-Trở lại chuyện Chu Vĩnh Khang viếng thăm Việt Nam -Đàn Chim Việt by Tú Hoa
Sự khủng hoảng về tài chánh, thị trường bất động sản, chính trị tại Hoa Kỳ càng làm cho mọi quốc gia dao động và là cơ hội tốt để cho Trung Quốc thực thi kế sách “dậu đổ bìm leo,“ trong đó có việc gia tăng ảnh huởng của mình tại vùng Đông Nam Á về kinh tế lẫn chính trị.
-Thế trận đối đầu giữa “bảy chị em” và TQ Đàn Chim Việt Tú Hoa
-Sơ lược cuộc đối đầu giiữa Chu Vĩnh Khang (Zhou Yongkang) và “Bảy chị em”Đàn Chim Việt Tú Hoa
Vào ngày 2 tháng Tám năm 2005, một công ty dầu khí Trung Quốc, China National Offshore Oil Corporation, hay còn gọi là CNOOC Group đã phải chấp nhận ép buộc rút lui ý định mua lại công ty dầu khí Unocal 76 của Hoa Kỳ với giá đề nghị lên đến 18.5 tỷ Mỹ kim.
Công ty Unocal 76 được thành lập từ tháng Mười năm 1890, có trụ sở tại El Segundo, tiểu bang California Hoa Kỳ. Doanh thu hàng năm của Unocal là khoảng 5 đến 8 tỷ Mỹ kim và có hơn 6 ngàn nhân viên thường trực.
Chu Vĩnh Khang không có tham vọng trở thành Tổng Bí Thư, Thủ Tướng mà chỉ muốn nhìn thấy sức kiểm soát sở hữu dầu hỏa của Trung Quốc trên toàn thế giới được lớn mạnh nên chẳng có thế lực nào trong Đảng lo lắng Chu Vĩnh khang sử dụng an ninh mật vụ cho những mưu toan chính trị.
-Chu Vĩnh Khang và người thân vơ vét 16 tỷ USD
Vào ngày 29 tháng 10 năm 2008, ông Chu Vĩnh Khang, kỹ sư ngành dầu hỏa, nguyên tổng giám đốc tập đoàn dầu khí Trung Quốc (1996-1998), sang thăm Việt Nam với tư cách Ủy Viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Bí thư Ủy ban Chính pháp Trung ương và được Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư Đảng CSVN đón tiếp nồng hậu tại Hà Nội.
Trong cuộc tiếp xúc với Nông Đức Mạnh và các nhân vật chóp bu của Cộng Sản Hà Nội, trong đó có cả Trương Tấn Sang, lúc bấy giờ là Bí thư thuờng trực của Cộng Sản Hà Nội, sau này là Chủ Tịch nước, ông Chu Vĩnh Khang tiếp tục nhấn mạnh đến sự quan trọng trong việc hợp tác “chiến lược “sâu rộng hơn giữa hai quốc gia. Ông Chu gia tăng áp lực lên Cộng Sản Hà Nội về những đòi hỏi chiến lược từ phía Bắc Kinh.
Bộ ngoại giao của cả đôi bên không giải thích rõ hay định nghĩa thế nào là hợp tác “chiến lược” sâu rộng hơn nhưng phía Trung Quốc đã tỏ rỏ nỗ lực của họ trong việc gia tăng áp lực chính trị của mình lên Cộng Sản Hà Nội, buộc Hà Nội phải đi theo những nguyên tắc hợp tác mà Trung Quốc đề ra.
Ông Chu Vĩnh Khang cũng ghé thăm Sài Gòn và thăm viếng các cơ sở đầu tư của Trung Quốc tại thành phố này và các vùng phụ cận, cũng như tiếp xúc với những người cầm đầu của Đảng tại Sài Gòn .
Ông Chu Vĩnh Khang cũng ghé thăm Sài Gòn và thăm viếng các cơ sở đầu tư của Trung Quốc tại thành phố này và các vùng phụ cận, cũng như tiếp xúc với những người cầm đầu của Đảng tại Sài Gòn .
Bối cảnh ngoại giao- chính trị- kinh tế của chuyến viếng thăm Việt Nam của Chu Vĩnh Khang vào ngày 29-10-2008:
Ông Chu Vĩnh Khang sang thăm Việt Nam ở một thời điểm hết sức là đặc biệt, có một không hai trong lịch sử:
A. Tình Hình Quốc Tế:
Chuyến công vụ này chỉ xảy ra một tuần lễ trước khi có cuộc bầu cử Tổng Thống của Hoa Kỳ (4-11-2008) giữa hai vị thuợng nghị sĩ John McCain của đảng Cộng Hòa và Barack Obama của đảng Dân Chủ. Trung Quốc đã biết rỏ tám năm cầm quyền của Tổng Thống Bush thuộc đảng Cộng Hòa sẽ là món quà quá lớn cho sự thắng cử trong tương lai của thuợng nghị sĩ Barack Obama. Đường lối chính trị của Hoa Kỳ cũng vì vậy mà sẽ thay đổi hoàn toàn sau cuộc bầu cử này- nhất là những thay đổi về đối sách của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á.
Năm 2008 cũng là năm mà cơn sốt giá dầu hỏa lên cao nhất, có khi lên trên 100 đô la một thùng, tạo ra sự biến động khủng hoảng về kinh tế trên toàn cầu. Chuyến công du của ông Chu Vĩnh Khang cũng xảy ra trong lúc cuộc khủng hoảng về tài chánh dẫn đến sụp đổ về thị trường nhà cửa, ngân hàng, chứng khoáng và hàng loạt các rối loạn khác về kinh tế đang diễn ra tại Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới, đòi hỏi chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ phải có biện pháp cứu giúp hay còn gọi là “bail out”.
Sự khủng hoảng về tài chánh, thị trường bất động sản, chính trị tại Hoa Kỳ càng làm cho mọi quốc gia dao động và là cơ hội tốt để cho Trung Quốc thực thi kế sách “dậu đổ bìm leo,“ trong đó có việc gia tăng ảnh huởng của mình tại vùng Đông Nam Á về kinh tế lẫn chính trị.
B. Rạn Nứt Ngoại Giao giữa Việt Nam Trung Quốc:
Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc Vào năm 2008 đang rạn nứt với nhiều vấn đề nghiêm trọng như sau :
1. Thâm hụt mậu dịch:
Tính đến thời điểm năm 2008, thì Việt Nam đã thâm hụt mậu dịch với Trung Quốc lọt lên đến gần 10 tỷ Mỹ kim tạo ra nợ nần và sản xuất phá sản cho Việt Nam. Tính đến tháng 11 năm 2008 , tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc lên đến 13.8 tỷ Mỹ kim trong khi xuất khẩu chỉ đạt 4 tỷ Mỹ kim mà thôi.
Trong một quốc gia mà nền kinh tế èo uột tổng giá trị sản phẩm quốc dân- GDP không quá 143 tỷ Mỹ kim vào năm 2008 thì mười tỷ Mỹ kim thâm hụt mậu dịch (khoảng 6.9% GDP ) với Trung Quốc là một đại nạn cho Việt Nam, thúc đẩy Việt Nam lún sâu vào thất nghiệp, sản suất nhỏ và vừa bị phá sản – ngoại tệ tích lũy bị chảy máu công khai không thể cứu vãn.
Nói một cách ngắn gọn bình dân, toàn bộ thặng dư mà nền kinh tế Việt Nam kiếm được chảy hoàn toàn vào túi của Trung Quốc .
2. Trung Quốc thâu tóm nền Kinh Tế Việt Nam:
Ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc tính đến thời đến 2008 đang có những bế tắt về phiá Việt Nam vì Cộng Sản Hà Nội đã để nền kinh tế Việt Nam lần hồi bị Trung Quốc thâu tóm. Năm 2008 cũng là năm mà Trung Quốc gần như đã có thể thâu tóm toàn bộ nền kinh tế Việt Nam và nắm trong tay toàn bộ các dự án, các công trình xây dựng lớn của Việt Nam. Điều này chỉ khiến Việt Nam-và nhất là Cộng Sản Hà Nội, phải chấp nhận hoàn toàn nằm trong quỹ đạo sai khiến của Trung Quốc khiến những chống đối trong và ngoài nội bộ đảng Cộng Sản Hà Nội gia tăng.
Cụ thể hơn, sau đây là các công trình dự án kinh tế lớn của Việt Nam mà Trung Quốc nắm trọn ở vào thời điểm ông Chu Vĩnh Khang sang thăm Việt Nam vào tháng Mười Năm 2008:
2a. Đường sắt đô thị Cát Linh- Hà Đông:
Đây là tuyến đường sắt đô thị đầu tiên của Việt Nam với tổng số vốn lên đến 522 triệu Mỹ kim do Trung Quốc đấu thầu xây dựng với 80% số vốn là Trung Quốc- 419 triệu Mỹ kim. Thời gian xây dựng sẽ là từ tháng Tám năm 2008 đến tháng 11 năm 2013. (Ghi Chú: Thế nhưng công trình này mãi đến năm 2015 thì mới hoàn thiện buộc phía Việt Nam bấm bụng âm thầm chịu lỗ thêm 339 triệu Mỹ kim, làm tổng số vốn đầu tư tăng vọt lên đến 891 triệu Mỹ kim.)
2b. Cao Tốc Hà Nội- Hải Phòng:
Đoạn đường “freeway” này dài 105 km, đi ngang qua Hà Nội , Hưng Yên, Hải Dương và Hải Phòng, có tám “lane” cho xe chạy. Dự án này khởi công năm 2008, với tổng số vốn huy động dự tính lên đến 1.25 tỷ Mỹ kim với hơn bốn nhà thầu của Trung Quốc- trong đó Việt Nam mượn nợ từ Trung Quốc lên đến 570 triệu Mỹ kim.
2c. BauxiteTây-Nguyên:
Trung Quốc đấu thầu hoàn toàn hai dự án khởi công vào năm 2008 trên Tây Nguyên; xây hai nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ để khai thác quặng nhôm tại đây. Dự án bauxite đang gây căng thẳng trong lãnh vực ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc vì những chống đối từ phía Việt Nam với những lý do về quốc phòng, môi trường cũng như hiệu quả của dự án kinh tế này. Cộng Sản Hà Nội đã phải ra sức trấn áp những phản đối trong cũng như ngoài nội bộ Đảng về dự án này.
2d. Nhà máy Gang Thép Lào Cai:
Giai đoạn một khởi công sẽ bắt đầu từ năm 2008 – tổng số vốn ước tính khoảng 340 triệu Mỹ kim, trong đó, nợ Trung Quốc khoảng gần 43% tổng số vốn.
2e. Thống kê FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tính đến trước khi Chu Vĩnh Khang sang thăm Việt Nam:
Tổng kết tính đến tháng Tư năm 2007, thì Trung Quốc đã có tổng cộng hơn 550 dự án đầu tư FDI vào Việt Nam với số nợ lên đến 1 tỷ bảy Mỹ kim vào Việt Nam. Tính đến thời điểm ông Chu Vĩnh Khang sang thăm Việt Nam 10-2008, Trung Quốc trúng thầu mọi công trình lớn nhỏ tại Việt Nam (được xác nhận là 90 % ) trong đó các công trình về thủy điện & giao thông hoàn toàn nằm trong tay Trung Quốc.
Cho nên, mọi đề nghị ngoại giao, mọi áp lực ngoại giao từ phía Trung Quốc, Cộng Sản Hà Nội không có cách gì cưỡng lại. Do đó, quan hệ ngoại giao Việt- Trung trở thành nguyên do bộc phát bất mãn về chính trị trong lòng xã hội Việt Nam.
C. Chu Vĩnh Khang là ai?
Để hiểu rõ hơn bản chất của chuyến đi Chu Vĩnh Khang sang thăm Việt Nam, nhân vật Chu Vĩnh Khang cần phải được nhìn qua lăng kính như là một quân sư về kinh tế của Đảng Cộng Sản Trung Quốc hơn là một trùm an ninh mật vụ.
Chu Vĩnh Khang là cha đẻ của CHỦ NGHĨA THỰC DÂN TRUNG HOA KIỂU MỚI (neo-chinese colonialism.) Ông vốn là một kỹ sư dầu hỏa, đi lên có quyền lực vì vai trò trách nhiệm của ông trong việc đảm bảo xăng dầu cho nền kinh tế bộc phát của Trung Quốc. Cũng xin lưu ý là ba năm trước khi ông viếng thăm Việt Nam, tức là vào năm 2005, công ty dầu hỏa của Trung Quốc CNOOP dưới quyền của ông đã xuýt nữa tóm thâu trọn vẹn thành công ty dầu hỏa Unocal 76 nếu Hạ Viện Hoa Kỳ không can thiệp.
Chính sách “Thực Dân Trung Hoa Kiểu Mới” (Chinese neo-Colonialism) mà Chu Vĩnh Khang đề ra là tung toàn lực để đầu tư khai thác (exploitation,) tìm đủ mọi cách để sở hữu chiếm đoạt bao gồm cả dùng thủ đoạn chính trị lẫn đầu tư tung vốn (acquisition) và bành trướng tối đa sức mạnh kinh tế của Trung Quốc lên những quốc gia Trung Quốc khai phá đầu tư, chủ yếu là bành trướng về thuơng mại và đấu thầu nắm cơ sở hạ tầng (expansion)
Ông Chu Vĩnh Khang thuyết phục đảng Cộng Sản Trung Quốc đầu tư khai thác mạnh mẻ khoáng sản ở mọi quốc gia, mọi châu lục trên thế giới- nhất là tập trung vào khai thác dầu hỏa- như là một chiến lược cần thiết cho Trung Quốc duy trì sự phát triển của mình.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia đang dần dần nằm trong ảnh huởng của chính sách “Thực Dân Trung Quốc Kiểu Mới” (Chinese neo-Colonialism) này của Trung Quốc. Như đã nêu trên, khoáng sản của Việt Nam đang được Trung Quốc khai thác dữ dội trừ dầu hỏa được giới “BẢY CHỊ EM” , tức là tiếng lóng chi các tập đoàn dầu hỏa thế giới do Hoa Kỳ hậu thuẫn đang án ngữ, mọi công trình cở sở hạ tầng đang bị Trung Quốc đấu thầu và Việt Nam đang bị thâm hụt mậu dịch nặng nề đối với hàng hóa Trung Quốc.
Điều bực tức của Bắc Kinh là Trung Quốc đã vào Việt Nam khai thác đầu tư ở mọi ngành nghề nhưng có một ngành nghề vô cùng quan trọng cho sự ổn tăng trưởng của Trung Quốc, đó chính là ngành dầu hỏa, thì Trung Quốc lại chưa thật sự chen chân vào lọt.
Xin được lưu ý trong ngành dầu hỏa thì sự cạnh tranh lại khác với mọi ngành kinh tế khác. Các ngành kinh tế khác như ngành xe hơi, điện tử thì cạnh tranh để sản phẩm bán càng nhiều càng tốt, càng có lời. Riêng ngành dầu hỏa thì ngược lại, sự cạnh tranh lại không phải là bán càng nhiều dầu càng tốt mà SỞ HỮU LƯỢNG DỰ TRỮ DẦU CÀNG NHIỀU CÀNG TỐT. Dầu hỏa cũng là một loại sản phẩm mà giới kinh tế học gọi là “in-elastic product,” tức là sản phẩm mà bán càng ít, giá càng cao thì lợi nhuận càng nhiều. Bản chất kinh tế này của dầu hỏa hoàn toàn khác với các sản phẩm điện tử, xe hơi, quần áo, càng bán ra nhiều với giá càng rẻ thì lại càng có lời- thuờng được gọi là “elastic product.”
Như vậy, nếu bản chất cạnh tranh trong ngành dầu hỏa là NỔ LỰC GIA TĂNG SỰ SỞ HỮU VỀ DỰ TRỮ DẦU thì nước có trử lượng dầu như Việt Nam hoàn toàn là trọng tâm dòm ngó của các thế lực dầu hỏa, trong đó có giới “BẢY CHỊ EM” và Trung Quốc, một quốc gia đang bùng phát kinh tế quá mức và cần dầu kinh khủng, đang chạy theo một chính sách “Thực Dân Trung Hoa Kiểu Mới” tàn bạo băng hoại môi trường.
Riêng về ngành dầu hỏa Việt Nam khởi sắc từ năm 1994, ngay sau khi Hoa Kỳ bải bỏ cấm vận. Sản lượng dầu thô của Việt Nam lên gấp đôi trong những năm 2000 hoàn toàn là nhờ giới “BẢY CHỊ EM,” mà vào năm 2005, đã hất cẳng công ty dầu khí Trung Quốc ra khỏi dự án thâu tóm công ty dầu khí Unocal 76.
Tính tới thời điểm ông Chu Vĩnh Khang sang thăm Việt Nam, Trung quốc phải tìm đủ mọi cách để loại bỏ trên dưới gần 15 công ty dầu hỏa của giới “BẢY CHỊ EM,” đang nườm nượp khai thác đầu tư tại ngoài khơi miền Nam Việt Nam. Sau đây là danh sách những công ty của giới “BẢY CHỊ EM” vào Việt Nam:
ExxonMobil, Chevron, BHP Billiton, công ty Dầu Khí Hàn Quốc (KNOC), Total & ONGC(Ấn Độ), Malaysia Petronas, Nippon (Nhật Bản), Talisman& PTTEP (Thái Lan), Premier Oil, SOCO International, ConocoPhillips và Neon Energy.
Muốn bứng bao nhiêu đây công ty từng phần hay toàn bộ ra khỏi Việt Nam để các công ty dầu khí Trung quốc chen chân không phải dễ. Giới chiến lược gia Trung Quốc hy vọng rất lớn đến kế sách NỘI CÔNG NGOẠI KÍCH- tức là khống chế Việt Nam về kinh tế, ràng buộc Việt Nam về chính trị (nội công) và ra sức gia tăng căng thẳng tại biển Đông để khiến giới “BẢY CHỊ EM” nản lòng mà bỏ cuộc hoặc chấp nhận thỏa hiệp riêng lẽ với Trung Quốc (ngoại kích)
Trung quốc đặt nhiều hy vọng vào chính sách “ăn cướp” này nên ngăn cản các công ty dầu khí của mình nhào vào ký kết các hợp đồng khai thác dầu tại miền Nam Việt Nam; vì làm như vậy, Trung Quốc chẳng khác nào thừa nhận dầu khí tại vùng này là nằm trong lãnh thổ của Việt Nam hay sao.
D. Sự theo dõi Chu Vĩnh Khang của Hoa Kỳ:
Đã từ lâu, Hoa Kỳ theo dõi chặt chẽ mọi hành động của Chu Vĩnh Khang, không những vì ông, vào thời điểm 2008 giữ trọng trách trùm mật vụ an ninh Trung Quốc, cánh tay phải của Giang Trạch Dân và cũng là cố vấn quan trọng cho Hồ Cẫm Đào về chính sách “Thực Dân Trung Quốc kiểu mới” ( Chinese neo-Colonialism) , mà còn là vì ông là cái đầu cố vấn nghĩ ra mọi chính sách năng lượng của Trung Quốc, trong đó có kế sách khai thác khắp nơi trên thế giới thoát khỏi sự kềm hãm của Hoa Kỳ về dầu hỏa.
Quay trở lại sự phát triển của Trung Quốc, sở dĩ Trung Quốc được các chiến lược gia Hoa Kỳ cho giúp đở phát triển lúc ban đầu là vì MỘT PHẦN Hoa Kỳ tin rằng họ có thể kềm chế và làm cho Trung Quốc bi tê liệt nền kinh tế khi cần thiết nếu có những hành động đối nghịch lại với Hoa Kỳ, gây nguy hại cho sự lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ. Ngoài phưong thức kềm hãm Trung Quốc bằng quân sự, bằng thị trường kinh tế, không chế Trung Quốc thông qua năng lượng là một trong những cách dễ dàng và hiệu quả vô cùng vì thế lực dầu hỏa và khả năng sở hữu lượng dự trữ dầu hỏa của giới “BẢY CHỊ EM” do Hoa Kỳ hậu thuẫn đã từ lâu gần như nắm hết quyền khai thác ở mọi quốc gia có dầu hỏa, kể cả Việt Nam ngày nay.
Chu Vĩnh Khang lại là người đưa ra chính sách lần hồi tăng khả năng tự chủ, duy trì ổn định về năng lượng dầu hỏa cho Trung Quốc trước sức hút dầu chỉ ngày mỗi tăng từ nền kinh tế, kiếm đường thoát khỏi sự kềm chế của Hoa Kỳ về năng lượng dầu hỏa. Việc tấn công vào Bắc Mỹ của các công ty dầu hỏa Trung Quốc trong khi Bắc Mỹ vốn là đại bản doanh của giới BẢY CHỊ EM hơn 200 năm nay, mà cao điểm là năm 2005 với vụ tranh dành mua công ty Unocal 76 với Chevron đã làm cho các công ty dầu khí của Trung Quốc trở nên là tâm điểm theo dõi của giới tình báo chiến lược tại Hoa Kỳ- đương nhiên, trong đó, có sự theo dõi mọi hoạt động của Chu Vĩnh Khang.
Cho nên , chuyến di của Chu Vĩnh Khang hoàn toàn nằm trong sự theo dõi rất sát của tình báo Hoa Kỳ và BẢY CHỊ EM.
E. Hệ quả của chuyến viếng thăm Việt Nam của Chu Vĩnh Khang:
1. Áp Lực từ phía Trung Quốc:
Sau chuyến đi này, Việt Nam tiếp tục nhận những áp lực ngày một gia tăng từ phía Bắc Kinh về lãnh hải, nhất là áp lực chấm dứt cho phép các công ty dầu hỏa của giới “BẢY CHỊ EM” được khai thác thăm do tại biển Đông, trong đó có vùng biển phía Nam miền Nam Việt Nam.
Sang năm 2009 trở đi, tàu cá Việt Nam liên tục bị Hải quân Trung Quốc húc chìm hoặc bắt đi đòi tiền chuộc. Trung Quốc đã làm đúng những gì mà ông Chu Vĩnh Khang cảnh cáo Hà Nội khi sang thăm trong vấn đề đòi hỏi của Trung Quốc hợp tác sâu hơn về mặt “chiến lược.”
Trung Quốc cũng dằn mặt cảnh cáo công khai các công ty dầu hỏa của giới “BẢY CHỊ EM” khi đang lăm le muốn đầu tư khai thác thêm tại duyên hải Việt Nam. Trung Quốc tiếp tục gia tăng sức mạnh hải quân, gia tăng sự hiện diện không quân đe doa trực tiếp đến Hà Nội Hải Phòng cũng như gia tăng sự hiện diện quân sự lên các đảo đã chiếm đóng sau khi giao tranh với Việt Nam, chẳng hạn như quần đảo Hoàng Sa, đảo Gạc Na.
NgàY 19 – 5-2009, tức là bảy tháng sau chuyến viếng thăm của Chu Vĩnh Khang sang Việt Nam, hãng dầu BP(British Petroleum) đã phải rút lui hai dự án tại Block 5-2 và Block 5-3 ngoài hải phận miền Nam Việt Nam trước áp lực kinh khiếp của Trung Quốc. Hai block này cách bờ biển Việt Nam khoảng 230 miles kế đảo Hoàng Sa. BP ước tính có trên 55.9 % cổ phần ở block 5-2 và gần 75% cổ phần ở block 5-3. Sự rút lui của BP kéo theo sự tháo chạy của các hãng dầu Ấn Độ cũng như sự tháo chạy của ConocoPhillips.
Sự rút lui của BP kéo theo sự tháo chạy của hãng dầu ConocoPhillips. ConcoPhillips loan báo từ từ bán hết mọi asset (tài sản) của mình từ năm 2009 cho đến 2012 với tổng giá trị có thể lên đến 1.29 tỷ Mỹ kim.
Ấn Độ cũng rụt rè rút lui thăm dò dầu hỏa tại Việt Nam, nhất là tại lô 128 để né bớt áp lực của Trung Quốc vào năm 2012 và chỉ tuyên bố quay trở lại khi biết chính phủ Obama ký kết hiệp ước đồng minh quân sự, cam kết hổ trợ toàn lực phía đàng sau cho Ấn
Vào ngày 26 tháng 5 năm 2011, tàu hải giám Trung Quốc chạy thẳng vào hải phận Việt Nam cắt dây cáp của tàu thăm dò Bình Minh của tập đoàn dầu khí Petro Việt Nam tạo ra một sự lo lắng tột cùng cho giới “BẢY CHỊ EM” về tính an toàn khi đầu tư tại Việt Nam khai thác thăm dò dầu hỏa.
Nền chính trị của Hoa Kỳ từ cuối năm 2008 đến hết 2009 còn đang chỉnh đốn về nhân sự cho nội các mới, với nhiều biện pháp cứu vãn nền kinh tế, trong đó có tài chính cho nên chưa kịp ra tay cứu trợ giới BẢY CHỊ EM tại Việt Nam. Chỉ trong gang tấc, Trung Quốc đã gần như có thể đạt được kết quả tốt đẹp như mong muốn, đó là ép buộc giới “BẢY CHỊ EM” thuơng thảo với Trung Quốc tháo chạy khỏi Việt Nam.
2. Chống đở – cứu vãn từ giới “BẢY CHI EM” và Hoa Kỳ:
Từ cuối năm 2008 đến cuối năm 2009, giới “BẢY CHỊ EM” chịu đựng áp lực nặng nề từ phía Trung quốc yêu cầu cuốn gói khỏi Việt Nam. BP đã dao động và tháo chạy kéo theo cả ConocoPhillips, tuy nhiên hãng Chevron và ExxonMobil vẫn im lặng bình thản chờ chính trường Hoa Kỳ tỏ rỏ thái độ khi đã hoàn tất vấn đề nhân sự trong nội các của chính phủ Obama.
Riêng về Chevron, sự bực dọc của giới tư bản “BẢY CHỊ EM” nằm trong đại công ty này đã lên cao độ vì hãng dầu khí của Trung Quốc CNOOC cứ tiếp tục tăng giá – quyết tâm mua cho bằng được hãng dầu khí Unocal 76 vào năm 2005. Chevron đã ra giá lên đến gần 16.5 tỷ Mỹ kim nhưng vẫn không mua được mà phải chờ Hạ Viện Hoa Kỳ thông qua nghị quyết ép buộc CNOOC rút lui. Chevron lại phải tốn thêm gần một tỷ Mỹ kim nữa để “match the bid”- trả bằng giá với giá CNOOC đưa ra trước đó.
Đó là chưa kể những động thái “chọt gậy bánh xe” của Trung Quốc lên nền chính trị của Venezuela, khiến chính phủ nước này lần hồi quốc hữu hóa từng phần hoặc trọn vẹn tài sản của giới “BẢY CHỊ EM” ở xứ sở này. Trung Quốc hiện tung tiền thâu tóm gần hết các tài sản của giới BẢY CHỊ EM tại Venezuela làm Chevron cũng như toàn thể giới “BẢY CHỊ EM” bực tức ra mặt và quyết tâm dùng Việt Nam làm tiền đồn trả đũa Trung Quốc tới cùng.
Chevron và ExxonMobil hợp tác trụ lại; âm thầm chuẫn bị lựu lượng phản đòn. Giới “BẢY CHỊ EM” ngồi chịu trận trước sức ép của Trung Quốc suốt năm 2009 cho đến khi Chính Phủ Obama cũng cố về mặt nhân sự cũng như “BẢY CHỊ EM” có đủ thời giờ vận động bên trong hậu trường chính trị Hoa Kỳ.
Sang đến đầu năm 2010 thì Washington bắt đầu bật tín hiệu sẽ hổ trợ giới “BẢY CHỊ EM” tại Đông Nam Á bằng mọi giá.
Năm 2010 là năm mà Bà Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, Hillary Clinton liên tục làm các chuyến bay con thoi sang Đông Nam Á & Châu Á Thái Bình Dương, thổi một làn gió HY VỌNG lên Đông Nam Á trước những áp lực, đe dọa ngày càng hung hãn của Trung Quốc. Cụ thể, Bà Ngoại Trưởng Clinton đã đến Việt Nam hai lần trong năm 2010, một vào tháng 7 và một vào tháng 10 cùng năm. Đây là lần đầu tiên mà một vị Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đã có những chuyến bay liên tục viếng thăm về phía Á châu như thế. Song song với chuyến đi của bà Ngoại Trưởng Clinton sang Việt Nam là chuyến viếng thăm của Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert Gates cũng sang Việt Nam vào 11 tháng 10 Năm 2010.
Như vậy có nghĩa là “Bà vừa bay đi, thì Ông bay lại. Ông vừa bay đi thì Bà lại bay qua.” theo lối nói dân gian của ta. Chưa bao giờ mà hai vị bộ trưởng then chốt quan trọng nhất trong nội các của chính phủ Hoa Kỳ lại bay tới bay lui đến cùng một quốc gia nườm nượp xôm tụ đến như vậy trong cùng một năm.
Giới “BẢY CHỊ EM” không quên những nổi đau mất trắng ở Venezuela, ở vụ Unocal 76 tốn hao, ở Iraq bi hốt tay trên 20% lượng dầu hỏa, ở Phi châu bị mất quyền đầu tư dầu hỏa về tay các công ty dầu khí Trung Quốc, và biết bao nhiêu nơi khác bị công ty dầu khí Trung Quốc gây tổn thất nặng nề nên quyết tâm siết chặt hơn nỗ lực của mình để đối phó với âm mưu cưỡng đoạt dầu khí Việt Nam quá trắng trợn của Bắc Kinh, mà cố vấn cho âm mưu này là Chu Vĩnh Khang. Giới “BẢY CHỊ EM” còn lôi kéo thêm các đồng minh như GE, Boeing, Samsung ồ ạt lao vào miền Bắc Việt Nam trấn thủ để từ từ cứu nền kinh tế miền Bắc Việt Nam ra khỏi bàn tay nhớp nhúa của chủ nghĩa Thực Dân Trung Quốc Kiểu Mới – Chinese neo-colonialism.
Ted Osius, hiện là Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã chính thức khẳng định trấn an Hà Nội : “Về đầu tư, tôi thực sự hy vọng rằng, Hoa Kỳ sẽ trở thành nhà đầu tư số một tại Việt Nam trong tương lai gần.”
F. KẾT
Chuyến đi thăm Việt Nam của ông Chu Vĩnh Khang mở màn cho sự tuyên chiến của Trung Quốc đối với sự đầu tư của giới “BẢY CHỊ EM” lên Việt Nam, tức là giới tư bản dầu hỏa hàng đầu của thế giới do Hoa Kỳ hậu thuẫn.
Các chính sách hăm dọa sách nhiễu lãnh hải Việt Nam từ Trung Quốc hoàn toàn nhắm vào nỗ lực muốn làm giới “BẢY CHỊ EM” rút lui sự đầu tư của mình khỏi Việt Nam nhưng sự rút lui đó, tính từ năm 2008 đến nay, đã không đạt được như tính toán của Trung quốc mà ngược lại, chính giới Hoa Kỳ gia tăng ủng hộ sự hiện diện đầu tư của “BẢY CHỊ EM” tại Việt Nam.
Việt Nam trở thành mặt trận không tiếng súng giữa giới “BẢY CHỊ EM” và Trung Quốc.
Riêng về phần Trung Quốc, gần như chung cuộc cho một tương lai của nền dầu khí Việt Nam đã không thể nào nằm trong tay Trung Quốc, ông Chu Vĩnh Khang đã ngã ngựa và bị tù tội. Có phải chăng vì Trung Quốc quá tham, muốn cướp trắng số dầu hỏa Việt Nam nên hễ tham thì thâm chăng?
Tương lai lịch sử sẽ trả lời vậy.
© Đàn Chim Việt
-Thế trận đối đầu giữa “bảy chị em” và TQ Đàn Chim Việt Tú Hoa
I.Giới Thiệu Khái Quát:
Sự an toàn phát triển kinh tế, cũng như về quốc phòng và về chính trị cho đảng Cộng Sản đang cầm quyền tại Trung Quốc hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tranh giành sự kiểm soát trữ lượng dầu hỏa của thế giới nhằm đảm bảo thỏa mãn mức tăng vọt về nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong xã hội cũng như khả năng gia tăng mức lượng dự trữ xăng dầu của quốc gia phòng khi khốn khó, khi bị cấm vận, hay chiến tranh thiên tai.
Nỗ lực này của Trung Quốc đụng chạm và đe dọa đến quyền kiểm soát dầu hỏa của giới “BẢY CHỊ EM,” mà tiếng Anh còn gọi là “Seven Sisters,” vốn là tiếng lóng để chỉ các tập đoàn tư bản dầu hỏa hàng đầu của thế giới do chính phủ Hoa Kỳ hậu thuẫn đàng sau, hiện đang âm thầm sở hữu tối thiểu 85% lượng dự trữ dầu hỏa của toàn thế giới.
Việt Nam một nước có dầu hỏa nằm trên huyết lộ vận chuyển dầu nên bị lôi cuốn mạnh vào cuộc đối đầu giữa “BẢY CHỊ EM” và Trung Quốc khiến cho mọi hoạch định kế sách chính trị, kinh tế an sinh trong tương lai trở thành là hệ quả của cuộc đối đầu này
II . Năng Lượng Là Tử Huyệt của Trung Quốc
Bản đồ cung-cầu về dầu hỏa của Trung Quốc cho thấy nền kinh tế của Trung Quốc hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhập khẩu dầu hỏa để duy trì mức tăng trưởng kinh tế hiện nay của mình vì khả năng sản xuất (production) dầu hỏa của Trung Quốc chỉ cáng đáng nổi gần phần nửa nhu cầu về dầu hỏa của nền kinh tế tức là khoảng trên 4 triệu thùng/ ngày trong khi nhu cầu (consumption) lên đến gần 12 triệu thùng/ ngày.
Dựa trên bản đồ cung cầu trên, Trung Quốc cần phải nhập ít nhất trên 6 triệu thùng một ngày để đảm bảo nhu cầu dầu hỏa của nền kinh tế không bị thiếu hụt (phần chú thích gạch đỏ trên bản đồ). Cho nên, các chiến lược gia từ hai quốc gia Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ, khi nhìn vào bản đồ cung cầu về dầu hỏa này của Trung Quốc đều dễ dàng nhận thấy rõ nếu vì bất cứ lý do gì mà Trung Quốc không thể duy trì khả năng nhập khẩu dầu hỏa thì cả nền kinh tế Trung Quốc đột nhiện tê liệt, sụp đổ xáo trộn dẫn đến những an nguy khó lường về quốc phòng và an toàn chính trị đối với đảng Cộng Sản đang cầm quyền tại Bắc Kinh.
Các lý do khiến Trung Quốc không thể nhập khẩu dầu hỏa có thể là do bị cấm vận, hoặc các nước bán dầu cho Trung Quốc bị thiên tai chiến tranh, hoặc các nước này đơn phương ngưng bán dầu cho Trung Quốc vì bất đồng về chính trị , về thỏa thuận giá cả , hoặc là con đường vận chuyển dầu hỏa tới Trung Quốc bị cắt đứt phong tỏa, vân vân…
Từ đó, để đối phó với những hiểm họa tiềm ẩn có thể dẫn đến thiếu hụt lượng nhập khẩu dầu hỏa cho nền kinh tế dẫn đến những nguy hại khôn lường về quốc phòng và an ninh kinh tế chính trị, một mặt, Trung Quốc phải gia tăng lượng dự trữ dầu của quốc gia để tiếp ứng dự phòng tạm thời nếu có bế tắt về nhập khẩu dầu xảy ra; mặt khác, Trung Quốc cần phải thi hành những đối sách nhằm đảm bảo sự kiểm soát của mình lên các nguồn dầu hỏa từ các quốc gia mà mình nhập khẩu.
Về đối sách dự trữ dầu hỏa phòng khi có biến, hiện tại, Trung Quốc thừa nhận đã có khả năng dự trữ được 101.9 triệu thùng và đang cố nỗ lực gia tăng mức dự trữ lên 475.9 triệu thùng vào năm 2020. Ngoài ra, các công ty dầu hỏa do nhà nước làm chủ của Trung Quốc cũng hứa hẹn với chính phủ sẽ dự trữ thêm khoảng 200 triệu thùng nâng tổng số dự trữ của Trung Quốc lên gần 675 triệu thùng vào năm 2020 .
Giả sử Trung Quốc đạt được mức dự trữ như tính toán, có tổng số dự trữ lên đến 675 triệu thùng khi cấp biến có thể đem ra dùng để duy trì sự ổn định kinh tế, thay thế vào 6 triệu thùng nhập khẩu mỗi ngày bị đứt đoạn không nhập khẩu được thì cũng chỉ duy trì được tình trạng tạm thời trong vòng 112 ngày tức là chỉ quá BA THÁNG mà thôi!
Thực tế này là MỘT ĐE DỌA THUỜNG TRỰC cho nền quốc phòng, sức phát triển kinh tế và an toàn chính trị cho đảng Cộng Sản cầm quyền tại Trung Quốc. Cho nên, Trung Quốc cần phải bung ra có mặt ở mọi quốc gia sản xuất dầu, tìm đủ mọi đối sách từ ngoại giao, quân sự, ảnh huởng chính trị đến đầu tư nhằm đảm bảo lượng dầu hỏa nhập khẩu được ổn định và nguy cơ gián đoạn trong nhập khẩu dầu hỏa của Trung Quốc giảm thiểu tối đa.
Từ đó, cuộc đối đầu tuy ngấm ngầm nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và giới BẢY CHỊ EM bắt đầu xảy ra.
Đơn giản, BẢY CHỊ EM không thể để quyền kiểm soát dầu hỏa trên toàn thế giới mà mình có bấy lâu nay lọt vào tay của Trung Quốc. Và đương nhiên, chính phủ Hoa Kỳ cũng không muốn nhìn thấy sự kiểm soát dầu hỏa trên thế giới của mình phải bị chia sẻ vào tay Trung Quốc.
III. Trung Quốc nhập khẩu dầu hỏa từ những quốc gia nào?
Đây là một câu hỏi vô cùng quan trọng cho giới “BẢY CHỊ EM” vì Trung Quốc mua dầu ở nơi nào thì Trung Quốc sẽ tìm cách lung lạc, gia tăng ảnh huởng hay khả năng khống chế lên quốc gia đó. Cho nên, giới “BẢY CHỊ EM” cần phải thúc giục Hoa Kỳ từng bước xúc tiến làm đồng minh với những quốc gia đó hoặc đẩy những quốc gia đó vào thế bị Liên Hiệp Quốc cấm vận hay chiến tranh rối loạn để khả năng cung cấp dầu hỏa cho Trung Quốc có nguy cơ bị sút giảm.
Chỉ cần nhìn vào biểu đồ 2 thì rõ ràng Trung Quốc đã phải nhập khẩu gần 43% tổng số dầu hỏa từ những đồng minh thuờng trực của Hoa Kỳ (blue mark). Dĩ nhiên, những kỹ nghệ khai thác dầu hỏa của những quốc gia đồng minh này có sự hiện diện từ kỹ thuật, vốn liếng đầu tư ban đầu, sở hữu dự trữ khi công khai, khi thầm lặng từ giới “BẢY CHỊ EM.”
Riêng về Venezuela, thì sự quốc hữu hóa (cướp bóc tài sản) giới BẢY CHỊ EM của tổng thống Hugo Chavez đã không được suôn sẻ vì giới BẢY CHỊ EM liên tục phá hoại ý đồ của ông.
Việc Tổng Thống Hugo Chavez đi chữa trị bệnh ung thư đột nhiên có biến chứng, càng chữa càng nặng lên rồi qua đời cùng với việc Cuba bỗng nhiên được chính phủ Obama nâng đỡ trìu mến khác thuờng và đột ngột đều có một mối dây liên hệ trước sau nhưng không ai dám bén mảng điều tra hay nghi vấn.
Vì thế cho nên, Venezuela sớm muộn gì cũng sẽ nằm trong quỹ đạo kinh tế đối ngoai mà giới “BẢY CHỊ EM” muốn nhìn thấy, trong đó thừa nhận quyền tư hữu và ảnh huởng của “BẢY CHỊ EM” quyền lợi kinh tế dầu hỏa của Venezuela.
Đối với Angola thì Chevron đã hiện diện tại nước này từ năm 1958 và không hề rút bỏ hay giảm sút đầu tư của mình vào nước này từ đó cho đến nay. Ngay cả ExxonMobil cũng gia tăng hiện diện mạnh 15 năm gần đây.
Lý do Angola không thể đánh dấu như là nằm trong ảnh huởng của “BẢY CHỊ EM” vì BẢY CHỊ EM phải chia sẽ ảnh huởng và quyền lợi của mình ở Angola với các quốc gia Âu Châu trong đó có Bồ Đào Nha, Đức và Pháp đối trong việc khai thác và sở hữu dự trữ dầu hỏa. Tuy nhiên, Âu Châu vẫn là bạn bè đồng minh của Hoa Kỳ và trong chừng mực nào đó, vẫn có thể thúc giục Angola cấm vận dầu hỏa lên Trung Quốc để chiều theo ý Hoa Kỳ nếu cần thiết.
Còn về phần Cộng Hòa Liên Bang Nga thì Trung Quốc không cách gì hạ thấp được sự bất ổn về cung cấp dầu hỏa theo đường dài vì nền chính trị và quận sự của Nga hoàn toàn ngang ngửa và mạnh hơn Trung Quốc.
Hoa Kỳ đang dồn Nga vào thế cấm vận thông qua vụ Ucraine ngày một nghiệt ngã khiến sự giao thiệp buôn bán dầu hỏa giữa hai nước Trung-Nga luôn nằm trong sự chỉ trích và đầy bất ổn. Hơn nữa, Trung Quốc cũng không thể nào phụ thuộc hay dựa dẫm vào nguồn nhập khẩu từ Nga vì Nga vẫn là một quốc gia luôn tìm cách không chế Trung Quốc trực diện từ kinh tế đến quốc phòng và lãnh thỗ bấy lâu nay.
Tuy nhiên, các chiến lược gia ở Bắc Kinh cũng đã cố gắng thuơng thảo những hợp đồng dài lâu với Nga từ đây cho đến năm 2020 nhằm duy trì sự ổn định nhập khẩu xăng dầu cho Trung Quốc dù rằng những hợp đồng này, Trung Quốc phải chịu một tổn phí cao hơn giá cả thị trường. Trung Quốc dù sao cũng cần Nga hậu thuẫn về đối ngoại tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để giãm bớt áp lực ngoại giao lên chính sách vi phạm nhân quyèn của đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Iran cũng nằm trong những thuơng thảo thuận lợi cho Trung Quốc dù hai nước vẫn có những thù hằn về tôn giáo do chính sách triệt tiêu Hồi giáo của Bắc Kinh. Tuy nhiên, Iran sẽ sớm muộn gì cũng lại lọt vào ảnh huởng của “BẢY CHỊ EM” trước những nỗ lực vừa ve vãn, vừa cứng rắn về ngoại giao đang thấy xảy ra giữa hai nước Hoa Kỳ – Iran dạo gần đây do chính phủ Obama đang nỗ lực thi hành.
Giây phút mà sự cấm vận được bãi bỏ là lúc mà giới “BẢY CHỊ EM” quay lại I-ran ồ ạt nhận lại những tài sản của mình vốn bị cướp đi sau Cách Mạng Hồi giáo xảy ra năm 1979.
Trung Quốc thừa hiểu sự nhích lại gần giữa hai nước I-ran va Hoa Kỳ cũng như những ve vãn ngoại giao của chính Phủ Obama về bình thuờng hóa chỉ là một phần trong kế sách khống chế nặng lượng của “BẢY CHỊ EM” lên Trung Quốc.
Riêng về Kazakhstan, tuy không thể đánh dấu là đồng minh thuờng trực của Hoa Kỳ nhưng giới lãnh đạo của Kazakhstan rất khôn ngoan và luôn giúp đỡ Hoa Kỳ khi cần thiết, trong đó có cả việc tình nguyện giúp đỡ Liện hiệp Quốc, cho phép không lực Hoa Kỳ và đồng minh sử dụng các sân bay chiến lược khi cần thiết. Điều này khiến Hoa Kỳ có một mối ân cảm sâu sắc đối với Kazakhstan.
Chevron, một thành viên quan trọng của giới “BẢY CHỊ EM” đã vào đất nước này khai thác, giúp đỡ tân tiến kỹ thuật dầu hỏa cho đất nước này từ năm 1993. Hoa Kỳ hoàn toàn tư tin là người bạn hiền lành này sẽ giúp đỡ Hoa Kỳ một lần nữa nếu cần thiết khi phải trực diện trói buộc Trung Quốc về dầu hỏa.
Đứng trước một nền dân chủ dân trí cao và lãnh đạo khôn ngoan, Trung Quốc không có cơ hội để mưu kế khống chế nỗi Kazakhstan.
Như vậy , sau khi điểm qua từng quốc gia chủ yếu xuất khẩu dầu hỏa sang Trung Quốc, các chiến lược phái Bắc Kinh hoàn toàn nhìn thấy “BẢY CHỊ EM” đang từng bước siết chặt lên sự an toàn về phát triển kinh tế, quốc phòng và chính trị của Trung Quốc.
Nền kinh tế bộc phát lệ thuộc vào sự ổn định nhập khẩu dầu hỏa của Trung Quốc có thể bị bóp chết bất cứ lúc nào không hay khi mà gần như toàn bộ nguồn cùng cấp dầu cho Trung Quốc nhập khẩu đều năm trực tiếp hay gián tiếp trong vòng ảnh huởng của giới BẢY CHỊ EM.
Không có đủ lượng dầu hỏa nhập khẩu, xã hội và kinh tế Trung Quốc sẽ bị đình trệ, đổ vỡ với lượng dự trữ dầu hỏa của Trung Quốc (101.9 triệu thùng hiện nay và 675 triệu thùng năm 2020) không đủ cứu vãn tình thế về lâu về dài.
Cho nên, nỗ lực bung ra, gia tăng ảnh huởng chính trị băng mọi giá lên mọi quốc gia có dầu hỏa của Trung Quốc là một điều Trung Quốc cần phải làm trong thế đối đầu này.
IV. Vị trí của Việt Nam trong cuộc đối đầu cam go giữa Trung Quốc và “BẢY CHỊ EM”
Nếu Trung Quốc cần nhập khẩu dầu hỏa cho sự phát triển và an toàn kinh tế quốc phòng của mình thì hai câu hỏi sau đây VÔ CÙNG QUAN TRỌNG được các chiến lược gia của các bên đối đầu nêu ra:
1. Tuyến đường nào là đường Trung Quốc vận chuyển dầu nhập khẩu về xứ?
2. Việt Nam tại sao không nằm trong biểu đồ các quốc gia xuất khẩu dầu hỏa cho Trung Quốc?
Lý do có câu hỏi thứ nhất là vì giả sử rằng nếu Trung Quốc thật sự bằng cách này hay cách khác mà kiểm soát và gia tăng ảnh huởng thành công lên mọi quốc gia bán dầu hỏa cho Trung Quốc khiến lượng dầu nhập của Trung Quốc được ổn định, nếu đường vận chuyển dầu hỏa về Trung Quốc bị chính phủ Hoa Kỳ làm cho gián đoạn, bế tắt thì mọi nỗ lực bung ra tranh giành ảnh huởng của Trung Quốc cũng xôi hỏng bỏng không- tức là có dầu mà không đem về được.
Lý do của câu hỏi thứ hai là dữ liệu data đã cho thấy rõ trữ lượng dầu hỏa của Việt Nam chiếm gần một phần ba tổng số dự trữ dầu ở Đông Nam Á(tức là khoảng 3 tỷ thùng), sát ngay bên Trung Quốc. Vậy thì việc Việt Nam không có tên như là những quốc gia hàng đầu xuất khẩu dầu hỏa sang Trung Quốc trong biểu đồ 2 là một điều khó hiểu đến ngạc nhiên.
Nếu thực sự khối lượng dầu hỏa dự trữ của Việt Nam hoàn toàn do Trung Quốc chi phối thì Trung Quốc thắng chắc trong cuộc đối đầu để thoát khỏi sự không chế của “BẢY CHỊ EM” về mặt năng lượng dầu hỏa vì không phải mệt mỏi nhọc công bung toàn lực để tranh dành ảnh huởng của mình lên mọi quốc gia dầu hỏa khắp nơi trên thế giới.
Việt Nam lại nằm sát cạnh Trung Quốc nên ngăn cản con dường máu vận chuyển dầu hỏa từ Việt Nam sang Trung Quốc trong điều kiện Việt Nam hoàn toàn nằm dưới sự chi phối về chính trị của Trung Quốc thì lại càng không thể làm được.
Do đó, việc cả “BẢY CHỊ EM” lẫn Trung Quồc dồn toàn lực tìm cách chi phối nền chính trị Việt Nam bằng mọi giá là một điều hoàn toàn cần phải có, phải xảy ra, đang xảy ra và chỉ chấm đứt khi cuộc đối đầu này chấm dứt.
V. Những hành động giải cứu Việt Nam của giới BẢY CHỊ EM
Trung Quốc cần phải khống chế Việt Nam để đảm bảo con đường vận chuyển dầu hỏa ngang qua hải phận Việt Nam và khối lượng dầu dự trữ của Việt Nam không bị hoàn toàn nằm vào sự kiểm soát của “BẢY CHỊ EM.”
Mặc dù Cộng Sản Hà Nội đã cố gắng trấn an nỗi lo lắng của Trung Quốc bằng cách đưa tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng ra tuyên bố chính sách BA KHÔNG trong đó có đoạn là “Việt Nam sẽ không dùng nước này, liên kết với nước này để chống nước kia” nhưng Trung Quốc không thể mạo hiểm lơ là, nên vẫn tiếp tục gia tăng áp lực từ kinh tế, chính trị đến quân sự lên Việt Nam.
Về kinh tế, Trung Quốc tung vốn thiệt mạnh đầu tư để THÂU TÓM tất cả các công trình xây dựng quan trọng của Việt Nam nhằm đẩy mạnh nợ nần của Cộng Sản Hà Nội vào Trung Quốc. Đó là chưa kể Trung Quốc đang từng bước gia tăng đầu tư để thâu tóm luôn cả những công ty Việt Nam. Trung Quốc hy vọng thông qua nỗ lực này, Hà Nội sẽ hết đường cựa quậy vì bị trói chặt tay chân trong nợ nần và đã để mất kiểm soát các dự án kinh tế quốc gia vào tay Trung Quốc.
Tính đến ngày 5 tháng 12 năm 2014 thì 15 công trình nhiệt điện trong hai mươi công trình trọng yếu đã hoàn toàn do Trung Quốc đấu thầu thi công. Điều này cho thấy nếu giới BẢY CHỊ EM không hành động gấp rút, thì toàn bộ ngành điện của Việt Nam chẳng mấy chốc hoàn toàn do Trung Quốc khống chế. Nếu Trung Quốc khống chế về ngành điện thì coi như nền quốc phòng lẫn kinh tế của Việt Nam sẽ bị Trung Quốc thao túng kiểm soát và làm tê liệt dễ dàng nếu Hà Nội trái ý với Bắc Kinh.
ExxonMobil được cho là đã có phản ứng đáp trả để quân bình sự khống chế của Trung Quốc lên ngành điện Việt Nam bằng một số vốn đầu tư lên đến 20 tỷ Mỹ kim cho nhà máy nhiệt điện kỹ thuật hiện đại ở Quãng Ngãi. Chevron cũng theo bước ExxonMobil với gần 7 tỷ Mỹ kim cho dự án nhiệt điện của công ty mình tại Việt Nam
Inline image
Như vậy , hai công ty Chevron và ExonMobil , thành viên quan trọng của giới “BẢY CHỊ EM” đã có gần 27 tỷ Mỹ kim đầu về nhiệt điện tại Việt Nam. Điều này đã làm cho Trung Quốc bị đuối hơi hoàn toàn với tổng số vốn đầu tư chỉ lên đến …2,3 tỷ Mỹ kim vào năm 2013. Chính Hà Nội cũng choáng váng trước sức mạnh tài chánh của giới “BẢY CHỊ EM.”
Inline image
Như vậy , hai công ty Chevron và ExonMobil , thành viên quan trọng của giới “BẢY CHỊ EM” đã có gần 27 tỷ Mỹ kim đầu về nhiệt điện tại Việt Nam. Điều này đã làm cho Trung Quốc bị đuối hơi hoàn toàn với tổng số vốn đầu tư chỉ lên đến …2,3 tỷ Mỹ kim vào năm 2013. Chính Hà Nội cũng choáng váng trước sức mạnh tài chánh của giới “BẢY CHỊ EM.”
Việc Hoa Kỳ liên tục khẳng định mình sẽ là quốc gia đầu tư nhiều nhất tại Việt Nam trong 20 năm tới, thậm chí gia tăng quỹ viện trợ hiện đại hóa cơ sở hạ tầng cho Việt Nam thông qua World Bank, đã cứu Hà Nội ra khỏi sự khống chế về kinh tế của Trung Quốc. Lần hồi, sức mạnh tư bản của Hoa Kỳ và nhất là của giới “BẢY CHỊ EM” sẽ đánh gục sức ép kinh tế của Trung Quốc lên Việt Nam.
Không những vậy, Hoa Kỳ đang gia tăng sự bảo vệ kinh tế cho Việt Nam trước ảnh huởng kinh tế của Tung Quốc bằng cách thúc đẩy những cuộc đối thoại tiến đến việc Việt Nam có cơ hội tham gia hiệp ước Đối Tác Thuong Mại Châu Á Thái Bình Dương Trans- Pacific- Partnership ( TPP)
Đi bằng ngả kinh tế không xong, về mặt chính trị, Trung Quốc thuờng xuyên gia tăng thuyết phục Cộng Sản Hà Nội về tính an toàn chính trị vì rõ ràng dân tộc Hoa Kỳ áp đặt những giá trị căn bản về nhân quyền lên giới “BẢY CHỊ EM” rất mạnh. Sự thuyết phục này có tác dụng vô cùng hữu hiệu khiến Cộng Sản Hà Nội đã lưỡng lự rất lâu tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc cũng cố sức mạnh quân sự của mình tại biển Đông tại biển Đông cũng như có khả năng tìm thêm đồng minh để chống chọi lại áp lực của “BẢY CHỊ EM.”
Giới “BẢY CHỊ EM” đã phải đối phó sự thuyết phục này từ Trung Quốc bằng hàng loạt các chuyến ngoại giao con thoi mềm dẻo của các vị chức sắc trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và đặc biệt, là mời ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Hoa Kỳ để nghe Hoa Kỳ lý giải về những hậu quả dành cho Đảng Cộng Sản Hà Nội nếu làm Hoa Kỳ thất vọng trong tiến trình ngoại giao song phương.
Về quân sự, TQ liên tục gia tăng kiến tạo các tiền tồn không hải sát xuống quần đảo Trường Sa nhằm cũng cố sự hiện diên quân sự của mình để hộ tống sự vận chuyển dầu hỏa cũng như đe dọa trực tiếp lên giới “BẢY CHỊ EM” đang khai thác ngoài khơi Việt Nam, với hy vọng giới “BẢY CHỊ EM” thấy quá tốn kém khó khăn trở ngại trước mắt mà bỏ cuộc.
Inline image
Giới “BẢY CHỊ EM” đương nhiên là hiểu thấu mưu tính sâu xa của Trung Quốc, hơn nữa, đối thủ đang ra sức tướt quyền kiểm soát hay cố chia sẻ quyền kiểm soát dầu hỏa của giới “BẢY CHỊ EM” chính là Trung Quốc. Nếu để Trung Quốc cứ lấn từng chút một thì về lâu về dài, cuộc đối đầu sẽ càng cam go bất lợi cho giới “BẢY CHỊ EM” hơn là nếu hôm nay, giới “BẢY CHỊ EM” cương quyết siết chặt Trung Quốc ngay từ đầu khi mà khả năng dự trữ dầu hỏa của Trung Quốc chưa vượt quá 200 triệu thùng như hiện nay.
Vì vậy, Hoa Kỳ tiếp tục nỗ lực lôi kéo Hà Nội vào hợp tác chiến lược quân sự mà trong đó, có những chuyến bay bí mật của giới sĩ quan tướng lãnh của Cộng Sản Hà Nội ra ngoài khơi để thăm viếng Hàng Không Mẫu Hạm của Hoa Kỳ, đàm đạo về những chiến lược quân sự hợp tác giữa hai nước trong tương lai. Đó là chưa kể những lần viếng thăm Đà Nẳng Cam Ranh của Hải quân Hoa Kỳ nhằm khẳng định trước Trung Quốc quyết tâm cứng rắn của giới “BẢY CHỊ EM” trong cuộc đối đầu với Trung Quốc về tranh giành ảnh huởng và kiểm soát dầu hỏa.
VI. KẾT:
Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc hoàn toản lệ thuộc vào sự ổn định nhập khẩu dầu hỏa. Vì vậy, dầu hỏa trở thành yếu huyệt của Trung Quốc nên Trung Quốc cần phải cố gắng có ảnh huởng đến các nước bán dầu cho Trung Quốc nhằm đảm bảo sự nhập khẩu dầu của Trung Quốc không bị gián đoạn.
Tuy nhiên, giới “BẢY CHỊ EM” coi hành động này của Trung Quốc nguy hại đến quyền kiểm soát dầu hỏa độc tôn của mình bấy lâu nay nên gia tăng các hoạt động chính trị quân sự siết chặt yếu huyệt về năng lượng dầu hỏa của Trung Quốc.
Quyết tâm siết chặt và đánh bại tham vọng chia sẻ quyền kiểm soát dầu hỏa thế giới của Trung Quốc là một mục tiêu chiến lược HÀNG ĐẦU của giới “BẢY CHỊ EM.” Mục tiêu này không hề thay đổi hay hủy bỏ cho đến khi Trung Quốc phải thúc thủ về chính trị, quân sự và đầu hàng tuyệt đối giới “BẢY CHỊ EM.”
Việt Nam trở thành tiền đồn ngăn cản trực diện Trung Quốc cho giới BẢY CHỊ EM vì nằm trên yếu lộ vận chuyển dầu hỏa và có trữ lượng dầu gần một phần ba của toàn vùng. Trung Quốc cũng vì thế cố tình gia tăng khống chế Cộng Sản Hà Nội về mọi mặt.
Sự giằng co giữa BẢY CHỊ EM và Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam khiến tương lai chính trị và kinh tế của Việt Nam là hệ lụy của những ảnh huởng sâu rộng từ giới “BẢY CHỊ EM” nhằm giúp Việt Nam thoát khỏi sự kềm hãm thôn tính của Trung Quốc .
-Sơ lược cuộc đối đầu giiữa Chu Vĩnh Khang (Zhou Yongkang) và “Bảy chị em”Đàn Chim Việt Tú Hoa
Vào ngày 2 tháng Tám năm 2005, một công ty dầu khí Trung Quốc, China National Offshore Oil Corporation, hay còn gọi là CNOOC Group đã phải chấp nhận ép buộc rút lui ý định mua lại công ty dầu khí Unocal 76 của Hoa Kỳ với giá đề nghị lên đến 18.5 tỷ Mỹ kim.
Công ty Unocal 76 được thành lập từ tháng Mười năm 1890, có trụ sở tại El Segundo, tiểu bang California Hoa Kỳ. Doanh thu hàng năm của Unocal là khoảng 5 đến 8 tỷ Mỹ kim và có hơn 6 ngàn nhân viên thường trực.
CNOOC tưởng đã có thể thâu tóm công ty Unocal 76 này trong tầm tay nhưng giới “BẢY CHỊ EM” đã lật ngược thế cờ và khiến các Dân Biểu trong Hạ Viện Hoa Kỳ không chuẩn thuận hành động mua này của Trung Quốc với lý do CNOOC là công ty nhà nước, tài sản của Hoa Kỳ không để cho chính phủ Trung Quốc sở hữu.
Hai tháng sau đó, tức là tháng Mười cùng năm, Chevron, một thành viên quan trọng của giới “BẢY CHỊ EM,” tức là tiếng lóng chỉ thế lực tư bản dầu hỏa hàng đầu của thế giới do Hoa Kỳ hậu thuẫn, đã chính thức mua lại công ty xăng dầu Unocal 76 này.
Đây là một hành động dằn mặt cho thấy rõ giới “BẢY CHỊ EM” đã cương quyết đối đầu với quyết tâm của Bắc Kinh công khai trong việc kiểm soát lượng dự trữ dầu hỏa.
Từ đó, CNOOC đành phải đi vòng qua các quốc gia khác thuộc châu Mỹ như Canada, Brazil, Venezuela…, ect, để đầu tư nhằm đảm bảo sự ổn định cho nhu cầu nhập khẩu dầu hỏa của mình. Và mỗi bước đi, bước tiến của các công ty dầu hỏa Trung Quốc điều phải tính toán, chạm chán gây go với sức ép của giới “BẢY CHỊ EM.”
Cuộc chạm chán này được gọi là cuộc đối đầu giữa “BẢY CHỊ EM” và Chu Vĩnh Khang, được coi là cha đẻ của nền kỹ nghệ dầu khí hiện đại Trung Quốc mà hiện thân là Tổng Công Ty Dầu Khí Trung Quốc – CNPC, tuy khốc liệt gây nhiều xáo trộn cho kinh tế và chính trị trên thế giới nhưng hết sức thầm lặng và không ai nghĩ tới.
Cần phải hiểu rõ hơn sự nghiệp của Chu Vĩnh Khang thì mới nhìn ra cuộc đối đầu chiến lược giữa Chu gia và giới BẢY CHỊ EM khốc liệt như thế nào.
I. Sự nghiệp của Chu Vĩnh Khang (Zhou Yongkang)- cha đẻ của nền công nghiệp dầu khí hiện đại Trung Quốc:
Chu Vĩnh Khang sanh vào tháng 12 năm 1942, người gốc Vô Tích, tỉnh Giang Tô. Nơi ông sanh ra, từ ngàn xưa là đất của nước Sở thời Chiến Quốc, vốn là một nước giỏi nghề khai thác khoáng sản, trong đó có thiếc và chì. Sau tướng Vương Tiễn nhà Tần hành quân ngang qua vùng này, thấy có bia mộ viết là:
“Hữu tích: binh, thiên hạ tranh
Vô tích: ninh, thiên hạ thanh”
Vô tích: ninh, thiên hạ thanh”
Nghĩa là có thiếc thì đánh nhau, loạn tranh binh đao, không có thiếc thì yên , thiên hạ an bình. Vương tướng quân thấy vậy mới đặt tên vùng này là Vô Tích (không có thiếc) để mong thái bình an lạc. Từ đó mà tên Vô Tích lưu truyền đến bây giờ.
Thiên linh địa linh sinh anh kiệt, Chu Vĩnh Khang lớn lên, tuy gia đình nghèo lắm nhưng ông học hành cực kỳ giỏi, thi đậu vào Học Viện Dầu Khí Bắc Kinh trở thành là một kỹ sư dầu hỏa, với chuyên môn là xét nghiệm địa chất và dò tìm dầu hỏa.
Vào khoảng năm1966, Chu Vĩnh Khang được điều về làm công tác địa chất thăm dò ở công trường 673 khu dầu hỏa Đại Khánh tỉnh Liêu Ninh. Tháo vát, năng nổ yêu nghề, ông đã được đề bạt làm đội trưởng đội thăm dò nơi ông công tác.
Bằng tài cán của chính mình, năm 1973, ông đã trở thành Trưởng Phòng thăm dò dầu khí của tỉnh Liêu Ninh. Dù chỉ là mới ở cương vị trưởng phòng, Chu Vĩnh Khang đã biến khu mỏ dầu Đại Khánh thành nơi sản xuất 19% tổng số lượng dầu hỏa quốc nội của Trung Quốc- một kỳ tích chấn động Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Chu Vĩnh Khang lúc nào cũng chở che, giúp đỡ cấp dưới rất tận tình dù ông có tới gần trên 2000 nhân viên. Ông không bao giờ về quê ăn mừng năm mới mà luôn ở lại cùng với nhân viên trên những cánh đồng mỏ dầu, cùng nhân viên chịu đựng mùa đông khắc nghiệt.
Năm 1979, Chu Vĩnh Khang tiếp tục được giao trọng trách thăm dò khai thác dầu hỏa ở Liêu Hà, phía Nam của vùng mỏ dầu Đại Khánh. Nơi này bây giờ được coi là nơi cung cấp dầu LỚN NHẤT cho Tổng Công Ty Dầu Khí Trung Quốc – CNPC (China National Petroleum Corporation), ước tính khoảng 200 ngàn tỷ thùng /một năm.
Năm 1983, Chu Vĩnh Khang trở thành Chủ Nhiệm Điều Hành toàn bộ công trường mỏ dầu các công trường mỏ dầu từ Đại Khánh cho đến Liêu Hà. Năm 1985, ông được chính thức thăng chuyển về Bắc Kinh và làm Thứ Trưởng Bộ Dầu Hỏa. Bộ Dầu Hỏa chính là tiền thân của CNPC.
Dù ở địa vị cao, vào năm 1989, Chu Vĩnh Khang vẫn lao tâm lặn lội tới các vùng sâu trong đất liền, phía Tây heo hút hẻo lánh thuộc bình nguyên Tarim của Trung Quốc để thăm dò địa chất phát triển khai thác các mỏ khí với vai trò kỹ sư trưởng các công trình.
Chu Vĩnh Khang làm việc ngày đêm, bất chấp địa vị thứ trưởng của ông và biến nơi này thành nơi cung cấp 19% tổng sản lượng khí đốt nội địa cho quốc gia, chưa kể là ông cho xây đường ống dẫn khí đốt nối liền Đông-Tây xuất phát từ nơi này của Trung Quốc do ông làm giám đốc công trình thi công.
Từ một chuyên viên kỹ thuật, một kỹ sư cần mẫn và kinh nghiệm, Chu Vĩnh Khang lần hồi có được những ảnh hưởng lớn về chính trị trong Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc là vì trách nhiệm của Chu Vĩnh Khang quá lớn. Ông có trách nhiệm phải đảm bảo sự ổn định về cung cấp dầu hỏa cho nền kinh tế Trung Quốc bộc phát quá nhanh, hoàn toàn lệ thuộc vào dầu hỏa để hoạt động.
Từ những năm 1990 trở đi, người kỹ sư dầu hỏa tận tụy Chu Vĩnh Khang năm nào, nay với cương vị Tổng Giám Đốc CNPC lao hết mình ra các quốc gia khác để dò tìm, đầu tư khai thác. Báo cáo của giới BẢY CHỊ EM cho rằng ông đã viếng thăm các nước phi châu hẻo lánh đến gần 14 lần.
Chu Vĩnh Khang cũng là kỹ sư chánh, vừa là Tổng Giám Đốc công trình Greater Nile Oil Pipe Line ở Sudan, là công trình xây dựng ra nước ngoài đầu tiên của CNPC.
Không thần thế vây cánh hay con ông cháu cha mà hoàn toàn nhờ tận tụy và yêu nghề khai thác thăm dò dầu hỏa, người kỹ sư dầu hỏa tận tụy Chu Vĩnh Khang đã được cử và trở thành Ủy Viên TW Đảng Công Sản Trung Quốc năm 1996 để có thể đảm nhiệm chức Bộ Trưởng Khai Thác Tài Nguyên hai năm sau đó -1998.
Những cải cách về hành chánh trong quản lý ngành dầu hỏa do Chu Vĩnh Khang xúc tiến đã làm kỹ nghệ ngành này của Trung Quốc phát triển mạnh mẽ và đủ sức giữ trách nhiệm cung cấp dầu hỏa cho nền kinh tế quốc dân.
Các công ty dầu khí Trung quốc theo kế hoạch của ông bung ra khắp mọi nơi để trên thế giới đầu tư thăm dò, khai thác để duy trì ổn định nguồn dầu nhập khẩu cho tăng trưởng kinh khiếp của nền kinh tế Trung Quốc.
Kế sách bung ra này của Chu Vĩnh Khang bắt đầu đụng chạm mạnh đến vị thế độc tôn hàng đầu của giới BẢY CHỊ EM, vốn âm thầm độc bá kiểm soát dầu hỏa thế giới bằng nhiều dạng, thông qua nhiều tổ chức khác nhau.
Từ đó, Chu Vĩnh Khang từ từ nhận ra được thế cuộc của thế giới về dầu hỏa và tìm cách đối phó. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thông qua ông, thấy được sự kềm kẹp của giới BẢY CHỊ EM lên tương lai chính trị và kinh tế của Trung Quốc nên bắt đầu giao hết toàn bộ sức mạnh nhân lực về ngành an ninh tình báo để ông tiện bề nắm bắt thông tin, những bước tiến, lùi toan tính của giới BẢY CHỊ EM.
Chu Vĩnh Khang không có tham vọng trở thành Tổng Bí Thư, Thủ Tướng mà chỉ muốn nhìn thấy sức kiểm soát sở hữu dầu hỏa của Trung Quốc trên toàn thế giới được lớn mạnh nên chẳng có thế lực nào trong Đảng lo lắng Chu Vĩnh khang sử dụng an ninh mật vụ cho những mưu toan chính trị.
Cho nên, người người kỹ sư dầu hỏa tận tụy Chu Vĩnh Khang trở thành ông trùm an ninh trước sự đồng lòng của giới chóp bu đảng Cộng Sản Trung Quốc. Chu Vĩnh Khang cần an ninh tình báo để đưa ra đối sách đối đầu chiến lược đối với giới “BẢY CHỊ EM” được chính xác và hữu hiệu.
Về phần “BẢY CHỊ EM”, giới chiến lược gia của họ từ lâu đã để ý đến khả năng kinh khiếp của Chu Vĩnh Khang và không hề lơ là quan sát theo dõi ông. Trong cuộc đối đầu đầy sống gió và làm chao đảo kinh tế, chính trị khắp nơi trên thế giới, nếu họ Chu là Gia Cát Lượng thì giới BẢY CHỊ EM là Tư Mã Ý, lúc nào cũng có khả năng chuyển bại thành thắng trước Khổng Minh.
IV. Đối Sách của Chu Vĩnh Khang đối phó với BẢY CHỊ EM:
Kế hoạch đối phó BẢY CHỊ EM của Chu Vĩnh Khang có thế tóm lược như sau:
1. Gia tăng mức dự trữ dầu của quốc gia từ 100 triệu thùng lên đến 600 triệu thùng vào năm 2020.
2. Mua hết các công ty dầu hỏa nhỏ “để chặt bớt tay chặt chân” của giới “BẢY CHỊ EM” mà lại ít bị để ý. Các công ty dầu hỏa nhỏ này có doanh thu từ 4 tỷ đến 10 tỷ một năm.
3. Gia tăng đầu tư qua các nước Phi châu, Mỹ châu, Trung Á, trong bối cảnh giới “BẢY CHỊ EM” mãi lo bám trụ vùng Vịnh.
4. Gia tăng ảnh hưởng chính trị- kinh tế đến các nước Trung Quốc đang nhập dầu nhằm đảm bảo lượng dầu nhập được ổn định.
5. Sử dụng tình huống chính trị thế giới, nhất là tình huống khủng bố, để mặc cả với Hoa Kỳ trong việc nới lỏng hạn chế từ “BẢY CHỊ EM” để Trung Quốc có thể tiếp tục gia tăng số vốn đầu tư vào những nước sản xuất dầu mà “BẢY CHỊ EM” đang độc bá sở hũu; cũng như cho phép Trung Quốc đầu tư vào Hoa Kỳ để khống chế dần các công ty của giới “BẢY CHỊ EM.”
6. Gia tăng các hoạt động tình báo để biết thực trạng từng đại công ty của giới “BẢY CHỊ EM,” các chính quyền của các quốc gia có dầu để âm mưu đầu tư, sở hữu khống chế.
7. Gia tăng sức ép chính trị lên Việt Nam và biển Đông để phá rối nổ lực đầu tư của BẢY CHỊ EM vào Việt Nam, đồng thời, tạo khả năng cho Trung Quốc khống chế từng phần hay toàn phần nguồn dự trữ dầu hỏa dồi dào của Việt Nam
Mục tiêu của đối sách mà Chu Vĩnh Khang đưa ra là tiếp tục lấn sân giới BẢY CHỊ EM về sở hữu dầu hỏa ở mọi nơi, mọi lúc bất chấp sản lượng, trữ lượng là ít hay là nhiều. Vì vậy, kế hoạch này của Chu Vĩnh Khang còn có tên lóng là chiến lược “lấn sân” (Mergers and Acquisitions- M&A)
Chu Vĩnh Khang nhìn thấy giới “BẢY CHỊ EM” có một khuyết điểm là bởi do độc bá dầu hỏa bấy lâu nên đâm ỷ lại, thuờng xuyên bỏ lơi những dự án nhỏ, bỏ lơi những quốc gia có dự trữ dầu bị đánh giá là không đáng kể (dưới 50 ngàn thùng dầu một ngày.)
Cho nên Chinese NOC’s (Chinese National Oil Companies), lần hồi, theo lệnh của Chu Vĩnh Khang, tóm thu tất cả các dự án nhỏ, đầu tư nhỏ vào những quốc gia bị giới “BẢY CHỊ EM” chê là trữ lượng không nhiều. Đặc biệt, những công ty dầu hỏa nhỏ, con con trên thế giới cũng bị Chu Vĩnh Khang thâu tóm gần hết dễ dàng vì giới “BẢY CHỊ EM” không chú ý tới.
Chính sách góp gió thành bão trong đối sách “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang, tuy là từng nơi đầu tư riêng biệt thì sản lượng dầu hỏa chẳng là bao, nhưng gôm lại thì tạo ra một trữ lượng đáng kể cho nhu cầu xăng dầu của Trung Quốc.
Khi các chiến lược gia của giới “BẢY CHỊ EM” nhìn lại thì giật mình, đó là lý do tại sao sau này, ngay cả công ty con con Uniocal 76 cũng bị giới BẢY CHỊ EM xiết lại không cho CNOOC mua.
Chu Vĩnh Khang lúc nào cũng kiên nhẫn, chịu khó siêng năng mót từng giọt dầu một đem về cho nền kinh tế Trung Quốc.
V. Kết quả đối sách “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang:
Sự “lấn sân” của ngành dầu hỏa Trung Quốc lên “BẢY CHỊ EM” trên toàn thế giới, ở khắp mọi nơi, mỗi lúc mỗi tăng là một thành công vang dội của Chu Vĩnh Khang về mặt chiến lược.
Mức sở hữu dầu hỏa của Trung Quốc đối với các quốc gia xuất khẩu dầu ngày một tăng hoàn toàn nhờ vào đối sách quyết tâm bung ra thế giới đầu tư của Chu Vĩnh Khang từ những năm 2000.
Có thể nói, đối sách này đảm bảo nền kinh tế Trung Quốc tăng tốc trong ổn định tuyệt đối về năng lượng dù vẫn phải chạy kiếm dầu “ăn đong” từng ngày vì nhu cầu dầu hỏa của xã hội Trung Quốc không hề suy giãm hay đứng lại.
Biểu đồ 1 đã cho thấy rõ, từ một quốc gia được coi là tay trắng, nay các công ty dầu hỏa của Trung Quốc đảm đang gần một phần tư tổng sản lượng dầu hỏa của các nước vùng Vịnh Trung Đông, nơi mà giới “BẢY CHỊ EM” độc bá từ sau khi đệ Nhị Thế Chiến tới nay về đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất. Điều này cho thấy, giới “BẢY CHỊ EM” đang bị Chinese NOC’ s lấn sân ngày một mạnh mẽ.
Riêng vùng Trung Mỹ- châu Mỹ La-tin, được coi là “sân nhà” của giới “BẢY CHỊ EM,” mà nay Chinese NOC’s đã lấn sân hết 11 % và sự lấn sân này không giãm hề suy giảm buộc giới “BẢY CHỊ EM” phải gấp rút ứng phó trong thời gian gần đây.
Đặc biệt, giới “BẢY CHỊ EM” đã mất 9% sản lượng dầu hỏa vào tay Chinese NOC’s tại vùng Bắc Mỹ, là tổng hành dinh của giới “BẢY CHỊ EM” từ thế kỷ thứ 19 đến nay. Tuy số phần trăm rất ít nhưng cũng làm cho giới “BẢY CHỊ EM” vô cùng bực bội và mất danh dự rất lớn.
Sự kiện năm 2005 về vụ mua công ty xăng dầu Unocal 76 chỉ là một thí dụ điển hình về sự bức tức kinh khiếp bên trong của giới “BẢY CHỊ EM” đối với Chinese NOC’s, hiện đang “lấn sân” mạnh mẽ lên tổng hành dinh của mình .
Biểu đồ 2 cho thấy rõ, ngay cả tại Irag, một quốc gia còn đang hổn loạn và giới BẢY CHỊ EM lơ là không muốn tăng sức đầu tư, Trung Quốc vẫn lao vào đầu tư khai thác, sẳn sàng chịu đựng nhiều áp lực của các bên tham chiến. Hai mươi phần trăm sản lượng dầu hỏa của Irag là do các công ty dầu hỏa Trung Quốc sản xuất và mua lại.
Chiến thắng này của Chu Vĩnh Khang trong chiến lược “lấn sân” của mình làm các chiến lược gia của giới “BẢY CHỊ EM” tuy nóng mặt nhưng phải khâm phục sự nhẫn nại chịu khó của Chu Vĩnh Khang.
Có sự can thiệp về chính trị & quân sự của Hoa Kỳ, Irag phải là nơi mà giới “BẢY CHỊ EM” nắm tuyệt đối quyền khai thác. Bị hụt mất 20 % về tay các tập đoàn dầu hỏa Trung Quốc, giới “BẢY CHỊ EM” cảm nhận được sức ép “lấn sân” do chiến lược đối đầu của Chu Vĩnh Khang gây ra.
Giới “BẢY CHỊ EM” đã không còn lơ là về đối sách “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang như trước nữa, nhất là sau khi ngay tại đại bản doanh của mình là Hoa Kỳ mà Trung Quốc cũng ráng tìm cách chen chân và nắm gần 5 % sản lượng dầu hỏa của Hoa Kỳ (biểu đồ 2). Thật là một sự mất mặt quá lớn đối với giới “BẢY CHỊ EM.” Con số 5% là do những hành động phản ứng mãnh liệt trả đòn từ giới “BÃY CHỊ EM” mà ra, chớ nếu không, ước tính Trung Quốc sẽ nắm 14% sản lượng dầu hỏa nội địa của Hoa Kỳ dễ như trở bàn tay. Tất cả các công ty dầu hỏa nho nhỏ kiểu Unocal 76 lần hồi sẽ nằm trong tay của Chu Vĩnh Khang hết nếu giới BẢY CHỊ EM không trả đòn.
Bề mặt, dù các công ty của giới “BẢY CHỊ EM” vẫn mua bán trao đổi với Chinese NOC’s nhưng bên trong, lần hồi nhiều đối sách để triệt hạ Chu Vĩnh Khang cũng như phá vở chiến lược “lấn sân” của ông đã được tính đến & thi hành. Đã có hàng trăm các kế hoạch đầu tư dầu hỏa của Chu Vĩnh Khang bị giới BẢY CHỊ EM âm thầm phá hoại khiến bị phải hủy bỏ, mà trong đó vụ mua công ty Unocal 76 của CNOOC vào năm 2005 chỉ là một thí dụ điển hình mà thôi.
Cục diện căng thẳng ở biển Đông ngày nay cũng hoàn toàn do giới “BẢY CHỊ EM” quyết tâm trả đòn trước chiến lược “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang đưa ra.
Biển Đông và trữ lượng dầu hỏa dồi dào tại Việt Nam đang hoàn toàn là trọng tâm phản đòn của giới “BẢY CHỊ EM.” Chắc chắn, giới “BẢY CHỊ EM” sẽ không thể để cho Trung Quốc lấn vào tiền đồn này vì đây là yếu điểm để giới “BẢY CHỊ EM” đánh gục đối sách “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang
Riêng về bản thân của Chu Vinh Khang, chắc chắn, ông sẽ không bao giờ có một kết cuộc tốt đẹp trước những bực dọc cao điểm của giới “BẢY CHỊ EM” đối với ông.
Dù sao, giới “BẢY CHỊ EM” cũng là một thế lực mại bản đầy quyền uy trong suốt hai thế kỷ nay và không bao giờ biết tha thứ cho mọi cá nhân hay thế lực thách thức vị thế độc tôn của mình.
Dù sao, giới “BẢY CHỊ EM” cũng là một thế lực mại bản đầy quyền uy trong suốt hai thế kỷ nay và không bao giờ biết tha thứ cho mọi cá nhân hay thế lực thách thức vị thế độc tôn của mình.
VI. KẾT
Ngày 3 tháng Tư năm 2015, tờ “People Daily” của Trung Quốc chính thức đưa tin ông Chu Vĩnh Khang, người kỹ sư dầu hỏa siêng năng cần mẫn lập nên nhiều kỳ tích, bị phạm tội tham nhũng, tiết lộ bí mật quốc gia và lạm quyền…
Song song với bản án này là hàng loạt các tin tức hỏa mù từ báo chí, các hãng truyền thông nào là ông giết vợ, nào là ông có 6000 cung nữ, nào là ông đảo chánh giết hụt Tập Cận Bình, nào là ông bao che cho Bạc Hy Lai, cựu Bí Thư Tỉnh Trùng Khánh ..etc, nhưng không có hãng thông tấn nào đề cập chi tiết đến những đóng góp và kỳ tích của người kỹ sư dầu hỏa Chu Vĩnh Khang, cần mẫn tận tụy chịu khó yêu nghề đi lên từ khốn khó.
Thanh danh của Chu Vĩnh Khang bị triệt hạ nhưng cơ ngơi và sức mạnh của nền kỹ nghệ dầu khí Trung Quốc mà ông gầy dựng vẫn còn đó; quyền hành và ảnh huởng của Chu Vĩnh Khang có thể đã mất đi nhưng tham vọng của Cộng Sản Trung Quốc muốn thoát khỏi bàn tay nanh vuốt của giới “BẢY CHỊ EM” còn đó; dầu vẫn còn tiếp tục phun lên và Trung Quốc vẫn khát dầu mỗi ngày, cho nên cuộc đối đầu chống lại giới BẢY CHỊ EM của Trung Quốc vẫn còn tiếp diễn…
Với tư cách là một phạm nhân, Chu Vĩnh Khang mất hết tất cả từ tài sản đến ảnh huởng chính trị. Điều này có thật sự đúng hay không, hay Tập Cận Bình, hiện là Chủ Tịch Trung Quốc, vẫn âm thầm lắng nghe và dùng Chu Vĩnh Khang trong bóng tối là một câu hỏi mà giới “BẢY CHỊ EM” không bao giờ lơ là khi tìm kiếm câu trả lời.
Và cho dù thật sự Chu Vĩnh Khang đã bị triệt hạ hoàn toàn và mất hết thanh danh lẫn tài sản, hoàn toàn ngã ngựa thua trận trước thế lực của “BẢY CHỊ EM” thì đối với những ai CHẬT VẬT đấu trí với Chu Vĩnh Khang suốt gần hai mươi năm nay, vẫn sẽ mãi mãi coi ông là một Khổng Minh của thời đại, một thời đại được mang tên thời đại DẦU HỎA.
© Đàn Chim Việt
-Chu Vĩnh Khang và người thân vơ vét 16 tỷ USD
Một trong vô số nhà và xe hơi đắt tiền của Chu Vĩnh Khang
TP - Khi khám xét nhà của Chu Vĩnh Khang, nguyên Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ủy ban Chính trị - Pháp luật trung ương (UBCP), người ta mới phát hiện ông ta và người thân sở hữu số tiền, vàng, cùng các tài khoản nội ngoại tệ, tổng cộng lên tới 16 tỷ USD.
Tịch thu vô số tiền, vàng và nhà
Tờ “Đông phương Nhật báo” và một số báo điện tử ngày 29/3 đã đăng tải thông tin cho biết: các phóng viên đã có được bản “Thông báo nội bộ” của “Tổ chuyên án Chu Vĩnh Khang và gia đình” thuộc Ủy ban Chính trị - Pháp luật trung ương về “Danh mục kiểm kê khám nhà” đối với Chu Vĩnh Khang.
Bản Thông báo nội bộ cho biết: Trong các ngày 2/12/2012, 10 và 22/1/2014, Viện Kiểm sát 7 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Bắc Kinh, Liêu Ninh, Giang Tô, Sơn Đông, Thượng Hải, Quảng Đông đã ra lệnh khám xét 3 đợt đối với 29 khu nhà ở của gia tộc Chu Vĩnh Khang tại đây.
Kết quả: Chu Vĩnh Khang và những người thân (vợ con, anh em) có tổng cộng 326 căn nhà với tổng trị giá 1 tỷ 760 triệu tệ ở 12 thành phố: Bắc Kinh, Thẩm Dương, Đại Liên, Tế Nam, Yên Đài, Thành Đô, Nam Kinh, Vô Tích, Tô Châu, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến.
Qua khám xét đã thu giữ 47,850 kg vàng, bạc; số lượng rất lớn tiền mặt gồm hơn 150 triệu tệ, hơn 2 triệu 700 ngàn USD, hơn 660 ngàn Euro, 110 ngàn Bảng Anh, 550 ngàn Fran Thụy Sĩ.
Ngoài số tiền, vàng, các nhân viên điều tra còn thu giữ số lượng lớn đồ cổ, 55 tranh, thư pháp quý tổng trị giá ước tính từ 800 triệu đến 1 tỷ tệ; 62 xe ô tô các loại trong đó có cả xe quân sự và nhiều siêu xe đắt tiền.
Nghiêm trọng hơn, đã phát hiện Chu Vĩnh Khang và người thân đã tàng trữ trái phép cả “kho vũ khí” 27 khẩu súng, gồm 15 khẩu súng ngắn K76, K96, K99 do Trung Quốc sản xuất, 12 khẩu súng ngắn của Đức, Nga, Anh, Bỉ và hơn 11 ngàn viên đạn các cỡ.
Chu Vĩnh Khang
Các nhân viên điều tra còn phong tỏa 947 tài khoản nội tệ, 117 tài khoản ngoại tệ đặt tại 133 ngân hàng với tổng trị giá hơn 37,7 tỷ tệ. Người ta còn thu giữ số cổ phiếu các ngành dầu khí, hàng không, ngân hàng, sản xuất rượu trị giá 51,3 tỷ tệ và cổ phiếu nước ngoài trị giá 170 triệu tệ.
Theo thống kê bước đầu, tổng số của cải mà Chu Vĩnh Khang và gia tộc vơ vét được đã lên tới 100 tỷ tệ (16 tỷ USD).
Kẻ cầm đầu tập đoàn thế lực đen lớn nhất Trung Quốc
Thông báo này cho rằng, Chu Vĩnh Khang là kẻ cầm đầu Tập đoàn thế lực đen lớn nhất kể từ khi thành lập nước CHND Trung Hoa (1949) đến nay. Vụ án Chu Vĩnh Khang đã được chuyển sang cơ quan tư pháp xử lý từ tháng 2/2014.
Tuy vụ án chưa được chính thức công bố, nhưng các nhà phân tích cho rằng với phạm vi ảnh hưởng, những tội gây nguy hại cho xã hội, Chu Vĩnh Khang sẽ phải đối mặt với án tử hình.
Tính đến nay, đã có tổng cộng 313 người có liên quan đến Chu Vĩnh Khang gồm người thân trong gia tộc, quan chức trong hệ thống Dầu khí, hệ thống Chính Pháp, quan chức ở Tứ Xuyên bị bắt.
Cụ thể: 11 quan chức cấp Thứ trưởng, 56 quan chức cấp Sở, Vụ, 14 người thân trong gia đình, 28 nhân viên công tác và cảnh vệ, ngoài ra còn 11 người đang bỏ trốn chưa bắt được (trong đó có em gái vợ là Giả Hiểu Hà, Thư ký Lương X. và một cô nhân tình họ Lâm).
Báo chí phân tích, Chu Vĩnh Khang đã cài cắm người thân vào cả 3 hệ thống trên, biến 3 hệ thống thành nơi để Chu gia trục lợi, thành nguồn cung của cải. Nhiều thư ký các thời kỳ của Chu trong thời gian ông ta công tác trong ngành Dầu khí, ở Tứ Xuyên và Bộ Công an sau khi được bố trí giữ các chức vụ quan trọng như Phó TGĐ Tập đoàn Dầu khí Lý Hoa Lâm, Phó Tỉnh trưởng Tứ Xuyên Quách Vĩnh Tường, Phó Tỉnh trưởng Hải Nam Ký Văn Lâm… đều lần lượt bị cách chức, bị điều tra.
Theo “Đông Phương nhật báo”, việc Trung Quốc trì hoãn công khai vụ án nghiêm trọng Chu Vĩnh Khang là có một số lý do: Thứ nhất, đang nghiên cứu xem có đưa từ “Tập đoàn” vào tên vụ án này hay không. Có ý kiến nên đặt tên là “Vụ án tập đoàn tham nhũng Chu Vĩnh Khang” và định tính là “Tập đoàn tham nhũng lớn nhất kể từ khi thành lập nước (1949) đến nay”. Thứ hai, Chu Vĩnh Khang kiên quyết chống lại công tác điều tra của Ủy ban KTKL trung ương.
Hiện Chu Vĩnh Khang đang bị giam ở Thiên Tân, trong thời gian bị điều tra đã kiên quyết không hợp tác, thậm chí đã uống thuốc độc định tự sát, may mà nhân viên quản lý phòng giam phát hiện được, kịp thời đưa đến bệnh viện rửa ruột nên mới thoát chết.
Riêng ở Tứ Xuyên, nơi Chu Vĩnh Khang làm Bí thư tỉnh ủy từ 1999 đến 2002 đã hình thành nên hệ thống thế lực rất mạnh. Theo trang web của Ủy ban Kiểm tra kỷ luật trung ương, chỉ riêng năm 2013, Ủy ban KTKL tỉnh ủy đã lập hơn 9.900 hồ sơ, điều tra gần 10 ngàn đảng viên, gây nên “trận động đất quan trường”, qua đó loại bỏ nhiều tay chân của Chu Vĩnh Khang ở đây, trong đó có một số quan chức cấp tỉnh.