Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

Lấy đất dân nghèo chia cho cán bộ

-Lấy đất dân nghèo chia cho cán bộTP - Lấy đất của dân, nhưng không bồi thường, rồi đem đất ấy… chia cho cán bộ xã dựng nhà, và để người giàu chiếm, là chuyện đang xảy ra ở trung tâm xã Phong Lạc (Trần Văn Thời, Cà Mau).

Ngôi nhà ông Võ Việt Trung, Phó chủ tịch UBND xã Phong Lạc, vừa được xây sửa trong dãy nhà cán bộ xây trên đất ông Nguyễn Văn Việt .
Một gia đình ly tán
Sau khi đại gia đình bị thu hồi đất, bà Nguyễn Thị Minh, 42 tuổi, ở ấp Rạch Bần, xã Phong Lạc, nói: “Vợ chồng tôi không biết đi đâu, đành thuê miếng đất, cất nhà ở nuôi 4 đứa con và 1 đứa cháu con của thằng em trai”. Bà Minh thuê miếng đất giá 1 triệu đồng/năm, bà cho biết năm tới sẽ tăng lên 1,5 triệu đồng. Chồng bà đi làm thuê, còn bà Minh làm bánh để các con bưng bán quanh xóm.
Gia đình bà Minh vốn có nhiều đất tại xã. Cha của bà Minh là ông Nguyễn Văn Việt, cho đến năm 2001 còn có hơn 1,3 ha đất tại ấp Rạch Bần, do ông Việt và các con khai phá, canh tác từ lâu. Nhưng cũng năm 2001, theo trình bày của bà Minh, đất của ông Việt bị UBND huyện Trần Văn Thời ra quyết định thu hồi mà không bồi thường, để giao cho UBND xã Phong Lạc quản lý, sử dụng vào mục đích công cộng.
Phần đất thu hồi đó, năm 2006, UBND xã Phong Lạc chia cho 14 cán bộ, mỗi người hơn 100 m2, để cất nhà ở. Những cán bộ này đều đã có nhà đất ở chỗ khác. Ông Nguyễn Hữu Hạnh, Chủ tịch UBND xã, có nhà đất ở ấp Rạch Bần B, vừa bán cho người khác. Ông Huỳnh Văn Điểm, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Chủ tịch MTTQVN xã, có nhà đất ở ấp Tân Thành. Ông Võ Việt Trung, Phó chủ tịch UBND xã, vừa được ông Phạm Ngọc Mừng (một người giàu trong xã) xây sửa nhà cửa khang trang.
Phần đất của ông Việt còn lại được xây dựng Trạm y tế, Hội Miếu, Bưu điện xã Phong Lạc. Khi thấy đất của mình bị lấy không bồi thường mà đem chia cho cán bộ nên năm 2007, bà Trần Thị Sương, vợ ông Việt, xông ra ngăn cản xây dựng Bưu điện xã Phong Lạc. Xô xát xảy ra, bà Sương cùng 11 người là anh chị em bị phạt tù với tội “chống người thi hành công vụ”. Ông Việt khiếu nại, không được giải quyết, nay đã chết.
Vợ chồng ông Việt có 9 người con, từ đó ly tán, đi làm thuê khắp nơi. Cô con gái là bà Minh lấy ông Trần Quốc Sắc ở lại quê nhà nhưng không còn đất sinh sống.
Ông Sắc kể, năm 2009, vợ chồng ông mua một căn nhà nhỏ thì sau đó cũng bị giải tỏa, chỉ được hỗ trợ hơn 20 triệu đồng mà không được tái định cư, nên phải đi thuê đất ở.
Bà Minh xoa đầu con trai út Trần Tấn Đạt nói: “Năm đó, tôi sinh thằng này, chưa kịp di dời, xã cho bơm cát ngập nhà, ôm mùng chiếu lên trụ sở UBND xã Phong Lạc tá túc. Nền nhà này nằm trong phần đất ông Phạm Ngọc Mừng bao chiếm hiện nay”.
Người dân mất đất cất nhà tạm bên đường
Người dân mất đất cất nhà tạm bên đường.
Hỗn quân, hỗn quan
Giữa năm 2012, vợ chồng ông Phạm Ngọc Mừng đổ cột bê tông, xây tường gạch, bơm cát san lấp hơn 2.400 m2 đất tại trung tâm xã Phong Lạc. Đây là khu đất công do xã quản lý. 
Nguyên do ông Mừng chiếm đất công, năm 1986, ông Mừng cùng với 3 người khác mượn đất, xây dựng tổ hợp lò đường. Nhưng khi đi vào hoạt động, lò đường gây cháy nhà dân, làm ăn thua lỗ ngưng hoạt động, để lại lò đường hoang phế. Nay ông Mừng “tái chiếm” khu đất mà ông Mừng cho rằng ông này đáng được hưởng.
Chủ tịch UBND xã Nguyễn Hữu Hạnh cho biết, năm 2001, vợ chồng ông Mừng có đơn xin lại phần đất xây dựng lò đường nhưng huyện Trần Văn Thời và tỉnh Cà Mau không chấp nhận. Để có khu đất công này, chính quyền đã tốn tiền tỷ bồi thường và tổ chức san lấp mặt bằng.
Năm 2003, nhà của vợ chồng bà Minh bị thu hồi, xã bơm cát ngập, phải bỏ chạy nằm trong khu đất này. Chủ tịch Hạnh giải thích: “Vợ chồng ông Mừng có bỏ tiền xây sửa cơ quan, nhà của cán bộ, và ông Mừng bao chiếm khu đất để … xây sân bóng cho cán bộ đá chơi”(?).
Một số người dân “noi gương” ông Mừng, quay lại chiếm đất bị thu hồi trước đây. Góa phụ Trần Thị Tuyết, 84 tuổi, ở ấp Rạch Bần đã cho đắp nền, dựng nhà ngay trên con đường dẫn vào trung tâm xã Phong Lạc.
Bà Tuyết nói: “Đất vợ chồng tôi khai phá từ năm 1950, rộng hơn 1 ha. Năm 1984, xã Phong Lạc mượn một phần xây dựng trạm y tế rồi sau đó, lấy đất xây trường học mà không bồi thường gì cả. Nay còn phần đất trống khoảng 2.000 m2, tôi dựng nhà cho 14 đứa con, chứ không chiếm đất của ai hết. Tôi không chiếm đất công như ông Mừng”.
NGUYỄN TIẾN HƯNG
-Quan hệ giữa quỹ đất và quyền lực tại Việt Nam (Nguyễn Văn Huy)
“…Thế giới ngày nay đã thay đổi, đất không còn là biểu tượng của quyền lực hay sự giàu có để qua đó biểu dương uy quyền. Quyền lực ngày nay nằm trong trí tuệ và khả năng sáng tạo…”

Sau hơn một tháng hội họp và thảo luận, từ ngày 28/10 đến 29/11/2013, kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII Việt Nam đã xem xét và thông qua nhiều nội dung quan trọng như Hiến pháp sửa đổi, Luật đất đai (sửa đổi), Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi) và Luật tiếp công dân… cùng những báo cáo và quyết định của chính phủ liên quan đến việc thực hiện ngân sách nhà nước năm 2013, dự toán ngân sách nhà nước năm 2014, những kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2011-2015) và nhiều vấn đề quan trọng khác.
Về Luật Đất đai sửa đổi, trong cuộc thảo luận lần cuối ngày 22/11/2013 Quốc hội đã giữ nguyên những quy định về quyền sở hữu đất đai như các Điều 53 và Điều 54 của Hiến pháp sửa đổi 2013 đã qui định. Sự kiện này cho thấy chính quyền cộng sản Việt Nam vẫn giữ nguyên quan điểm về quyền lực đã có từ một thời xa xưa, nghĩa là làm chủ đất đai làm làm chủ xã hội, mà ngày nay không còn giá trị thực dụng.
Mối tương quan giữa đất và quyền lực
Từ khi con người biết kết hợp theo nếp sống cộng đồng, đất thường là biểu tượng quyền lực của những vị thủ lãnh. Lãnh thổ kiểm soát càng rộng, uy quyền của vị thủ lãnh càng lớn. Lịch sử thế giới đã từng nhắc tới sức mạnh và quyền lực những nhân vật nổi tiếng như Alexandre đại đế (Alexandre the Great), Thành Cát Tư Hã (Genghis Khan), hay những đế quốc đã từng một thời chiếm cứ một phần lãnh thổ của thế giới như La Mã, Tây Ban Nha, Anh, Pháp…
Quan niệm về quyền lực dựa trên quyền sở hữu đất đai trước kia có những lý do của nó: đất là nguồn sống nuôi dưỡng con người và làm giàu quốc gia. Làm chủ đất là làm chủ nguồn tài nguyên do đất sản xuất ra và đồng thời làm chủ luôn cả những cộng đồng dân cư sinh sống dựa vào đất. Đất chính vì thế phải được hiểu bao gồm cả sông ngòi, rừng núi, ruộng đồng lẫn các nguồn tài nguyên dưới lòng đất. Ngày nay quan niệm làm chủ đất còn mở rộng ra biển cả, vì dưới lòng các đại dương vẫn là đất.
Làm sao biến đất thành quyền lực của người lãnh đạo? Từ thời xa xưa, đất được coi là một phương tiện sản xuất tạo ra nguồn sống và sự phồn vinh cho xã hội. Ai làm chủ được nhiều vùng đất, người đó trở thành vị bá chủ của thiên hạ. Ước vọng làm bá chủ thiên hạ đã là nguyên nhân của những cuộc chiến tranh tàn khốc trong lịch sử nhân loại, mà mục tiêu chủ yếu là thu tóm càng nhiều tài sản của thiên hạ vào tay mình để gia tăng thêm quyền lực. Những người chiếm giữ nhiều đất đai thường là đối tượng đánh phá của những người có cùng tham vọng làm bá chủ khác. Việc làm đầu tiên của bất cứ vị bá chủ mới nào là loại trừ uy quyền những chủ đất trước đó. Để duy trì quyền lực của mình, nhà vua hay vị bá chủ mới thường ban phát bổng lộc bằng đất đai cho những dòng vương tôn, những trung thần và cận thần; những người này thay mặt nhà vua cai quản lãnh địa được giao phó và trong vài trường hợp trở thành lãnh chúa địa phương, hay sứ quân.
Biến đất thành phương tiện của quyền lực như thế nào? Đây là một phạm trù hoàn toàn kinh tế. Sự giàu mạnh của một cá nhân hay một quốc gia tùy thuộc vào nguồn lợi thu vào. Trên phương diện vĩ mô, nguồn lợi của quốc gia là thuế. Thuế có thể đánh vào bất cứ hàng hóa nào do con người sản xuất ra từ đất; tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, sản phẩm tư bản và dịch vụ, sức lao động… Nhưng đất không phải là một sản phẩm do con người sản xuất ra, nó là một tài nguyên có sẵn trong thiên nhiên, một phương tiện sản xuất mà con người chỉ có thể thu lợi qua cách hình thức cho thuê quyền sử dụng đất.
Cho đến trước khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, đất vẫn là nguồn lợi duy nhất các các thế lực cầm quyền. Cách thu lợi phổ biến nhất địa tô, tức giá thuê đất. Địa tô có thể là biểu hiện bằng tiền, hay bằng hàng hóa quy thành tiền. Tùy theo chính sách địa tô, do những chủ đất áp đặt, mà hạnh phúc hay nhọc nhằn của người dân được quyết định. Dưới các chế độ hung bạo, dân chúng phải đóng địa tô cao để tài trợ các cuộc chiến tranh bành trướng hay để xây dựng đền đài của giới vương quyền, tỷ lệ địa tô có khi hơn 80% tổng sản lượng của cải làm ra. Đây là đầu mối của những cuộc chiến tranh hay cách mạng lật đổ và thay thế các chế độ cầm quyền đương hành.
Việt Nam cũng không thoát khỏi qui luật đó. Dân chúng khốn khổ dưới các vị vua hung bạo và hạnh phúc với những vị vua nhân từ. Lịch sử Việt Nam thường nhắc những năm mất mùa, những nhà vua nhân đạo thường miễn tô cho dân trong nhiều năm để phục hồi lại khả năng sản xuất, qua đó tranh thủ được sự mến mộ của nhân dân. Nhưng những cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực và lật đổ các chế độ đương quyền trong suốt dòng lịch sử Việt Nam thường xuất phát từ động cơ đất đai, nhất là dưới thời thực dân Pháp. Cho đến giữa thế kỷ 20 Việt Nam vẫn còn là một quốc gia nông nghiệp nên mọi chính sách cầm quyền đều dựa trên quyền sở hữu đất đai, từ các thời phong kiến đến hết thời thuộc địa Pháp. Mặc dù vậy, do thúc đẩy bời hai ý thức hệ đối chọi nhau, hai miền Nam Bắc Việt Nam sau năm 1954 đã thi hành những chính sách cải cách ruộng đất khác nhau, nhưng về thực chất vẫn không ra khỏi quan niệm làm chủ đất là làm chủ xã hội.
Các chính sách cải cách ruộng đất tại Việt Nam sau 1950
Trong thời gian từ 1945 đến 1954, chính quyền thực dân Pháp rất suy yếu những vẫn không từ bỏ tham vọng chiếm giữ ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia) làm thuộc địa. Một phần dân chúng Việt Nam tuy rất chán ghét chế độ thực dân Pháp nhưng cũng không dám đi theo phong trào Việt Minh vì lo sợ ý thức hệ cộng sản mà tổ chức muốn thi hành.
Chương trình Công Tác Xã Hội dưới thời Bảo Đại (1949-1954)
Để đối phó với tình thế mới, chính quyền thuộc địa Pháp sử dụng "giải pháp" Bảo Đại và thành lập thêm nhiều xứ Thượng tự trị thân Pháp khác để cô lập phong trào Việt Minh trên chính trường và cắt đứt mọi chỗ dựa trên các vùng rừng núi với người thiểu số.
Để loại trừ sự xâm nhập của phong trào Việt Minh trên các vùng trung nguyên Bắc Phần, tháng 7-1947 Pháp thành lập Xứ Thượng Nam Đông Dương do đặc ủy Gigal cai trị. Tháng 3-1948, Liên Bang Thái Mường (gồm Lai Châu, Sơn La và Lào Cai) được thành lập cùng với Xứ Thổ (gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) và Xứ Nùng tại Quảng Ninh. Trên những lãnh thổ mới này, người sắc tộc hoàn toàn làm chủ những vùng đất đai do họ canh tác. Thỏa ước ngày 8-3-1949 công nhận quốc gia Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp, theo đó những sắc dân "không phải người Kinh" (non-annamites) được hưởng qui chế riêng. Để thực hiện dự án xứ Thượng tự trị, Pháp dành cho Bảo Đại vinh dự chủ tọa cùng với cao ủy Pignon buổi lễ tuyên thệ trung thành với Pháp của người Thượng ngày 30/5/1949 tại Buôn Ma Thuột. Liền ngay sau đó, các chuyên viên dân sự và quân sự Pháp soạn thảo nhiều dự án tổ chức các xứ Thượng.
Ngày 15/4/1950 Bảo Đại ban hành Dụ số 6 thành lập "Hoàng Triều Cương Thổ" (Domaine de la Couronne), gồm các Xứ Thượng miền Nam và Xứ Thượng miền Bắc, độc lập với các chính quyền đồng bằng. Ranh giới và diện tích Xứ Thượng miền Nam giống như diện tích và ranh giới Xứ Thượng Nam Đông Dương trước kia, gồm một phần lãnh thổ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Cambogde và Lào, với cảng Cam Ranh làm cửa ngỏ đổ ra Thái Bình Dương.
Đối với người Thượng miền Nam hay miền Bắc, đời sống của họ không có gì thay đổi, các chức vụ tổ chức và quản trị lãnh thổ mới đều nằm trong tay người Pháp. Qui chế đặc biệt dành cho Xứ Thượng miền Nam, ký ngày 21/5/1951, dành cho người Thượng nhiều ưu đãi về quyền sử dụng đất nơi sinh trú. Quân đội hoàng triều gồm toàn người thiểu số do Pháp đào tạo, trang bị và chỉ huy.
Tuy nhiên, để hạn chế thế lực của người Pháp, Bảo Đại ban hành Chương trình phát triển kinh tế Xứ Thượng miền Nam, do Nguyễn Đệ soạn thảo, ngày 11/2/1952, theo đó người Kinh được quyền lên cao nguyên làm việc trong các đồn điền và khai phá đất đai canh tác nông nghiệp. Ngân sách do Chương trình kỹ thuật và kinh tế đặc biệt của Mỹ đài thọ, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Herman Marshall. Bị nhiều nhân sĩ Thượng phản đối, năm 1953 Nguyễn Đệ đổi thành Chương Trình Công Tác Xã Hội, nhằm giúp 500.000 người Thượng và 30.000 người Kinh di cư canh tác an toàn hơn trong những trung tâm định cư cố định, với tên gọi mới là "khu trù mật". Ngân sách vẫn do Mỹ tài trợ. Qua chương trình này, phong trào Việt Minh mất địa bàn bám trụ và tìm cách phá hoại.
Lợi dụng sự vắng mặt của quân chủ lực Pháp trên cao nguyên (lúc đó đang tập trung trên vùng Thượng Du Bắc Việt), quân Việt Minh hô hào dân chúng Kinh Thượng rời bỏ các khu trù mật và lôi kéo họ tham gia các đoàn dân công tải đạn đánh Pháp, gây tình trạng mất an ninh thường xuyên trên các trục giao thông chính, từ đồng bằng lên cao nguyên và quanh các thị xã lớn.
Hiệp Genève 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, chính quyền hai miền tiếp tục các chính sách cải cách ruộng đất theo những ý thức hệ khác nhau.
Chính sách cải cách điền địa tại miềnNam Việt Nam (1954-1975)
Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, hai đợt cải cách ruộng đất đã được thực hiện với hòa bình kết quả khác nhau.
Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, chính quyềnNgô Đình Diệm thu hồi những khu vực đất đai trong các vùng do Việt Minh kiểm soát ở phía nam vĩ tuyến 17, vùng duyên hải miền Trung và một số vùng ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong những năm 1945-1954, phe Việt Minh đã tịch thu không bồi thường những nông trại canh tác cao su và lúa của Pháp và những người hợp tác với Pháp rồi chia những vùng đất này cho những tá điền. Cũng vào thời đó, các giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài cũng thi hành những chính sách cấp phát ruộng đất tịch thu của người Pháp và những người hợp tác cho dân nghèo. Trước tình trạngmất an ninh tại nông thôn, nhiều gia đình địa chủ rời bỏ đồng ruộng của mình lên thành phố sinh sống nhằm tránh các cuộc xung đột vũ trang và tìm sự an toàn. Nông dân đã chia nhau những vùng ruộng đất này hoặc ngưng nộp tô cho những thửa ruộng tự canh.Cũng nên biết, tại miền Nam Việt Nam trong thập niên 1950 quyền sở hữu ruộng đất có nhiều chênh lệch : 2,5% đại điền chủ sở hữu 45% tổng số ruộng trong khi 73% tiểu điền chủ chia nhau 15% số ruông đồng còn lại.
Trong hai năm 1955 - 1956, Hoa Kỳ đã cử một phái đoàn cố vấn do ông W. Ladejinsky (một chuyên gia về cải cách điền địa đã từng giúp Tưởng Giới Thạch thực hiện cải cách điền địa ở Đài Loan) sang miền Nam Việt Nam giúp chính quyền Ngô Đình Diệm soạn thảo chính sách ruộng đất.
Nội dung cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm chủ yếu trong bốn đạo dụ :
Dụ số 2 (8/1/1955) quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng. Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa / năm. Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa / năm.
Dụ số 7 (5/2/1955) quy định việc thuê đất phải có khế ước (hợp đồng) tá điền. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng. Chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm. Khế ước được chia thành 3 loại : loại A : đối với ruộng đang canh tác có chủ : loại B : đối với ruộng hoang có chủ; loại C : đối với ruộng hoang vắng chủ (Hội đồng xã thay mặt chủ đất ký khế ước với nông dân)
Dụ số 28 (30/4/1956) quy định quy chế tá điền.
Dụ số 57 (20/10/1956) quy định việc truất hữu địa chủ. Mỗi địa chủ chỉ được giữ lại 100 ha ruộng đất và 15 ha ruộng hương hỏa. Ruộng bị truất hữu sẽ được đem bán lại cho những người thiếu ruộng, mỗi hộ không quá 5 ha, người mua sẽ trả tiền trong thời gian 6 năm. Trong thời gian đó ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của chính quyền. Trong 10 năm kế tiếp, người được phát ruộng không được cho mướn hay đem bán lại. Địa chủ sẽ được bồi thường 10% tiền mặt, số còn lại được trả bằng trái phiếu trong 12 năm, mỗi năm lời 5%.
Với chính quyền Ngô Đình Diệm thì thực chất dụ số 2 và dụ số 7 không phải là chính sách mới vì phần lớn chương trình cải cách điền địa năm 1956 chỉ là sao chép chương trình cải cách của Bảo Đại trước đó.
Trước kia, tại Việt Nam việc thuê mướn đất không có giấy tờ hợp đồng giữa người thuê mướn và chủ đất. Giá thuê đất từ 40% đến 60%, tùy theo đất tốt xấu, trên số lúa thu hoạch. Dụ số 2 quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng. Dụ số 7 buộc chủ đất phải lập hợp đồng với nông dân, thời hạn hợp đồng là 5 năm, có tái ký, tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng, chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm. Dụ số 57 ấn định thể thức phân phát đất. Theo đó thì chủ điền chỉ được giữ tối đa là 100 ha, trong đó 30 ha phải trực canh và 70 ha còn lại có thể cho tá điền thuê theo quy chế tá canh. Diện tích quá 100 ha luật pháp quy định phải bán lại cho người không có đất. Tuy theo quy định, mỗi người chỉ được giữ tối đa 100 ha, nhưng một người có thể né tránh quy định này bằng cách chia nhỏ đất của mình cho các thành viên trong gia đình. Tổng cộng là 2.033 điền chủ sở hữu 425.000 ha bị ảnh hưởng. Thêm vào đó là 245.000 ha của 430 điền chủ mang quốc tịch Pháp cũng thuộc vào trường hợp phải nhượng lại cho chính phủ. Vì chiến tranh nhiều người bỏ ra thành thị sinh sống nên số đất bỏ hoang ước khoàng 1,3 triệu ha. Trong thời gian chính quyền kiểm kê, nếu chủ đất vẫn vắng mặt, số đất này bị trưng thu để bán cho nông dân. Chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra bốn diện ưu tiên nhận đất : người đã tá canh hơn hai năm, cựu chiến binh, dân di cư (miền Bắc) và người thất nghiệp.
Về bồi thường, dưới thời đê nhất Cộng hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm đã bồi thường số đất bị tước quyền sở hữu cho chủ điền bằng 10% tiền mặt và 90% công trái phiếu hạn 12 năm. Tá điền có quyền mua trả góp đất của chính phủ với giá tiền chính phủ bồi thường chủ điền. Vốn và lãi trả trong vòng 12 năm với lãi suất 3%/năm. Diện tích đất tối đa một người nông dân được mua là 5 ha.
Trong bốn năm thực hiện cải cách ruộng đất, từ 1955 đến 1961, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thu được khoảng 650.000 ha. Trong số này chỉ 244.000 ha được chia lại sau cuối năm 1958, chủ yếu cho người di cư Thiên Chúa giáo miền Bắc, cựu chiến binh hoặc những người thất nghiệp. Lo sợ bị loại khỏi địa bàn nông thôn, theo chiến lược lấy nông thôn bao vây thành thị của Mao Trạch Đông, thành phần cộng sản luôn tìm mọi cách phá hoại chính sách Cải cách điền địa của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Nhất là từ năm 1960 trở về sau an ninh nông thôn miền Nam xấu đi do phe cộng sản công khai phát động chiến tranh du kích nên chính phủ rất khó thi hành chính sách cải cách điền địa. Cộng sản cấm nông dân làm đơn xin mua ruộng của chính phủ, cấm nông dân ký hợp đồng với chủ điền, hủy bỏ địa tô, ám sát cán bộ phụ trách chương trình cải cách, phá hoại các khu nông thôn kiểu mẫu, các cơ sở thí nghiệm trồng trọt, chăn nuôi. Trước những đe dọa này, nông dân không dám mua ruộng đất của chính phủ còn địa chủ không thu được tiền cho thuê đất. Do không có đơn xin mua đất, số ruộng đất do chính quyền nắm giữ không bán được đành phải bỏ hoang.
Dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra dự luật ngày 25/8/1969 để quốc hội rút bớt ruộng đất để lại cho địa chủ xuống còn 15 ha ở Nam phần, 5 ha ở Trung phần và cấp không 1,5 triệu ha ruộng lúa cho hơn 80.000 nông dân.
Ngày 9/9/1969, Hoa Kỳ cử Richard I. Hogh, một chuyên gia về phát triển nông thôn châu Á, cùng với 35 chuyên viên người Việt và Mỹ đền Sài Gòn trực tiếp cố vấn chương trình cải cách điền địa.
Ngày 26/3/1970, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu công bố sắc lệnh số 003/60, ban hành luật "Người Cày Có Ruộng". Luật quy định ruộng đất không trực canh (không do địa chủ canh tác) đương nhiên bị truất hữu và phải được bồi thường thỏa đáng theo thời giá. Chính phủ sẽ phát hành công khố phiếu để chi trả những khoản này. Chủ đất được bồi thường 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu trả 10% lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng suất thóc từ khoảnh đất đó. Ruộng đất truất hữu được ưu tiên cấp phát miễn phí cho tá điền (3 ha ở Nam phần và 1 ha ở Cao nguyên, duyên hải Trung phần). Điền chủ trực canh chỉ được giữ tối đa 15 ha ở Nam Phần hay 5 ha ở Trung Phần. Tuy nhiên, Luật "Người Cày Có Ruộng" không áp dụng đối với ruộng đất của các tổ chức tôn giáo và ruộng đất hương hỏa gia đình của người dân. Mục tiêu của việc cải cách này là cấp miễn phí 1,5 triệu hecta ruộng lúa cho 80 vạn hộ nông dân, đồng thời cấp giấy chứng nhận sở hữu ruộng đất cho nông dân. Người nhận đất theo quy định chương trình Người cày có ruộng thì không được sang nhượng hay bán lại thửa đất đó trong vòng 15 năm.
Luật Người Cày Có Ruộng không cho địa chủ quyền bắt tá điền nộp địa tô của những năm trước : nông dân lãnh ruộng do phe cộng sản cấp trước kia được miễn thuế trong một thời gian và được nhận bằng khoán để chính thức sở hữu số ruộng đó. Tính đến năm 1973 thì hơn một triệu ha ruộng đã được chuyển sang quyền sở hữu của hơn 850.000 tá điền.
Hiệu quả kinh tế, xã hội và chính trị của đạo luật Người Cày Có Ruộng rất cao :, phương thức sản xuất nông nghiệp kiểu phong kiến đã bị xoá bỏ. Sau ba năml thực hiện, từ 1970 đến 973, Việt Nam Cộng hoà đã có 80 phần trăm tư sản trung nông hóa và thành phần nông dân này là lực lượng chính của sản xuất nông nghiệp ở miền Nam Việt Nam, 70.000 hộ gia đình, khoảng 5 triệu người, đã được cấp đất. Đây là những thành phần chống cộng hăng hái nhất, vì ý thức hệ cộng sản không chấp nhận tư nhân có quyền sở hữu đất đai. Còn lại khoảng 20 phần trăm là phú nông và tư sản trung nông giàu, sở hữu khoảng 10 phần trăm ruộng đất canh tác còn lại. Số nông dân giàu có này, ngoài việc canh tác số ruộng đất sau khi đã truất hữu còn lại, họ cũng kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, chế biến thực phẩm nông sản trong một thị trường thương nghiệp nông thôn và lao động nông nghiệp rất tự do. Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hoàn tất chương trình "Người Cày Có Ruộng", miền Nam không còn thành phần đại địa chủ. Luật Người Cày Có Ruộng không đụng chạm đến ruộng đất của các tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo, nên ngay sau năm 1975, các tôn giáo vẫn sở hữu rất nhiều ruộng đất.
Chính sách cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam
Sau Hiệp định Genève 1954, phe Việt Minh, do Hồ Chí Minh lãnh đạo, xây dựng chế độ cộng sản tại miền Bắc. Trong những năm 1953-1956, Đảng Lao Động Việt Nam và chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa áp dụng chính sách Cải cách ruộng đất tại miền Bắc rập theo khuôn mẫu cộng sản Trung Hoa. Mục tiêu chính trị của chính sách này làxóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng phái đối lập phản động... Mục tiêu xã hội của cải cách ruộng đất là tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông, đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội những thành phần xã hội mà phe cộng sản muốn tiêu diệt.
Luật Cải cách Ruộng đất đã được Quốc hội thông qua tháng 12/1953 và chính quyền Hồ Chí Minh chính thức ban hành ngày 19/12/1953. Sau 3 năm tiến hành (1953-1956), cuộc cải cách đã phân chia lại ruộng đất cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, việc áp đặt giáo điều các biện pháp dập khuôn từ cải cách ruộng đất của Trung Quốc đã gây ra nhiều vết thương cho đến nay vẫn chưa lành trong ký ức nhân dân miền Bắc.] Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, gây tác hại đến sự đoàn kết dân tộc của người miền Bắc và ảnh hưởng tới niềm tin của một số tầng lớp nhân dân vào chế độ và đảng cộng sản (Đảng Lao Động thời đó). Chính quyền Hồ Chí Minh sau đó phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này, như cựu tổng bí thư đảng cộng sản Trường Chinh chẳng hạn.
Chương trình cải cách ruộng đất là một bước trong tiến trình của ý thức hệ cộng sản nhằm đưa miền Bắc Việt Nam tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội. Khác với miền Nam, chương trình cải cách ruộng đất tịch thu không bồi hoàn những ruộng đất do người Pháp, người dân di cư, hay Việt gian (những người theo Pháp) đang sở hữu hay bỏ lại, sau đó phân chia lại cho tá điền, cắt giảm địa tô và bãi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng.
Chương trình cải cách ruộng đất được áp dụng thông qua chiến dịch huấn luyện cán bộ và chiến dịch giảm tô. Các cán bộ Đảng Lao động tham gia cải cách ruộng đất được đưa đi học khóa chỉnh huấn 1953, một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc, nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của đảng trong cải cách ruộng đất, quán triệt quan điểm : "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ".Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là 48.818 người. Bước đầu, các đội cán bộ cải cách ruộng đất đi vào các làng xã và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xã đó, kết nạp họ thành "rễ", thành "cành" của đội, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau :
  • Phân định thành phần: Đội Cải cách Ruộng đất ra mắt làng xã, và tất cả các gia đình trong xã được họ phân loại thành 5 thành phần : (a) địa chủ; (b) phú nông; (c) trung nông cứng - sở hữu 1 con bò, 1 con lợn, 1 đàn gà; (d) trung nông vừa - sở hữu 1 con lợn, 1 đàn gà; (e) trung nông yếu - sở hữu 1 đàn gà hay không có gì cả; (f) bần nông; (g) cố nông. Gia đình có 2 con lợn đã có thể gọi là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc, gọi là "kích thành phần".
  • Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đình bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác : (a2) Địa chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.
  • Áp dụng thoái tô: Đối với các gia đình có địa chủ bị bắt nói trên, đội cải cách thông báo với họ về các sắc lệnh giảm tô của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm : sắc lệnh giảm tô xuống còn 25% vào tháng 11 năm 1945, Sắc lệnh số 87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%. (Tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt, có thể trả bằng thóc.) Căn cứ theo đó, địa chủ nào chưa giảm tô cho nông dân thì bây giờ phải trả số nợ đó - gọi là "thoái tô". Nếu không trả đủ nợ thì tài sản bị tịch thu, phân phát do nông dân. Sau bước này, hầu hết gia đình địa chủ lâm vào hoàn cảnh khánh kiệt, nhiều người đến chỗ tự sát - vì nếu sống trong vùng kiểm soát của Pháp thì không biết gì về các sắc lệnh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
  • Học tập tố khổ, lùng bắt địa chủ: Các bần nông, cố nông, "chuỗi", "rễ" được đội cải cách cho học lớp tố khổ do họ mở, qua đó học viên được nhận dạng các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra tội ác của từng địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Sau khi học qua lớp tố khổ nhiều du kích và cốt cán cải cách ruộng đất tìm bắt địa chủ, Việt gian, thậm chí họ "vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức nhà nước".
  • Công khai đấu tố: Các buổi đấu tố được tổ chức, thông thường vào ban đêm. Số lượng người tham gia đấu tố được huy động từ vài trăm đến cả ngàn người, và thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố, các bần nông bước ra kể tội địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức cải cách ruộng đất, Đảng Lao động cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ý tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ tòa án nhân dân xét xử. Gia đình và thân nhân người bị đấu tố thì bị cô lập, bị bỏ đói và chịu nhiều sự phân biệt đối xử và nhục hình.
  • Xử án địa chủ: Tại các huyện, một tòa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xã xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, nếu bị kết án tử hình, đội tự vệ xã sẽ thi hành án trước công chúng. Những người không bị xử bắn thì bị cô lập trong các làng xã, một số bị thiệt mạng vì bị bỏ đói.
Nhiều tháng sau khi chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương trình Cải cách ruộng đất chính thức bắt đầu, với hình thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn, và các gia đình địa chủ có thành tích kháng chiến, kể cả các gia đình có đảng viên, cán bộ, bộ đội phục vụ trong kháng chiến cũng bị đấu tố. Người đầu tiên bị buộc tội chết trong cải cách ruộng đất là một phụ nữ, bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội. Bà Năm là địa chủ kháng chiến có nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam, bà là mẹ nuôi của các ông Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh. Con trai của bà là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong "Tuần Lễ Vàng", gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập.
Tổng cộng có 6 đợt lớn cải cách ruộng đất. Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Quốc, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn. Từ giữa năm 1955 ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát. Từ đó đến cuối năm 1955, cảnh đấu tố địa chủ xảy ra tràn lan, nhiều lúc chỉ đơn thuần bằng một lời tố giác đơn giản, những thành viên trong tòa án nhân dân cũng có thể xử tử hình hay tù khổ sai đối với người bị tố giác. Đã xuất hiện tình trạng lạm dụng quyền hành của các cán bộ đội viên đội công tác ruộng đất trong công tác đất đai. Họ đấu tố mọi nhà, đấu tố mọi người, nhưng lại quên đấu tố bản thân. Số người chết trong đợt này là rất lớn, trong đó số người chết oan chiếm tỷ lệ cao. Quyết liệt nhất là ở Thái Bình, nơi có đến 294 xã được đưa vào cải cách.
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 11/1953, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 quyết định tiến hành việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Tổng cộng chiến dịch Cải cách ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà. Từ năm 1953 tới 1957, tổng số đất đai và tài sản tịch thu đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất. Cho đến nay chưa có thông kê về số người bị giết trong các cuộc đấu tố cải cách ruộng đất, nhưng theo nhiều nguồn tin đáng tin cậy thì đã có ít nhất trên 5.000 người bị giết, và hàng chục ngàn người khác bị phân biệt đối xử hay bị giam cầm.
Do nhận định chiến dịch Cải cách ruộng đất giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai. Tính đến tháng 9/1957, thì chiến dịch sửa sai đã phục hồi danh dự và trả lại tài khoảng 70-80% số người bị kết án. Phong trào trả thù lan rộng và biến thành bạo động tại nhiều nơi khiến chính quyền phải điều động quân đội để đánh dẹp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông dân dùng gậy gộc gây bạo động khiến chính quyền phải dùng Sư đoàn 324 để tái lập trật tự.Một số gửi thỉnh nguyện thư đến phái đoàn quan sát viên Canada trong Ủy ban Đình chiến, xin di cư vào Nam.
Quyền tư hữu ruộng đất của nông dân tuy vậy chỉ được tạm thời vì sau đó năm 1958, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản quyết định tập thể hóa đất đai để phát triển nông thôn. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất tư nhân và thay vào đó bằng quyền sở hữu tập thể. Đất đai dần tập trung vào tay Nhà Nước qua việc thành lập những hợp tác xã do chính phủ quản lý. Nông dân bị ép buộc gia nhập hợp tác xã nên đến năm 1960, 86% dân quê ở Miền Bắc đã vào hợp tác xã. Số liệu đó tăng lên thành 95,5% vào năm 1970. Trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, quyền tư hữu ruộng đất của nông dân hoàn toàn biến mất, quyền sở hữu đất đai trên toàn quốc thuộc về Nhà nước.
Luật đất đai sửa đổi
Ngày 28/11/2013, Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua Dự thảo Hiến pháp 2013, theo đó :
Điều 53 qui định : "Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Điều 54 viết :
1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.
2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền vànghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.
3. Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.
4. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.
Theo những quy định này, Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau : Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Điều 4 của Luật đất đai mới quy định: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của luật này," báo trong nước đưa tin. Định kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm và không quy định tầm nhìn 20 năm. Về vấn đề thu hồi đất, luật mới tiếp tục quy định nhà nước được phép thu hồi đất để "phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng".
Vấn đề sở hữu đất đai vốn rất nhạy cảm, trong lúc các xung đột tranh chấp đất là nguyên nhân gây nên những cuộc biểu tình gần như mỗi ngày, cũng không được bản Hiến pháp mới đề cập đến. Điều này đi ngược lại với những khuyến cáo của các nhân sĩ trí thức, và khát vọng về quyền định đoạt mảnh đất của mình đối với nhiều triệu người Việt Nam.
Hiến pháp mới đã tước bỏ quyền tư hữu đất đai của dân để cho nhà nước độc quyền “đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” dù không có ủy thác của dân qua bất cừ hình thức nào.
Nềnkinh tế quốc gia tuy mang danh nghĩa “nhiều hình thức sở hữu” nhưng không thuộc về toàn dân mà do nhà nước “chủ đạo” để nắm phần chắc trong tay. Hãy trả lại ruộng đất cho nông dân, quốc gia Việt Nam mới thực sự phát triển vì con người chỉ quý cái gì của mình.
Hiện nay, xã hội Việt Nam đang bị giam giữ trong trong lạc hậu vì chính quyền cộng sản vẫn chưa ra khỏi không gian làng xã, nghĩa là vẫn cứ loanh quanh trong mối tương quan quyền lực và ruộng đất. Đất là quyền, quyền là đất.
Thế giới ngày nay đã thay đổi, đất không còn là biểu tượng của quyền lực hay sự giàu có để qua đó biểu dương uy quyền. Quyền lực ngày nay nằm trong trí tuệ và khả năng sáng tạo.
Nguyễn Văn Huy

--
NGƯỜI VÀ ĐẤT

Tô Văn Trường

Từ cổ chí kim, cai trị đất nước hay tồn tại xã hội, ngoài tài nguyên nước, trước hết và chủ yếu có hai thành tố: Người và đất. Vua, Chúa có Luật đinh và Luật điền (cả thuế đinh và thuế điền). Các Mác nói : “Lao động là cha, đất là mẹ.”. Cha mẹ yêu thương gắn bó với nhau mới sinh ra con cháu (của cải). Nhưng chỉ có hôn nhân đúng luật, đúng truyền thống và tập quán thì các mối quan hệ hôn nhân trong gia đình ấy mới là chính thống.
Luật hôn nhân và gia đình có đề cập và qui định điều chỉnh các mối quan hệ vợ chồng, cha, mẹ, con cái kể cả con nuôi...khá rõ ràng và tương đối bình đẳng. Trong đó, chỉ có quan hệ vợ chồng bền vững là một cột, một kèo, con chung trong giá thú là loại điển hình. Vậy thì các quyền đối với đất đai (điền địa) trong Luật đất đai sửa đổi cũng phải rõ ràng, minh bạch như luật hôn nhân và gia đình.

Sáng ngày 29/11 các đại biểu Quốc hội đã ấn nút thông qua Luật đất đai sửa đổi với tỉ lệ 89,96%. Có 20 đại biểu không tán thành và 5 đại biểu không biểu quyết. Luật đất đai sửa đổi gồm 14 chương, 212 điều, sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2014.
Theo tôi được biết cách đây khoảng chừng 25 năm trước, trên thế giới chỉ có nước ta, Trung Quốc và 3 nước ở châu Phi là có chế độ công hữu (thực chất là chế độ sở hữu của giới cầm quyền) về đất đai, với những tệ nạn sinh ra từ đó. Thời ấy, ở Canada, mọi chuyện về đất đai hoàn toàn thuộc thẩm quyền cấp tương đương cấp tỉnh của nước ta, còn cấp toàn quốc coi như vô can về mọi chuyện đất đai. Nói chung, từ rất lâu rồi, trên thế giới, người ta coi vấn đề đất đai là loại vấn đề phức tạp nhất, tranh chấp nhất, thiết cốt nhất. Đó là thành tố rất quan trọ̣ng của hai lần bộ ba sự sống: Trời, Đất, Người và  Cá nhân, Xã hội, Thiên nhiên.
Trên công luận đã có một số bài viết nói về các mặt được và chưa được của Luật đất đai sửa đổi. Phản ứng của cử tri nói chung, không quan tâm nhiều lắm đến sự kiện sửa Hiến pháp và Luật đất đai bởi vì nó đang giống như sân khấu hơn là bản thân nó. Những vấn đề cơ bản vẫn còn né tránh. Việc sửa câu chữ thì chỉ mới là chuyện “son phấn” bên ngoài, tốn thời gian và phí hoài tâm huyết của nhân dân.
Lâu nay, các vụ khiếu kiện gây bất ổn xã hội chủ yếu liên quan đến đất đai, thể hiện ở quan điểm sở hữu đất đai, quyền thu hồi đất và giá đền bù. Nhiều bài viết của chuyên gia phân tích đã có mẫu số chung là khi sở hữu tư nhân đất đai không được chấp nhận thì nó tiếp tục là mầm mống tạo bất ổn xã hội và điều này sớm hay muộn cũng sẽ phải giải quyết. Lý do đơn giản vì đất đai là nguồn tài nguyên và nguồn sống của nông dân chiếm tới 70 % người dân Việt Nam.
Sở hữu toàn dân về đất đai  vẫn tiếp tục là bảo bối của các nhóm lợi ích – họ thích nhất là tình trạng nhập nhằng, không minh bạch thì mới dễ trục lợi. Quyền sử dụng đất mới  chỉ là 1 loại quyền đối với tài sản nên nếu người dân (đặc biệt là nông dân) chỉ giữ quyền này thì  họ luôn ở thế của  người thua cuộc.
Luật đất đai sửa đổi vẫn chưa làm rõ bản chất của khái niệm sở hữu toàn dân, hình thức tư hữu. Không thể có cái gọi là tư hữu toàn dân. Và đặc biệt là không thể đi ngược lại lịch sử để bảo rằng quyền tư hữu là phản tiến hóa. Vấn đề thực chất là nằm ở nhóm lợi ích. Cần phân biệt rõ ràng thấu đáo các chính sách thu hồi đất đai dưới các danh nghĩa khác nhau với trưng mua theo thị trường để không đẩy người dân vào các cuộc khiếu kiện liên miên gây bất ổn xã hội như vừa qua.
Luật đất đai sửa đổi viết “ Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.” 
Người đọc nhận thấy đây không còn chỉ là câu chuyện thu hồi đất mà cần phải làm rõ khái niệm chỉ mua và trưng mua quyền sử dụng đất là thứ quyền tài sản hay nói cách khác là hàng hóa chỉ được mua bán trên cơ sở tính giá “thuận mua, vừa bán”! Đã phát triển kinh tế là có lợi nhuận mà đã có lợi nhuận thì phải bồi thường theo thỏa thuận với người bị mất đất chứ không có phát triển kinh tế vì lợi ích quốc gia, công cộng gì cả. Lợi ích quốc gia thì chỉ nên gói trong “quốc phòng, an ninh, công cộng” là đủ. Tất cả các trường hợp khác đều phải thỏa thuận với người mất đất, đó mới là đạo lý.
Bất cập hiện nay là qui định về phương pháp đánh giá không dựa trên giá trị mà sử dụng mới đưa lại. đặc biệt là nông dân luôn bị thiệt thòi bởi vì trình độ kiến thức còn hạn chế, thiếu các thông tin công khai, minh bạch. Việc tính giá tài sản, giá đất như thế nào, để giải đáp thỏa đáng mối quan hệ mua-bán quyền sử dụng đất dựa trên căn cứ khoa học và thực tiễn, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của người dân đang sử dụng đất, lợi ích của các đại gia và lợi ích của Nhà nước vẫn là bài toán cần được xem xét, phân tích đánh giá một cách logic, thuyết phục. Giá trị của đất đai được quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tiềm năng tạo ra thu nhập, lợi thế do địa điểm xây dựng và thương hiệu của chủ thể đem lại.
Nguyện vọng của người dân là đất đai phải có đa sở hữu. Nhà nước phải sử dụng công cụ chính sách thuế sao cho đất nói chung được sử dụng hiệu quả nhất cho xã hội và cá nhân. Đất tư nhân có mức thuế khác đất công để làm sao đất đó phải được sử dụng có hiệu quả cho toàn xã hội, tránh việc đầu cơ cho cá nhân. Đất hoang khi khai khẩn cần có quy định khuyến khich chủ đầu tư và người nước ngoài có thể mua căn hộ và thuê đất dài hạn. Mọi tài sản phải có chủ sở hữu, người có quyền cũng như trách nhiệm xã hội đối với việc sử dụng tài sản đó.
Trong các quyền đối với đất đai cũng như Luật hôn nhân và gia đình. Nói nôm na dễ hiểu, đất do tự khai hoang, mua bằng tiền hay do thừa kế là loại sở hữu tư nhân như quan hệ vợ chồng truyền thống, chính thống. Nó khác biệt với loại vợ chồng chắp nối, con anh, con em, con chúng ta. Nếu Luật hôn nhân và gia đình mà như quy định của Luật đất đai là chỉ có quyền sử dụng thì vấn đề gia đình trong xã hội ta sẽ cũng rối rắm, phức tạp, bất ổn như tình trạng quản lý và tranh chấp khiếu kiện về đất đai như hiện nay bởi vì “hậu hôn, nhì điền thổ”!
Quốc hội đã thông qua Luật đất đai sửa đổi nhưng vẫn còn nhiều bất cập, nhiều việc phải nghĩ, phải làm. Để cho các văn bản hướng dẫn thực thi áp dụng sắp tới sát với thực tế, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân tới đây công tác phản biện xã hội với các trụ cột chính là trí thức, báo chí và công luận sẽ phải vào cuộc tích cực hơn nữa.




-Vũ Quang Việt: Sở hữu đất đai và ổn định xã hội (Diễn Đàn 5-11-13)
Khi sở hữu tư nhân đất đai không được chấp nhận thì nó tiếp tục là mầm mống tạo bất ổn xã hội và điều này sớm hay muộn cũng sẽ phải giải quyết.

Sở hữu đất đai và ổn định xã hội


Vũ Quang Việt




Khi sở hữu tư nhân đất đai không được chấp nhận thì nó tiếp tục là mầm mống tạo bất ổn xã hội và điều này sớm hay muộn cũng sẽ phải giải quyết. Lý do đơn giản là đất đai là nguồn tài nguyên và nguồn sống của nông dân chiếm tới 70 % người dân Việt Nam. Các nhà lý thuyết “ xã hội chủ nghĩa ” hiện nay cho rằng đất đai cũng như hầm mỏ là một loại tài sản do thiên nhiên ban tặng, không thể tự tái sinh nên không thể tư hữu hóa mà phải là “ sở hữu toàn dân ”. Tài nguyên thiên nhiên không do con người làm ra như hầm mỏ, bầu trời, sông biển thuộc sở hữu nhà nước là điều hợp lý, dù rằng có nước công nhận sở hữu tư nhân nằm dưới đất tư hữu. Nhưng đất đai khác với các tài nguyên thiên nhiên khác vì chúng có lịch sử lâu đời về khai phá, được sử dụng và công nhận rộng rãi bởi cộng đồng và luôn gắn liền với tư nhân, dưới hình thứ sở hữu cá nhân (dân đinh, vua chúa) và tập thể (như cộng đồng làng xã). Chỉ từ khi có việc nhân danh “ chủ nghĩa xã hội ” đất đai mới bị coi là “ sở hữu toàn dân ” nhưng về thực chất “ toàn dân ” không có quyền gì. “ Sở hữu toàn dân ” thật ra là một ý niệm tiếm danh (misnomer), ngoa ngữ bởi vì thực chất nó là sở hữu nhà nước. Không có việc “ toàn dân ” có quyền gì ở đây mà là quyền của những người cầm quyền. Bài viết này nhằm phân tích quyền sở hữu và quyền sử dụng và nêu ra những khả năng bất ổn xã hội có thể mang đến khi quyền tư hữu đất đai không được công nhận.
Trước tiên hãy bàn về quyền sở hữu, rồi bàn đến quyền sử dụng và sau đó là ảnh hưởng của các cách xử lý khác nhau.

1. Quyền sở hữu đất


Quyền sở hữu gồm những quyền được chấp nhận rộng rãi và được pháp luật bảo về ở hầu hết mọi nước :
  1. Quyền sử dụng vĩnh viễn
  2. Quyền thụ hưởng mọi lợi ích kinh tế và phi kinh tế mà tài sản sở hữu mang đến
  3. Quyền chuyển nhượng (bán, cho thuê, hoặc cho không)
  4. Quyền cấm người khác xâm phạm sở hữu.
Các quyền thuộc quyền sở hữu ở bất cứ nước nào cũng bị hạn chế bởi luật pháp như luật quy hoạch (đất nông nghiệp không được đem xây nhà cho thuê chẳng hạn), luật bảo vệ môi trường, và trong trường hợp vì lợi ích chung, ở mọi nước nhà nước có thể nhân danh quyền eminent domain để trưng thu, v.v. Trong trường hơp đem bán hoặc bị trưng thu, thì việc chuyển nhượng sẽ dựa vào giá trị của chúng. Giá trị này về mặt kinh tế cũng phải phản ánh giá trị lợi ích kinh tế mà nó mang lại khi sử dụng, được các nhà kinh tế gọi là giá cơ hội (opportunity cost). Các nhà đầu tư đều có phương pháp đánh giá để tìm ra giá trị mà họ muốn thu được khi đem bán. Giá thị trường không nhất thiết bằng với giá trị tính toán trên nhưng phải phản ánh nó. Nó là chuẩn để người bán và người mua dựa vào để thương thảo giá. Bản thân người viết cũng đã tham gia vào việc tính giá các tòa nhà thuộc khu World Trade Center ở thành phố New York có doanh nghiệp công Port Authority of New York and New Jersey vào năm 1982-1983 trước khi chúng bị phá hoại vào năm 2001 nên những trình bày ở đây không phải chỉ là chuyện lý thuyết.

2. Quyền sử dụng đất


Quyền sử dụng không phải là quyền sở hữu cho nên không có tính chất vĩnh viễn, quyền sử dụng vì thế bị giới hạn về thời gian theo hợp đồng giữa bên sở hữu và bên sử dụng. Khi người sở hữu đem cho thuê có thời hạn, tức là giao quyền sử dụng cho người khác theo hợp đồng. Hợp đồng đó nếu có điều khoản cho phép chuyển nhượng cho người thứ ba thì hợp đồng cũng có giá trị trên thị trường. Đó là giá trị sử dụng trong thời hạn còn lại theo hợp đồng. Giá trị này là tài sản của người có quyền sử dụng.

3. Nguyên tắc định giá


Việc tính toán giá, giá tài sản sở hữu hay giá hợp đồng sử dụng có thể chuyển nhượng đều dựa vào cùng một nguyên tắc, có thể công thức hóa. Sự khác biệt chính là : 1) thời hạn của quyền sử dụng : vĩnh viễn hay có thời hạn thấp hơn vĩnh viễn, 2) thu nhập ròng thu được mà quyền sử dụng mang lại từng thời kỳ trong thời gian sử dụng. Coi hộp về nguyên tắc tính giá sử dụng.
Nguyên tắc định giá hợp đồng đất vĩnh viễn hay có thời hạn
  • Giá trị hợp đồng đất = Tổng giá trị thu nhập ròng thu được trong thời hạn hợp đồng, tính theo giá trong thời điểm hiện tại = Thu nhập ròng của năm thứ nhất còn lại trên hợp đồng + ... + thu nhập ròng của năm cuối cùng hợp đồng.
  • Thu nhập ròng = thu nhập thu được trong sử dụng – chi phí sử dụng.
Nhận xét :
Để tính giá trị hợp đồng, cần tính được thu nhập ròng và cần có suất chiết khấu thực (có khử ảnh hưởng của lạm phát).
Giá trị hợp đồng tính theo cách trên là giá cơ hội (opportunity cost) như trên không nhất thiết bằng giá trên thị trường, tuy nhiên nó là chuẩn để người bán và mua hợp đồng dựa vào để thương thảo.
Giá trị hợp đồng đòi hỏi nhiều thông tin mà các công ty chuyên nghiệp có thể thu thập để tính.
Ở nhiều nước, như ở Mỹ chẳng hạn, khi nhà nước muốn trưng thu, thì nhà nước và người bị thu sẽ đưa ra giá trị mà từng bên coi là khách quan. Quan tòa là nơi tốt nhất giải quyết hoặc đi đến đồng thuận giữa hai bên hoặc quan tòa sẽ quyết định cuối cùng. Quan tòa cũng sẽ quyết định việc trưng thư có vì lợi ích chung không hay là vì mục đích tư lợi của một hay vài cá nhân. Tất nhiên cũng có thể có phương pháp khác để đi đến đồng thuận khi nhà nước trưng thu, nhất là khi nhà nước cần trưng thu cả khu vực có ảnh hưởng đến nhiều người có sở hữu, như đồng thuận của tuyệt đại đa số người bị ảnh hưởng. Ở Việt Nam, ông Đặng Hùng Võ đã đưa ra giải pháp là cần ít nhất 70 % những người bị trưng thu đồng ý vì quan tòa có thể không liêm chính, hoặc bị áp lực chính trị.

4. Ảnh hưởng kinh tế khi sở hữu không được công nhận


Công thức tính giá cho ta thấy với các điều kiện sử dụng bị hạn chế giống nhau, có thể định nghĩa quyền sở hữu là quyền sử dụng với thời gian vô tận.
Giá trị quyền sử dụng tùy thuộc vào một yếu tố quan trọng, đó là thời hạn sử dụng, mà thời hạn có thể đi từ zero đến vĩnh viễn. Khi hợp đồng tiến đến hạn thì giá trị hợp đồng tiến tới zero. Quyết định đầu tư cho mảnh đất là tùy thuộc vào thời hạn dài ngắn trong hợp đồng. Về mặt kinh tế, khi hợp đồng gần đến hạn thì không có lý do gì người sử dụng phải đầu tư dài hạn thêm vì không biết ông chủ sở hữu có gia hạn không, gia hạn bao lâu và giá phải trả cho người sở hữu.
Đối với tài nguyên thiên nhiên như hầm mỏ, hay rừng, biển, kể cả đất đai khai thác khác thuộc quyền sở hữu nhà nước thì người sở hữu và người có hợp đồng biết rõ các điều kiện về mặt pháp lý là khi hợp đồng hết hạn tài sản này phải hoàn trả không điều kiện, và không có bồi thường.
Đối với đất đai của người dân đặc biệt là đất nông nghiệp của nông dân, khi sở hữu tư nhân không được chấp nhận, tức là quyền sử dụng không vĩnh viễn thì cái thời hạn sử dụng luôn luôn là gông đeo cổ người dân.
Triết lý không chấp nhận sở hữu cá nhân tức hạn chế thời hạn giao đặt ra một số vấn đề sau :
  • Số phận người nông dân Việt Nam chiếm 70 % dân số bị đặt vào một tương lai cực kỳ bất an. Người có quyền sử dụng chỉ được giao đất một số năm, và không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau hợp đồng : họ có được tiếp tục không, với điều kiện nào. Như thế người nông dân không những chỉ hành động một cách ngắn hạn mà còn giảm đầu tư khi thời gian đi dần đến hạn. Nền kinh tế sẽ rơi vào tình thế bất an.
  • Với luật định hợp đồng thời hạn, người nông dân có quyền sử dụng đất khó lòng dùng chúng làm thế chấp nhất là khi sắp tới hạn vì giá trị của hợp đồng tùy thuộc vào thời hạn sử dụng ngắn hay dài. Quyết định một thời hạn sử dụng ngắn hơn vô tận (tức là sở hữu) đương nhiên đưa giá trị chúng xuống thấp hơn giá trị của nó nếu nó là quyền sở hữu.
  • Đối với đất đai được giao để làm nhà ở hay để làm khu công nghiệp cũng phải đối phó với tình thời hạn của hợp đồng đất đai, tuy nhiên nếu là người đầu tư họ đã tính toán với các hạn chế này, và nhận thức rõ là đất đai phải trả lại không bồi hoàn khi hợp đồng khi hết hạn.
  • Hiện nay không có cơ sở để quyết định ai có quyền giao, ai được giao và thời gian giao để bảo đảm ý nghĩa đất đai thuộc “ sở hữu toàn dân ”. Các quyết định quan trọng trên sẽ tiếp tục thuộc chính quyền, và dựa vào sự tùy tiện của các cấp chính quyền. Hiến pháp hiện nay và sắp tới giao “ quyền tùy tiện ” này cho các cấp chính quyền thì đương nhiên mở ra lỗ hổng để các cá nhân lãnh đạo chính quyền khai thác chiếm dụng thặng dư. Quyền giao đất đương nhiên tạo nên một tầng lớp chiếm đoạt thặng dư (rent seeking).

5. Trưng thu đất vì lợi ích chung


Như đã trình bày, việc trưng thu đất là điều mà mọi nước đều có, dựa vào quyền eminent domain của nhà nước. Vấn đề là họ giải quyết trên cơ sở của luật pháp về nguyên tắc lợi ích chung và nguyên tắc định giá trên cơ sở giá cơ hội đã bàn ở trên. Không có việc giao cho các cấp chính quyền quyết định thế nào là lợi ích công và quyền quyết định giá. Luật pháp Việt Nam có thể sửa đổi – mặc dù đây vẫn là điều không tưởng – để giải quyết công bằng và hợp lý việc trưng thu đất vì lợi ích chung (liên quan đến nguyên tắc quyết định giá và quyết định thế nào là lợi ích chung) nhưng sẽ không giải quyết được vấn đề về tính bất an về thời hạn hợp đồng khi quyền tư hữu về đất đai không được chấp nhận.

6. Vấn đề lo sợ nông dân không có đất cày


Ngày xưa, chính vì lo sợ người nông dân không có đất cày cấy mà trước đây nhiều nước đã có chương trình cải cách ruộng đất, trưng thu đất của các đại điền chủ và bán lại cho nông dân để người nông dân có đất cày cấy và sau đó áp dụng chính sách hạn điền. Thời hiện đại khi phát triển kinh tế đã dựa vào công nghiệp hóa, do đó mà chiều hướng chung trên toàn cầu là số nông dân ngày càng giảm để trở thành công nhân thì việc tập trung ruộng đất để áp dụng đại nông canh tác, tăng năng suất lại là yêu cầu ngược lại ngày xưa. Do đó việc nới rộng mức hạn điền lại là điều cần thiết. Ngoài ra việc khuyến khích nông dân tập trung đất thành hợp tác xã hay công ty cổ phần cũng là điều nên khuyến khích.

VŨ QUANG VIỆT


NGUỒN : tác giả gửi Diễn Đàn ngày 5.11.2013



- Gần 500 dân oan biểu tình trước trụ sở MTTQ (RFA). - Dân oan Văn Giang tiếp tuc biểu tình tại trụ sở MTTQ (Xuân VN). - Dân Ứng Hoà biểu tình khiếu kiện đất đai tại Phủ thủ tướng (Xuân VN).
- Người dân ‘mờ nhạt’ trong quyết sách đất đai (VNN). - Thu hồi đất: Bất bình vì chênh lệch chủ yếu vào túi tư nhân (VOV). - Thu hồi đất phải mang tính nhân văn (ĐT). - “Đừng để dân nói Nhà nước lấy đất giao cho đại gia” (MTG). - “Thu hồi đất” nóng nhất Luật Đất đai (VnEco). - Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): Vẫn còn nhiều nội dung cần làm rõ (HQ) - Bên lề kỳ họp thứ 6: “Nóng” chuyện thu hồi, đền bù đất (TTXVN). - Minh bạch giá đất, tránh ‘vừa đá bóng vừa thổi còi’ (Tin tức). - “Sự hi sinh của người dân không phục vụ bất cứ cá nhân nào” (Infonet).

- Bồi thường đất nông nghiệp bằng giá trị một vụ thu hoạch là chưa thỏa đáng (NDH).

- Vấn đề thu hồi đất, định giá đất vẫn là điểm nóng trong dự thảo Luật Đất đai (SM). - Quốc hội thảo luận dự án Luật Đất đai (sửa đổi) : Định giá đất phải do thị trường quyết định (SGGP). - Không lạm dụng thu hồi đất cho “đại gia” (PLTP). - Quy định rõ về thu hồi đất để tránh gây bất bình xã hội (TN). - Dân vẫn phải chờ (TN).

- Đề xuất cơ chế dân góp đất vào dự án (TP).- Quốc hội đang thảo luận Luật Đất đai (sửa đổi) (VOV). - Quốc hội thảo luận dự án Luật Đất đai (sửa đổi): Vẫn băn khoăn thu hồi đất cho dự án kinh tế (SGGP). - Gần 7 triệu góp ý cho dự thảo Luật Đất đai sửa đổi (VnEco). - Luật Đất đai sửa đổi sẽ tạo luồng sinh khí mới (PT). - Cần quy định rõ việc bố trí tái định cư (TT).


- Bùi Tín: Những phản biện đầy sức nặng (Blog VOA).- Vũ Quang Việt: Sở hữu đất đai và ổn định xã hội (Diễn Đàn). - Năm vấn đề cần làm để quản lý giá đất (TT). - Giữ quan điểm thu hồi đất để phát triển kinh tế-xã hội(TBKTSG). - Không để chênh lệch địa tô rơi vào túi cá nhân (VNN). – Phỏng vấn TS Đinh Xuân Thảo:Tránh nhập nhèm trong thu hồi đất (ĐT). - Đừng thu hồi đất vì lợi ích nhà đầu tư (NLĐ). - Sửa Luật Đất đai: Ủy ban Nhân dân không có quyền thu hồi đất (VOV).

- Sẽ khắc phục chuyện thu hồi đất tùy tiện (ĐĐK). - Ai được quyền ra quyết định cưỡng chế đất đai? (Infonet). - THÔNG BÁO CƯỠNG CHẾ CỦA UBND HUYỆN EA KAR- TỈNH ĐẮC LẮC TRÁI PHÁP LUẬT CẦN HỦY BỎ. (NCT). - Đất công vô tư cấp sổ đỏ cho cá nhân. - Công an huyện Văn Giang (Hưng Yên): Có bảo kê “đầu gấu” và bỏ qua dấu hiệu phạm tội?. – Đất đai: Đền bù – vay vốn: Bạc bẽo đất rừng (NNVN).- Dân Ứng Hoà tiếp tục kéo tới vườn hoa dân oan (Lê Hiền Đức).

- Cần hiến định chặt chẽ quyền sử dụng đất (CP). - Sửa luật để chấm dứt thu hồi đất tùy tiện (TT). - Thu hồi đất cần quy định chặt chẽ để tránh bị lạm dụng (ĐBND). - Vẫn lo ngại về thu hồi đất cho mục tiêu kinh tế (TBKTSG). - Lo lạm dụng thu hồi đất (NLĐ). - Thu hồi đất phải thông qua HĐND
- Sửa đổi Luật Đất đai: Cần quan tâm đến sinh kế của người dân (VOV). - Đừng để thu hồi đất là nỗi ám ảnh của dân! (LĐ). - Quy định thu hồi đất chưa rõ ràng, chặt chẽ (DV). - Cần hiến định chặt chẽ về thu hồi đất (ANTĐ).

- Bùi Hoàng Tám: Từ câu nói của bác Quốc, nghĩ về trách nhiệm của Quốc hội (DT). - Nhà vệ sinh 1 tỷ: “Phải xem có xứng đáng không?” (KP).

- Nghị định “trên trời rơi xuống”! (TT). - Cấm và thả (TN).




- GS Đặng Hùng Võ: “Sở hữu chung cư chỉ 70 năm”, giờ đưa ra là quá chậm (GDVN). - Chậm giao căn hộ phải trả tiền tỉ (PLTP). - Luật Đất đai mới sẽ tạo “hứng khởi” cho thị trường (ĐTCK). - Bộ Xây dựng chưa được báo cáo vụ Đại Thanh đổ máu (ĐV). - Hà Nội: “Sốt” căn hộ nhỏ, giá dưới 15 triệu đồng/m2 (VnM). - Căng thẳng “cuộc chiến diện tích chung cư” (PLVN). - Những đại gia bất động sản gian dối, vướng vòng lao lý (Infonet).

- Doanh nghiệp sợ… thuế (TN). - Doanh nghiệp tố bị thuế hành (TP). - Doanh nghiệp “kêu rầm trời” vì bị “tận thu” (PLVN).




Trần Trọng Nghĩa: Thư khẩn cầu các vị đại biểu quốc hội nhân kỳ họp thứ 6 khóa 13 (viet-studies 5-11-13) -- "Thưa các quý vị, các con số thống kê hiện nay là kết quả của một hỗn hợp của sự vô trách nhiệm, sự gian dối, sự lười biếng, và các toan tính sai trái của những cá nhân và tập thể trong bộ máy cầm quyền hiện nay"  ... "Chúng tôi khẩn cầu các đại biểu Quốc hội hãy khẩn trương hành động theo tiếng gọi của lương tâm, vì dân, vì nước mà không ủng hộ các lực lượng cực đoan đang tìm cách khống chế các cơ quan lãnh đạo đảng, nhà nước và quốc hội đi theo mô hình bộ máy chuyên quyền, độc tài, phản dân chủ hiện nay" ◄◄ (Sau khi đọc bài này, một bạn chuyên gia email cho tôi, đưa thêm một ví dụ về sự gian dối của thống kê Việt Nam: "Thử lấy một thí dụ: nếu "real GDP" năm nay 5,3% cao hơn năm ngoái, lạm phát 6%-7%, thì làm sao mà thu ngân sách lại được dự tính giảm đi 30%? Nếu tăng trưởng mạnh hơn năm ngoái dù rất nhẹ, các thứ thuế nhất là thuế doanh nghiệp phải tăng chứ? Theo thống kê chính thức của VCCI, mấy chục ngàn doanh nghiệp năm nay đóng cửa; trong các DN hoạt động thì 69% thua lỗ, đó là lý do khiến thuế giảm nặng và sinh ra bội chi ngân sách vượt mức giới hạn dự báo, và phải xin QH "cho tăng mức bội chi mục tiêu")



Ngu muội đến thế là cùng! (Petrotimes 5-11-13) -- Đôi khi ông Như Phong cũng có thể rất hùng hồn: "Không còn có thể hiểu nổi nữa khi mà những cán bộ chủ chốt của Ngân hàng Chính sách Xã hội, là những Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, thủ lĩnh Công đoàn, Đoàn Thanh niên… khúm núm, há hốc mồm nghe một kẻ lừa đảo phán bảo và chỉ trỏ những nơi có hài cốt. Rồi lại cả những nam thanh nữ tú của ngân hàng mê muội đi theo một người đang bị “vong nhập”.



Tổng số lượt xem trang