có ý kiến riêng, có cá tính thì xin việc khó. Còn như thiếu hai cái đó, thì lắp ghép vào đâu cũng được. Xin được việc là hiểu thực tiễn. Không xin được việc là ngược lại.
--Thật là đáng sợ, đất nước của một sự tập trung chỉ huy. Khi nó mạnh, đúng, thì nó rất ghê, nhưng khi nó yếu, sai, thì nó phá tán kinh khủng không thể tưởng tượng được. Bây giờ nhìn vào đâu cũng thấy những kết luận giống nhau, mà kết luận lớn nhất thì có liên qua đến cả guồng máy.
Còn như những vấn đề chung, bây giờ đã ở vào cái mức độ mà có thể nói, là chúng ta phải căm giận, căm giận bởi không thể tưởng tượng nổi nó lại đổ đốn đến thế . Hồi trước, còn chế giễu, đùa bỡn, vì nó là ở trong phạm vi hẹp. Nay đã đi xa hơn nhiều.
22/11
Hôm qua Khải còn nói nhiều chuyện liên quan tới phẩm của ông và chuyện trong giới nói chung:
-- Cái này, tôi cũng nói riêng với ông. Là khi viết Chiến sĩ, thì mình cũng phải nghĩ rằng cái chuyện đánh nguỵ là chuyện vớ vẩn, mà cuộc chiến tranh này rồi sẽ không đi đến đâu. Cái còn lại may ra chỉ là kiếp luân lạc của con người. Và mình chỉ viết về cái ấy thôi.
Bây giờ, về cái món linh mục này , viết lúc này là phải lắm. Như ông vẫn nói đấy, chính mình là một thứ tôn giáo mới, cái mình lớn ấy, còn cái mình nhỏ, cái mình cá nhân, thì là một thứ linh mục, một thứ thầy cả còn gì. Cho nên, chọn viết lúc này là phải nhất.
Nhàn: Vấn đề ý thức bao giờ cũng là vấn đề quan trọng.
Khải: Không, cũng tuỳ từng lúc. Nhưng đúng là lúc này làm được.
... Nhưng mà kỳ này, tôi nghỉ cũng hơi lâu đấy. Năm 1973 này đúng là năm khủng hoảng của bản thân tôi, khủng hoảng về mọi mặt.
Lại nói chuyện Chế Lan Viên. Hôm nọ, lão ấy bảo tôi. Dẫu sao cũng phải lạc quan chứ! Nhưng như thế tức là lo rồi.Tôi mới lấy tôi ra nói, mà cũng là để chửi khéo lão ấy. Tôi mới bảo thế này. Như tôi với anh là cốt cán của nhà nước chứ gì? Thế nhưng mình không cẩn thận, lúc nào dân họ dần cho, thì cũng là dập mặt.
Tôi thấy tôi lắm lúc cũng lưu manh quá đi. Tôi nói ngược nói xuôi thế nào cũng được. Như vào xem một bộ phim ra, tôi chê. Quả thật phim chả ra gì. Nhưng chốc nữa, gặp ông Xuân Trường, tôi lại có thể bốc phét ngược lại. Được thế này đã là khá lắm. Thì anh tính phim Liên Xô nó làm một năm hàng trăm cuốn, sang đây toàn những cuốn chọn lọc, mà cũng có phải mình thích cả đâu. Việt Nam mình như thế này là khá lắm rồi... Suy cho cùng, trong cả hai trường hợp, tôi đều lưu manh cả.
Đời sống bây giờ, người nào cũng trở thành láo lếu như thế. Những gì phải trái không biết. Trên dưới quan hệ rất buồn cười. Như ông Thi đấy, lúc đánh cũng do trên (ông Hoàng Tùng đi đâu cũng bêu riếu -- Viết thế mà cũng đòi quần chúng hoan nghênh à?) mà bây giờ nâng lên cũng do trên (tạp chí Học tập vừa rồi lại viết bài bênh). Như thế thì thân phận mình biết ra sao, văn chương này ấy à, rồi lúc nào đó, mang mà vứt xó cả.
Chế Lan Viên, theo lời Khải kể, vừa có những phát hiện rất thú:
-- Lắm lúc mình ngồi mình thấy cũng lạ, rồi ý nghĩ của mình rơi vào quỹ đạo của Kafka cả. Như ngẫm xem cái cảnh Trung quốc bây giờ, nay người này lên, mai người khác lên, bắn nhau, giết nhau, biết ai là thủ phạm. Có phải đúng triết lý của Vụ án không? Còn như Hóa thân. Nhìn vào những gia đình có con em đi bộ đội chẳng hạn, hôm qua còn nguyên vẹn, hôm nay quay về què cụt ra một thằng khác, thế chẳng phải Hóa thân là gì? Hoặc như Lâu đài, cái xã hội nay cũng là lâu đài, chả biết ai là chủ.
Khi ông Hoàng Phủ Ngọc Tường ra Hà Nội, tôi và ông Bảo Định Giang ra sân bay đón, oai lắm, hôm sau ông Hà Huy Giáp mở tiệc khoản đãi cơ mà. Nhưng rồi dần dần, người ta quên cả. Bảo đi nước ngoài bao nhiêu lượt rồi, đoàn nào cũng trượt. Định đi Rumani thôi. Lại bảo đi theo đoàn nhà văn Á Phi. Gần đến ngày đi, có lệnh là hoãn. Hay là đi theo anh Thi sang Đức. Không, các anh ấy ở chiến trường ra, to lắm, để danh chính ngôn thuận đi đoàn miền Nam. Thế rồi bây giờ cũng chưa đi. Không biết chừng nay mai muốn về Quảng Trị cũng không có tiền ôtô mà về. Nhưng cẩn thận, giải thích thế nào, không về lại có tin “không được đi, chỉ vì chính trị”, thì là chết người ta, người ta không còn làm ăn gì được.
Nguyễn Khải tiếp tục:
-- Cái lão Chế ấy thông minh lắm. Nhưng mà sao lúc cần kiếm chác, vẫn cứ ăn nói linh tinh. Tôi phải bảo như chúng tôi, bây giờ bốn mươi tuổi đầu thỉnh thoảng mới nghĩ ra được ít điều ngược. Nghĩ xong thấy không hợp thời, nên đành để bụng. Tự nhủ nói ra hay không nói ra không quan trọng. Nhưng không nói cái đến trong đầu của mình thì thôi, chứ đừng nói ngược lại.
-Hà Nội cuối 1973- kỳ I
Vẻ đẹp tàn tạ -- Hà Nội tháng 6/1973
6/9
Từ Quảng Trị trở về Hà Nội. Cảm thấy như một con tàu đang đi, bị chững lại. Đấy, cái nơi mà ta ao ước trở về -- tức Hà Nội -- chỉ có như thế. Tôi vừa thấy đây là nơi chứa tất cả quá khứ tương lai của tôi, vừa đau xót sao nó chỉ có như thế, nó không phải là nơi ẩn náu cuối cùng hay sự an ủi vô tận như tôi nghĩ và tôi ao ước. Mà tôi vẫn sợ mất nó nữa....
Nhiều bạn bè, nhiều người chung quanh đi nước ngoài về. Người nào cũng chỉ nói tới những tủi nhục. Cùng với những tủi nhục ấy, họ mang về bao nhiêu là đồ đạc thì có giời mà biết. Nhưng thôi, hãy biết rằng quá nhiều tủi nhục! Một cảm giác cay đắng đè trĩu lên bất cứ một người nào tự trọng. Đoàn Công Tính sau khi đi Hungari công nhận với tôi, nói chung, những điều tôi nhận xét về nước ngoài là đúng. Ví như, ở Moskva, nơi Tính ghé qua, sứ quán Việt Nam là nơi duy nhất có ruồi!
Ng Khải: Chính phủ chúng ta ra ngoài thì khờ dại, mà mỗi chúng ta sống với nhau thì gian giảo. Trong khi người dân nước ngoài sống với nhau thì thật thà, mà chính phủ họ thì khôn ngoan rất mực!
Tôi vừa thích vừa ngại khi nghe người ta nói những nhận xét về truyền thống của dân tộc Việt Nam. Vì bây giờ, giáo dục cho mỗi người dân thường chúng ta sự thật thà, lòng yêu lao động, sự tin cậy lẫn nhau, và tinh thần vì việc chung, cũng đã rất khó.
Dạo này, tôi sinh ra cầu an. Tôi sợ phải nghe những chuyện trái tai. Nhiều người nhắc tôi chuyện nọ chuyện kia, tôi cứ gạt đi. Nghĩ bụng, tất cả là do chiến tranh. Sau này, người ta sẽ bảo đó là cuộc chiến tranh cuối cùng, cũng là cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử dân tộc. Nó kéo chúng ta lùi lại đến phần tư thế kỷ.
Xuân Sách: Sau mười mấy năm chiến đấu, điều rút lại là có hai nước Việt Nam- Đó là điều cả chúng ta lẫn nhiều nước khác trên thế giới cùng khẳng định.
Có nước nào như ở Việt Nam, lý tưởng là đồng nghĩa với ảo tưởng, mơ ước hão và thực tế là đồng nghĩa với thực dụng, hèn kém.
11/9
Bế tắc, ở đâu cũng thấy cái chữ ấy. Bế tắc tức là thiếu niềm tin, tức không biết hành động ra sao, tức là vô vọng. Không phải cứ chịu ngồi là tích lũy vốn sống được đâu. Tích lũy làm sao, khi không tính được cái gì là giá trị, cái gì không. Biết rằng từ nay trở đi chỉ có thể là còn xấu hơn, không thể khá được, nhưng vẫn hồi hộp không biết rồi mọi thứ sẽ xấu đến mức nào nữa.
Trở lại bình thường ư? Mất vài năm. Có khi hơn, hàng chục năm nữa.
Thì cứ lấy thân phận mình ra là đủ hiểu. Khốn khổ thân tôi, lúc thời thế đang lên, mọi người đang vui -- những năm 58 - 64 --, tôi sống trong nỗi bơ vơ không biết đặt hy vọng vào đâu. Bây giờ tôi vừa nhập được vào đời, thì đời sống lại đã xoay sang hướng tàn tạ. Tôi ngoi lên không kịp.
Nguyễn Khải:
-- Viết về cái gì bây giờ? Chỉ có cách trở lại những giá trị cơ bản. Đánh thức trong mỗi người bình thường cái tình cảm lương tri trong cuộc sống. Ví như lâu nay tuyên truyền ta cứ nói dân ta không biết sợ gì hết. Có phải thế không? Chúng ta không sợ B52, không sợ súng đạn, nhưng chúng ta sợ nhau. Người nọ ghen ghét thù hằn người kia, cấp dưới sợ cấp trên mà thực ra sợ quyền lực, sợ những giá trị kinh tế.
-- Dạo này chỉ trông ảnh thôi, thấy mấy ông to, ông nào ông ấy cũng có vẻ cha già dân tộc. Hết cả sáng suốt với nhạy bén thì làm sao hy vọng.
-- Năm 1957 đi Festival về qua Trung quốc, thấy cán bộ thanh niên nó trẻ lắm, bí thư thành đoàn 23 - 24, tiếp khách nước ngoài lại còn nói đùa nói bỡn. Không biết bao giờ người mình có được những bộ mặt sinh động như vậy.
Cái khó nhất bây giờ là công tác tổ chức - ông Vũ Cao nói.
Những gì là động lực của vận động lịch sử hôm qua, đến hôm nay thành ra lực cản. Sẽ là không đủ nếu chỉ nói đến vai trò của tuyên truyền chính trị. Chính hệ thống tổ chức đang đè nặng lên chúng ta, kìm hãm chúng ta! Không thay đổi những cái ấy đi, thỉ mọi lời kêu gọi chắc chỉ là chuyện vớ vẩn.
14/9
Vẫn bị ám ảnh vì chuyến đi Quảng Trị. Lần đầu tiên xa Hà Nội những 2 tháng, mà lại trong hoàn cảnh thời bình -- tôi cảm thấy đã xa lâu lắm.
Về đây mới có những buổi tối, tôi đi dưới những bóng cây. Cảm giác có một không gian trong lành quanh mình.
Sau cơn mưa, mọi thứ hằn rõ lên, nguyên vẹn trong cung cách của mình, và màn đêm giống như một đại dương lớn lao, vô tận. Sống trong cái đêm bao la này, người ta có thể yên tâm, đi lại, nghỉ ngơi, suy nghĩ.
Đặt bên cạnh những ban đêm u tối của các vùng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị… thì đêm Hà Nội đâm ra có cái vẻ rộn rã mà xưa nay tôi không nhận ra. Ngồi ở trong cái phòng con, nhiều buổi tôi lặng đi vì cuộc sống ở ngoài kia. Một đám 13-14 nối nhau trên đường, cùng reo vui vì một chuyện gì đó. Tiếng hai người bạn trẻ chuyện trò, có khi lại có cả tiếng một anh chàng nào nhiều khuya rất muộn còn huýt sáo.
Sau cơn mưa, trời đất trong hơn, mọi thứ tiếng động nghe vang hơn và ấm hơn, như ban ngày tôi nhìn thấy thì cả những bóng cây xanh hơn. Những ngày mưa qua đi, lá sấu lên xanh, nắng chiều làm cho màu xanh của lá ấm lên trong cái sắc vàng bền bỉ và vững chãi.
Kể ra, so với thời chiến , tức cuối 1972 về trước, bây giờ tôi đã có một Hà Nội khác, Hà Nội bình thường trở lại. Nhưng cũng lập tức, phải hiểu là chiến tranh theo sát Hà Nội nó không buông tha Hà Nội cho đến lúc này. Sự thanh lịch, hào hoa, tất cả đều còn cả, nhưng lại không phải là cái thời bình hôm qua, chỉ còn là cái gì nửa vời, pha tạp.
Có thể nói chung gì về tâm trạng mọi người sau tám tháng hoà bình?
Tôi ngồi tôi đọc lại một ít ý nghĩ, và thấy có lẽ vẫn có thể rút ra được một ít điều tốt đẹp nào đó, mà tôi chưa thấu. Đó trước tiên là một cái gì như mong mỏi -- mong mỏi hạnh phúc sẽ đến, mong mỏi đời sống ổn định.
Bài Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói chuyện thời loạncủa Vũ, tôi chép vào trong sổ đã lâu, thỉnh thoảng lại mang ra đọc lại, thích nhất là đoạn cuối:
Thôi nhé mai này tiễn Khánh đi
Đường xa bom phá tàu không về
Lênh đênh ai hát ngoài song cửa
Bài ca thanh bình đêm cũ
“Hoa lá quên giờ tàn
Mây trắng bay tìm đàn”
Ngày xưa yên ấm quá
Trẻ hát đồng dao trên phố
Con trai xách điếu đi cày
Con gái quang liềm gặt lúa
Bao giờ hết loạn người ơi
Thanh bình, cái chữ ấy, nghe êm đẹp quá, vì gắn với thanh bình, là đoàn tụ, là hy vọng.
Cái không thể mất được, là hy vọng.
26/9
Mợ Tâm: Nhà như nhà mợ (5 người lớn) ngày phải 3 đồng thức ăn mới đủ ăn. Lại mấy cơn bão dúi dụi.
Phương Thảo: Ngày trước, lương như Thảo là ăn thoải mái, tiêu cũng thoải mái. Bây giờ chỉ được phần ăn. Tiền chi cho công việc, những việc lương thiện, thật không có chỗ. Mật ít ruồi nhiều. Còn như ở nhà máy của Thảo ư? Sau mấy năm chiến tranh, đi về chỉ thấy như cũ. Với lại toàn thấy những chuyện không ra sao. Bây giờ người ta làm bậy theo kiểu mặt dày mày dạn, trâng tráo mà làm, không cần dấm dúi. Tức người ta không biết sợ là gì nữa.
Mấy năm vừa qua, cái chính là mình thấy giá trị của mình. Chả còn lạ gì những người hò hét, có khi họ lại không bằng những người mang tiếng công chức như mình.
Tôi hay nghĩ về những cái mất, cái còn của Hà Nội. Cái gì mất đi? Nhiều lắm, mất đi cả nhiều mặt tốt. Nhưng tôi cũng tin là vẫn còn lại một cái gì đó. Và nếu như một cái gì vừa mới biến động đã mất, thì cái của mất ấy, chắc cũng là vô duyên, và cũng chẳng đáng tiếc lắm.
Cái cuộc đời này là gì vậy? Tôi nghĩ thật thú vị, những cũng thật là xa lạ. Ngồi trên phòng nghe những âm thanh đường phố, cứ nao nao cả người. Muốn đi ra với đời. Nhưng làm sao để đi chơi được, tôi còn phải làm việc. Đi chơi với tôi là quá phung phí thời gian, tôi có nhiều đâu mà rải mành mành ra như vậy.
Và điều này, quan trọng nhất -- đôi khi đi chơi, như bị lấm bùn vào mặt, lại khó chịu thêm. Hà Nội còn nhếch nhác quá.
Người ta trả lại cho tôi một Hà Nội, nhưng nó không hoàn toàn như tôi mong muốn. Cũng như người ta chỉ cho tôi một tố chất thông minh vừa phải, một ít sự nhạy cảm nghệ sĩ vừa phải, để rồi làm một nghệ sĩ thì không nổi, và trở về với đời thường không xong.
Tôi không tiêu hoá được những cuộc chơi bời đang diễn ra chung quanh. Dạ dày tôi kém.
Tôi vẫn không cảm thấy tôi nhập được vào Hà Nội -- điều ấy có lúc ở phía Hà Nội, nhưng có lúc ở phía tôi, khổ chưa!
Thế còn những người như Thảo? Họ nghĩ sao về Hà Nội? Họ còn thuộc Hà Nội ngày xưa hơn cả tôi nữa. Tôi muốn hỏi vậy vì cảm thấy Thảo còn giữ được chút gì đó như là chất sang trọng quý phái. Có lẽ một phần vì Thảo không quan hệ rộng, Thảo không bị những xô đẩy của cuộc sống, Thảo không bị cả cuộc đời này hành hạ.
Thảo có gì trong sáng và nhuần nhị hơn so với Xuân Quỳnh -- dù cũng tự nhiên, thoải mái, và có thể nói như là dễ dàng với mọi người. Thảo đô thị hơn.
3/10
Dạo này hay cùng Tính đến chơi Thảo. Một ngôi biệt thự cũ trong ngõ Hạ Hồi nay đã tàn tạ khi phải sống theo nhịp thời chiến.
Mỗi lần gọi cổng, chúng tôi phải từ dưới đường réo lên. Bù lại, khi lọt vào cái phòng chật hẹp nhưng ngăn nắp của nữ chủ nhân, chúng tôi cảm thấy như chiến tranh đã ở phía ngoài.
Một lần, chúng tôi chứng kiến cảnh một cháu nhỏ của Thảo ba bốn tuổi gì đó ngồi chơi giữa phòng cô. Chơi truyền nước. Cháu cứ rót nước từ ấm ra bốn cái chén nhỏ, rồi lại rót ngược vào. Một niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt cháu khi nhận ra rằng mình không đánh rớt ra ngoài chút nước nào.
Hôm nay chúng tôi ngồi bàn về đợt B52 mười tháng trước. Thảo kể:
-- Nhớ mãi năm ngoái có chục hoa cúc lạ. Mua đúng hôm Hà Nội bị B52. Đẹp chưa từng có. Mười ngày sau về, lá héo, mà từng vồng cúc vẫn chắc, khoẻ.
Ngày nào mua hoa, là ngày vất vả nhất. Chạy khắp nơi, lên đầu Hàng Lược, ra chợ Đồng Xuân, rồi mới ra các cửa hàng mậu dịch. Bao nhiêu cũng mua.
Ngày đi học, bao giờ áo cũng phải là một ít nước hoa. Mẹ chiều, đi xa về, đun cho ít nước tắm, rồi giục đi chơi nhà các bạn. Cụ ông cũng chiều, cũng giục đi. Chính tính cụ ông rất giống tính Thảo. Cái tự do hôm nay, là điều sẽ không chịu đổi lấy một cái gì khác, trừ trường hợp thật tự nguyện.
Hoa sữa -- thứ hoa của đường phố. Hoa của trên cao, cho người ta đứng dưới mà cảm thấy cả một trời ướp hương. Hoa của mọi nhà, có khi phố mình không hoa những vẫn là có hoa từ những phố khác phảng phất đưa tới.
(còn tiếp)
- Vẻ đẹp tàn tạ -- Hà Nội tháng 6/1973
Hoa phượng. Hoa phượng đỏ, khắp thành phố ngoảnh về phía nào cũng thấy phượng. Phượng kết thành tấm thành mảng và dầy mãi lên như một niềm oan nghiệt.
Tại sao hoa phượng đỏ trong mùa hè, lại làm cho lòng cảm động. Bởi mùa hè nồng nóng thế, mà sao vẫn đẻ ra một thứ hoa đẹp như thế? Cuộc đời càng buồn, thì trời đất càng đẹp, nó là hiện thân cái câu mà chúng ta vẫn nói -- cuộc sống chỉ có một lần.
Quên làm sao được hoa phượng trong những buổi chiều. Anh có biết không, khi ấy mặt trời đã tắt, mọi thứ như tối sầm lại, vậy mà phượng vẫn sáng bừng lên. Màu đỏ của phượng bây giờ như một cái gì ma quái -- Làm sao lại có một thứ màu sắc kỳ dị như vậy nhỉ? Phượng lấy sắc đỏ ở đâu ra ? Hay phượng là cái phía bung ra bất cần của cuộc đời, phượng là một cái gì rất nghệ sĩ -- tôi nghĩ vậy.
Sao năm nào, trời đất cũng đẹp, và hình như càng trưởng thành, thì người ta càng thấy trời đất đẹp hơn.
Không phải tôi không yêu thiên nhiên. Tôi chỉ sợ thiên nhiên đánh thức trong tôi những khao khát sống. Thà cứ bắt tôi đứng giữa cuộc đời bình thường, những người đàn bà tham lam, những người đàn ông hèn hạ, những bông hoa tả tơi nhàu nát tôi lại còn thấy dễ chịu – khi ấy tôi cảm thấy cuộc sống là vừa phải. Đằng này lại là cái thiên nhiên của hoa phượng chói chang.
2/6
Nói với ĐCTính
Con người hiện đại khác con người trước kia có lẽ là ở chỗ nó uyển chuyển hơn. Nó biết đầu hàng. Nó biết chịu đựng. Nó không xa lánh mọi chuyện. Nó nhập cuộc, dù thấy đời nhầy nhụa nhớp nháp cũng nhập cuộc. Và sau tất cả những cay đắng ấy, nó vẫn tìm cách thể hiện mình.
Người nghệ sĩ mới tham gia vào những vấn đề chính trị rồi lại đứng tách ra để mà phán xét.
Trong lời giới thiệu những nhân vật như Voznhesenski, Evtouchenko... bao giờ cũng thấy người ta nói tới hai mặt ở họ: cái hay và cái dở, cái thật và cái giả, ánh sáng và bùn lầy!
Chúng tôi khổ vì chúng tôi là những thanh niên, tức những người ở vào cái thời gian tập làm chủ mình. Nếu chúng tôi đã lớn tuổi, đã yên bề vào một vị trí nào đó, thì chúng tôi sẽ cam chịu.
Đằng này không phải thế. Chúng tôi ở vào cái tuổi tự do. Nhưng ai dám bảo đã có đủ điều kiện để người ta sử dụng cái quyền đó một cách tốt nhất.
Nói với Kiểm
Những người lính bây giờ mang nhiều thói xấu mà cuộc sống chiến tranh cố kết lại trong họ. Họ đã mất đi khả năng tự nhận thức. Thành thử nếu chỉ đi với lính, anh không sao hiểu được họ.
Người ta chỉ có thể hiểu được người lính, khi đặt họ trong thế đối lập với hậu phương. Hậu phương sẽ làm nổi họ lên. Hậu phương là cội nguồn của mọi biến động thời chiến.
Một cái vé đi xem biểu diễn ca nhạc, một bữa ăn đủ chất? Không, những đòi hỏi bình thường thế, trong thời chiến là quá cao. Bây giờ chúng tôi không có nhà mà ở, không có đường mà đi. Nhìn vào lòng đường các nước khác xem. Tất cả ngăn nắp trật tự, mọi người có chỗ của mình. Lòng đường của chúng tôi bây giờ bụi bậm bẩn thỉu, người đi chen chúc, người nào cũng cố vượt lên trước. Đường là hình ảnh của xã hội.
Nghiêm Đa Văn kể ông Phạm Văn Đồng bảo ở Việt Nam bây giờ, không ai làm việc của mình cả. Người ta bắt thầy giáo và học trò làm đủ mọi việc, trừ việc dạy và học.
Nhận xét của kiều bào ở nước ngoài về: Ở miền Bắc làm việc tốt cũng như việc xấu. Làm cũng như không làm.
8/6
Tôi vừa kính phục những người khắc khoải và bất mãn, vừa ghê sợ. Bởi trái tim chịu được dày vò, đó là một trái tim phải lớn lắm, phải khỏe lắm. Tôi không có một trái tim như thế .
Níetzsche hay nói tới các siêu nhân nghĩa là những kẻ vượt lên con người thông thường. Shakespeare chẳng hạn.
Trong nhà viết kịch người Anh, người ta bắt gặp bao nhiêu cuộc đời bao nhiêu số phận. Ông là tổng số của những kẻ đó.
Những người bình thường đơn giản hơn nhiều.
Song đó là chuyện của các thế kỷ trước.
Nay là lúc ở con người bình thường cũng có không có bao nhiêu chuyện, bao nhiêu vấn đề được đặt ra. Thành thử lại có thể nói không có con người nào là bình thường. Con người nào cũng đặc biệt, rất đặc biệt.
Nói theo thuật ngữ văn học, tôi ngỡ phân tích cho kỹ lưỡng, con người bình thường nào cũng là con người điển hình, cũng mang những đặc điểm của giới anh ta, xã hội mà anh ta sống.
Như là một cá nhân, tôi quằn quại xem có thể làm thế nào, để tìm đường cho mình, thấy những lẽ phải của mình, để mình có thể yên tâm. Hầu như chả ai có thể giúp được tôi, tôi kinh sợ.
Hình như ở một quyển sách nào đó, có nói đến khái niệm Tôi, bây giờ,...
Một câu thơ nào đó, bắt đầu bằng mấy chữ: Tôi, bây giờ... Chỉ có thế mà thỉnh thoảng nghĩ lại, cứ giật mình. Đó là một cảm giác thường trực phải có. Tôi, bây giờ, cảm giác của thay đổi, cảm giác của một người từng trải, đã có những ê chề.
Anh đến xin việc một nơi, một người chủ Pháp sẽ hỏi: Anh có bằng cấp gì?
Một người chủ Đức: Anh biết những gì?
Một người chủ Mỹ: Anh có những kinh nghiệm gì?
.,.
Và ở Việt Nam hôm nay, những người phụ trách, những người mách mối hỏi: Anh có quen ai ở đấy không? Anh có phải là đảng viên không?
9/6
Nói với chị Yên, em không biết mua bán thế nào. Trông cái gì cũng thấy giả dối.
-- Đến tôi cũng không biết mua, chứ không phải chỉ có cậu. Mua cái gì cũng phải lâu, cũng phải chọn, nhìn qua loa đã mua là y như về vứt đi.
Cái tình trạng này bao trùm từ chuyện đời thường tới chuyện chính trị.
So sánh hai miền, không biết ai nói đầu tiên, ông Khải nhắc lại:
- Chúng ta từ chính nghĩa, hoá ra phi nghĩa. Nó ngược lại. Bây giờ không một thằng lính nào phía bên kia có mặc cảm là Việt gian, là nguỵ cả.
- Không biết chừng, lúc nào nó tuyên bố xây dựng socialism. Trước tiên, nó tuyên bố quan hệ với Trung quốc chẳng hạn...
Rồi có cái hư danh, nó cũng lấy nốt của mình, chứ không phải chỉ có cái thực đâu.
Không biết chừng, nó lại làm vẻ vang cho dân tộc Việt Nam.
...
Bàn về lòng tin, Nguyễn Kiên bảo giờ mình chỉ còn có cách là tin vào người dân thường. Tôi bác lại:
- Không, người dân thường bây giờ cũng bị tàn phá rồi tàn phá đến khủng khiếp. Không còn những thói quen cũ. Không còn lễ nghĩa phong kiến. Không còn sự tự trọng tối thiểu.
Làm sao khỏi chán bây giờ, ông Kiên nói tiếp và đây là câu nghe được này:
-- Riêng ở trường hợp tôi – tôi nghĩ đúng là nhiều lúc chỉ chán quá, đến mức, chán cả cái chán của mình, rồi thôi, -- bấy giờ mới lại làm việc được.
12/6
Tham gia việc vận tải ở miền Bắc có tới 2 vạn xe. Mà trong đó 47-53% xe chạy không.
Một tờ báo ở Sài Gòn nhận xét ở Hà Nội, dần dần, mọi chữ nghĩa mất hết ý nghĩa. Mọi kế hoạch bị lãng quên.
Xuân Sách:
-- Nhìn các nước, thấy mọi chuyện bên trên nó có thay đổi, nhưng ở dưới, người ta vẫn làm việc một cách bình thường
Còn ở mình, cứ dồn mọi người vào cả một đống. Con người bị đánh thức, việc gì cũng xông vào. Cả nước làm chính trị, cả nước dòm ngó xét nét nhau. Cho nên không ai dám tính chuyện thay đổi. Chỉ cần chững lại một chút, là tất cả nổ tung hết.
Để làm cho người ta sống bình thản, cái công cụ chủ yếu mà xã hội này sử dụng là làm cho người ta tê dại. Người ta khổ, nhưng không còn sáng suốt nhận ra sự khổ sở của mình. Tức là vẫn nghĩ rằng mình sung sướng, có lý luận như vậy. Mặc cảm làm chủ. Mặc cảm biết tất cả mọi điều. Khả năng tự lừa dối. Như người thủ dâm.
15/6
Lính ở chiến trường, vùng tiếp giáp, nói chuyện với lính địch, không ai bắt, mà cũng dối trá. Nói rằng ngoài Bắc sung sướng. Lính được về phép (bằng ô tô). Cho nó cả đồng hồ. Tết, cho nó ăn bánh chưng, rồi tự mình nhịn.
Hoàng Hưng: Thời mới hoà bình này là thời gian của những sự dò dẫm lẫn nhau. Trên dò dưới, dưới dò trên. Nghiêm Đa Văn bảo ở dưới, cứ chửi bới, cãi nhau lung tung trước cấp trên, nhưng sau đó, có miếng ăn, thì cả bọn trên cũng như dưới lại nịnh nọt nhau, xoa dịu nhau.
17/6
Khải: Trước kia mình cứ thắc mắc, sao mình không bằng nó. Bây giờ hiểu rồi, phong kiến phải thua tư bản, thì tất nhiên rồi. Bây giờ, mình cứ định bắt họ (dân Quảng Trị) trở lại vùng giải phóng, làm ăn kiểu phong kiến như mình, họ không chịu đâu.
Cũng như, ở ngoài này, cách mạng nó ăn vào mình rồi, bây giờ có quay trở lại những nền nếp cũ, chính mình cũng không chịu được.
Đỗ Chu: ở xã hội mình bây giờ, chỉ thấy cái xấu nó quá đường bệ, nó đàng hoàng đứng đó, không làm gì được.
Việt Nam --tức là miền Bắc bây giờ-- mang đủ những chứng xấu của chủ nghiã tư bản, cả phong kiến và cả chủ nghĩa xã hội .Thế giới bây giờ, tất cả hội lại, mang nhãn hiệu Việt Nam.
Có lẽ vào những ngày này, chiến tranh mới bộc lộ hết cái độc hại của nó. Học sinh học hành chểnh mảng ư ? Vì chiến tranh. Xã hội vô nguyên tắc ư? Vì chiến tranh.
Trẻ con được dậy không biết sợ là gì để sau này đi đánh nhau cho dễ.Nó học quá nhanh, nên bây giờ nó làm loạn.
10 năm nay, chúng ta chỉ nói với nhau một điều duy nhất là hãy đi đánh nhau -- Thế thì còn biết làm sao?
Tất cả chúng ta đã bị thương, trong cuộc chiến tranh vừa qua.
Bây giờ thì chúng ta mới hiểu chiến tranh là xa lạ với bản chất con người thế nào. Chiến tranh là đáng nguyền rủa. Định hướng chiến tranh trong những năm vừa qua đã trở thành quốc sách. Giờ nó trả thù. Mà không ai biết nó sẽ dai dẳng theo ta đến tận bao giờ.
19/6
Trẻ con chơi, hát
Rồng rồng rắn rắn
Bắt con rắn qua sông
Bắt con rồng qua bể
Bắt con kiến lẻ loi
Này người bạn tôi ơi
Bắt lấy thằng đuôi chó.
20/6
Đến nhanh quá cái vẻ sớm tàn của hoa phượng.
Ngày nào, cách đây, độ một tháng, hoa phượng nở. Bấy giờ phượng vồng lên những cánh mập mạp. Có một lần, tôi thấy một đứa trẻ cầm một cành phượng, nặng trĩu những hoa là hoa. Thế mà, chưa đầy một tháng phượng đã héo tàn rã rượi, chỉ còn bám hờ trên những cành lá xanh. Màu đỏ thẫm lại. Cả những con người những sự việc cũng thế , chóng nở, chóng tàn, mà khi tàn thì day dứt mãi.
23/6
Sao mà cuộc đời đẹp một cách đáng sợ, đẹp đến làm ta bàng hoàng. Bão xa ở đâu không biết, đây chúng tôi đang sống những ngày hè tuyệt vời. Thành phố như một vùng ven biển. Nắng rất trong. Gió rất nhẹ nhưng gió lúc nào cũng có. Gió mơn man trên da người. Gió như sự có mặt của hạnh phúc.
... Đi đến đâu, tôi cũng gặp những biểu tượng của lòng ham sống. Người tràn ra đường, những cô gái rất đẹp, một cô bé nào cái cúc áo trên cùng không cài để ngỏ he hé cái cổ măng tơ. Những em bé lôi nhau ra đường chơi bóng, chơi một thứ trò chơi gì đó, phải cõng nhau rồi ném bóng cho nhau. Một cụ già mặc áo dài vào thư viện đọc sách chữ Hán. Một đôi thanh niên nam nữ đèo nhau, bàn tay người con gái tìm bàn tay người con trai, hai bàn tay nắm lấy nhau, trên một chiếc xe đạp. Và em tôi, đứa em kém tôi 13 tuổi, nay cũng đã bước vào tuổi yêu đương. Nó cũng có bạn gái đến nhà, cũng thương nhớ, ngần ngại.
25/6
Cùng Nguyễn Khải nói về lớp trẻ :
- Nên đi, nên viết, đây đang là thời của các ông. Phải phiêu lưu.
- Đúng đây là cái chữ mà chúng tôi cũng đang tìm. Có những thằng như thằng Vũ nó đã nói nó sẽ vào vùng Giải phóng, nếu cần, nó sẽ vào thành. Tôi không dám làm việc đó. Nhưng anh cũng công nhận phiêu lưu nhất là sang phía bên kia chứ gì?
-... Ờ (lặng đi một chút). Này, nhưng mà mình đọc sách của nó nhiều đến nỗi tuy chưa sang bên kia, mình cũng có thể hình dung được rằng sống ở phía bên kia là không chịu nổi... Ví như mình phải có gan đạp lên đầu người khác cơ.
- Tôi cũng đã nói với Vũ như thế. Tôi bảo mỗi cá nhân là nhỏ bé quá. Và hình như thế này, những con người bình thường sống ở bên này là phải. Chỉ những con người tài năng thì mới có thể sống ở bên kia. mà tôi thì không có tài.
Cái chuyện Vũ nói với tôi trên là có thật.
Làm thế nào, không chừng, lại đánh nhau nữa chứ không vừa đâu, Vũ bảo.
Tôi cãi lại không, bây giờ có đánh nhau nữa cũng thế, mà không đánh nhau nữa cũng vậy. Chúng ta đã biến thành tù nhân vĩnh viễn của chiến tranh rồi.
Vũ lại bảo đi thôi. Bây giờ thì xã hội này không phải chỉ có một hai chỗ không ra sao, mà tất cả đã là không ra sao rồi.
Tôi phải giở con bài cuối cùng. Tất cả mọi chuyện tôi đều đồng ý với ông. Nhưng chỉ là do cảm tính. Phải sống mới biết. Ác cái cuộc sống không bao giờ cho phép người ta ướm thử cả.
Hữu Mai : Tôi có nghi ngờ hiện tượng, nhưng cái nguyên tắc, thì tôi vẫn công nhận. Ví như duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Nhàn: Nguyên tắc tôi cũng thấy có vấn đề. Duy vật biện chứng thì đúng, nhưng còn duy vật lịch sử? Có nhiều cái phản duy vật biện chứng. Những vấn đề quan hệ cá nhân - quần chúng, còn lúng túng lắm. Mà đây lại là chuyện con người đối mặt hàng ngày.
Con người sống sót, thành phố sống sót --Hà Nội th. 5/ 1973
Gần mười tháng sau chiến tranh. Thời gian đang qua là những hoàng hôn của một ngày nóng nực đến điên cuồng. Tôi biết rằng có thể phải qua đêm đen nữa, rồi ngày hôm sau yên lành mới tới.
Những người sống sót sau chiến tranh là những người phải sống đến hai ba cuộc đời. Phải sống cho mình, và phải sống cho những người đã chết. Phải sống bù vào những gì người chết vì không có mặt nên không làm được. Và vì ta còn đây nên phải oằn lưng gánh vác, trong khi chính mình cũng yếu đuối, mà lòng đầy dục vọng. Chiến tranh đẩy lùi xã hội lại, trong khi những yêu cầu ghê gớm của con người thì vồng mãi lên.
15/10
Một thanh niên như bạn tôi, Trần Đức Kiểm vừa đi bộ đội về. Tôi cảm thấy xa lạ với Kiểm, xa lạ ở hai điều này:
1/ Nó sống nhiều mặt hơn, lan man, dài rạc; tôi chỉ sống một hai mặt cho kỹ lưỡng.
2/ Nhưng nhìn chung, hoá ra nó lại là phía ảo tưởng của tôi. Tôi ráo riết, cuồng nhiệt trong khi đó nhiều thanh niên ít tuổi hơn tôi mà sống dềnh dàng quá. Họ lì ra, chậm trễ. Phải vì xã hội không hứa hẹn với họ một điều tốt đẹp nào?
Kiểm là hình ảnh của tôi ngày hôm qua, Kiểm là tất cả những gì văn học có thể mang lại cho những người thường (nền văn học này và những người thường này, cố nhiên!). Nhưng Kiểm cũng không thể giữ được cái đó, trong cuộc đời quá nhiều phiền tạp.
Nhàn: Về đây, ông thấy ai thông cảm với ông hơn cả.
Kiểm: Không có ai cả. Ông Niệm cũng nhạt. Tôi chỉ nhớ một lần tôi đi dự đám cưới, tự nhiên lại gặp một thằng bộ đội, hai đứa nói chuyện với nhau rất lâu.
20/10
Mùa đông đến sớm. Những buổi chiều Hà Nội âm u, mặt đất nhớp nháp vì mưa phùn, những nền đá hoa cũng nhớp nháp, một ít hơi dầu, những con ruồi mùa đông sinh ra kỳ quái mò mẫm đây đó. Cứ chìm đắm vào cái đám này xem, rồi người ta cũng không thể nào giẫy ra nổi, người ta cũng mù xám mà chết theo mất. Tôi nhớ những mùa đông ở nông thôn. Dẫu sao nó cũng còn những cánh đồng khoảng khoát. Dẫu sao nó còn sinh lực.
24/10
Hà Nội không thể đứng riêng rẽ. Những ngày vừa qua mưa ghê mưa gớm, chúng tôi không chỉ khổ vì đi lại, mà còn vì những nơi đang đói kém tràn tới. Trưa ra chỗ Hàng Lược, gặp bao nhiêu người gồng gánh lũ lượt. Tận Thanh Hoá ra. Theo tàu hoả tới ga Hàng Cỏ, rồi sang tàu điện lên đây, để ra bến xe Long Biên, ngược lên mạn Bắc Ninh Bắc Giang tìm cách kiếm ăn. Cái tiếng Thanh Hoá trộn không lẫn.
Duật kể ở Thanh Hoá, trẻ con cầm con gà giơ lên ngang đầu như dân Lào, miệng lắp bắp đổi gạo, đổi gạo. Một cậu khác kể, ngoài ga, thỉnh thoảng người ta tức cửa hàng cơm phở mậu dịch, bán cơm nắm, hai hào một nắm.
Có một cái gì như một thứ chia sẻ chung. Lại có một cái gì như Hà Nội bị xâm lấn, và điều đó là không thể khác.
2/11
Một kẻ mà mỗi buổi sáng lại xét lại bước đi của mình trong đời sống -- kẻ đó không phải là người biết sống, biết làm việc. Mà tôi đang là vậy.
Dẫu sao thì cuộc đời cũng vẫn phải đi thành vệt, vẫn phải có những nền nếp. Những nền nếp cần phải luôn luôn được kiểm tra lại, nhưng trước hết, anh phải cho nó thành những nền nếp, để biết mà tính.
Có một quy luật của tiền bạc, đối với người Việt Nam ở nước ngoài: càng xa nước, anh lại càng cảm thấy nước mình nghèo nước người ta giàu. Và anh lại càng tự cho phép nhặt nhạnh vơ vét, để làm lưng vốn khi quay về.
Nỗi sợ khi trở về nước, như một nỗi sợ phải xuống địa ngục. Do đó, mỗi đồng tiền anh cầm đều có thêm quyền lực đối với anh. Anh không đám động hệ tới nó.
Còn như là về công việc viết lách của bọn tôi. Không biết chừng càng đọc nước ngoài, anh càng cảm thấy xa lạ. Hoặc họ là văn học, hoặc mình là văn học. Họ thì đúng hơn.
Và càng làm việc, càng viết, anh càng cảm thấy là mình viết quá ít, càng hậm hụi viết thêm. Cái chuyện bất lực trong cuộc đời là một lẽ đương nhiên. Vấn đề không phải là anh vượt qua mọi sự bất lực đó. Vấn đề chỉ là cố vượt qua ở từng nơi, từng chỗ. Và có người vượt được nhiều, có người vượt được ít.
4/11
Một khía cạnh khốn khổ của Hà Nội. Nơi đây, sự năng động -- đặc tính tưởng chỉ có ở cái mới – thường khi nó lại rơi vào những người lạc hậu nhất.
Đi trên đường phố, hỏi ai nhếch nhác nhất, chắc phải kể những người đi xe bò. Nhưng về nhà, ai ăn sang nhất, lại có lẽ là những người xe bò. Ở nhà của mình, họ nghe nhạc, đón những đĩa hát mới nhất -- họ văn minh, lịch sự, theo như họ nghĩ.
Những ngày cuối năm 1973 này, Hà Nội vẫn là một sự chờ đợi. Mãi không thấy bắt đầu một cái gì mới. Mọi chuyện cứ dề dà, đến mức không chịu được.
Hà Nội là thành phố của rất nhiều con người cô đơn. Hà Nội là thành phố của những ý đồ hèn hạ, những cuộc mưu sinh rách nát. Và bây giờ Hà Nội là thành phố của cướp bóc, cướp giật ban ngày, dí dao vào mạng sườn, cướp xe đạp, cướp mũ cối của những người lính đi qua đường. Tại sao ư? Tại vì cả xã hội lâu nay chỉ khuyến khích người đi đánh nhau. Yêu nước, chiến đấu thì cũng là đánh nhau chứ còn là gì khác? Mà đánh nhau là đặc tính thường trực của người nghèo. Được xã hội thức tỉnh, sau thời gian lao ra hành động, đến lúc quay về nhìn vào mình, người ta nhận thấy mình vẫn nghèo quá. So với yêu cầu và hiểu biết thì nghèo khó lúc này là không được phép.
Mất mùa khoảng 50%. Nhiều tỉnh đói. Cuộc vật lộn sinh sống ở xã hội này đôi khi mang lại những màu sắc cổ điển nhất. Là vật lộn cho mỗi miếng ăn. Làm sao mà còn dám đòi hỏi cái nọ cái kia? Làm sao mà còn tính chuyện hưởng thụ.
Nhàn: Những người như tôi, có lẽ chỉ thích hợp với hoàn cảnh thời bình.
Lê Đường Phong: Thế bây giờ thời chiến hay thời bình?
Nhàn: Thời chiến chứ. Đúng hơn là thời loạn. Còn phải coi là thời loạn vài năm nữa, cho đến bao giờ xã hội bình ổn.
Đã rất nhiều lần, những người như tôi nghĩ đây là một thời đại suy vi. Đây là những ngày tàn của một thể chế không thể tự đổi mới. Tương lai nào sẽ đến với một xã hội già cỗi như thế này, ao tù nước đọng như thế này?
11/11
Rất nhiều tin cho biết có thể đánh nhau lại. Sao không đánh nhau được? Nó lấn, nó muốn hất mình đi.
Ng Khải:
-- Thời gian mà nó dò mình, là thời gian mới hoà bình. Nó chỉ sợ mình lật. Còn bây giờ, nó nắm vững những vùng nó kiểm soát. Lực lượng thứ ba anh nào thò ra, nó thịt ngay. Nên chỉ có cách im tho! Đến lúc nó không tha mình rồi. Lính mình lại ở trong rừng, tư tưởng sa sút. Cho nên nhất định là phải đánh thôi, đánh để lấy không khí mà sống.
Nhàn: Không một sự thất bại nào là có thể nửa vời.
Hầm hố Hà Nội lại có lệnh không được phá. Nhiều công trình xây dựng (nhiều?) lại phải tạm hoãn.
Đài địch đưa tin: quân số Bắc Việt ở trong kia đã vượt quá thời gian cuộc tiến công 1972.
Thế còn ngoài này?
Mọi người đều nói cái chính là công tác tổ chức, tức là cách quản lý. Xã hội hoá ra hỗn loạn, theo nghĩa không ai bảo được ai, không ai nói được ai, vô nguyên tắc, tuỳ tiện. Thế thì còn ra sao nữa?
Tôi nhớ tới những buổi tối. Những cái xe Volga, Moskovíts nối nhau trên đường Điện Biên Phủ, rồi kéo sang Hùng Vương theo ngả đường Thanh Niên lên Nghi Tàm Quảng Bá. Đoàn xe đen trùi trũi, vùn vụt lao tới, phóng ra những luồng ánh sáng bao phủ một vùng. Còn chung quanh, là bóng tối hung hãn, những chiếc xe đạp, những người đi bộ chìm trong bóng tối, họ có vụt sáng lên trong ánh đèn, thì lại vụt biến mất.
Ở đất nước này bây giờ chỉ có những lãnh tụ, và những người dân thường, hai bên như bóng tối và ánh sáng, cách nhau thăm thẳm nghìn trùng.
Và tôi nhớ tới những buổi các lãnh tụ từ Gia Lâm về, hoặc là họ đi nước ngoài hoặc là đón khách. Một chiếc xe Công an đi trước dọn dẹp. Rất nhiều mô tô phóng, để bảo vệ, mà cũng là để hù doạ. Không bao giờ có một sự tiếp xúc bình thường giữa những người cầm đầu nhà nước, và người dân thường. Tôi cứ nghĩ, không hiểu người ta có biết rằng chúng tôi không có lốp xe đạp mà đi, không có thuốc đánh răng -- hình như họ không thể biết được điều đó.
Một xã hội ngưng đọng, xô đẩy theo một thói quen vô nguyên tắc -- tôi chỉ còn nghĩ được có thế.
Một nghị quyết, như nghị quyết cán bộ, cuối cùng cũng phải tan tành khi húc đầu vào thực tế. Người ta giải thích nghị quyết đó đại khái là:
- Đổi mới trình độ chung, chứ không phải đổi mới cán bộ.
- Phấn đấu làm sao để cấp phó trẻ khoẻ hơn cấp trưởng; cấp dưới trẻ khoẻ hơn cấp trên.
Mọi người hiểu biết đều nói không làm sao có thể thay đổi được mọi chuyện, những sự thay đổi bé nhỏ bây giờ đều là vớ vẩn, cần có những sự thay đổi rất lớn.
Một người như tôi chẳng hạn, chưa bao giờ tôi thấy luôn phải giáp mặt với xã hội như lúc này. Bất cứ lúc nào, động vào một chuyện bé nhỏ gì đấy -- đi ra đường, chữa một cái xe, viết một bài báo -- cũng cảm thấy một không khí trì trệ, ngưng đọng bao quanh. Chẳng những cái việc mình đang làm đây vấp váp, mà mọi việc khác cũng vấp váp. Tôi đâm ra tự nhủ tình hình này không tiếp xúc với ai càng tốt. Giáp mặt với cái gì cũng buồn, gặp thêm bất cứ người lạ nào cũng buồn. Cả những việc vớ vẩn lặt vặt, việc gì cũng phải tự lo lấy. Không tìm được chỗ để tin cậy, bàn bạc. Thậm chí cả số phận của mình -- tất cả những cái đó, đều không thể gửi gấm vào tay những người khác.
Cuộc đời mỗi người thật ngắn, mỗi ngày qua đi, như là cái vệt số mệnh của mình lại phải cưa bớt đi một đoạn, vậy mà từng giây từng phút một thì thật dài. Thấy công việc phải làm nhiều quá, trongkhi tự mình chả làm được trò gì.
17/11
Nay là thời gian tách rời giữa trí tuệ và sự dũng cảm. Tôi biết đó là hai vũ khí mạnh nhất của con người. Vậy mà bây giờ ở nước tôi, cái trí tuệ lớn, tách rời cái dũng cảm lớn. Chỉ những người không trí tuệ, trí tuệ quanh quẩn, mới dũng cảm, được gọi là dũng cảm.
Chẳng lẽ ý nghĩa của đời sống, rút lại chỉ là ở chỗ nó cực khổ như vậy, mà mình cũng vượt nổi, mình cũng vẫn còn sống.
Nguyễn Khải mới nói mấy ý:
- Bây giờ mình đúng là kiểu một nước Nga sa hoàng. Nước Nga lúc ấy chỉ toàn những tướng tá, và hàng ngũ quan liêu, viên chức nhà nước. Ở ta bây giờ thì người nào cũng cán bộ. Cán bộ nhiều đến nỗi thành một mạng lưới đè trĩu người dân xuống. Thế mà tìm một ê kíp cán bộ dùng được thật rất khó. Nói chung là thiếu những người đáp ứng đúng nhu cầu của thực tiễn.
- Thế nhưng cái ông Đốt, một lần ông ấy nói ngược lại, thì cũng phải, mà nó cũng là một cách để châm biếm. Ông ấy bảo nói thế chứ người Nga rất giàu đầu óc thực tiễn. Bằng chứng là chúng ta, trong khi giải quyết các vấn đề của đời sống rất thiếu người có cá tính, và có những ý kiến riêng. Người có ý kiến riêng, có cá tính thì xin việc khó. Còn như thiếu hai cái đó, thì lắp ghép vào đâu cũng được. Xin được việc là hiểu thực tiễn. Không xin được việc là ngược lại.
--Thật là đáng sợ, đất nước của một sự tập trung chỉ huy. Khi nó mạnh, đúng, thì nó rất ghê, nhưng khi nó yếu, sai, thì nó phá tán kinh khủng không thể tưởng tượng được. Bây giờ nhìn vào đâu cũng thấy những kết luận giống nhau, mà kết luận lớn nhất thì có liên qua đến cả guồng máy.
Còn như những vấn đề chung, bây giờ đã ở vào cái mức độ mà có thể nói, là chúng ta phải căm giận, căm giận bởi không thể tưởng tượng nổi nó lại đổ đốn đến thế . Hồi trước, còn chế giễu, đùa bỡn, vì nó là ở trong phạm vi hẹp. Nay đã đi xa hơn nhiều.
22/11
Hôm qua Khải còn nói nhiều chuyện liên quan tới phẩm của ông và chuyện trong giới nói chung:
-- Cái này, tôi cũng nói riêng với ông. Là khi viết Chiến sĩ, thì mình cũng phải nghĩ rằng cái chuyện đánh nguỵ là chuyện vớ vẩn, mà cuộc chiến tranh này rồi sẽ không đi đến đâu. Cái còn lại may ra chỉ là kiếp luân lạc của con người. Và mình chỉ viết về cái ấy thôi.
Bây giờ, về cái món linh mục này , viết lúc này là phải lắm. Như ông vẫn nói đấy, chính mình là một thứ tôn giáo mới, cái mình lớn ấy, còn cái mình nhỏ, cái mình cá nhân, thì là một thứ linh mục, một thứ thầy cả còn gì. Cho nên, chọn viết lúc này là phải nhất.
Nhàn: Vấn đề ý thức bao giờ cũng là vấn đề quan trọng.
Khải: Không, cũng tuỳ từng lúc. Nhưng đúng là lúc này làm được.
... Nhưng mà kỳ này, tôi nghỉ cũng hơi lâu đấy. Năm 1973 này đúng là năm khủng hoảng của bản thân tôi, khủng hoảng về mọi mặt.
Lại nói chuyện Chế Lan Viên. Hôm nọ, lão ấy bảo tôi. Dẫu sao cũng phải lạc quan chứ! Nhưng như thế tức là lo rồi.Tôi mới lấy tôi ra nói, mà cũng là để chửi khéo lão ấy. Tôi mới bảo thế này. Như tôi với anh là cốt cán của nhà nước chứ gì? Thế nhưng mình không cẩn thận, lúc nào dân họ dần cho, thì cũng là dập mặt.
Tôi thấy tôi lắm lúc cũng lưu manh quá đi. Tôi nói ngược nói xuôi thế nào cũng được. Như vào xem một bộ phim ra, tôi chê. Quả thật phim chả ra gì. Nhưng chốc nữa, gặp ông Xuân Trường, tôi lại có thể bốc phét ngược lại. Được thế này đã là khá lắm. Thì anh tính phim Liên Xô nó làm một năm hàng trăm cuốn, sang đây toàn những cuốn chọn lọc, mà cũng có phải mình thích cả đâu. Việt Nam mình như thế này là khá lắm rồi... Suy cho cùng, trong cả hai trường hợp, tôi đều lưu manh cả.
Đời sống bây giờ, người nào cũng trở thành láo lếu như thế. Những gì phải trái không biết. Trên dưới quan hệ rất buồn cười. Như ông Thi đấy, lúc đánh cũng do trên (ông Hoàng Tùng đi đâu cũng bêu riếu -- Viết thế mà cũng đòi quần chúng hoan nghênh à?) mà bây giờ nâng lên cũng do trên (tạp chí Học tập vừa rồi lại viết bài bênh). Như thế thì thân phận mình biết ra sao, văn chương này ấy à, rồi lúc nào đó, mang mà vứt xó cả.
Chế Lan Viên, theo lời Khải kể, vừa có những phát hiện rất thú:
-- Lắm lúc mình ngồi mình thấy cũng lạ, rồi ý nghĩ của mình rơi vào quỹ đạo của Kafka cả. Như ngẫm xem cái cảnh Trung quốc bây giờ, nay người này lên, mai người khác lên, bắn nhau, giết nhau, biết ai là thủ phạm. Có phải đúng triết lý của Vụ án không? Còn như Hóa thân. Nhìn vào những gia đình có con em đi bộ đội chẳng hạn, hôm qua còn nguyên vẹn, hôm nay quay về què cụt ra một thằng khác, thế chẳng phải Hóa thân là gì? Hoặc như Lâu đài, cái xã hội nay cũng là lâu đài, chả biết ai là chủ.
Khi ông Hoàng Phủ Ngọc Tường ra Hà Nội, tôi và ông Bảo Định Giang ra sân bay đón, oai lắm, hôm sau ông Hà Huy Giáp mở tiệc khoản đãi cơ mà. Nhưng rồi dần dần, người ta quên cả. Bảo đi nước ngoài bao nhiêu lượt rồi, đoàn nào cũng trượt. Định đi Rumani thôi. Lại bảo đi theo đoàn nhà văn Á Phi. Gần đến ngày đi, có lệnh là hoãn. Hay là đi theo anh Thi sang Đức. Không, các anh ấy ở chiến trường ra, to lắm, để danh chính ngôn thuận đi đoàn miền Nam. Thế rồi bây giờ cũng chưa đi. Không biết chừng nay mai muốn về Quảng Trị cũng không có tiền ôtô mà về. Nhưng cẩn thận, giải thích thế nào, không về lại có tin “không được đi, chỉ vì chính trị”, thì là chết người ta, người ta không còn làm ăn gì được.
Nguyễn Khải tiếp tục:
-- Cái lão Chế ấy thông minh lắm. Nhưng mà sao lúc cần kiếm chác, vẫn cứ ăn nói linh tinh. Tôi phải bảo như chúng tôi, bây giờ bốn mươi tuổi đầu thỉnh thoảng mới nghĩ ra được ít điều ngược. Nghĩ xong thấy không hợp thời, nên đành để bụng. Tự nhủ nói ra hay không nói ra không quan trọng. Nhưng không nói cái đến trong đầu của mình thì thôi, chứ đừng nói ngược lại.
-Hà Nội cuối 1973- kỳ I
Nhật ký chiến tranh – phần tiếp sau bài
Vẻ đẹp tàn tạ -- Hà Nội tháng 6/1973
6/9
Từ Quảng Trị trở về Hà Nội. Cảm thấy như một con tàu đang đi, bị chững lại. Đấy, cái nơi mà ta ao ước trở về -- tức Hà Nội -- chỉ có như thế. Tôi vừa thấy đây là nơi chứa tất cả quá khứ tương lai của tôi, vừa đau xót sao nó chỉ có như thế, nó không phải là nơi ẩn náu cuối cùng hay sự an ủi vô tận như tôi nghĩ và tôi ao ước. Mà tôi vẫn sợ mất nó nữa....
Nhiều bạn bè, nhiều người chung quanh đi nước ngoài về. Người nào cũng chỉ nói tới những tủi nhục. Cùng với những tủi nhục ấy, họ mang về bao nhiêu là đồ đạc thì có giời mà biết. Nhưng thôi, hãy biết rằng quá nhiều tủi nhục! Một cảm giác cay đắng đè trĩu lên bất cứ một người nào tự trọng. Đoàn Công Tính sau khi đi Hungari công nhận với tôi, nói chung, những điều tôi nhận xét về nước ngoài là đúng. Ví như, ở Moskva, nơi Tính ghé qua, sứ quán Việt Nam là nơi duy nhất có ruồi!
Ng Khải: Chính phủ chúng ta ra ngoài thì khờ dại, mà mỗi chúng ta sống với nhau thì gian giảo. Trong khi người dân nước ngoài sống với nhau thì thật thà, mà chính phủ họ thì khôn ngoan rất mực!
Tôi vừa thích vừa ngại khi nghe người ta nói những nhận xét về truyền thống của dân tộc Việt Nam. Vì bây giờ, giáo dục cho mỗi người dân thường chúng ta sự thật thà, lòng yêu lao động, sự tin cậy lẫn nhau, và tinh thần vì việc chung, cũng đã rất khó.
Dạo này, tôi sinh ra cầu an. Tôi sợ phải nghe những chuyện trái tai. Nhiều người nhắc tôi chuyện nọ chuyện kia, tôi cứ gạt đi. Nghĩ bụng, tất cả là do chiến tranh. Sau này, người ta sẽ bảo đó là cuộc chiến tranh cuối cùng, cũng là cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử dân tộc. Nó kéo chúng ta lùi lại đến phần tư thế kỷ.
Xuân Sách: Sau mười mấy năm chiến đấu, điều rút lại là có hai nước Việt Nam- Đó là điều cả chúng ta lẫn nhiều nước khác trên thế giới cùng khẳng định.
Có nước nào như ở Việt Nam, lý tưởng là đồng nghĩa với ảo tưởng, mơ ước hão và thực tế là đồng nghĩa với thực dụng, hèn kém.
11/9
Bế tắc, ở đâu cũng thấy cái chữ ấy. Bế tắc tức là thiếu niềm tin, tức không biết hành động ra sao, tức là vô vọng. Không phải cứ chịu ngồi là tích lũy vốn sống được đâu. Tích lũy làm sao, khi không tính được cái gì là giá trị, cái gì không. Biết rằng từ nay trở đi chỉ có thể là còn xấu hơn, không thể khá được, nhưng vẫn hồi hộp không biết rồi mọi thứ sẽ xấu đến mức nào nữa.
Trở lại bình thường ư? Mất vài năm. Có khi hơn, hàng chục năm nữa.
Thì cứ lấy thân phận mình ra là đủ hiểu. Khốn khổ thân tôi, lúc thời thế đang lên, mọi người đang vui -- những năm 58 - 64 --, tôi sống trong nỗi bơ vơ không biết đặt hy vọng vào đâu. Bây giờ tôi vừa nhập được vào đời, thì đời sống lại đã xoay sang hướng tàn tạ. Tôi ngoi lên không kịp.
Nguyễn Khải:
-- Viết về cái gì bây giờ? Chỉ có cách trở lại những giá trị cơ bản. Đánh thức trong mỗi người bình thường cái tình cảm lương tri trong cuộc sống. Ví như lâu nay tuyên truyền ta cứ nói dân ta không biết sợ gì hết. Có phải thế không? Chúng ta không sợ B52, không sợ súng đạn, nhưng chúng ta sợ nhau. Người nọ ghen ghét thù hằn người kia, cấp dưới sợ cấp trên mà thực ra sợ quyền lực, sợ những giá trị kinh tế.
-- Dạo này chỉ trông ảnh thôi, thấy mấy ông to, ông nào ông ấy cũng có vẻ cha già dân tộc. Hết cả sáng suốt với nhạy bén thì làm sao hy vọng.
-- Năm 1957 đi Festival về qua Trung quốc, thấy cán bộ thanh niên nó trẻ lắm, bí thư thành đoàn 23 - 24, tiếp khách nước ngoài lại còn nói đùa nói bỡn. Không biết bao giờ người mình có được những bộ mặt sinh động như vậy.
Cái khó nhất bây giờ là công tác tổ chức - ông Vũ Cao nói.
Những gì là động lực của vận động lịch sử hôm qua, đến hôm nay thành ra lực cản. Sẽ là không đủ nếu chỉ nói đến vai trò của tuyên truyền chính trị. Chính hệ thống tổ chức đang đè nặng lên chúng ta, kìm hãm chúng ta! Không thay đổi những cái ấy đi, thỉ mọi lời kêu gọi chắc chỉ là chuyện vớ vẩn.
14/9
Vẫn bị ám ảnh vì chuyến đi Quảng Trị. Lần đầu tiên xa Hà Nội những 2 tháng, mà lại trong hoàn cảnh thời bình -- tôi cảm thấy đã xa lâu lắm.
Về đây mới có những buổi tối, tôi đi dưới những bóng cây. Cảm giác có một không gian trong lành quanh mình.
Sau cơn mưa, mọi thứ hằn rõ lên, nguyên vẹn trong cung cách của mình, và màn đêm giống như một đại dương lớn lao, vô tận. Sống trong cái đêm bao la này, người ta có thể yên tâm, đi lại, nghỉ ngơi, suy nghĩ.
Đặt bên cạnh những ban đêm u tối của các vùng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị… thì đêm Hà Nội đâm ra có cái vẻ rộn rã mà xưa nay tôi không nhận ra. Ngồi ở trong cái phòng con, nhiều buổi tôi lặng đi vì cuộc sống ở ngoài kia. Một đám 13-14 nối nhau trên đường, cùng reo vui vì một chuyện gì đó. Tiếng hai người bạn trẻ chuyện trò, có khi lại có cả tiếng một anh chàng nào nhiều khuya rất muộn còn huýt sáo.
Sau cơn mưa, trời đất trong hơn, mọi thứ tiếng động nghe vang hơn và ấm hơn, như ban ngày tôi nhìn thấy thì cả những bóng cây xanh hơn. Những ngày mưa qua đi, lá sấu lên xanh, nắng chiều làm cho màu xanh của lá ấm lên trong cái sắc vàng bền bỉ và vững chãi.
Kể ra, so với thời chiến , tức cuối 1972 về trước, bây giờ tôi đã có một Hà Nội khác, Hà Nội bình thường trở lại. Nhưng cũng lập tức, phải hiểu là chiến tranh theo sát Hà Nội nó không buông tha Hà Nội cho đến lúc này. Sự thanh lịch, hào hoa, tất cả đều còn cả, nhưng lại không phải là cái thời bình hôm qua, chỉ còn là cái gì nửa vời, pha tạp.
Có thể nói chung gì về tâm trạng mọi người sau tám tháng hoà bình?
Tôi ngồi tôi đọc lại một ít ý nghĩ, và thấy có lẽ vẫn có thể rút ra được một ít điều tốt đẹp nào đó, mà tôi chưa thấu. Đó trước tiên là một cái gì như mong mỏi -- mong mỏi hạnh phúc sẽ đến, mong mỏi đời sống ổn định.
Bài Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói chuyện thời loạncủa Vũ, tôi chép vào trong sổ đã lâu, thỉnh thoảng lại mang ra đọc lại, thích nhất là đoạn cuối:
Thôi nhé mai này tiễn Khánh đi
Đường xa bom phá tàu không về
Lênh đênh ai hát ngoài song cửa
Bài ca thanh bình đêm cũ
“Hoa lá quên giờ tàn
Mây trắng bay tìm đàn”
Ngày xưa yên ấm quá
Trẻ hát đồng dao trên phố
Con trai xách điếu đi cày
Con gái quang liềm gặt lúa
Bao giờ hết loạn người ơi
Thanh bình, cái chữ ấy, nghe êm đẹp quá, vì gắn với thanh bình, là đoàn tụ, là hy vọng.
Cái không thể mất được, là hy vọng.
26/9
Mợ Tâm: Nhà như nhà mợ (5 người lớn) ngày phải 3 đồng thức ăn mới đủ ăn. Lại mấy cơn bão dúi dụi.
Phương Thảo: Ngày trước, lương như Thảo là ăn thoải mái, tiêu cũng thoải mái. Bây giờ chỉ được phần ăn. Tiền chi cho công việc, những việc lương thiện, thật không có chỗ. Mật ít ruồi nhiều. Còn như ở nhà máy của Thảo ư? Sau mấy năm chiến tranh, đi về chỉ thấy như cũ. Với lại toàn thấy những chuyện không ra sao. Bây giờ người ta làm bậy theo kiểu mặt dày mày dạn, trâng tráo mà làm, không cần dấm dúi. Tức người ta không biết sợ là gì nữa.
Mấy năm vừa qua, cái chính là mình thấy giá trị của mình. Chả còn lạ gì những người hò hét, có khi họ lại không bằng những người mang tiếng công chức như mình.
Tôi hay nghĩ về những cái mất, cái còn của Hà Nội. Cái gì mất đi? Nhiều lắm, mất đi cả nhiều mặt tốt. Nhưng tôi cũng tin là vẫn còn lại một cái gì đó. Và nếu như một cái gì vừa mới biến động đã mất, thì cái của mất ấy, chắc cũng là vô duyên, và cũng chẳng đáng tiếc lắm.
Cái cuộc đời này là gì vậy? Tôi nghĩ thật thú vị, những cũng thật là xa lạ. Ngồi trên phòng nghe những âm thanh đường phố, cứ nao nao cả người. Muốn đi ra với đời. Nhưng làm sao để đi chơi được, tôi còn phải làm việc. Đi chơi với tôi là quá phung phí thời gian, tôi có nhiều đâu mà rải mành mành ra như vậy.
Và điều này, quan trọng nhất -- đôi khi đi chơi, như bị lấm bùn vào mặt, lại khó chịu thêm. Hà Nội còn nhếch nhác quá.
Người ta trả lại cho tôi một Hà Nội, nhưng nó không hoàn toàn như tôi mong muốn. Cũng như người ta chỉ cho tôi một tố chất thông minh vừa phải, một ít sự nhạy cảm nghệ sĩ vừa phải, để rồi làm một nghệ sĩ thì không nổi, và trở về với đời thường không xong.
Tôi không tiêu hoá được những cuộc chơi bời đang diễn ra chung quanh. Dạ dày tôi kém.
Tôi vẫn không cảm thấy tôi nhập được vào Hà Nội -- điều ấy có lúc ở phía Hà Nội, nhưng có lúc ở phía tôi, khổ chưa!
Thế còn những người như Thảo? Họ nghĩ sao về Hà Nội? Họ còn thuộc Hà Nội ngày xưa hơn cả tôi nữa. Tôi muốn hỏi vậy vì cảm thấy Thảo còn giữ được chút gì đó như là chất sang trọng quý phái. Có lẽ một phần vì Thảo không quan hệ rộng, Thảo không bị những xô đẩy của cuộc sống, Thảo không bị cả cuộc đời này hành hạ.
Thảo có gì trong sáng và nhuần nhị hơn so với Xuân Quỳnh -- dù cũng tự nhiên, thoải mái, và có thể nói như là dễ dàng với mọi người. Thảo đô thị hơn.
3/10
Dạo này hay cùng Tính đến chơi Thảo. Một ngôi biệt thự cũ trong ngõ Hạ Hồi nay đã tàn tạ khi phải sống theo nhịp thời chiến.
Mỗi lần gọi cổng, chúng tôi phải từ dưới đường réo lên. Bù lại, khi lọt vào cái phòng chật hẹp nhưng ngăn nắp của nữ chủ nhân, chúng tôi cảm thấy như chiến tranh đã ở phía ngoài.
Một lần, chúng tôi chứng kiến cảnh một cháu nhỏ của Thảo ba bốn tuổi gì đó ngồi chơi giữa phòng cô. Chơi truyền nước. Cháu cứ rót nước từ ấm ra bốn cái chén nhỏ, rồi lại rót ngược vào. Một niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt cháu khi nhận ra rằng mình không đánh rớt ra ngoài chút nước nào.
Hôm nay chúng tôi ngồi bàn về đợt B52 mười tháng trước. Thảo kể:
-- Nhớ mãi năm ngoái có chục hoa cúc lạ. Mua đúng hôm Hà Nội bị B52. Đẹp chưa từng có. Mười ngày sau về, lá héo, mà từng vồng cúc vẫn chắc, khoẻ.
Ngày nào mua hoa, là ngày vất vả nhất. Chạy khắp nơi, lên đầu Hàng Lược, ra chợ Đồng Xuân, rồi mới ra các cửa hàng mậu dịch. Bao nhiêu cũng mua.
Ngày đi học, bao giờ áo cũng phải là một ít nước hoa. Mẹ chiều, đi xa về, đun cho ít nước tắm, rồi giục đi chơi nhà các bạn. Cụ ông cũng chiều, cũng giục đi. Chính tính cụ ông rất giống tính Thảo. Cái tự do hôm nay, là điều sẽ không chịu đổi lấy một cái gì khác, trừ trường hợp thật tự nguyện.
Hoa sữa -- thứ hoa của đường phố. Hoa của trên cao, cho người ta đứng dưới mà cảm thấy cả một trời ướp hương. Hoa của mọi nhà, có khi phố mình không hoa những vẫn là có hoa từ những phố khác phảng phất đưa tới.
(còn tiếp)
- Vẻ đẹp tàn tạ -- Hà Nội tháng 6/1973
Hoa phượng. Hoa phượng đỏ, khắp thành phố ngoảnh về phía nào cũng thấy phượng. Phượng kết thành tấm thành mảng và dầy mãi lên như một niềm oan nghiệt.
Tại sao hoa phượng đỏ trong mùa hè, lại làm cho lòng cảm động. Bởi mùa hè nồng nóng thế, mà sao vẫn đẻ ra một thứ hoa đẹp như thế? Cuộc đời càng buồn, thì trời đất càng đẹp, nó là hiện thân cái câu mà chúng ta vẫn nói -- cuộc sống chỉ có một lần.
Quên làm sao được hoa phượng trong những buổi chiều. Anh có biết không, khi ấy mặt trời đã tắt, mọi thứ như tối sầm lại, vậy mà phượng vẫn sáng bừng lên. Màu đỏ của phượng bây giờ như một cái gì ma quái -- Làm sao lại có một thứ màu sắc kỳ dị như vậy nhỉ? Phượng lấy sắc đỏ ở đâu ra ? Hay phượng là cái phía bung ra bất cần của cuộc đời, phượng là một cái gì rất nghệ sĩ -- tôi nghĩ vậy.
Sao năm nào, trời đất cũng đẹp, và hình như càng trưởng thành, thì người ta càng thấy trời đất đẹp hơn.
Không phải tôi không yêu thiên nhiên. Tôi chỉ sợ thiên nhiên đánh thức trong tôi những khao khát sống. Thà cứ bắt tôi đứng giữa cuộc đời bình thường, những người đàn bà tham lam, những người đàn ông hèn hạ, những bông hoa tả tơi nhàu nát tôi lại còn thấy dễ chịu – khi ấy tôi cảm thấy cuộc sống là vừa phải. Đằng này lại là cái thiên nhiên của hoa phượng chói chang.
2/6
Nói với ĐCTính
Con người hiện đại khác con người trước kia có lẽ là ở chỗ nó uyển chuyển hơn. Nó biết đầu hàng. Nó biết chịu đựng. Nó không xa lánh mọi chuyện. Nó nhập cuộc, dù thấy đời nhầy nhụa nhớp nháp cũng nhập cuộc. Và sau tất cả những cay đắng ấy, nó vẫn tìm cách thể hiện mình.
Người nghệ sĩ mới tham gia vào những vấn đề chính trị rồi lại đứng tách ra để mà phán xét.
Trong lời giới thiệu những nhân vật như Voznhesenski, Evtouchenko... bao giờ cũng thấy người ta nói tới hai mặt ở họ: cái hay và cái dở, cái thật và cái giả, ánh sáng và bùn lầy!
Chúng tôi khổ vì chúng tôi là những thanh niên, tức những người ở vào cái thời gian tập làm chủ mình. Nếu chúng tôi đã lớn tuổi, đã yên bề vào một vị trí nào đó, thì chúng tôi sẽ cam chịu.
Đằng này không phải thế. Chúng tôi ở vào cái tuổi tự do. Nhưng ai dám bảo đã có đủ điều kiện để người ta sử dụng cái quyền đó một cách tốt nhất.
Nói với Kiểm
Những người lính bây giờ mang nhiều thói xấu mà cuộc sống chiến tranh cố kết lại trong họ. Họ đã mất đi khả năng tự nhận thức. Thành thử nếu chỉ đi với lính, anh không sao hiểu được họ.
Người ta chỉ có thể hiểu được người lính, khi đặt họ trong thế đối lập với hậu phương. Hậu phương sẽ làm nổi họ lên. Hậu phương là cội nguồn của mọi biến động thời chiến.
Một cái vé đi xem biểu diễn ca nhạc, một bữa ăn đủ chất? Không, những đòi hỏi bình thường thế, trong thời chiến là quá cao. Bây giờ chúng tôi không có nhà mà ở, không có đường mà đi. Nhìn vào lòng đường các nước khác xem. Tất cả ngăn nắp trật tự, mọi người có chỗ của mình. Lòng đường của chúng tôi bây giờ bụi bậm bẩn thỉu, người đi chen chúc, người nào cũng cố vượt lên trước. Đường là hình ảnh của xã hội.
Nghiêm Đa Văn kể ông Phạm Văn Đồng bảo ở Việt Nam bây giờ, không ai làm việc của mình cả. Người ta bắt thầy giáo và học trò làm đủ mọi việc, trừ việc dạy và học.
Nhận xét của kiều bào ở nước ngoài về: Ở miền Bắc làm việc tốt cũng như việc xấu. Làm cũng như không làm.
8/6
Tôi vừa kính phục những người khắc khoải và bất mãn, vừa ghê sợ. Bởi trái tim chịu được dày vò, đó là một trái tim phải lớn lắm, phải khỏe lắm. Tôi không có một trái tim như thế .
Níetzsche hay nói tới các siêu nhân nghĩa là những kẻ vượt lên con người thông thường. Shakespeare chẳng hạn.
Trong nhà viết kịch người Anh, người ta bắt gặp bao nhiêu cuộc đời bao nhiêu số phận. Ông là tổng số của những kẻ đó.
Những người bình thường đơn giản hơn nhiều.
Song đó là chuyện của các thế kỷ trước.
Nay là lúc ở con người bình thường cũng có không có bao nhiêu chuyện, bao nhiêu vấn đề được đặt ra. Thành thử lại có thể nói không có con người nào là bình thường. Con người nào cũng đặc biệt, rất đặc biệt.
Nói theo thuật ngữ văn học, tôi ngỡ phân tích cho kỹ lưỡng, con người bình thường nào cũng là con người điển hình, cũng mang những đặc điểm của giới anh ta, xã hội mà anh ta sống.
Như là một cá nhân, tôi quằn quại xem có thể làm thế nào, để tìm đường cho mình, thấy những lẽ phải của mình, để mình có thể yên tâm. Hầu như chả ai có thể giúp được tôi, tôi kinh sợ.
Hình như ở một quyển sách nào đó, có nói đến khái niệm Tôi, bây giờ,...
Một câu thơ nào đó, bắt đầu bằng mấy chữ: Tôi, bây giờ... Chỉ có thế mà thỉnh thoảng nghĩ lại, cứ giật mình. Đó là một cảm giác thường trực phải có. Tôi, bây giờ, cảm giác của thay đổi, cảm giác của một người từng trải, đã có những ê chề.
Anh đến xin việc một nơi, một người chủ Pháp sẽ hỏi: Anh có bằng cấp gì?
Một người chủ Đức: Anh biết những gì?
Một người chủ Mỹ: Anh có những kinh nghiệm gì?
.,.
Và ở Việt Nam hôm nay, những người phụ trách, những người mách mối hỏi: Anh có quen ai ở đấy không? Anh có phải là đảng viên không?
9/6
Nói với chị Yên, em không biết mua bán thế nào. Trông cái gì cũng thấy giả dối.
-- Đến tôi cũng không biết mua, chứ không phải chỉ có cậu. Mua cái gì cũng phải lâu, cũng phải chọn, nhìn qua loa đã mua là y như về vứt đi.
Cái tình trạng này bao trùm từ chuyện đời thường tới chuyện chính trị.
So sánh hai miền, không biết ai nói đầu tiên, ông Khải nhắc lại:
- Chúng ta từ chính nghĩa, hoá ra phi nghĩa. Nó ngược lại. Bây giờ không một thằng lính nào phía bên kia có mặc cảm là Việt gian, là nguỵ cả.
- Không biết chừng, lúc nào nó tuyên bố xây dựng socialism. Trước tiên, nó tuyên bố quan hệ với Trung quốc chẳng hạn...
Rồi có cái hư danh, nó cũng lấy nốt của mình, chứ không phải chỉ có cái thực đâu.
Không biết chừng, nó lại làm vẻ vang cho dân tộc Việt Nam.
...
Bàn về lòng tin, Nguyễn Kiên bảo giờ mình chỉ còn có cách là tin vào người dân thường. Tôi bác lại:
- Không, người dân thường bây giờ cũng bị tàn phá rồi tàn phá đến khủng khiếp. Không còn những thói quen cũ. Không còn lễ nghĩa phong kiến. Không còn sự tự trọng tối thiểu.
Làm sao khỏi chán bây giờ, ông Kiên nói tiếp và đây là câu nghe được này:
-- Riêng ở trường hợp tôi – tôi nghĩ đúng là nhiều lúc chỉ chán quá, đến mức, chán cả cái chán của mình, rồi thôi, -- bấy giờ mới lại làm việc được.
12/6
Tham gia việc vận tải ở miền Bắc có tới 2 vạn xe. Mà trong đó 47-53% xe chạy không.
Một tờ báo ở Sài Gòn nhận xét ở Hà Nội, dần dần, mọi chữ nghĩa mất hết ý nghĩa. Mọi kế hoạch bị lãng quên.
Xuân Sách:
-- Nhìn các nước, thấy mọi chuyện bên trên nó có thay đổi, nhưng ở dưới, người ta vẫn làm việc một cách bình thường
Còn ở mình, cứ dồn mọi người vào cả một đống. Con người bị đánh thức, việc gì cũng xông vào. Cả nước làm chính trị, cả nước dòm ngó xét nét nhau. Cho nên không ai dám tính chuyện thay đổi. Chỉ cần chững lại một chút, là tất cả nổ tung hết.
Để làm cho người ta sống bình thản, cái công cụ chủ yếu mà xã hội này sử dụng là làm cho người ta tê dại. Người ta khổ, nhưng không còn sáng suốt nhận ra sự khổ sở của mình. Tức là vẫn nghĩ rằng mình sung sướng, có lý luận như vậy. Mặc cảm làm chủ. Mặc cảm biết tất cả mọi điều. Khả năng tự lừa dối. Như người thủ dâm.
15/6
Lính ở chiến trường, vùng tiếp giáp, nói chuyện với lính địch, không ai bắt, mà cũng dối trá. Nói rằng ngoài Bắc sung sướng. Lính được về phép (bằng ô tô). Cho nó cả đồng hồ. Tết, cho nó ăn bánh chưng, rồi tự mình nhịn.
Hoàng Hưng: Thời mới hoà bình này là thời gian của những sự dò dẫm lẫn nhau. Trên dò dưới, dưới dò trên. Nghiêm Đa Văn bảo ở dưới, cứ chửi bới, cãi nhau lung tung trước cấp trên, nhưng sau đó, có miếng ăn, thì cả bọn trên cũng như dưới lại nịnh nọt nhau, xoa dịu nhau.
17/6
Khải: Trước kia mình cứ thắc mắc, sao mình không bằng nó. Bây giờ hiểu rồi, phong kiến phải thua tư bản, thì tất nhiên rồi. Bây giờ, mình cứ định bắt họ (dân Quảng Trị) trở lại vùng giải phóng, làm ăn kiểu phong kiến như mình, họ không chịu đâu.
Cũng như, ở ngoài này, cách mạng nó ăn vào mình rồi, bây giờ có quay trở lại những nền nếp cũ, chính mình cũng không chịu được.
Đỗ Chu: ở xã hội mình bây giờ, chỉ thấy cái xấu nó quá đường bệ, nó đàng hoàng đứng đó, không làm gì được.
Việt Nam --tức là miền Bắc bây giờ-- mang đủ những chứng xấu của chủ nghiã tư bản, cả phong kiến và cả chủ nghĩa xã hội .Thế giới bây giờ, tất cả hội lại, mang nhãn hiệu Việt Nam.
Có lẽ vào những ngày này, chiến tranh mới bộc lộ hết cái độc hại của nó. Học sinh học hành chểnh mảng ư ? Vì chiến tranh. Xã hội vô nguyên tắc ư? Vì chiến tranh.
Trẻ con được dậy không biết sợ là gì để sau này đi đánh nhau cho dễ.Nó học quá nhanh, nên bây giờ nó làm loạn.
10 năm nay, chúng ta chỉ nói với nhau một điều duy nhất là hãy đi đánh nhau -- Thế thì còn biết làm sao?
Tất cả chúng ta đã bị thương, trong cuộc chiến tranh vừa qua.
Bây giờ thì chúng ta mới hiểu chiến tranh là xa lạ với bản chất con người thế nào. Chiến tranh là đáng nguyền rủa. Định hướng chiến tranh trong những năm vừa qua đã trở thành quốc sách. Giờ nó trả thù. Mà không ai biết nó sẽ dai dẳng theo ta đến tận bao giờ.
19/6
Trẻ con chơi, hát
Rồng rồng rắn rắn
Bắt con rắn qua sông
Bắt con rồng qua bể
Bắt con kiến lẻ loi
Này người bạn tôi ơi
Bắt lấy thằng đuôi chó.
20/6
Đến nhanh quá cái vẻ sớm tàn của hoa phượng.
Ngày nào, cách đây, độ một tháng, hoa phượng nở. Bấy giờ phượng vồng lên những cánh mập mạp. Có một lần, tôi thấy một đứa trẻ cầm một cành phượng, nặng trĩu những hoa là hoa. Thế mà, chưa đầy một tháng phượng đã héo tàn rã rượi, chỉ còn bám hờ trên những cành lá xanh. Màu đỏ thẫm lại. Cả những con người những sự việc cũng thế , chóng nở, chóng tàn, mà khi tàn thì day dứt mãi.
23/6
Sao mà cuộc đời đẹp một cách đáng sợ, đẹp đến làm ta bàng hoàng. Bão xa ở đâu không biết, đây chúng tôi đang sống những ngày hè tuyệt vời. Thành phố như một vùng ven biển. Nắng rất trong. Gió rất nhẹ nhưng gió lúc nào cũng có. Gió mơn man trên da người. Gió như sự có mặt của hạnh phúc.
... Đi đến đâu, tôi cũng gặp những biểu tượng của lòng ham sống. Người tràn ra đường, những cô gái rất đẹp, một cô bé nào cái cúc áo trên cùng không cài để ngỏ he hé cái cổ măng tơ. Những em bé lôi nhau ra đường chơi bóng, chơi một thứ trò chơi gì đó, phải cõng nhau rồi ném bóng cho nhau. Một cụ già mặc áo dài vào thư viện đọc sách chữ Hán. Một đôi thanh niên nam nữ đèo nhau, bàn tay người con gái tìm bàn tay người con trai, hai bàn tay nắm lấy nhau, trên một chiếc xe đạp. Và em tôi, đứa em kém tôi 13 tuổi, nay cũng đã bước vào tuổi yêu đương. Nó cũng có bạn gái đến nhà, cũng thương nhớ, ngần ngại.
25/6
Cùng Nguyễn Khải nói về lớp trẻ :
- Nên đi, nên viết, đây đang là thời của các ông. Phải phiêu lưu.
- Đúng đây là cái chữ mà chúng tôi cũng đang tìm. Có những thằng như thằng Vũ nó đã nói nó sẽ vào vùng Giải phóng, nếu cần, nó sẽ vào thành. Tôi không dám làm việc đó. Nhưng anh cũng công nhận phiêu lưu nhất là sang phía bên kia chứ gì?
-... Ờ (lặng đi một chút). Này, nhưng mà mình đọc sách của nó nhiều đến nỗi tuy chưa sang bên kia, mình cũng có thể hình dung được rằng sống ở phía bên kia là không chịu nổi... Ví như mình phải có gan đạp lên đầu người khác cơ.
- Tôi cũng đã nói với Vũ như thế. Tôi bảo mỗi cá nhân là nhỏ bé quá. Và hình như thế này, những con người bình thường sống ở bên này là phải. Chỉ những con người tài năng thì mới có thể sống ở bên kia. mà tôi thì không có tài.
Cái chuyện Vũ nói với tôi trên là có thật.
Làm thế nào, không chừng, lại đánh nhau nữa chứ không vừa đâu, Vũ bảo.
Tôi cãi lại không, bây giờ có đánh nhau nữa cũng thế, mà không đánh nhau nữa cũng vậy. Chúng ta đã biến thành tù nhân vĩnh viễn của chiến tranh rồi.
Vũ lại bảo đi thôi. Bây giờ thì xã hội này không phải chỉ có một hai chỗ không ra sao, mà tất cả đã là không ra sao rồi.
Tôi phải giở con bài cuối cùng. Tất cả mọi chuyện tôi đều đồng ý với ông. Nhưng chỉ là do cảm tính. Phải sống mới biết. Ác cái cuộc sống không bao giờ cho phép người ta ướm thử cả.
Hữu Mai : Tôi có nghi ngờ hiện tượng, nhưng cái nguyên tắc, thì tôi vẫn công nhận. Ví như duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Nhàn: Nguyên tắc tôi cũng thấy có vấn đề. Duy vật biện chứng thì đúng, nhưng còn duy vật lịch sử? Có nhiều cái phản duy vật biện chứng. Những vấn đề quan hệ cá nhân - quần chúng, còn lúng túng lắm. Mà đây lại là chuyện con người đối mặt hàng ngày.
Con người sống sót, thành phố sống sót --Hà Nội th. 5/ 1973
Tiếp tục Nhật ký chiến tranh
2/5
Nhớ lại cái phía đời thường của ngày lễ hôm qua. Công việc được bàn nhiều ở các khu phố là lấp nốt những hố cá nhân. Một mặt thì ở đó chứa chất tất cả những gì cần phải đổ đi, than xỉ, bùn cống. Mặt khác, cái miệng cống vẫn quẩn lên một lớp váng như một thứ ký ức không chịu tan biến đi cho. Dĩ vãng có mặt trên mỗi đoạn đường chúng ta đi tới.
Là người công dân Hà Nội lúc này nghĩa là gì? Là người thợ may vá chữa quần áo. Là người thợ thiếc nhặt từng ống bơ cũ về làm lại cái đèn, cái ấm đun nước. Là mấy chị phe phẩy lo chạy hàng phục vụ đám dân Hà thành từ nơi sơ tán trở về. Là… cô giáo cũ đi thu nhặt lại đám học sinh.... Họ đang là những nhân vật chủ yếu của thành phố!
Người ta mang về các vườn hoa một ít dụng cụ đồ chơi. Và đây quả thật là những “quả nhỏ” của chiến tranh: những cái khung đồ chơi bằng sắt trông nặng, chắc. Những lớp sơn tạm bợ. Tiếng khung sắt động vào mặt đất xi măng nghe rào rạo một thứ âm thanh xa lạ.
Hà Nội thích nói tới sự tài hoa vì Hà Nội chỉ có cái bề ngoài. Hà Nội dũng cảm vì Hà Nội nghèo khổ. Hà Nội từng trải, lì lợm, vì Hà Nội sống sát mặt đất. Đã bao nhiêu lần, tôi nghe được những người khác nhau nói về Hà Nội. Có những chuyện vui nhất lẫn những chuyện buồn nhất. Và tôi hiểu cộng những cái đó lại, mới là Hà Nội.
Sấu rụng. Lá sấu rơi như mưa, phủ trên mặt đất một lớp dày, người đi lá sấu rụng trên vai, đứa trẻ ngửng mặt hứng lấy chiếc lá không cho nó kịp rơi xuống đất.
Cành sấu không bao giờ trơ lá. Lá sấu già mới rụng đi, lá sấu non đã nẩy, và trong một sớm một chiều, sấu trên đường vẫn xanh um.
Với chúng ta, những sắc phượng đỏ thường gắn liền với thời khắc buổi trưa. Những trưa hè, màu đỏ như lửa loá lên trong nắng, -- tưởng như nắng quá, ngọn cây là một chất dễ cháy, đã bốc lên thành ngọn lửa. Nhưng lúc này phượng hiện ra kinh sợ đối với tôi bởi hình như là một thứ phượng khác. Buổi chiều phố vắng. Bóng tối mùa hè vốn đã rất ngập ngừng, vẫn cứ dâng lên, dâng lên. Không khí trong suốt tối dần. Bóng tối ập cả vào mặt người. Trong cái giờ khắc ấy, tôi ngước lên nhìn hàng phượng, thấy màu đỏ đã thẫm lại, tím lại, mà nó vẫn cứ không chịu lẫn đi với màu xanh đã trở thành nhợt nhạt của lá, màu nâu đã hết bản sắc của cành. Tôi nghĩ đến tình yêu của tôi. Tôi lại nghĩ đến những vết thương rơm máu của xã hội này. Tất cả đều là hiện thực.
3/5
Tiếng trẻ con hát lảnh lót bài Oan ta mê la . Âm thanh đi lại uốn lượn trên vòm trời, như một tiếng cầu kinh của những tín đồ trung thành (và cái mà nó gợi theo, đấy là chủ nghĩa tự do, một thứ tự do vô dụng nên lang thang vô mục đích).
Những thanh niên nhộn nhạo, ầm ĩ trên đường. Cái quần loe họ mặc, cái áo màu nghệ thối họ khoác trên người. Những chuyến đi suốt đêm, có thể là gần suốt đêm bên nhau. Những trận cười thâu đêm, những tình yêu nồng cháy. Hoà bình là thế, hoà bình phải có những cái ấy, dù đây là một nền hoà bình có thể đổ sập bất cứ lúc nào.
4/5
Thế nào là dấu hiệu của một xã hội suy vi? Người ta, những người dân thường, không ai muốn làm ăn cẩn thận. Còn lại, chỉ những người tốt là khổ.
Đã rõ là xã hội không thể, không làm được cái việc tối thiểu là động viên mọi người làm việc. Mọi người cứ nhớn nhác chờ một cái gì đó. Chờ một may mắn từ trên trời xuống, chờ một phép màu. Chỉ có làm việc ( mà ta gọi là sản xuất) thì không ai nghĩ tới.
Một điểm nữa làm tôi kinh sợ. Tôi nhận ra xã hội đang như một dòng họ thoái hoá. Những lớp người sau ngày càng còi cọc đi, so với những lớp người trước. Khôn ranh hơn, năng động hơn mà hoá ra hư hỏng thực sự. Tôi nhớ tới hai chữ đồng huyết. Đây là một khái niệm sinh vật học: những người khác giới cùng dòng máu phối hợp với nhau, không tạo ra những biến dị tốt -- mà chỉ làm sinh thể thoái hoá dần.
(Có lẽ trong công tác tư tưởng, cũng có những vấn đề tương tự. Tư tưởng, khi không được tiếp xúc với những tư tưởng khác, sinh ra thoái hoá, luẩn quẩn! Và đấy là hiện tượng thấy ở xã hội hôm nay. Chúng tôi có biết được gì ngoài mình?)
Xã hội nào cũng có những luật pháp ghi thành văn bản, và những tập tục, thói quen, thậm chí cả những thể chế, những luật pháp quy định những điều được phép và không được phép không ghi thành văn bản.
Xã hội của chúng ta hiện nay, luật pháp thì ngặt, ảo tưởng, hoá ra vớ vẩn, không thực hiện được. Thói quen thì tự do hoành hành, không bị một ràng buộc gì hết. Người ta cho phép mình làm mọi điều trong bóng tối.
... Sao tự nhiên, tôi khao khát mọi nền nếp của xã hội trước 1945, một thứ pháp điển mới tới với xã hội VN từ hồi Tây phương xâm nhập, mà sao quá quen thuộc như tự ngàn đời đã vậy. Những căn nhà yên tĩnh, những khu phố sạch sẽ, những người làm việc với niềm tin lâu dài. Những bài giảng về văn học cổ điển. Phút nhẩn nha khi đọc một áng thơ cổ. Bức tranh treo trên tường.
Lâu nay, nặng về tàn phá mà không xây dựng, nặng về ồn ào ngày lễ, mà không có cái sâu xa của ngày thường. Trong nhà trường trẻ con biết đến cả những tên tuổi văn học rất là vớ vẩn, nhưng không biết những giá trị lớn.
Đất nước này, người ta chỉ nói tới lịch sử khi cần che giấu cái trống rỗng hiện tại.
Lâu nay, nặng về tàn phá mà không xây dựng, nặng về ồn ào ngày lễ, mà không có cái sâu xa của ngày thường. Trong nhà trường trẻ con biết đến cả những tên tuổi văn học rất là vớ vẩn, nhưng không biết những giá trị lớn.
Đất nước này, người ta chỉ nói tới lịch sử khi cần che giấu cái trống rỗng hiện tại.
Việt Anh: Tôi cảm thấy thời gian sau này người ta đã bắt đầu chú ý tài năng.
Nhàn: Chưa bao giờ, chưa bao giờ. Ngay cái khái niệm tài năng cho chính xác chưa đặt ra, thì làm sao mà chú ý được.
VA: Tôi cảm thấy cái hướng nghịch của học sinh bây giờ là phá phách.
N: Nói phá phách còn nhẹ. Nó là cái mầm của mất lòng tin, mất phương hướng.
Bao giờ cho cuộc sống ổn định lại! Tôi vốn nghiêng về sự bùng phát, sự phá cách chứ không phải rập khuôn theo mẫu. Tôi vốn nghĩ những chuyện hôm nay là chưa từng có trong lịch sử, vậy phải khai mở lấy con đường của mình. Nhưng phải biết cái cũ, kể cả những sự phá cách cũ, thì người ta mới có điểm tựa, nghĩ về cái mới.
9/5
Lắm lúc, có cảm tưởng muốn phát khóc vì sự nhảm nhí của cuộc đời. Cuộc sống mang lại cho tôi biết bao nhiêu tin không hay.
- Hai thứ trưởng cãi nhau, người ta xây cho 2 ông một bức tường mất 8000 đồng, để khỏi nhìn mặt nhau.
- Nhà tôi dột nát.....Khi nghe nói có thể mua được ít lá, giấy dầu, bố tôi đang ốm nhỏm ngay dậy.
-Chung quanh nhà, nuôi vịt, nắng bốc lên mùi hôi thối, không sao chịu nổi.
-Thằng em tôi làm phép phân tích ra thừa số nguyên tố : 100 = 97 + 3. Nó không cần gì cả, kể cả cần học giỏi...
- Những người như ông Doãn Trung nhà này xe máy, chụp ảnh, hống hách như vua con, bảo làm có cái đơn vào Đảng cũng lên nước.
- Xuân Quỳnh đến chỗ tôi, như một người phát ngộ ( “Thế ông thấy tôi như thế nào, tốt hay xấu? Thế ông còn định bao giờ? Vài năm nữa, lâu lắm. Tôi cũng chỉ cần một người biết làm việc, và giúp cho tôi làm việc “).
Tôi lại có ý nghĩ như ba năm về trước: Ona đến chỗ tôi, đâu chỉ cần có lời khuyên? Nhưng ngoài lời khuyên, tôi làm gì có bất cứ một thứ gì khác!
Nhưng không, tôi không thể dễ dãi được. Vì đây là một người bạn. (Hãy nhớ mối quan hệ với C: Q tìm đến C. trong những ngày bị ném bom, ba lần đi, ba lần quay trở lại. Q đón đường hàng tháng trời liền, xin tha lỗi !Tội nghiệp cho một nữ sĩ nổi tiếng !)
Một mục nhỏ trên báo Quân đội nhân dân đưa tin: bao nhiêu tiền một viên đạn, mỗi lần chữa một cái máy, tốn bao nhiêu. Cạnh đó trên báo Nhân Dân là một bài nói về những thứ hàng giả ở thị trường. Thuốc lá giả, chè giả, mì chính giả, ruốc giả. Chỉ cần đặt hai bài báo đó cạnh nhau đã thấy khá đầy đủ, một bài nói về những nguyên nhân, và một mô tả hiện trạng xã hội hiện nay!
Và, tôi nghĩ, phải bổ sung những tin tức giả, do báo chí đưa ra. Sai số thực tế, so với sai số cho phép gấp 300 lần.
12/5
Đối thoại với Nhị Ca:
Vì bình tĩnh bây giờ chính là dũng cảm. Tôi đang viết về chiến tranh và người lính. Nói cho đúng – chứ không phải văn hoa --, có lẽ vẫn phải nói tới sự dũng cảm. Người lính phải dũng cảm lắm, một thứ dũng cảm bắt buộc, khốn nạn khốn khổ. Dũng cảm trong đánh nhau, mà cũng là dũng cảm trong những cách sống, bảo đảm sự sống, một thứ dũng cảm điềm đạm. Mà khốn khổ, mà cay đắng, ngay trong những dũng cảm ấy.
... Và thật là kỳ lạ, lúc này đây, cách tốt nhất để có thể làm việc được, không biết chừng lại là ngơi nghỉ, chơi bời, phóng túng. Hãy xông ra với mọi người. Hãy tẻ nhạt, suồng sã, vớ vẩn như mọi người. Hãy tự phá mình đi, trước nay chẳng phải tôi đã tự phá một phần, và những bước phá của tôi về sau sẽ là phải dựa hẳn vào đó, để phá tiếp. Trong mỗi người, cái cần phải tàn phá cũng đang vô tận.
10/5
Xuân Sách kể: ở Hải Phòng, một đám thương binh, tức mình với một tay nói láo, đến phá nhà, quăng đồ đạc ra đường để đốt.
Xuân Sách kể: ở Hải Phòng, một đám thương binh, tức mình với một tay nói láo, đến phá nhà, quăng đồ đạc ra đường để đốt.
Ở Hà Nội, CA đánh nhầm diễn viên đoàn kịch Nam Bộ - tưởng là lưu manh. Xong rồi lại lăn tay họ để làm cung giả mạo. Hiện họ ngừng biểu diễn và doạ không giải quyết việc này, toàn thể chi bộ sẽ xin ra Đảng.
...
Tôi đang sống trong một xã hội thế nào đây, một xã hội nhọc nhằn, chó má, giả dối, con người như con vật. Chiến tranh, người ta đã bòn rút tất cả sức lực xã hội này cho chiến tranh, đã kéo những người tốt đi đánh nhau, người tốt chết cả để bây giờ xã hội chỉ còn đống bã, không còn ai tử tế, không còn những ý tưởng tử tế. Sao lại đến nông nỗi này, tôi không hiểu sao cả, nhưng quả đã đến lúc đối diện với một tình trạng kiệt sức, một sự sụp đổ. Chỉ còn máu, nước mắt, sự giả dối, và sự nghèo nàn... là bền mãi. Rồi sự nghèo nàn kinh niên lại bắt đầu từ tất cả những chuyện trên mà ra.
12/5
Đối thoại với Nhị Ca:
- Tôi căm thù cái xã hội này, nó đẻ ra cái lối sống này.
- Không được nói bậy thế. Anh được bao nhiệu lợi lộc, anh còn căm thù ai.
- Tôi căm thù những kẻ có quyền, họ lái xã hội đi theo ý họ.
- Chính anh là kẻ có quyền.
- Tôi chỉ là một kẻ đi làm thuê.
- Không, chính anh là trong hàng ngũ chủ nhân. Anh tưởng không biết bao nhiêu thằng nó đang chửi anh đấy à? Từ một thằng móc cống ở đất Thụy Khuê, vậy mà bây giờ ung dung giữa Hà Nội đủ điện nước, một mình một phòng riêng, muốn làm gì thì làm.
- Tôi là người lao động lương thiện.
- Bao nhiêu người khác cũng lương thiện. Anh không được nói anh lương thiện. Nói như thế là kiêu căng. Người khác là cứt cả đấy chắc.
-...
- Anh hãy sống như mọi người, hãy lấy vợ đi.
Đây là một cuộc tranh luận điển hình của tôi.
Tôi bị mắng mà câm họng không cãi lại được.
...
Tôi sẽ tìm ra cho mình một triết lý sống như thế nào bây giờ ? Tôi không thể sống như mọi người khác. Bao bạn tôi sau khi bươu đầu sứt trán xoay ra phá phách. Biết cuộc đời, để mà làm mọi chuyện giống nó, cũng đủ thói xấu như chính nó. Tôi, so với họ, quá nhiều chất học trò, không thể liều lĩnh như vậy được. Tôi cứ chăm chỉ làm việc một cách hiền lành. Còn tương lai, còn cái mà mình sẽ có ?Nó đen ngòm ra đấy còn gì. Tôi giãy giụa mà không thoát ! Cảm thấy bị hoàn cảnh chi phối trên từng bước một.
...
Chiến tranh, -- lại chỉ có thể đổ cho chiến tranh, dù không hẳn là như thế. Tôi đi trên đường, những cái hố cá nhân tròn trặn vẫn đổ đầy rác, miệng vênh lên một tí trên mặt đường. Bao nhiêu đứa trẻ sẽ còn vấp trên miệng hố đó. Giá có ai làm cái việc là cưa cho nó bằng bặn mặt đường cũ, hẳn đỡ nhiều tai nạn. Nhưng lấy ai làm việc ấy, và bây giờ thì cũng chẳng ai nghĩ làm việc ấy.
...
“ Tôi thấy bà phải bình tĩnh. Tập đứng bên bờ của những cái vô tận để mà bình tĩnh !” Tôi đã nói với Xuân Quỳnh như vậy. Cái quay cuồng dục vọng của ona...không phải là chuyện riêng tư. Có thể không gắn gì với chiến tranh, nhưng không hiểu sao, tôi vẫn thấy nó là hôm nay. Hoàn cảnh đã làm cho mỗi người cuống quýt cả lên.
Hôm nay, từ nay về sau, với bản thân tôi, lúc nào bao giờ tôi cũng chỉ có cái thứ đó để nói với mình -- bình tĩnh.
Vì bình tĩnh bây giờ chính là dũng cảm. Tôi đang viết về chiến tranh và người lính. Nói cho đúng – chứ không phải văn hoa --, có lẽ vẫn phải nói tới sự dũng cảm. Người lính phải dũng cảm lắm, một thứ dũng cảm bắt buộc, khốn nạn khốn khổ. Dũng cảm trong đánh nhau, mà cũng là dũng cảm trong những cách sống, bảo đảm sự sống, một thứ dũng cảm điềm đạm. Mà khốn khổ, mà cay đắng, ngay trong những dũng cảm ấy.
16/5
Hình như những gánh nặng hôm nay và tương lai sẽ không rơi vào một loại người mà chúng ta hết lời ca ngợi: người lính. Những người ở tiền phương trở về sẽ thanh thản vô hạn -- họ đã xong việc.
Còn chúng tôi, những người hôm nay ở hậu phương, chúng tôi nợ nần bao nhiêu người , cả người chết lẫn người sống. Chúng tôi là nạn nhân của chiến tranh. Chúng tôi không phải là những thương binh cụ thể, nhưng tận trong tâm lý lại dính thương thật. Chúng tôi không trở thành anh hùng, chúng tôi chỉ là những người bình thường, và đó là một điều ai cũng cảm thấy mà ở chế độ này, người ta không nói-- làm anh hùng e dễ hơn làm những người bình thường.
18/5
Với tôi, điều quan trọng nhất mà tôi tự dặn trong những ngày đó là nhẫn nhục cắn răng chịu đựng, làm một người bình thường. Tôi đã thấy những người ở chiến trường trở về, như Nguyễn Khoa Điềm rối rít, vội vã. Tôi đã từng thấy chính mình bạn bè mình ở Hà Nội quay cuồng truy đuổi nhau, cốt hơn nhau một bánh xe đạp, một chỗ xếp hàng. Chúng ta đang bị nung nóng hết cả lên, người chảy hết cả ra. Chúng ta đầy những mưu đồ thấp hèn và ảo tưởng giả tạo. Khủng khiếp quá! Sao chúng ta không thể sống bình thường, tin cậy, như những người khác trên thế giới này. Không, trong cái hướng này, chúng ta càng vội vã, quay cuồng, hý hửng, nhăn nhở cười cợt với nhau, chúng ta càng chết.
25/5
Gặp lại Thảo, như gặp một cái xác, người rất yếu, ốm, buồn rũ ra. Riêng đối với tôi, đó là một cái xác của tôi ngày hôm qua. Chúng tôi đều là những nạn nhân của chiến tranh .
Chiến tranh làm chúng tôi thay đổi. Chỉ từ chiến tranh, tôi mới hay ghê sợ những gì tinh tế, trong sáng, tốt nhưng buồn tẻ. Tôi đành chủ động lảng tránh.
Bởi vậy, khi chia tay, tôi phải nói với Thảo những điều lâu nay tôi thường nghĩ, và cũng chỉ có một điều duy nhất: phải sống, quyết sống. Sống đơn độc , nhưng là sống mạnh mẽ và hiện đại.
31/5
Không được nghĩ nhiều tới quá khứ. Mà cách tốt nhất để quên quá khứ là bận bịu vào hiện tại. Hãy sống, sống mãnh liệt, cả quyết. Làm nhanh, viết nhanh, đi nhanh. Làm để không kịp hối hận nữa, vì lúc nào cũng có cái để hối hận theo, lúc nào cũng có cái để ngượng nghịu. Cẩn nhất là lúc nào cũng quay cuồng trong chuyển động, dù cái chuyển động đó không để làm gì cả.
Liệu tôi có làm thế được không? Liệu tôi có biết hết được những gì tôi có ở trong cuộc sống? Liệu tôi có làm được một ít việc, trong nửa cuối cuộc đời tẻ nhạt của mình?
Nhìn về những đồng nghiệp Sài Gòn, họ cũng sống nhênh nhang, cực nhọc. Cũng luôn luôn lo lắng kiếm tiền, xoay xoả để sống. Cũng luôn luôn hối hận, và tiếp tục hối hận nữa. Con người trong chiến tranh ở đâu cũng thế.
... Và thật là kỳ lạ, lúc này đây, cách tốt nhất để có thể làm việc được, không biết chừng lại là ngơi nghỉ, chơi bời, phóng túng. Hãy xông ra với mọi người. Hãy tẻ nhạt, suồng sã, vớ vẩn như mọi người. Hãy tự phá mình đi, trước nay chẳng phải tôi đã tự phá một phần, và những bước phá của tôi về sau sẽ là phải dựa hẳn vào đó, để phá tiếp. Trong mỗi người, cái cần phải tàn phá cũng đang vô tận.
-Con người sống sót, thành phố sống sót --Hà Nội th. 5/ 1973 VƯƠNG-TRÍ-NHÀN
-Hà Nội tháng ba 1973 (2) VƯƠNG-TRÍ-NHÀN
16/3
Đặc tính thấy rõ nhất của những ngày đầu hoà bình này là gì? Là mất phương hướng. Ít ra với tôi là vậy. Có lúc nghe nói có hoà bình thật. Ta có lực lượng mạnh mẽ để gìn giữ hoà bình. Có lúc lại nghe phổ biến khác. Chính thức mà cũng mập mờ, không biết là chiến tranh hay hoà bình. Hoặc hoà bình chỉ chắc ở miền Bắc. Còn ở miền Nam, vẫn là có thể thế nọ, có thể thế kia.
Ngày càng có tin bên kia “phá hoại hiệp định”. Có nhận định vừa rồi mình hữu khuynh, để mất nhiều. Bây giờ có thể là đánh, đánh rồi tuyên truyền cẩn thận.
Lại có tiếng xì xào nó nện mình một, mình nện nó mười, chứ mình có vừa đâu?!
Rồi thì thủ đô miền Nam ở đâu? Có tin ở Đông Hà. Nhưng lại có tin ở tận xa hơn, trong B2. Cái thị trấn nghe nói nhiều nhất là Lộc Ninh. Chợ Lộc Ninh lèo tèo vài ba người.
Việc trao trả tù binh Mỹ lúc nghe nói gián đoạn, lúc thì lại làm bình thường, chả có ai giải thích rõ ràng.
Có cả tin cán bộ trong kia của mình bị đánh. Ở Huế dân đánh cán bộ thực sự? Chả là trong ngày lễ cầu siêu, cầu siêu cho những người bị chết đầu năm 1968. Lúc ấy chỉ cần ai lỡ mồm nói ngược, với lại xúi bẩy một chút thôi, là chết với người ta ngay.
(Nhân đây nói một chuyện cũ của HUế. Nhiều người nghe được từ phía bên kia, đều bảo rằng năm 1968 là năm ta tàn sát dân khá nặng. Một chỉ huy là ông Thân Trọng Một đã có lần thú nhận...
Và phải chăng, đó là một sự thất bại, một sự vỡ mộng, một bi kịch? Những người lính chờ mãi. Lúc vào, không thấy dân giống như sách vở từng nói. Gặp vài phản ứng trái chiều. Thế là bắn hết, giết hết. Sản phẩm của một quan niệm nông dân. Phía bên kia, không ai biết cho điều ấy.)
Tiếp tục câu chuyện cho mỗi người vay 500 đồng. Dân thích nhưng sợ (lãi nhiều quá!). Còn trên lại sợ rằng làm như thế thì có vẻ thay đổi quá.
Chữ nghĩa dùng trên báo cũng bị dày vò.
Ng Khải nghe đâu về kể bữa nọ, trên phê bình rồi đấy. Ai cho các anh dùng chữ giai đoạn mới. Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc vẫn thế. Nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam vẫn thế. Chưa có nghị quyết trung ương, chưa có đại hội đảng. Ai cho các anh tự tiện dùng chữ giai đoạn mới?
Nhưng rồi lại nghe nói, các cụ bảo thôi cũng được, nói giai đoạn mới, tức là nói hoà bình, cho anh em phấn khởi.
Lần đầu tiên, sĩ quan mình vào Sài Gòn, và sĩ quan bên kia ra Hà Nội. Bên kia rất trẻ. Ở Sài Gòn ta cho đi toàn những ông già. Lắm lúc cứ thấy sợ.
Nhưng có phải khôn hết đâu. Ngay cả những người thông minh nhất của báo chí, cũng có những chỗ hớ. Ví như ông Thành Tín. Ông này có lần lẫn Nguyễn Văn Thiệu với Ngô Đình Diệm.
Phương Tây đưa tin: Trung tá Bùi Tín bắt tay một lính nguỵ. Nó không bắt. Ông này tương một câu, thế anh không hoà hợp dân tộc à?
Những buổi “tiễn” Mỹ về nước, là một dịp để cho các nhà báo của ta có dịp được gặp rất rộng rãi cả người của phía bên kia. Khốn nạn, lâu nay không ai dám hé răng hỏi và trả lời họ câu gì. Bây giờ thở ra toàn những câu ngớ ngẩn.
- Ra đây, thấy B52 nó đánh Hà Nội anh có đau xót không?
- Vâng, chúng tôi cũng đau xót, như đau xót khi thấy các ông pháo kích vào Huế. Còn như B52, chúng tôi đã gặp nhiều cán binh Bắc Việt hồi chánh, và họ đều bảo họ rất sợ B52.
Sĩ quan Sài Gòn người gốc Hà Nội ra miền Bắc được đi thăm thành phố cũ. Ra cái vẻ để cho họ tự do mà. Đi đâu, có một cô gái đi cùng.
- Ở Hà Nội có nhiều vô tuyến truyền hình không?
- Có
- Sao không thấy ăng ten?
- Vô tuyến truyền hình không cần ăng ten.
- Có nhiều làn sóng không?
- Nhiều lắm.
Tay sĩ quan kia, mang câu chuyện này về, đăng công khai trên báo Sài Gòn.
Dạo quanh Hà Nội, đám sĩ quan kia chẳng về nhà, toàn đi chụp ảnh. Ra công viên họ chụp một dãy ghế đá vắng người. “Đây Hà Nội chủ nhật” Và chụp một bức tường mà rất nhiều người Hà Nội đều biết, với dòng chú thích: “Bức tường này, gần 20 năm trước, chúng ta rời Hà Nội ra đi, giờ vẫn như vậy”.
Những ai cứ nghĩ những ngày hoà bình đầu tiên, sẽ là những ngày có những thay đổi lớn, thì nhầm hết.
Trong Sài Gòn, nó cho công nhân thêm lương. Còn như ở ngoài này, cũng có nhiều người viết thư đến báo Nhân Dân đề nghị tăng lương, đề nghị khao dân, theo như tục lệ ở các nước thắng trận. Nhưng lấy tiền đâu?
Tôi cảm thấy mọi người dân Hà Nội hôm qua chiến tranh thông minh nhanh nhảu, hôm nay như chết khiếp đi, khi quay về làm ăn bình thường.
Phương Thảo cho biết: Giá thịt lợn tăng, thịt ngon giá ngoài đến hơn 1 đồng 1 lạng. Cá đắt...Nhưng kinh nhất là nhiều người dân sinh ra lễ bái. Đến các nhà máy, thấy công nhân đánh bạc nhiều. Không có việc làm. Ngoài phố, nhiều đám trẻ tụ tập ăn cướp, trêu gái. Xã hội ly loạn. Còn như đi đâu, cũng nghe những chuyện bắt người. Mấy ông cốp khác quan điểm lần lượt bị tóm. Liệu nó sẽ báo hiệu chuyện gì?
22/3
Ông Mạn: Trẻ con, phá cửa cơ quan vào xem truyền hình ghê quá.
Khải: Bây giờ cơ quan nào chẳng bị người ta phá cổng? Cơ quan nào chẳng như nhà hoang! Ai muốn làm gì thì làm.
Ông Chu Văn kể chuyện các tỉnh uỷ bây giờ nó nói dối cứ xoen xoét. Hôm nọ Nam Hà vừa điện lên,Trung ương lấy thịt đi, không có Nam Hà thừa thịt không biết làm gì cả. Trong khi ấy, thì cỡ như Chu Văn từ tết đến giờ chỉ ăn lạc thối.
-Thế Nam Định bây giờ kiến thiết thế nào?
- Nam Định kiến thiết đến nỗi ngày hè, tôi đi ra đường, phải đi ủng.
Theo Ng Khải những lão như Thợ Rèn ở báo Nhân Dân nói xấu chế độ mới ghê. Nói một câu bằng mình nói cả năm.
- Này ông Khải, giải thưởng văn học thế nào?
- Chả có gì.
- Bây giờ chỉ có hành động. Hôm nọ một vị ở trên đến báoNhân Dân. Vị cũng to, cổ cồn, bụng phệ, khuyên nhủ vài điều, pha trò nhạt. Đang nói, thì trời mưa, cứ thế là các phóng viên, biên tập viên chạy vù vù cả. Thì ra cánh đàn ông chạy đi cất xe đạp, các bà thì chạy đi cất mì phơi trên gác. Nhà chật quá, phải mang mì đến cơ quan, mỗi người đèo một bì đến, rồi lại còn ăn cắp ăn nẩy của nhau, cãi nhau loạn xị.
Khải nói tiếp:
-- Ông Thi giải thích thế này thì đúng này. Ông ấy bảo sức hấp dẫn của trong ấy, là sức hấp dẫn của chủ nghĩa tư bản. Còn của mình ngoài này, cái nào ra chủ nghĩa xã hội không kể, còn ngoài ra thì đặc phong kiến, người ta không thích được là phải.
...
Mới hai tháng sau hoà bình mà đời sống đã khác đi nhiều lắm. Có một sự gì đó mà cả những người dân thường cũng có thể cảm thấy thành ra không thể bỏ qua được.
Một tù binh nói một cách thận trọng, dường như đã suy nghĩ kỹ lắm:
-- Chúng tôi hiểu miền Bắc là một xã hội hình thức nặng nề. Quyền lực chỉ tập hợp vào TW. Mọi sinh hoạt dân chủ không có.
Rõ ràng, lần này, mình phải đối phó với kẻ thù khác hẳn. Nó chuẩn bị còn kỹ hơn cả mình nữa. Thế cho nên rồi không hiểu tình hình xoay chuyển đến tận đâu.
Còn như ở dưới, những cuộc đời thường đã hoá nhênh nhang nhoè nhoẹt như cháo vữa. Người ta tự nguỵ tạo trong bao nhiêu thứ áo giáp, bao nhiêu thứ định kiến. Tất cả là để đối phó với chung quanh.
--Chính là các anh cần phải được giải phóng, chứ không thể giải phóng ai hết ( lời Phan Nhật Nam)
Một bài báo mọi người truyền tay
in trong Tài liệu tham khảo
Từ chủ nghĩa anh hùng tới chủ nghĩa quan liêu
Một người ngoại quốc đi trên đất này, như bước trên sa mạc. Không có mối liên quan nào giữa anh ta và những người chung quanh. Việc giữ bí mật ở BV đã tạo ra một thói quen kỳ lạ. Không ai hiểu việc của ai, đến một người trong cơ quan cũng không sao hiểu nổi công việc cơ quan anh ta của nhà nước mà anh ta phục vụ.
Người Bắc Việt đã tập vui buồn theo chỉ thị cấp trên. Hầu hết người dân thủ đô là công nhân, là cán bộ. Tất cả tạo thành một bộ máy quan liêu kén đặc lại, trong đó, mỗi người chỉ một nhiệm vụ là tự bảo vệ.
Hai tháng đã qua kể từ ngày hoà bình lập lại. Bao nhiêu vấn đề đang đặt ra với đất nước nơi đây nhưng tôi chắc không có ai có thể trả lời được cả.
Một người lãnh đạo mà tôi không tiện nói tên, đã nói với tôi một cách thoả mãn đến làm tôi khó chịu.
... Trong bài báo của ông Lê Duẩn, có rất nhiều điểm tiến bộ. Nhưng công thức kết hợp cũ -- mới chứng tỏ họ vẫn không nhích lên đến nửa bước.
... Lại nói về nếp làm việc ở đây. Người ta làm việc một cách tuỳ tiện. Ví như đối với người nước ngoài, mất bao nhiêu thời gian trong cái việc đi chơi bời, du lịch, thực tế là để chờ CA điều tra và xin chỉ thị cấp trên. Có lần, tôi đã phải dự một buổi biểu diễn văn công bắt buộc như thế này: Trước khi tan buổi chiêu đãi 5 phút người ta bảo là có văn công. Và thế là tôi được đưa đi, lẫn vào giữa dòng người, phải ngồi xem, hỏng hết cả kế hoạch công việc của tôi.
- Tôi rời đất nước này, với ý nghĩ rằng mặc dù những hy sinh lớn của dân tộc Việt Nam, đất nước này sẽ rơi vào tình trạng buồn tẻ, nhạt nhẽo mà không ai chú ý tới, nó cũng không xứng với vị trí đáng lẽ miền Bắc Việt Nam được hưởng. Trong những năm qua, những người lãnh đạo ở miền Bắc cũng tích luỹ được một ít vốn liếng: sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Nhưng họ đang tiêu phá những cái đó một cách bừa bãi, và chẳng bao lâu lại trở nên tay trắng.
Jean - Claude Pomonti
Một bài khác , có mấy ý:
Nhớ một câu danh ngôn, những ngày hoà bình đầu tiên, những ngày sau chiến tranh, bao giờ người ta cũng cần sự báo thù. Cần một người có tính đàn bà, để làm những chuyện dơ dáy nhất.
Ngày đưa tin Mỹ bị bắt cuối cùng về nước, nét mặt người ở lại không thấy một thoáng căm thù. Thế là thế nào? Có phải đúng như lâu nay chính quyền Bắc Việt vẫn nói, căm thù là tình cảm mãnh liệt nhất của con người nơi đây? Hay người dân ở đây đã bắt đầu hiểu rằng tai vạ không phải do những người Hoa kỳ kia gây ra.
Một bài thơ E. Evtouchenko ( chỉ truyền tay chứ không đăng báo)
Ở đây, tất cả phân phối theo phiếu, trừ sự hài hước.
Ở đây, tất cả phân phối theo phiếu, trừ sự tự hào
Đất nước này tự hào về sự nghèo nàn của mình
Ước gì bằng sự tự hào đó, may ra họ có thể ra khỏi sự nghèo nàn thật sự của họ.
Mưa rất lâu, rất lâu. Nhưng còn một thứ lâu hơn nữa, là chiến tranh
Ở đây, chiến tranh đã làm tất cả những gì mà ở nơi khác, chiến tranh đã làm
Ở đây 1/3 phụ nữ goá chồng.
Ở đây, những cây lúa nhón chân lên
Như là những đứa trẻ con nhón chân lên
Để nhìn vào những máy bay-- xem máy bay mình có lên không
Ở đây, người ta lại hát
Em ơi đợi anh về
Đợi anh hoài em nhé
Tôi nhìn bức tượng nghìn mắt nghìn tay
Nhưng nghìn tay kia không đủ để lau nước mắt
Nghìn mắt kia không đủ để nhìn thấy máy bay.
Vẫn biết rằng chiến thắng rồi sẽ đến
Nhưng nó có xứng với những hy sinh của người ta?
Tháng Tư nhìn lại: Nội chiến hay không nội chiến?
Tháng tư lại đến, nó gợi lại một thời khắc lịch sử khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Một cuộc chiến mà cách định danh nó không hề đơn giản. Chúng ta cùng lắng nghe những ý kiến từ nhiều góc cạnh khác nhau về cuộc chiến ấy.
- SỐ PHẬN HAI NGƯỜI LÍNH (Bùi Văn Bồng).