Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

Thông báo số 12 ngày 30.4.2014 của Hiệp hội Dân oan VN

--Thông báo số 12 ngày 30.4.2014 của Hiệp hội Dân oan VN




-THÔNG BÁO SỐ 10 CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐỊNH THÀNH LẬP HIỆP HỘI DÂN OAN VIỆT NAM (HHDOVN)
Việt Nam, ngày 07/03/2014
Ngày 07/03/2014, bà Lê Hiền Đức và ông Nguyễn Xuân Ngữ đã làm “ĐƠN KHIẾU NẠI HÀNH VI HÀNH CHÍNH” với nội dung khiếu nại hành vi ký và ban hành văn bản số 559/BNV-TCPCP của Bộ Nội Vụ vào ngày 28/02/2014 (xem thông báo số 9). Bà Lê Hiền Đức đã gửi Đơn khiếu nại này đến ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Chúng tôi sẽ thông báo khi nhận được hồi đáp từ phía ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

image001
image003
image005
image007image009


-Ý kiến về công văn trả lời của Bộ Nội vụ đối với Hiệp hội dân oan-
Huy Cường
Trang Ba Sàm vừa đăng công văn trả lời của Bộ Nội vụ về việc thành lập Ban vận động Hiệp hội dân oan Việt Nam và ý kiến của những người định thành lập Hiệp hội.
Sau đây là ý kiến của tôi:
Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP do Bộ trích dẫn để làm căn cứ trả lời là một quy định giới hạn quyền lập hội của công dân bằng cách đặt ra hai điều kiện để thành lập hội. Thứ nhất, muốn thành lập hội phải thành lập ban vận động thành lập hội. Thứ hai, ban vận động thành lập hội phải được cơ quan quản lý nhà nước có liên quan công nhận; nên nếu không có sự công nhận này thì không thể thành lập hội.

Cả hai điều kiện, đặc biệt là điều kiện thứ hai trái với quy định tại Khoản 2 Điều 22 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 (sau đây gọi là “Công ước”) mà Việt Nam là nước thành viên, theo đó việc thực hiện quyền lập hội không bị giới hạn và chỉ chịu những giới hạn “cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác”. Thực tế, Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP đã đưa ra điều kiện có hệ quả giới hạn quyền lập hội, nhưng các điều kiện đó không hề được giới hạn vào yêu cầu về tính cần thiết, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác như quy định của Công ước. Điều này dẫn đến hệ quả là quy định tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP luôn có hiệu lực giới hạn quyền lập hội, bất chấp nó có cần thiết, có vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, hoặc có vì bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác hay không.
Mặt khác, Khoản 1 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiệp điều ước quốc tế quy định “trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”. Như đã nêu ở đoạn trên, do Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP do Bộ trích dẫn để làm căn cứ trả lời quy định khác, thậm chí trái với Công ước về việc giới hạn quyền lập hội, nên Bộ có trách nhiệm phải áp dụng quy định Công ước để trả lời công dân thay vì áp dụng một quy định trái với Công ước như Bộ đã làm.
KẾT LUẬN:
- Nội dung trả lời của Bộ căn cứ vào Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP là trái với quy định tại Khoản 2 Điều 22 của Công ước.
- Việc Bộ áp dụng Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP để trả lời công dân là trái quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiệp điều ước quốc tế.
- Từ đó, trong trường hợp này, Bộ phải áp dụng Khoản 2 Điều 22 của Công ước thay cho Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP để trả lời công dân.
ĐỀ NGHỊ:
Đề nghị Bộ trả lời và giải thích về tính đúng đắn và hợp pháp của các kết luận trên và thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Việt Nam, ngày 28/02/2014
1. Ngày 28/02/2014, chúng tôi đã nhận được văn bản của Bộ Nội vụ trả lời về việc thành lập Ban vận động Hiệp hội dân oan Việt Nam (có bản sao sau đây):

2. Chúng tôi phản đối văn bản này của Bộ Nội vụ, vì có nội dung cấm công dân thực hiện quyền tự do lập hội trái Hiến Pháp 2013 và trái Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
3. Chúng tôi sẽ chính thức có bản khiếu nại đến Bộ Nội vụ trong thời gian tới. Chúng tôi sẽ đề nghị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các Đại biểu Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 có những biện pháp để đảm bảo những quyền tự do dân chủ của công dân, trong đó có quyền tự do lập hội, kiên quyết loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước những quan chức không hiểu biết Hiến pháp và có hành vi cản trở những quyền tự do dân chủ này, khiến Hiến pháp 2013 không được thực thi nghiêm chỉnh, làm giảm uy tín của Quốc hội và Chính phủ.
Thay mặt những người định thành lập “Hiệp hội Dân oan Việt Nam”
Nguyễn Xuân Ngữ
  —

-Nguyễn Xuân Ngữ: Đơn đề nghị giám đốc thẩm vụ kiện hành chính
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIT NAM
Đc lp – T do – Hnh phúc

Qun 9,  ngày  05 tháng 10 năm2013
ĐƠN Đ NGH
XEM XÉT BN ÁN (QUYT ĐNH) CA TÒA ÁN
THEO TH TC GIÁM ĐC THM

Kính gửi:   -  Chánh án Toà án nhân dân Tối cao
                   –  Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao
Người làm đơn:  NGUYỄN XUÂN NGỮ, sinh 1943, cựu chiến binh
Địa chỉ: 166/6 khu phố Mỹ Thành, phường Long Thạnh  Mỹ, quận 9, TPHCM.
Địa chỉ liên lạc: Phòng C9, nhà 41 đường Tăng Nhơn Phú, phường Phước Long  B, quận 9, TPHCM, điện thoại: 0913777040, email: xuanngu@ymail.com ;http://www.youtube.com/watch?v=H8NqZzxW0Iw  .

Là: Nguyên đơn trong vụ kiện hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân TPHCM về việc không tống đạt quyết định thu hồi đất; quyết định  giải quyết  khiếu nại số 46/2012/QĐGQKN-HC ngày 28/02/2012  của TANDTPHCM  và  quyết định giải quyết đơn khiếu nại số 533/2012/QĐ-THC ngày 19/11/2012 của TANDTC

Lý do đề nghị:

  Tóm tắt vụ việc:
Năm 2003 các ngành chức năng của quận 9 đến phổ biến miệng là nhà đất, trang trại của tôi nằm trong dự án xây dựng Khu công nghệ  cao của thành phố, yêu cầu được kiểm kê để lập phương án đền bù, giải tỏa. Thân xác tôi còn không tiếc, Nhà nước có chủ trương phát triển kinh tế nên tôi sốt sắn, chấp nhận hợp tác và tạo điều kiện để các ngành chức năng hoàn thành việc lập hồ sơ bồi thường. Nên các ngành chức năng của quận đã nhiều lần ( khoảng 9-10 lần đến đo đạc, kiểm kê mà không bị một trở ngại nào ).
Trong quá trình đó tôi luôn lưu  ý các ngành chức năng của quận 9 là phải làm  đúng theo trình tự và quy định của pháp luật. Mặc dù chưa nhận được quyết định thu hồi  đất, nhưng để tạo điều kiện cho dự án phát triển được thuận lợi, tôi nhận một số nhỏ tiền bồi thường. Trong các giấy nhận tiền bồi thường tôi đều có ghi tạm nhận, vì hồ sơ pháp lý thu hồi đất của tôi chưa đầy đủ.
Ngày 25/12/2005 Chủ tịch UBNDQ 9 ban hành quyết định 3144/QĐ-UB-BBT do phó Chủ tịch Nguyễn Văn Thành ký về việc công bố giá  trị bồi thường. Trong các đơn khiếu nại, tôi đã chứng minh quyết  định này vi phạm pháp luật và không có cơ  sở là vô hiệu, tôi yêu cầu thu hồi và  hủy bỏ quyết định này.
Chủ tịch UBNDTP  chưa giải quyết khiếu nại quyết định này, thì ngày 03/04/2009 ông Thành, phó Chủ tịch UBNDQ9 ban hành quyết định 13/QĐ-UBND về việc cưỡng chế hành  chính. Quyết định 13 này cũng vi phạm pháp luật như quyết định 3144 nêu trên. Tại Điều 1 nêu  lý do cưỡng chế là tôi : “ không nghiêm túc thi hành quyết định số 2666/QĐ-UB ngày 27/6/2002 của UBND thành phố Hồ Chí Minh về việc thu hồi đất giao xây dựng Khu công nghệ cao Thành phố”, trong khi quyết định 2666 là quyết định chỉ đạo điều hành, không phải là quyết định quy phạm pháp luật để áp dụng chung và cũng không phải là quyết định thu hồi đất theo Điều 21 LĐĐ 1993, 1998, 2001, nó không biểu thị tên tôi và số đất của tôi bị thu hồi và đặc biệt là không tống đạt đến tôi như Điều 3 và Nơi nhận đã ghi. Vì những lẽ đó, tôi khẳng định là tôi không có trách nhiệm thi hành quyết định này. Rõ ràng cưỡng chế lấy đất của tôi là không  đúng pháp luật và oan cho tôi.

Đề nghị:

1.Đối với quyết định 46/2012/QĐGQKN-HC của TANDTPHCM
Theo Luật Đất đai 1993 ( sđ, bs 1998, 2001 ) , tại Điều 21 quy định: “ Việc quyết định giao đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định thu hồi đất đó”. và Luật Đất đai 2003 tại Điều 32 cũng quy định: “Việc quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có quyết định thu hồi đất đó”.
  Trong buổi đối thoại với nông dân Văn Giang ngày 21/08/2012, ông Chu Phạm Ngọc Hiển, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường đã khẳng định: “… quyết định thu hồi đất là quyết định hành chính, không phải là văn bản quy phạm pháp luật, nên phải tống đạt đến đối tượng thi hành. Việc người dân không nhận được quyết định là lỗi của chính quyền địa phương”.
Ngày 27/06/2002 Chủ tịch UBNDTPHCM ban hành quyết định 2666/QĐ-UB về việc thu hồi và giao đất  xây dựng Khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh. Tại Điều 3 quyết định này xác định đối tượng thực hiện, không nêu tên tôi mà chỉ nói chung  … và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định này”. Nơi nhận ghi: như điều 3 ( có nghĩa là ai có trách nhiệm thi hành thì được nhận bản chính quyết định này) . Tôi không có tên trong điều 3 và cũng không được nhận một bản chính quyết định, đương nhiên là tôi không có trách nhiệm thi hành. Thế nhưng UBNDQ9 nói rằng đây là quyết định thu hồi đất đối với tôi, tôi phải thi hành, giao đất. Nhiều năm và nhiều đơn khiếu nại tôi gửi cho Chủ tịch UBNDQ9 và Chủ tịch UBNDTPHCM tôi đều yêu cầu hai cơ quan này tống đạt quyết định 2666/QĐ-UB đến tôi để tôi nghiên cứu thực hiện hoặc khiếu nại, nhưng hai cơ quan này cũng không thực hiện. Tôi nghĩ rằng UBNDQ9 và UBNDTPHCM có sự nhầm lẫn… Vì quyết định không ghi tên tôi và không tống đạt đến tôi thì rõ ràng từ quyết định này đã nói lên là tôi không có trách nhiệm thi hành.
         Ngày 19/01/2011, Chủ tịch UBNDTPHCM  ban hành công văn 227/UBND-PCNC khẳng định tôi có trách nhiệm thi hành giao đất quyết định 2666/QĐ-UB của Chủ tịch UBNDTPHCM. Như vậy cũng có nghĩa là Chủ tịch UBNDTPHCM phải có trách nhiệm thực hiện các công việc mà chính quyết định này đề ra. QSD đất là tài sản của công dân và nơi ở … là những quyền cơ  bản của con người và quyền của công dân. Cả ông Chu Phạm Ngọc Hiển, thứ trưởng Bộ Tài Nguyên Môi trường  cũng khẳng định: quyết định thu hồi đất là quyết định hành chính, chính quyền địa phương phải có trách nhiệm tống đạt đến đối tượng thi hành. Vì thế tôi khởi kiện hành vi hành chính của Chủ tịch UBNDTPHCM vì không tống đạt quyết định đến tôi. Vi phạm khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính: “2. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật”.
      Ngày 16/08/2011 tôi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân TPHCM, tính từ 19/01/2011, ngày mà Chủ tịch UBNDTPHCM khẳng định tôi có trách nhiệm thi hành, và căn cứ theo Nghị quyết 56 /2010/QH12 thì vụ kiện của tôi còn trong thời hiệu.
2. Đối với quyết định 533/2012/QĐ-THC của TANDTC.
     Ngày 13/03/2012 và ngày 08/8/2012 tôi gửi đơn khiếu nại tiếp theo đến TANDTC.
     Ngày 19/11/2012 TANDTC ban hành quyết định 533/2012/QĐ-THC v/v giải quyết đơn khiếu nại. Quyết định này áp dụng sai pháp luật và mâu thuẫn. Cụ thể như sau:
        Trong QĐ 533/2012/QĐ-THC , TANDTC trích nguyên văn Điều 28 Luật Tố tụng hành chính: “  Những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh”.
      Luật nêu rõ ràng như vậy, thế mà Tòa án nhân dân tối cao lại cho rằng: Đối
chiếu với quy định trên, thì  các nội dung mà ông khiếu kiện theo đơn khởi kiện ngày 11/8/2011 với nội dung đã nêu trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bằng vụ án hành chính.
     Rồi Tòa tối cao quyết định không ăn nhập với nhận định trên: “Không chấp nhận khiếu nại của ông  Nguyễn Xuân Ngữ; giữ nguyên quyết định giải quyết khiếu nại số 46/2012/QĐGQKN-HC ngày 28/02/2012 của Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh”.

     Từ các vấn đề nêu trên tôi khẳng định rằng:
1.Tòa án nhân dân Tối cao áp dụng sai pháp luật tại khoản 1 Điều 28, nêu trên. Điều này khẳng định thẩm quyền giải quyết của Tòa là các quyết định hành chính, hành vi hành chính (chỉ  trừ vụ việc … thuộc bí mật nhà nước…). Thì việc của tôi khởi kiện Chủ tịch UBNDTPHCM không tống đạt QĐ 2666 đến tôi mà bắt tôi phải chấp hành, thì làm sao không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bằng vụ án hành chính ?( việc không tống đạt quyết định (được cho là quyết định thu hồi đất- QĐ 2666) mà  Tòa lại cho là bí mật nhà nước hay sao?hoặc công việc tống đạt không phải hành vi hành chính thì nó là cái gì? )
2.Quyết định 533 lại nêu: “Không chấp nhận khiếu nại của ông  Nguyễn Xuân Ngữ; giữ nguyên quyết định giải quyết khiếu nại số 46/2012/QĐGQKN-HC của Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh”. Lẽ ra, nếu Tòa Tối cao cho rằng không thuộc phạm vi giải quyết của Tòa ( như nhận định trên ), thì Tòa Tối cao hủy luôn quyết định của Tòa TPHCM mới đúng, đằng này TANDTC giữ nguyên, nghĩa là chấp nhận, cũng có nghĩa là việc khiếu kiện của ông Ngữ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa!!!( TANDTPHCM  bác đơn khởi kiện của ông Ngữ vì cho rằng quá thời hiệu, chứ không phải bác vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa, như nhận định của Tòa Tối cao, mà Tòa Tối cao lại  giữ nguyên?).  Lập luận của tòa sao mà mâu thuẫn vậy?
3.Quyết định 5 này không đúng một quyết định giải quyết đơn khiếu nại như trích yếu đã đã ghi. Tôi khiếu nại quyết định 46 của TANDTPHCM trả đơn khởi kiện của tôi vì cho rằng quá thời hiệu. Tôi chứng minh và khiếu nại là không quá thời hiệu. Nhưng quyết định 533 lại không chứng minh phản bác lập luận khiếu nại của tôi, lại “ a thần phù” tuyên bố giữ nguyên quyết định 46 của TANDTPHCM !?
       Cũng cần nói thêm Cơ quan Nhà nước thi hành công vụ phải chính danh, công khai, minh bạch. Không thể chấp nhận chính quyền của dân, vì dân, do dân mà ban hành quyết định phá nhà lấy đất của dân ( mà không minh thị tên người có đất bị thu hồi, số mét vuông bị thu hồi, tại thửa nào?  ở đâu? ) từ năm 2002 rồi đút vào ngăn kéo, rồi bảo dân phải thi hành, dân yêu cầu tống đạt cũng không tống đạt… Khi dân khởi kiện thì bảo rằng hết thời hiệu. Xin hỏi Tòa và Viện lấy cơ sở nào để bảo là hết thời hiệu. Chính quyền của nhà nước pháp quyền của ta “dân chủ gấp vạn lần chính quyền tư sản” thì đối với dân phải minh bạch, đàng hoàng, chính danh, tôn trọng dân, không thể hành xử với dân theo kiểu mờ ám, của xã hội vô chính phủ : muốn lấy là lấy, muốn cướp là cướp, không theo trình tự thủ tục quy định của pháp luật ?!
Yêu cầu của người đề nghị :
        Căn cứ  Điều 209, Điều 210 Chương XIII Luật Tố tụng hành chính, tôi đề nghị Chánh án TANDTC  và Viện trưởng VKSNDTC xem xét ban hành quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm theo hướng hủy bỏ quyết định 46/2012/QĐGQKN-HC của TANDTPHCM và quyết định giải quyết đơn khiếu nại 533/2012/QĐ-THC của TANDTC vì sai pháp luật. Yêu cầu TANDTPHCM xét xử sơ thẩm lại, theo hướng buộc Chủ tịch UBNDTPHCM tống đạt quyết định 2666/QĐ-UB ngày 27/06/2002 đến tôi để tôi nghiên cứu thi hành hoặc khiếu nại vì đó là quyền con người và quyền công dân của tôi mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định.

Những tài liệu, chứng cứ bổ sung kèm theo đơn đề nghị gồm có:
1.Quyết định 2666/QĐ-UB ngày 27/06/2002 của Chủ tịch UBNDTPHCM.
2.Quyết định 13/QĐUBND ngày 04/03/2009 của UBNDQ9
3.Công văn 227/UBND-PCNC ngày 19/01/2011 của Chủ tịch UBNDTPHCM.
4.Đơn khởi kiện đề ngày 16/08/2011.
5.Thông báo Trả đơn khởi kiện số 2827/TATP-VP ngày 13/10/2011 của
   TANDTPHCM.
5.Đơn khiếu nại đề ngày 25/10/2011.
7. Quyết định 46/2012/QĐGQKN-HC ngày 28/02/2012 của TANDTPHCM.
8.Đơn khiếu nại ngày 13/3/2012  và đơn khiếu nại bổ sung ngày 08/8/2012.
9.Quyết định 533/2012/QĐ-THC ngày 19/11/2012 của TANDTC.

                                                                                     Người làm đơn
Mời xem tư liệu tại các đường dẫn:
                                                                                    Nguyn Xuân Ng



Tổng số lượt xem trang