Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2015

Văn tự bán nước“ giá bao nhiêu?

Văn tự bán nước“ giá bao nhiêu?
Máu của người VN thì vô giá. Nhưng nó trở nên mạt hạng, quá rẻ rúng trong tay những nhà cầm quyền VN bán nước.
Từ nay, mọi chuyến thăm viếng của Nguyễn Phú Trọng và phe Đảng sang Mỹ đều vô nghĩa. VN quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ, nhận vũ khí chiến lược từ Mỹ, trong tình thế này, ai chẳng hiểu chỉ là bước chân và miệng lưỡi Trọng Thủy để đánh tráo nỏ thần giao TQ, thậm có thể là những cuộc nghi binh để có cơ hội làm tổn hại Mỹ.
* Còn cơ nào cho VN?

Cuộc cạnh tranh giữa các nhóm quyền lực trong nhà cầm quyền VN xem ra thật thảm hại.
Vì đã đi ngược lại quyền lợi của đất nước và nhân dân nên họ trước sau cũng chỉ là những con lật đật. Chiêu trò chẳng có gì mới. Hễ bên này dung xảo kế ra được một gậy giành thế thượng phong, thì bên kia lại lật đật xẻo thịt đất nước sang bán cho ngoại bang để mong họ ra ơn mưa móc bảo kê cho cái vị trí được tiếp tục ngồi lên đầu lên cổ nhân dân mà tiếp tục cướp bóc vinh thân phì gia.
Bên nào bán nhanh, bán ẩu, bán toàn diện với giá rẻ nhất, kẻ đó đang tạm thời giành thế thắng trong cuộc cạnh tranh này.
Nhưng kết cục còn hạ hồi phân giải. Bởi vì dẫu là ai lại có quyền ký văn tự bán nước. Nước VN là của mọi người VN dù ở nơi đâu trên thế giới và người VN sẽ đòi lại.

NHẬN DIỆN ĐAO PHỦ BỨC TỬ VIỆT NAM
Nhà văn Võ Thị Hảo, viết từ Hà Nội.
2015-03-25
“Việc của người biết suy nghĩ là không đứng cùng phía với đao phủ.”-Albert Camus.
TQ tuyên bố chủ quyền ở VN
Hiện vẫn còn một nước tên là Việt Nam nhưng cái tên chưa đủ để minh chứng rằng nước chưa mất. Việt Nam bây giờ cũng như một cây cổ thụ ngàn năm tuổi đang bị lưỡi cưa máy đốn hạ, lá trên cây dù chưa rụng hết nhưng dưới gốc thì thân gỗ đã bị xẻ làm muôn mảnh đem bán để ghép thành cái tràng kỷ kê chỗ ngồi cho nhiều nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Đám người này đã sốt sắng dâng lên đám đầu lĩnh Trung Quốc bữa đại tiệc với món chính là máu thịt của đất nước Việt Nam.

Chi tiết quan trọng nhất khiến người ta nghi ngờ rằng VN đã mất chủ quyền lãnh thổ vào tay TQ đã thể hiện trong một sự kiện chấn động khiến thế giới sửng sốt và bất bình nhưng nhà cầm quyền VN thì im lặng chấp nhận.
Tại cuộc họp báo ngày 8/3/2015, ông Vương Nghị - Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc đã lớn tiếng tuyên bố với thế giới rằng việc TQ xây các đảo đá trên biển Đông là xây trên sân nhà của họ và chỉ trích kịch liệt những ai phản đối hành vi này của TQ. Và cái phần mà TQ khẳng định là “sân nhà” ấy, lại đang là lãnh hải của VN có lịch sử từ lâu đời và đã được công ước quốc tế đương nhiên thừa nhận.
Tuyên bố trên của TQ gây bàng hoàng và phẫn nộ cho những người công tâm và am hiểu lịch sử vấn đề. Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về biển Đông tại Học viện Quốc phòng Australia khi trả lời phỏng vấn của RFI đã không che giấu sự bất bình: “Tôi vô cùng kinh ngạc khi đọc thấy ý kiến của Ngoại trưởng Trung Quốc đưa ra vài hôm trước ngày kỷ niệm 27 năm cuộc tấn công của Hải quân Trung Quốc vào tàu hậu cần Việt Nam ở khu vực quan Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) ngày 14/3/1988. Nhận xét của ông Vương Nghị vừa thô bạo, vừa ngạo mạn.”
Dù liên tục lấn chiếm VN từ biên giới đến biển đảo, nhưng đây là lần đầu tiên TQ dám ngang ngược tuyên bố biển Đông là sân nhà. Việc TQ xây dựng những chuỗi đảo nhân tạo trên lãnh hải VN rõ ràng là hành động xâm lược, là bàn đạp để TQ thôn tính VN.
Trước sự xâm lược trắng trợn đó, trách nhiệm tối thiểu của nhà cầm quyền VN là phải lập tức phản đối mạnh mẽ trước hết trên lĩnh lực ngoại giao, đồng thời vận dụng các lực lượng quân sự, chính trị , sức mạnh quốc tế để buộc TQ trả lại chủ quyền lãnh thổ.
Nhưng sự ngược đời đã xảy ra. Sau tuyên bố của Vương Nghị, đến tận hôm nay VN vẫn không lên tiếng phản đối. Càng lạ lùng hơn là cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao VN dự định tổ chức vào ngày 12/ 3/2015, ba ngày sau tuyên bố của TQ lại bị xóa bỏ.
Lộ trình đao phủ bức tử VN
Trước sự im lặng chấp nhận của VN, TQ đã nuốt trọn phần còn lại của con mồi. Phần đầu đã được tiêu hóa xong từ những năm trước đây, khi những nhà cầm quyền VN từ cấp địa phương tới Trung ương đã hăm hở giao đất rừng dọc biên giới mà hầu hết là những vị trí hiểm yếu về an ninh quốc phòng cho TQ thuê và quản lý tới 50 năm theo phương thức người TQ tha hồ tung tác trong đó.
Thiếu tướng Nguyễn Kim Khoa - chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh của Quốc hội cho biết trên báo Đất Việt ngày 18/6/2014 : Qua khảo sát ở một số nơi, đã thấy có 19 dự án được các địa phương cấp phép cho thuê tới khoảng 398.374 ha đất rừng dọc biên giới Việt - Trung, đặc biệt là những vị trí trọng yếu về an ninh quốc phòng. (Trong khi đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chỉ báo là 10 tỉnh).
Mức giá mà VN cho TQ thuê đất rừng biên giới rẻ mạt đến mức không tưởng tượng nổi: nhiều nơi TQ chỉ phải trả 2,75 đ cho mỗi mét vuông đất mỗi năm! (Theo đại biểu QH Trần Việt Hưng (Hòa Bình) – báo Thanh niên đưa tin ngày 12/6/2010)
Nhận định của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng thực sự các cấp chính quyền đã bán rừng và dồn đất nước VN vào tình trạng tự sát, khiến VN mất đi vùng lãnh thổ quan trọng nhất về quốc phòng an ninh.
Mặc dù vậy, cho đến nay không một ai phải chịu trách nhiệm về những hành vi có thể coi là bán nước và phản quốc này.
Cùng trên lộ trình các cấp chính quyền VN để ngỏ cửa cho những kẻ xâm lược VN, họ còn tạo điều kiện đặc biệt dễ dàng cho người TQ vào kinh doanh, sản xuất, trốn thuế, thuê đất trồng lúa, rau quả, thuê mặt nước nuôi tôm cá... lập những đặc khu TQ như ở Vũng Áng – Hà Tĩnh và nhiều nơi.Song song với những chính sách về chính trị, ngoại giao và quốc phòng, an ninh, những chính sách về kinh tế thương mại đã giết chết nền sản xuất của VN và biến VN thành thị trường tiêu thụ hàng rởm và hàng độc hại của TQ.
Không những nền kinh tế chính trị và văn hóa của VN bị bức tử mà cả VN đang bị biến thành một bệnh viện khổng lồ trong đó chen chúc những người dân đang chết dần mòn vì hóa chất độc hại của TQ.
Trong tình thế ấy, thay vì bảo vệ đất nước và nhân dân, nhà cầm quyền VN đã liên tục dùng mọi lực lượng từ văn hóa tư tưởng, báo chí truyền thông tới công an và côn đồ để ngăn chặn, vu cáo, mạt sát, khủng bố, đánh đập, bỏ tù, bao vây về kinh tế, cắt cả nguồn sống của những ai dám bày tỏ lòng yêu nước, bảo vệ tự do dân chủ và phản đối TQ xâm lược. Đến các cuộc dâng hương tưởng niệm những người đã hy sinh trong những cuộc chiến bảo vệ đất nước chống TQ tàn sát cũng bị nhà cầm quyền cho các lực lượng công an, dân phòng, dư luận viên và côn đồ ngăn cản.
Với những hành động có hệ thống, nhất quán trong nhiều năm như vậy, dư luận có quyền nhận định rằng nhà cầm quyền VN đã có quyền lợi chung với đám đao phủ TQ đang bức tử đất nước VN.
Để dẹp tan dư luận, Bộ trưởng quốc phòng VN – lại có những hành động bất chấp sự thật, trách nhiệm và và lương tâm khi khẳng định rằng “quan hệ Việt Trung vẫn phát triển tốt đẹp” và coi việc xâm lược của TQ chỉ là “mâu thuẫn gia đình”. Hơn thế nữa, Ngày 31/12/2014, vị này còn lớn tiếng răn đe và kết tội rằng người VN ghét TQ là một việc nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước cũng như quan hệ giữa hai quốc gia. (theo tinphapluat.com)
Dù không muốn thừa nhận sự thật đau lòng, người VN cũng không thể không nhận thấy dù cái tên VN còn đó, nhưng hồn nước thì đã bị nhiều nhà cầm quyền cộng sản làm tay sai cho TQ giẫm đạp mỗi ngày.
Tung hoành trên mảnh đất này là dòng máu phản trắc đớn hèn đã được tiêm vào động mạch của vô số nhân vật trong các bộ máy quyền lực. Đó thực sự là đám tay sai của TQ, núp dưới chiêu bài Đảng cộng sản VN, lấy chủ nghĩa Mác Lê nin và ý thức hệ xã hội chủ nghĩa mà nhân loại đã lên án là tội ác chống lại loài người làm bức màn sắt che cho những tham vọng, quyền lợi nhóm, để chĩa họng súng độc tài vào người dân, biến VN thành một “nhà tù” khổng lồ đàn áp bất cứ ai dám phê phán, ngăn cản con đường bán nước của chúng.
Người VN trong tình thế đó, là những con gà bị trói chặt, dao đã kề cổ. Ai cam tâm im lặng, chịu đi nhặt cơm thừa canh cặn, tung hô khen ngợi đám tay sai bán nước, tiếp tay cho bọn xâm lược, hoặc tiếp tục vắt kiệt máu mỡ mình nuôi bộ máy cầm quyền phè phỡn trên xương máu nhân dân thì sẽ được tồn tại.
Nhưng thế có phải là cuộc sống con người?
Người VN đã tê dại. Đã lạc mất linh hồn, Đến mức số đông đã mặc kệ mọi sự, cam chịu dao kề cổ và trong khi đang kê chiếc cổ gầy dưới lưỡi dao đao phủ, người VN cũng tương tự nhà cầm quyền của họ, chỉ dám mơ tới một con dao đao phủ cùn hơn để cứa cổ mình lâu chết hơn, chứ không dám mơ tới việc phải làm gì để thoát khỏi lưỡi dao ấy.
Không ít người do không am hiểu tình hình nên đã trở thành độc ác, đứng về phía đao phủ bức tử VN, a dua mạt sát những dân oan hoặc những đồng bào đã không quản nguy hiểm đấu tranh cho quyền lợi của đất nước và cho cả chính họ.
Mất nước là bởi nhà cầm quyền VN
Vùng đảo Gạc Ma nhìn từ trên cao, ảnh minh họa chụp hôm 15/5/2014.
TQ thực sự rất ngang ngược, tham lam và đã dùng nhiều thủ đoạn đối với loài người trên thế giới này. Không ngẫu nhiên khi có nhiều tài liệu khoa học thống kê, phân tích về những thủ đoạn thâm hiểm, tàn bạo của nhà cầm quyền cộng sản TQ và một trong những cuốn sách rất nổi tiếng đã được xuất bản mang tên “Chết bởi tay Trung Quốc” của hai giáo sư kinh tế học Perto Navarro và Greg Autr đã cảnh báo loài người về những tham vọng và hiểm họa mà TQ mang tới để các nước đối phó.
Việt Nam “đã chết bởi tay TQ”! Nhưng khốn khổ khốn nạn ở đây là cái chết do VN tự chuốc lấy. Chết chỉ vì nhà cầm quyền cộng sản đã bằng mọi giá, thà hy sinh lãnh thổ, danh dự, đất nước, nhân dân chứ không chịu mất Đảng, mất thể chế cộng sản.
Họ yêu Đảng, yêu Mác Lê nin, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đến thế kia ư?
Hoàn toàn không. Ở trong bộ máy, họ biết quá nhiều hành vi bỉ ổi độc ác của nhau và của thứ chủ nghĩa này. Họ gắn bó chẳng qua thể chế ấy, chủ nghĩa ấy là một cỗ xe bọc thép mang vũ khí hạng nặng bảo vệ hữu hiệu nhất cho băng cướp tham nhũng tha hồ lừa bịp và cướp bóc người dân.
Thế giới đã chứng minh cỗ xe cộng sản càng lăn đi càng chất chồng tội ác. Sự sợ hãi bị mất tất cả đã khiến nhà cầm quyền gắn với thể chế cộng sản như mạng sống. Họ đã lựa chọn con đường hy sinh đất nước và nhân dân để giữ chế độ độc tài nhằm bảo vệ cho giai cấp thống trị tha hồ cướp bóc.
Đó cũng là điều mà TQ đã rất khôn ngoan tận dụng để thao túng đám cướp bóc này. Đám này còn rất sốt sắng thực hiện mưu đồ nhập VN vào TQ trong năm 2020 theo như cam kết của Hội nghị Thành Đô 1990. Tham vọng vĩ cuồng mang hơi hướng Mao Trạch Đông của Tập Cận Bình cộng với và sự nôn nóng muốn rảnh tay nên giao đất sớm cho TQ của đám bán nước VN, nay đã về đích trước 5 năm so với kế hoạch?!
Albert Camus nói: “Việc của người biết suy nghĩ là không đứng cùng phía với đao phủ”. Khi nhà cầm quyền hoặc người VN đứng về phía đao phủ , thì chính họ đang hái quả trên ngọn cây nhưng lại dùng lưỡi cưa xẻ nát thân cây đã dung dưỡng họ.
Xét những động thái khác thường qua tuyên bố của TQ và sự im lặng chấp nhận của VN, dư luận không thể không nhận ra VN đã nằm gọn trong cái mõm tham lam của TQ. Cánh tay của nước Mỹ dù mạnh nhưng đã bị khước từ bởi chính nhà cầm quyền VN không những chỉ đứng về phía đao phủ mà còn là tay trong cho đao phủ. Nước Mỹ và khối các nước văn minh hiện giờ chỉ còn chứng kiến những cú đong đưa cầu lợi của VN đang được điều khiển bởi đầu não TQ mà thôi.
Nhưng chính TQ cũng đang phải đối diện với nguy cơ sụp đổ trong tương lai gần bởi chính những khối ung thư nội bộ của họ. Sự phát triển nôn nóng bất chấp danh dự và thủ đoạn của nền kinh tế TQ đương nhiên sẽ mau chóng phá vỡ cái vỏ chật chội lạc hậu của thể chế chính trị phi tự nhiên theo ý thức hệ cộng sản đã bị loài người tẩy chay. Việc cộng dồn những tội ác chống lại loài người mà nhiều thế hệ nhà cầm quyền TQ đã làm với người dân của họ và thế giới cũng sẽ đến ngày “tức nước vỡ bờ”, chưa kể những chấn động mạnh mẽ của cuộc tranh giành quyền lực phe nhóm đang diễn ra dưới vỏ bọc “đả hổ diệt ruồi” tại TQ.
Sự sụp đổ ấy đương nhiên sẽ kéo theo sự tan vỡ bi thảm trong một ngày không xa của thể chế cộng sản VN đã tự nguyện nộp mình vào tay TQ thay vì thức thời đón nhận những cơ hội của “Cách mạng Nhung” Việt Nam, tự cải cách thể chế, đồng hành với quyền lợi của toàn dân tộc.
Và dẫu nước VN có mất về tay TQ, những người gắng gỏi vì đất nước và người dân VN không tuyệt vọng. Cuộc đấu tranh đòi thoát khỏi thể chế cộng sản để cứu nước, đem lai toàn vẹn lãnh thổ, dân chủ, tự do và nhân quyền cho người VN dù khó khăn nhưng là một cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ. Nhà cầm quyền không bao giờ có thể tiêu diệt hết được những người yêu nước yêu công lý và yêu tự do.
Nhà văn Võ Thị Hảo, viết từ Hà Nội


-Chuyện “Văn hóa quỳ lạy”!
Chiều 15.8.2014, một cuộc tọa đàm “Thoát Trung văn hóa” đã được tổ chức tại Hội trường tầng 4, Liên Hiệp Các Hội Khoa Học Kỹ Thuật Việt Nam, 53 Nguyễn Du, Hà Nội. Rất nhiều bạn trẻ phải đứng để theo dõi cuộc tọa đàm vì hội trường không còn ghế trống.
Có tất cả 19 bài thuyết trình được phổ biến trên vanviet.info. Mặc dầu nấp dưới cái mũ “Thoát Trung văn hóa”, nhưng nói trắng ra đây là một cuộc tọa đàm “Thoát Trung chính trị”, có nghĩa bảo Đảng CSVN rời khỏi Đảng CSTQ “cho mầy chết luôn”! Vì thế, người ta phải giải thích đây là “Văn hoá theo nghĩa rộng”!

Ở đây có hai vấn đề cần phải được đặt ra ngay: Vấn đề thứ nhất là “tọa đàm thoát Trung” có phải là cái bẫy Đảng CSVN đưa ra để khám phá “những thành phần bị coi là nguy hiểm cho chế độ” hay không? Vấn đế thứ hai là trong suốt 2000 năm lịch sử, cha ông chúng ta vẫn không “thoát Trung” được cả về văn hóa lẫn chính trị. Liệu rồi sau khi Đảng CSVN ra đi, Việt Nam có thể “thoát Trung” hay không?
GẦN NHƯ Ở ĐÂU CŨNG CÓ ĐỊCH
Sau 30.4.1975, rất nhiều tổ chức chống cộng đã được hình thành để chống lại nhà cầm quyền cộng sản, nhưng tất cả đều thất bại vì bị địch đưa nội công vào gài bẫy rồi thanh toán như Mặt Trận Phục Quốc của nhóm Linh Mục Trần Ngọc Hiệu, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, v.v. Đó là chưa kể các tổ chức chống cộng giả do Tổng Cục An Ninh của Hà Nội lập ra để gài bắt các thành phần chống đối như Đảng Nhân Dân Hành Động và Đảng Dân Chủ Việt Nam của Nguyễn Sĩ Bình, Đảng Dân Chủ Nhân Dân và Chính phủ Cách Mạng Việt Nam Tự Do của Nguyễn Hữu Chánh, v,v.
Nhóm thanh niên và sinh viên Vinh được huấn luyện về truyền thông ở Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội cũng đã điêu đứng vì bị mật báo viên của công an giả làm “người đồng hành”, xúi biểu và gài bẫy, nay đang bị ngồi tù. Giáo phận Vinh không biết gì nên can dự vào và gặp rắc rối. Nhóm “Diễn Đàn Giáo Dân” ở hải ngoại chỉ là những “con nai vàng ngơ ngác”.
Phong trào “thoát Trung” do nhóm vanviet.info phát động. Các bài viết đăng trên website này đa số do những người ở trong nước viết, nhưng website được ghi danh ở GoDaddy.com, Scottsdale, Arizona kể từ ngày 17.3.2014. Đây cũng là nơi website nuvuongcongly.net của Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội đăng ký đầu tiên vào năm 2009, nhưng khi chúng tôi phát hiện đã dời qua Colorado, sau đó quay trở lại Arizona kể từ ngày 23.8.2012.
Vanviet.info không giới thiệu người hay tổ chức sáng lập, không có tên nhóm chủ biên, không có địa chỉ, chỉ cho biết: “Văn đoàn độc lập Việt Nam là một tổ chức của xã hội dân sự, ái hữu nghề nghiệp, hoàn toàn độc lập đối với mọi hệ thống tổ chức và thiết chế trong và ngoài nước.”
Chúng tôi nhắc lại một số sự kiện nói trên để những người đấu tranh cảnh giác.
VĂN HÓA VIỆT VÀ TÀU LÀ MỘT!
Trong các bài phát biểu, độc giả chú ý nhất đến hai bài “Giã từ nền văn hoá quỳ lạy” và “Từ văn hoá quỳ lạy đến văn hoá “thảo dân” của Lê Phú Khải, một nhà giáo và một nhà báo, sinh năm 1942 tại Hà Nội. Trong hai bài này, ông đã mô tả văn hóa Trung Quốc như sau:
“Trong xã hội Khổng giáo mấy ngàn năm ở Trung Quốc, kẻ sĩ đi học là mong được làm quan. Làm quan để được quỳ lạy dưới ngai vàng. Cái văn hoá quỳ lạy ấy đã kìm hãm nước Trung Hoa trong vòng tăm tối mấy ngàn năm. Trong nền văn hoá quỳ lạy ấy, chỉ có kẻ trên đúng. Chỉ có vua đúng. Vua bảo chết là phải chết. Cha bảo chết thì con phải chết. Tóm lại là không có chân lý…
“Điều trớ trêu là văn hoá quỳ lạy ấy còn tồn tại đến hôm nay ở nước Trung Hoa cộng sản. Nước Trung Hoa cộng sản hôm nay vẫn nguyên hình là một xã hội Khổng Mạnh trá hình mà thôi!”
Trong “Việt Nam Sử Lược”, Tập I, xuất bản năm 1919, ông Trần Trọng Kim có nhận xét như sau:
"Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao Châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê, và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thật và tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả…
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.”
Như vậy văn hóa Việt Nam không phải chỉ nhiễm Khổng Giáo, mà còn nhiễm Đạo Giáo, Phật Giáo với những mê tín dị đoan của Tàu nữa. Chỉ cần đọc cuốn “Đường về xứ Phật” của Trưởng Lão Thích Thông Lạc là thấy rõ mê tín dị đoan của Tàu đã đi vào Phật Giáo Việt Nam như thế nào.
Trong bài “Thảo luận kiểu chọc tiết lợn đằng đít” gửi cho Văn Việt. nhà báo Phạm Thành đã nêu lên hai vấn đề: (1) Văn hoá Việt đồng nghĩa văn hoá Trung Hoa nên nói thoát văn hoá Trung là hủy văn hoá Việt. (2) Vấn đề cấp thiết hiện nay là thoát Trung về chính trị chứ không phải văn hoá.
Điều quan trọng là phải nhìn nhận sự thật lịch sử để rút kinh nghiệm. Không thể cứ đem “Bình Ngô Đại Cáo” và “Hịch Tướng Sĩ” ra để che lấp những thất bại đau xót của dân tộc được.
“VĂN HÓA QUỲ LẠY” TỪ ẢI NAM QUAN
Lịch sử cho biết cửa Ải Nam Quan Tàu được Tàu xây từ đời Gia Tĩnh triều Minh (1522 - 1566), có tường chạy dọc theo sườn núi suốt 119 trượng.
Phía Bắc cửa ải, Trung quốc có dựng một nhà khách gọi “CHIÊU ĐỨC ĐÀI”. Chữ CHIÊU thuộc bộ thủ, có 8 nét, có nghĩa là đưa tay vẫy gọi đến. Chữ ĐỨC thuộc bộ sích có 15 nét, có nghĩa là có lòng nhân, hợp với đạo lý. Đây là kiểu nói theo lối trịch thượng, bảo Việt Nam: “Hãy đi theo ta”!
Vua quan ta cũng làm một nhà tiếp khách ở dưới Ải Nam Quan về phía nam, lợp bằng tranh và đặt tên là “NGƯỠNG ĐỨC ĐÀI”. Chữ NGƯỠNG thuộc bộ nhân, có 6 nét, có nghĩa là mến phục, nhờ cậy. Ý muốn nói với Tàu: “Em xin theo anh”! Tàu CHIÊU còn ta NGƯỠNG, không phải là “văn hóa quỳ lạy” thì là cái gì?
LÊ LỢI KHÔNG THOÁT “VĂN HÓA QUỲ LẠY”
Sau khi đánh thắng quân Nguyên, Lê Lợi bảo Nguyễn Trãi viết tở biểu giả danh nghĩa nhà Trần, xin phong vương cho Trần Cao. Tờ biểu có in trong “Quân trung tứ mệnh tập” (bài số 21), rất bi thảm. Chúng tôi chỉ xin trích một số đoạn:
"Khi vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế mới lên ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống trước nhất, bấy giờ ngài có ban thưởng, phong cho tước Vương. Từ đó nhà tôi vẫn nối đời giữ bờ cõi, không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.
“Ngờ đâu quan quân xa xôi mới đến thấy voi sợ hãi, tức khắc vỡ tan. Việc đã xảy ra như vậy, dẫu bởi sự bất đắc dĩ của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao nhiêu những quân và ngựa bắt được đều phải thu dưỡng tử tế, không dám xâm phạm một tí gì.
“Bọn thần tự biết mang tội rất nặng, không biết tiến thoái đường nào… Cúi nghĩ Hoàng Đế Bệ Hạ là bậc thánh thần văn võ…, tất xá cho thần tội lỗi như núi gò, tất tha cho thần hình phạt bằng phủ việt, để cho thần được giữ đất cõi Nam, nộp cống cửa khuyết.”
Viết rồi sai sứ đem biểu qua dâng vua Tàu, kèm theo lễ vật, trong đó có hai người bằng vàng để thay mình. Vua nhà Minh bấy giờ là Tuyên Tông xem biểu biết rằng giả dối, nhưng cũng muốn nhân dịp ấy để thôi việc binh, đưa chiếu sang phong cho Trần Cao làm An Nam Quốc Vương.
Sau đó Lê Lợi bảo Nguyễn Trãi viết sớ trình rằng Trần Cao đã lâm bệnh và qua đời rồi và xin phong cho Lê Lợi là “đại đầu mục của bản quốc, là người khiêm tốn, cung kính,…” làm vua. Vua Minh không chịu bảo đi tìm con cháu nhà Trần. Khi sứ đi tìm báo cáo không còn tìm được ai nữa Vua Minh mới chịu phong cho Lê Lợi làm An Nam Quốc Vương!
QUANG TRUNG CŨNG DÙNG “VĂN HÓA QUỲ LẠY”
Sau khi thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ bảo Ngô Thì Nhiệm viết tờ biểu dâng lên Vua Thanh. Tờ biểu cũng bi thảm không thua gì tờ biểu của Lê Lợi:
“Ngày mồng 5 tháng Giêng năm nay, lúc mới đến, tôi mong gặp Tôn Sĩ Nghị để hỏi xem việc dùng binh có phải là thực do Đại Hoàng Đế không. Nhưng Sĩ Nghị tự đón đánh, rồi bị đầy tớ của tôi đánh bại, quân sĩ giày xéo lên nhau mà chết không biết bao nhiêu mà kể. Những quân hiệu bị bắt còn hơn 800 người, tôi đã cấp cho ăn mặc và cho ở riêng một chỗ.
“Nếu tình hình trên không được bày tỏ, Thiên triều không khoan dung, muốn động binh chinh chiến, thì nước nhỏ không được thờ nước lớn, tôi cũng đành nhờ trời mà thôi.”
Nguyễn Huệ đã cho người đưa vàng bạc qua đút lót cho quan nội các Phúc Khang An và quan làm chủ trương của triều đình nhà Thanh là Hà Thân nhờ tâu giúp, rồi sai người cháu là Nguyễn Quang Hiển và quan Vũ Huy Tấn đem đồ cống phẩm sang Yên Kinh vào chầu vua nhà Thanh và dâng biểu xin phong. Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương, và giáng chỉ cho Quang Trung qua chầu.
Vua Quang Trung phải chọn một người hình dung giống mình, tên là Phạm Công Trị trá làm quốc vương, rồi sai Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn đưa sang Yên Kinh, vào chầu Càn Long. Ngoài những phẩm vật phải đem cống, vua Quang Trung lại đem cống thêm đôi tượng đực, vua Càn Long tưởng Phạm Công Trị là Nguyễn Quang Trung thật, cho vào làm lễ ôm gối, như là tình cha con…
NHỜ “VĂN HÓA QUỲ LẠY” MÀ BƯỚC LÊN VÀ TỒN TẠI
Ai cũng biết không có sự chiến thắng của Mao Trạch Đông năm 1949, không có Điện Biên Phủ 1954 và không có 30.4.1975. Năm 1970, Lê Duẩn đã nói với Mao Trạch Đông nguyên văn như sau: “Tại sao chúng tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đấu cho một cuộc chiến kéo dài, đặc biệt trường kỳ kháng chiến ở miền Nam? Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch… Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ tịch đã nói rằng 700 triệu người Trung Quốc đang ủng hộ nhân dân Việt Nam một cách vững chắc”.
Năm 1972, khi Tổng Thống Nixon đến Bắc Kinh, Mao Trạch Đông nói: “Thành thật mà nói, nhân dân Trung Quốc, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và nhân dân thế giới phải cám ơn nhân dân Việt Nam đã đánh thắng Mỹ. Các đồng chí chiến thắng mới buộc Nixon phải đi Bắc Kinh...”
Nói cách khác, Bắc Kinh coi Đảng CSVN như một thứ lính đánh thuê (mercenary) của mình.
KHÓ TỪ BỎ “VĂN HÓA QUỲ LẠY”
Trong 2000 năm lịch sử, Tàu đã đô hộ Việt Nam đúng 1050 năm. Những năm còn lại, năm nào cũng phải đi triều cống và khi vua nào muốn lên cầm quyền đều phải làm tờ biểu xin vua Tàu phong vương. Việt Nam chỉ thoát ra khỏi sự lệ thuộc của Tàu kể từ năm 1874, khi Pháp chính thức đô hộ Việt Nam.
Năm 1949, khi Mao Trạch Đông chiếm được Trung Quốc, Đảng CSVN bắt đầu lệ thuộc Trung Quốc. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam do Bảo Đại lãnh đạo đã “thoát Trung” bằng cách đi theo Pháp, nhưng năm 1954 Pháp ký Hiệp Định Genève, giao nửa nước Việt Nam cho Trung Quốc. Kể từ 1956 VNCH “thoát Trung” bằng cách đi theo Mỹ, nhưng năm 1972 Mỹ sai Kissinger qua Trung Quốc bán miền Nam Việt Nam cho Trung Quốc!
Sau 30.4.1975, Lê Duẫn "thoát Trung” bằng cách “cải tạo xã hội chủ nghĩa” theo Stalinism, chứ không theo Maoism. Năm 1979 Trung Quốc đã “dạy cho Việt Nam một bài học”. Năm 1990, Đảng CSVN phải nhờ ông Michio Watanabe, Chủ Tịch Đảng Dân Chủ Tự Do của Nhật qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân xin làm hòa. Bắc Kinh đồng ý. Ngày 3.9.1990, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và  Phạm Văn Đồng sang Thành Đô - thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc - để “hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước”. Thế là Việt Nam hết “thoát Trung”!
Đối với người Việt ở trong cũng như ngoài nước, “thoát Trung văn hóa” không phải là chuyện dễ, vì đa số vẫn coi văn hóa Trung Quốc là “văn hóa dân tộc”, và đạo Phật dính liền với những mê tín dị đoan của Trung Quốc được gọi là “đạo dân tộc”. Ông Phạm Thành đã viết: “Văn hoá Việt đồng nghĩa văn hoá Trung Hoa nên nói thoát văn hoá Trung là hủy văn hoá Việt”.
“Thoát Trung chính trị" cũng khó như vậy. Hiện nay, nhiều người chủ trương rằng muốn “thoát Trung chính trị” trước hết là phải lật đổ Đảng CSVN. Nhưng có ba vấn đề được đặt ra: (1) Liệu Trung Quốc và Hoa Kỳ có để cho lật đổ chế độ cộng sản hay không, hay vẫn dùng chế độ này như công cụ của họ? (2) Làm thế nào để lật đổ chế độ cộng sản? (3) Sau khi lật đổ chế độ cộng sản, có chắc “thoát Trung” được hay không? Đó là những vấn đề chúng tôi sẽ bàn sau.
Ngày 21.8.2014
Lữ Giang



-« Thoát Trung »
27/06/2014

Thế nào là « thoát Trung » ? Nếu là để thoát khỏi « ảnh hưởng » của Trung Quốc thì, theo tôi, không hẳn chỉ là các vấn đề thuộc về văn hóa hay kinh tế như nhiều học giả VN đã và đang bàn luận.

Thử lấy thí dụ Nhật Bản và Đại Hàn. Văn hóa (nếu không nói là văn minh) của hai nước này, trên nhiều mặt của xã hội hiện nay vẫn thể hiện sâu đậm màu sắc của văn hóa Khổng giáo. Thử xem một vài phim tình cảm xã hội của Đại Hàn hay Nhật sản xuất. Ta thấy sao mà quen thuộc quá. Nếu bỏ qua những đường nét, khung cảnh hiện đại của những thành phố tiên tiến trong một quốc gia phát triển, thì ta tưởng đó là phim xã hội VN. Khung cảnh trong gia đình của một người Đài Loan, Đại Hàn, thậm chí Nhật, đều giống nhau, như Việt Nam. Đó là mô hình của một xã hội ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Khổng Mạnh.


Câu hỏi đặt ra, nếp sống gia đình (ảnh hưởng văn hóa Khổng Mạnh) ở Nhật, ở Hàn quốc đó, (đã giảm bớt nồng độ cực đoan Khổng giáo và pha lẫn nét bao dung của Tây phương), thì có tốt hơn nếp sống gia đình ở VN hay TQ hiện nay, ảnh hưởng chủ thuyết duy vật của Mác (và Lê Nin) hay không ?  

Trên phương diện chữ viết, cũng như VN trước thời Pháp thuộc, các nước Nhật, Hàn đến hôm nay cũng vẫn giữ nguyên tắc cơ bản chữ Hán. Một số học giả VN tỏ ý than phiền vì ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Hán, nhất là chữ viết, do đó có khuynh hướng « Việt hóa » các từ Hán Việt.

Theo tôi, việc sử dụng từ gốc Hán không có gì phải mặc cảm. Người Nhật, người Hàn… xem ra còn lệ thuộc vào chữ Hán còn hơn VN. Bên Châu Âu cũng vậy, chữ viết các xứ này đều bắt nguồn từ Latin, Grec… Những từ khoa học các nước  Âu Mỹ hầu hết đều có gốc Latin hay Grec. Các nước này đâu thấy ai lên tiếng than phiền là lệ thuộc, tỏ ý muốn « thoát Trung » hay « thoát Grec (hay Latin) » đâu ? Lệ thuộc hay không là do mình. Ta thấy một lượng lớn từ ngữ chuyên môn (học thuật hay khoa học) Hán Việt bắt nguồn từ Nhật, do các học giả Nhật phát minh ra. Chỉ số chất lượng về đời sống, về văn hóa, về kinh tế… trên mỗi con người của Nhật, Hàn hơn xa Trung quốc. Trong khi thành quả các tiến bộ về văn hóa, khoa học, kỹ thuật… Trung Quốc cũng bị các nước Nhật, Hàn… đã bỏ xa hàng vài thập niên. Như thế, ta thấy việc ảnh hưởng văn hóa Hán (chữ viết) không hề ảnh hưởng lên việc phát triển quốc gia.

Về kinh tế cũng vậy, sự liên thuộc về kinh tế giữa hai nước Nhật và Hàn với Trung Quốc không chừng còn quan trọng hơn quan hệ giữa TQ với Hoa Kỳ và UE cộng lại. Trong các quan hệ này, ta dùng từ « liên thuộc » chứ không phải « lệ thuộc ». Nếu chỉ tính từ thập niên 80, TQ luôn nhập siêu từ Hàn quốc và Nhật. TQ cần các mặt hàng có tính khoa học kỹ thuật cao của hai nước này để phát triển đất nước. Trong khi Nhật và Đại Hàn cũng cần đến TQ để phát triển kinh tế. Cho dầu Nhật và TQ có những mâu thuẫn sâu sắc về chủ quyền quần đảo Senkaku (Điếu Ngư), nhưng TQ chưa hề dám đe dọa dùng vũ khí kinh tế đối với Nhật.

Như vậy, dựa trên hai yếu tố văn hóa và kinh tế để « thoát Trung », (như các học giả VN đã và đang hô hào) rõ ràng Nhật và Đại Hàn đang có khuynh hướng ngược lại : « nhập Trung » thay vì « thoát Trung ».

Nhưng quan hệ kinh tế hai bên Việt-Trung, số kim ngạch trao đổi hai bên cán cân luôn thặng dư về phía TQ. Việc thâm thủng này vẫn nhỏ, không đáng kể. Điều quan trọng là quan hệ kinh tế giữa VN và TQ, trong chừng mực, là quan hệ « thực dân – thuộc địa về kinh tế ». Nếu đọc lại các bản tuyên bố chung của hai bên được công bố gần đây, ta thấy VN đã nhượng cho TQ quá nhiều đặc quyền, đến đỗi các việc này có thể đe dọa nền độc lập của quốc gia. Không nói quá, mọi huyết mạch của kinh tế VN hiện nay đều do TQ kiểm soát.

Điều này đến từ các quyết định chính trị chứ không phải là những lựa chọn bắt buộc. Tức là VN vẫn có thể thoát khỏi tình trạng lệ thuộc kinh tế nếu lãnh đạo có can đảm về chính trị.

Vì vậy, theo tôi, thoát Trung hay không là một vấn đề  « chiến lược » chứ không hẵn là kinh tế hay văn hóa.

Một lý do thường thấy nhiều người VN nại ra, ngại khi quay lưng lại với Trung quốc, là « nước xa không cứu được lửa gần ».

Ta thấy các nước như Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Phi… (nếu không nói Đài Loan) đều ở kế « vách » với TQ, nhưng họ đâu sợ TQ. Các nước này, phần lớn, là các nước dân chủ, thịnh vượng.

Để xóa bỏ nỗi ám ảnh (chính đáng) « nước xa không cứu được lửa gần » của một số người VN hiện nay, ta cần nhắc lại một số điều cơ bản của các lý thuyết về địa chiến lược (mà lãnh đạo TQ bị ảnh hưởng).

Theo tôi, lý thuyết « Địa Chiến lược – Không gian sinh tồn » của Friedrich Ratzel (xuất bản năm 1902) có ảnh hưởng sâu sắc lên các lớp lãnh đạo (then chốt) của TQ, làm thay đổi bộ mặt của nước này, đó là : Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.

Bảy định luật của thuyết này là :

1. Không gian (sinh tồn) của một dân tộc được mở rộng đồng thời với văn minh của dân tộc đó. Một dân tộc có nền văn minh tiến bộ sẽ đồng hóa các dân tộc kém văn minh hơn.

2. Lãnh thổ quốc gia sẽ phát triển theo tỉ lệ thuận với sức mạnh kinh tế và đội ngũ thương buôn của quốc gia cũng như chủ thuyết phát triển quốc gia. Việc bành trướng vì thế chỉ tùy thuộc vào ý chí và phương tiện.

3. Việc bành trướng của cường quốc được thực hiện qua phương cách « hấp thụ và tiêu hóa » các nước nhỏ.

4. Đường biên giới quốc gia không xác định (biên giới linh động – frontière vivante). Biên giới xác định chỉ có giá trị tạm thời, chỉ để đánh dấu giữa hai giai đoạn bành trướng.

5. Trong quá trình bành trướng, lãnh thổ (bây giờ là biển) là mục tiêu chiếm hữu.

6. Các quốc gia yếu kém ở kế cận là mục tiêu bành trướng. Sự bành trướng của cường quốc không thể tiến triển nếu quốc gia lân bang cũng là cường quốc.

7. Hiện tượng bành trướng có khuynh hướng lan rộng do việc tranh dành lãnh thổ của các quốc gia.

Bảy định luật của Ratzel đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ lập quốc đến ngày hôm nay.

Định luật 1 : Nền văn minh Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác, kể các các dân tộc dũng mãnh đã chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Lúc đầu lập quốc, dân tộc Hán chỉ có một vùng đất nhỏ, nhưng sau đó bành trướng ra, đồng hóa các dân tộc chung quanh. Văn hóa các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở Trung Quốc.

Định luật 2 : Hiện đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự vượt trội về kinh tế, cho phép nước này hiện đại hóa quân đội. Những đòi hỏi của TQ ở biển Đông hay với Nhật qua tranh chấp Senkaku, cho thấy ý chí của nước này.

Định luật 3 : Định luật này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp dụng từ thời mới lập quốc và còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán luôn bành trướng và tiêu diệt (hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay việc đồng hóa đang được thực hiện ráo riết tại Tây Tạng.

Định luật 5 cho thấy vẫn chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu chinh phục Biển Đông (Hoàng Sa và Trường Sa) đồng thời dành lại quần đảo Điếu Ngư (Senkaku). Nhưng định luật này cần cập nhật thêm vì chủ đích của việc chinh phục sẽ là vùng biển, là tài nguyên chứa đựng trong đó.

Định luật 6 phản ảnh rõ rệt thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm nay : VN và Phi, hai nước yếu, nằm trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao giờ muốn thấy một Việt Nam giàu mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản sức bành trướng của Trung Quốc. Vì vậy về kinh tế, ta thấy VN hiện nay rất phụ thuộc vào TQ. Đó cũng là cách áp dụng uyển chuyển của lý thuyết « không gian sinh tồn », biến VN thành một chư hầu kinh tế.

Từ định luật 6, ta thấy cuộc chiến giữa TQ và Nhật chắn chắn sẽ xảy ra. TQ không thể trở thành đại cường nếu có nước Nhật mạnh ở kế bên (và ngược lại).

Định luật 7 cho thấy có nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không còn là mục tiêu tranh chấp mà là việc tranh giành vùng biển, tranh dành thị trường, vùng ảnh hưởng. Ngoài ra là những xung đột giữa các nền văn minh (Thiên chúa – Hồi giáo) như hiện nay (theo thuyết của Samuel P. Huntington).

Theo tôi, quan trọng nhất trong các định luật trên là định luật 6. « Thoát Trung », đồng nghĩa với thoát nghèo, thoát u mê tăm tối, mục đích của TQ đặt ra cho VN.   Thoát ra khỏi cạm bẫy này thành công hay không là do lãnh đạo VN có bản lĩnh và tầm nhìn hay không.

Ta thấy định luật 6 chứng nghiệm cho các nước Nam Mỹ. Do gần với nước Mỹ, vì lý do « sinh tồn » của nước Mỹ, các nước này phải là là những nước nghèo (hay chỉ mới phát triển). (Ngoại trừ Canada, vì có cùng văn hóa và lý tưởng với Mỹ). Trong khi những nước Nhật, Đại Hàn, Đài loan… là những nước kế cận TQ, mà TQ là địch thủ tiềm tàng của Mỹ, do đó bằng mọi cách Mỹ phải giúp các nước này để họ luôn giàu và mạnh hơn TQ (để không ngả về TQ). Điều này cũng đúng cho các nước Tây Âu trong thời chiến tranh lạnh, đều chống lại Liên Xô.

Vì thế, ở kế cận TQ không hẳn là điều xấu. Cũng như ở kế cận nước Mỹ chưa chắc là điều tốt. Nếu Nhật, Đại Hàn, Đài Loan… do nhờ ở kế cận TQ mà được Mỹ giúp phát triển đất nước giàu có, hùng mạnh, thì VN cũng có thể trở nên giàu và mạnh như vậy.

Thoát Trung do đó là vấn đề thuộc phạm vi « chiến lược », chứ không phải là văn hóa hay kinh tế.

Publié par Nhan Tuan Truong à 08:29


--Tọa đàm ‘‘thoát Trung’’ : Trước hết phải tìm cách thoát khỏi chế độ toàn trị
www.viet.rfi.fr
Chiều 05/06/2014, tại trụ sở Liên hiệp các hội Khoa học kĩ thuật Việt Nam, Hà Nội, đã diễn ra một cuộc hội thảo mang tên « Làm sao để thoát Trung ? ». Hội thảo do Quỹ Văn hóa Phan Chu Trinh tổ chức. Để chuyển đến quý vị các thông tin về cuộc hội thảo, RFI phỏng vấn nhà giáo Phạm Toàn (Hà Nội), một người có mặt tại chỗ.
Là chủ đề của một sinh hoạt tọa đàm thường kỳ của Quỹ, buổi hội thảo hôm 05/06 được công chúng đặc biệt quan tâm, trong bối cảnh từ hơn một tháng nay, giàn khoan Trung Quốc thăm dò dầu khí cách bờ biển Việt Nam 120 hải lý, nằm sâu trong khu vực mà Việt Nam khẳng định là vùng đặc quyền kinh tế (có thể tham khảo bài tường thuật trên trang blog Nguyễn Xuân Diện).
Nhà giáo Phạm Toàn (Hà Nội)
07/06/2014

RFI : Xin ông cho biết ý nghĩa chính của cuộc hội thảo này.
Phạm Toàn : Từ lâu rồi, thường là cứ chiều thứ Sáu, anh em gặp nhau để thảo luận về những vấn đề mà mọi người quan tâm. Những buổi đầu còn lưa thưa, nhưng trong khoảng mấy tháng nay, các hội thảo rất đông người tham gia. Đặc biệt buổi « thoát Trung», ngồi xuống đất, đứng đằng sau, chen chúc nhau.
Vấn đề « thoát Trung » bây giờ là vấn đề thiết thân của mọi người, những người nào biết lo cho đất nước. Vì những vấn đề vặt vãnh của gia đình, của cuộc sống thì có thể quên, còn thì chuyện này nó hiện diện lù lù ra trước mọi người : từ hàng hóa Trung Quốc, tin tức… đặc biệt là cái giàn khoan, đặc biệt là sự hống hách của người Tàu.
RFI : Thưa ông,  xin ông cho biết cụ thể về các diễn giả.
Phạm Toàn : Tôi ấn tượng với anh Giáp Văn Dương, vốn là giảng sư đại học Singapore. Nhưng anh ấy bỏ hết, anh ấy về nước mở trường, lập trường trên mạng, tham gia vào những hoạt động xã hội. Bài tường trình diễn giải mở đầu của anh ấy hay lắm. Anh ấy lập luận chặt chẽ. Trước hết anh ấy nói rằng : « chúng ta thoát Trung, chứ không phải bài Trung ». Xác định giới hạn rõ ràng ! Rõ ràng đấy là những con người lịch sự, chứ không phải là làm cho người ta có thể khó chịu.
Và đặt ra vấn đề là, « thoát Trung » thì thoát đi đâu ? thoát để làm gì ? thoát bằng cách gì ? Trước đó, tôi có nói với anh ấy : « đầu đề của anh là ‘‘Làm sao’’ để thoát Trung, chứ không phải làm ‘‘Làm gì’’ ? ». Anh ấy nói là « Làm sao ? » chứ, nêu ra vấn đề lớn như thế đã ! Chứ còn «Làm gì ? » thì từng người, từng tổ chức, từng mắt xích một, phải nghĩ xem mình làm gì và mình phải làm thế nào cho nó thiết thực ! Thế còn (việc) bây giờ là phải xới vấn đề ra !...
Sau đó, đến lúc mọi người phát biểu, thì hay lắm. Anh Nguyễn Vi Khải – nguyên là cố vấn trong nhóm cố vấn của Thủ tướng Phan Văn Khải trước đây (dàn cố vấn đã bị giải tán) – nói : Hôm nay, tôi nói chuyện với tư cách một người cách đây bảy mươi mấy năm đã ra đời ở Thượng Hải. Ông ấy bảo, không nên coi thường người Trung Quốc, người ta thật sự đang hiện đại hóa, người ta thật sự đang lớn mạnh, thế nhưng mà, trong sự lớn mạnh, hiện đại của người Trung Quốc, hàm chứa nhiều điều mà anh ấy gọi là « bí ẩn »... Như thế đặt ra vấn đề mình phải nghiên cứu họ.
Tôi thấy có các ý kiến của anh Trần Vũ Hải, của anh Nguyễn Quang A, của anh Phạm Khiêm Ích hay lắm… Anh Phạm Khiêm Ích đem Hiến pháp ra nói : đảng Cộng Sản Việt Nam đã có lần đưa vào Hiến pháp, coi Trung Quốc - có máu « bành trướng », « Đại Hán » - là « nguy cơ thường trực », « nguy cơ đại họa ». Thế nhưng mà, giải pháp mà (chính quyền Việt Nam dùng - ndr) để chống nguy cơ ấy là phải xây dựng « chuyên chính vô sản ». Anh Phạm Khiêm Ích, anh ấy chỉ ra một căn bệnh (của chính quyền Việt Nam - ndr) là dùng phương thuốc sai. «Đáng nhẽ lấy nước dập lửa, thì lại lấy lửa dập lửa ; đáng nhẽ lấy thuốc giải độc để giải độc, thì lại lấy độc trị độc ». Thế thì khó lắm ! Nói chung là lúng ta lúng túng.
Cuộc họp diễn ra ở một hội trường, có một khẩu hiệu to đùng (Khẩu hiệu "Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm" - ndr). Tôi cố tình đưa ảnh ấy lên trên mạng. Còn có cả tượng (tượng Hồ Chí Minh - ndr)… Mọi người cứ cười. Anh Nguyễn Quang A nói rất vui : Cái hội trường này hình như nó không đủ chứa, lần sau chúng ta phải ở một hội trường chỗ khác thôi. Thế là tất cả đều cười bò ra. Mọi người đều hiểu nhau. Cho nên, tôi phải nói rằng, cử tọa, công chúng, con người ở Việt Nam bây giờ khôn lắm, cực kỳ thông minh rồi đấy.
Nhưng tôi chỉ hơi đáng buồn là thanh niên tham gia ít quá... Một em thanh niên nêu các vấn đề ra, rồi nói « chúng tôi là những người hoang mang »… Tôi có nói với lại, các cậu làm đi, việc gì phải chờ mấy ông già, mấy ông ấy dậy… Các cậu làm đi, sợ cái gì ?! Tất cả giống hệt như các nội dung mà anh Giáp Văn Dương đã chuẩn bị. Con người là con người tự do, tự do làm những điều theo trách nhiệm của mình. Anh Giáp Văn Dương nói, muốn thoát Trung thì thoát từ từng con người, với tư cách là « người tự do và có trách nhiệm », chứ không phải là cứ chờ đợi.
Và cái kết luận lúc cuối cùng cũng là gần như thế. Là mỗi người phải tìm ra những gì mình cần làm, những gì mình tin rằng mình làm được, tính khả thi của mọi kế hoạch. Tôi nghĩ rằng những lần họp sau, những hội thảo tiếp theo, nếu có thì có những phương án thực thi, tôi tin như thế.
RFI : Thưa ông, những điều ông nói có nhiều hương vị lạc quan, tuy nhiên, một số bài tham luận hội thảo, cụ thể là bài của Tiến sĩ, cựu đại sứ Đinh Hoàng Thắng, có nói đến « bóng ma » ám ảnh của « Thành Đô-2 » (tức một thỏa thuận bí mật có thể xẩy ra giữa ban lãnh đạo hai đảng CS Việt Nam và Trung Quốc), gây lo ngại. Về vấn đề này, xin ông cho biết ý kiến.
Phạm Toàn : Nếu chúng ta đọc "Hồi ký" của Trần Quang Cơ, chúng ta có thể hiểu một chút. Nhưng vì không có sự minh bạch, nên không thể nào biết được nội dung thực sự của những thỏa thuận ngầm, « đi đêm » là những gì. Tại làm sao sau khi bao nhiêu chiến sĩ và đồng bào mình chết như thế, mà lại có thể lờ tảng những chuyện đó đi ? Thậm chí những đài tưởng niệm ở biên giới bị đục bỏ, rồi những chuyện khác… Coi như không có gì nữa. Rồi lại trở lại bao nhiêu « chữ vàng », bao nhiêu « 4 tốt », bao nhiêu vớ vẩn… Cái đó vẫn là một quá trình. Anh Đinh Hoàng Thắng anh ấy gợi ra là sẽ có thể có « một Thành Đô » nữa.
Tôi thấy rằng, cái không khí của việc thảo luận là người nào cũng nghĩ thầm trong đầu là : thoát Hán chỉ như là một cái « biển hiệu » thôi, muốn thoát Hán thì phải thoát Cộng, mà thoát Cộng, thì cực kỳ khó khăn, phải từ từ. Thế và, có một diễn giả cũng nói rất là giữ kẽ, là « Thoát tính toàn trị chứ không phải là thoát Cộng ». Thế nhưng, thoát toàn trị, giả định đã là cái kia rồi.
Nói chung là mọi người cũng rất là dè dặt, cực kỳ dè dặt. Đặc biệt là sau khi hội nghị đã tan, mọi người còn ở lại ít nhất là một tiếng đồng hồ. Và có một câu hỏi cứ lởn vởn : hôm nay có bao nhiêu an ninh theo dõi ? Thế nhưng, rất là may, hôm nay (07/06), có một người làm việc ở chỗ Quỹ Phan Chu Trinh gọi điện cho tôi nói chuyện là, hôm qua, Ban Tuyên giáo có gọi điện cho anh Chu Hảo là hoan nghênh cuộc thảo luận đó. Tôi chưa xác minh lại thông tin này. Tuy thế, nhưng mà trước khi tổ chức, thì có những người yêu cầu là phải làm thật gọn, không được lan man, và làm đúng 4 giờ rưỡi là phải giải tán, không được ở lại thêm, không được tụ tập lâu hơn.
Tôi cho rằng, tóm lại, ở Việt Nam bây giờ đương rất là lộn xộn, không biết thế lực nào là thế lực chính, không biết người nào là người nói thật, và không biết người nào là người nói thật và làm thật. Thế lực mà đang nói thật được, nhờ cuộc cách mạng internet, thì lại chưa thể làm thật được, vẫn còn bị trên đe, dưới búa. Cái không khí tôi cảm nhận là như thế. Ngay cả diễn giả, anh Giáp Văn Dương, cũng đề ra vấn đề hết sức là chừng mực, chừng mực. Và vẫn chưa có người nào gọi tên được « con vi trùng » là cái gì ?
RFI : Trong bài « ghi chép » ông thực hiện về hội thảo này, đăng tải trên trang Văn Việt, ông có cho biết « thế hệ ông » đã thoát Trung từ lâu. Vậy xin ông cho biết cụ thể.
Phạm Toàn : Bọn tôi thoát Hán từ lâu rồi. Từ những năm 1950, chúng tôi đã có những chuyện tiếu lâm, chuyện thật, nhưng kể thành tiếu lâm, ví dụ như tính giáo điều của những ông chuyên gia, cố vấn Trung Quốc... Chúng tôi giễu nhiều lắm. Mới đầu khi thoát Trung, thì hơi ngả về Nga. Nhưng từ khi ông Khruchtchep ông ấy thể hiện sự ngu dốt, khi đả kích các nhà văn hóa, vẽ như Picasso, thà lấy đuôi ngựa nhúng vào thùng màu quật lên toan… thì có thể có được bức tranh trừu tượng... Cuối những năm 1950, chúng tôi đã thoát Trung, cuối những năm 1960, chúng tôi đã thoát Xô Viết, để còn lại là những người tư duy tự do, và buồn. Vào những năm 1970, chúng tôi đã truyền nhau một câu : « chủ nghĩa xã hội ở đâu ? c’est partout et nulle part». Và từ khi chúng tôi đã truyền tay nhau những bài viết của tạp chí « Les Lettres françaises », bị đình bản, các bài viết của ông Aragon « J’ai gâché ma vie »... Chúng tôi đã truyền tay nhau những bài ấy.
Chúng tôi đã biết rằng mình phải thoát. Chỉ còn lại là, mình phải độc lập, mình phải tự do. Nhưng mà sức mỏng, lực thì lại yếu, và cũng ba bốn năm lần, một chân ở trong cùm rồi… Thoát Trung, thoát Xô Viết, thoát cùm, ba cái thoát chúng tôi đều đã thoát cả rồi. Phải nói rằng, tôi là người lạc quan, và tôi là người tự do. Bây giờ, tôi tổ chức các em soạn lại bộ sách (bộ sách giáo khoa phổ thông của nhóm "Cánh buồm" - ndr). Để làm gì, vì muốn thoát gì, suy cho cùng cũng phải chấn hưng nền văn hóa, phải làm những việc có ích, việc có thật, việc đúng đắn. Chính những cái đó bảo vệ cho mình, bảo vệ cho danh dự, cho sinh mệnh của mình, và mình có nhiều người thông cảm, người cùng làm việc. Đấy là ý của tôi.
RFI : Như vậy, ông được cả hai đường. Thế còn những ai phải mạo hiểm cuộc sống… để làm những việc mà họ cho là đúng ?
Phạm Toàn : Tất cả các con đường đều đáng tôn trọng, tất cả các cách làm việc đều phải tôn trọng. Có những cái tích cực theo phương thức này, hoặc theo phương thức kia. Cái nguy cơ đặt ra với Việt Nam bây giờ là phong trào dân sự chưa có tổ chức… Hiện nay, thế lực mà có khả năng tổ chức là thế lực toàn trị. Thế lực ấy không đồng tình lắm với các cuộc hội thảo thoát Trung. Bởi vì thoát Trung chính là thoát cả cái toàn trị ấy.
RFI xin cảm ơn nhà giáo Phạm Toàn.






-Son Tran 

TUYÊN TRUYỀN, SỰ THẬT VÀ LÒNG CAN ĐẢM.

Chiều 5/6/2014, một hội thảo "Làm sao để thoát Trung" diễn ra ở Hà Nội.
Một cuộc hội thảo hội tụ khá nhiều những cây đa cây đề của giới trí thức Hà Nội, những người đã ký bản yêu cầu sửa đổi hiến pháp, còn gọi là nhóm 72.

Mặc dù đã có những phát biểu đanh thép, nhưng sự thú vị lại không đến từ những học giả, mà đến từ câu hỏi của các bạn trẻ:
- Đồng ý là chúng ta cần thoát Trung, vì chúng ta đang ở bờ vực. Nhưng chúng ta thoát rất giỏi, thoát từ bờ vực này sang cái vực khác còn sâu hơn, thì sao?

- Các bác nói phải liên minh với nước khác để thoát Trung, vậy nhỡ đến lúc nước đó có vấn đề với Việt Nam, thì lại tìm nước khác nữa liên minh để thoát à?
- Các bác phát biểu rất hay, nhưng đề tài này không mới. TV nói, báo nói, vỉa hè cũng nói. Nhưng sau nói là làm gì? Các bác phất cờ đi?
Những câu hỏi đó được sự vỗ tay nhiệt liệt, nhưng câu trả lời là: im lặng!

Người cộng sản rất giỏi tuyên truyền, và họ có cả bộ máy để làm việc đó. Chỉ cần quăng những câu hỏi không có đáp án vào sinh viên, vào công chức, vào dư luận viên là mọi nỗ lực thoát Trung, mọi nỗ lực thay đổi sẽ rơi vào bế tắc.

Nếu đưa những câu hỏi trên thoát ra khỏi không gian chật hẹp của buổi hội thảo, vào thế giới tự do, không khó để có câu trả lời. Trong phạm vi của buổi hội thảo, của cái xã hội tù túng, đó không phải là các câu hỏi "không có đáp án", mà là những câu hỏi "không dám có đáp án". Để trả lời các câu hỏi đó, cần phải nhìn thẳng vào sự thật, chứ không phải "một nửa sự thật" như tinh thần của buổi hội thảo.

Vì chỉ dám tiếp cận "một nửa sự thật", nên ngay từ đầu, chủ toạ - bác Chu Hảo - đã đặt ra một loạt rào cản. Không quá khích (cái dạo này hay được dùng, có vẻ cứ muốn né tránh là người ta đổ cho quá khích), không bức xúc, không đả kích, có quyền dừng những câu hỏi nhạy cảm... đã làm phần hội nhiều hơn phần thảo, nên dù cũng có nhiều phát biểu mạnh mẽ, nhưng né tránh và không giải pháp.

"Một nửa sự thật" đó thể hiện rõ nét trong bài "Làm sao để thoát Trung" của anh Giáp Văn Dương, diễn giả chính của chương trình. Ngay từ đầu, anh đã đặt rào cản bằng cách giải thích sự khác biệt của từ "làm sao" và "làm thế nào". Theo đó, bài của anh chỉ nêu vấn đề "làm sao" mang tính lý thuyết, còn "làm thế nào" là việc của chính phủ.
Bài của anh có thể tóm tắt làm ba phần như sau:
1. Thoát Trung
- Thoát đi đâu: thoát đi ra phần còn lại của thế giới
- Thoát cái gì: thoát khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của Trung Quốc
- Thoát thế nào: muốn thoát khỏi Trung Quốc, cần phát triển hơn Trung Quốc. Vậy nên trả lời câu hỏi thoát thế nào đồng nghĩa với trả lời câu hỏi phát triển thế nào.
2. Làm sao để phát triển: phát triển 7 trụ cột
– Con người tự do
– Giáo dục khai phóng
– Xã hội dân sự
– Hành chính phục vụ
– Thể chế dân chủ
– Kinh tế thị trường
– Nhà nước pháp quyền
Anh nêu cả 7 trụ cột, nói kỹ về giáo dục nhưng không chỉ ra được trong hoàn cảnh hiện nay phải ưu tiên cái gì.
3. Chúng ta (cá nhân, không đề cập đến chính phủ) có thể làm gì?
- Nâng cao năng suất lao động (tự khai sáng, tự cứu mình, đẩy mạnh khởi nghiệp, sáng tạo, đổi mới, làm việc chăm chỉ...)

Nghe bài của anh, mọi người hiểu: Muốn thoát Trung, phải phát triển, muốn phát triển, phải lao động, việc khác có chính phủ lo! (dạo này chính phủ đang có uy tín, nên nhiều người hay dùng từ "chính phủ lo" thay cho "đảng và nhà nước lo")

Đó là một lập luận logic và hợp lý, rất hợp lý nếu chúng ta đang ở ... Mexico, và vấn đề không phải thoát Trung, mà là thoát Mỹ - chỉ cần phát triển hơn Mỹ là thoát. Nhưng ở nơi ấy, trong thế giới tự do, câu hỏi "làm sao để thoát Mỹ" chắc chắn là một câu hỏi ngớ ngẩn. Chính người Mỹ có lẽ đang phải đặt câu hỏi: "làm sao để thoát Mexico".

Vậy đâu là sự thật? Theo tôi, một nửa sự thật còn lại nằm ở câu hỏi: "Tại sao phải thoát Trung?" mà không hiểu vô tình hay cố ý đã bị né tránh (mình đứng lên định hỏi thì bị chặn). Bao đời cha ông ta muốn thoát Trung (cả người Nhật, người Hàn), đến nay chúng ta lại tiếp tục phải thoát Trung. Chúng ta chắc chắn không muốn thoát một nước Trung Hoa dân chủ, vì nó công bằng và đem lại nhiều cơ hội. Chúng ta muốn, và cần phải thoát khỏi một nước Trung Hoa Cộng Sản, như cha ông ta muốn thoát một nước Trung Hoa phong kiến, vì chỉ những nước độc tài toàn trị, độc tài phong kiến mới sẵn sàng chà đạp nhân dân mình, chà đạp nhân dân dân tộc khác để bảo vệ quyền lực của thiểu số, bảo vệ lợi ích của thiểu số và duy trì ý thức hệ của thiểu số.

Sự thật rõ ràng nhưng trần trụi. Chúng ta thoát ý thức hệ của Trung Cộng thế nào, nếu đó cũng là ý thức hệ của chúng ta? Liệu chúng ta có dám thoát nổi mình? Trả lời thẳng thắn câu hỏi đó là điều không thể với bác Chu Hảo, với anh Giáp Văn Dương và những cuộc hội thảo nằm trong toà nhà của Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam. Nhưng khi không thể thì đừng nên nói, đừng nên hội thảo chỉ để nói một nửa sự thật, vì một nửa sự thật vẫn là giả dối, và sự giả dối lại giúp ích đắc lực cho bộ máy tuyên truyền.

"Muốn thoát Trung, phải thoát Cộng. Muốn thoát Cộng, phải dân chủ, đa đảng". Để nói ra điều đó cần một sự can đảm như một cậu bé (có lẽ vì trẻ và ngây thơ) dám hét lên "Hoàng đế cởi truồng!" trong truyện cổ, và để thực hiện nó còn cần sự can đảm gấp nhiều lần. Hi vọng những thành viên trong câu lạc bộ Phan Chu Trinh, những người tổ chức cuộc hội thảo này có thể một lần lên tiếng, một lần thực hiện, một lần can đảm đáp lại lời trách cứ bi ai của cụ:
"Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày."

Cuối cùng, xin mạo muội trả lời ý kiến của các bạn trẻ, khi đã mạnh dạn tiếp cận sự thật:
1. Chúng ta đang ở trên bờ vực, đó là bờ vực làm nô lệ cho chủ nghĩa đại hán bá quyền Bắc Kinh, bờ vực của sự độc tài toàn trị, không có một bờ vực nào lớn hơn. Vì vậy, khi thế giới văn minh chìa tay cho chúng ta, hãy mạnh dạn nắm lấy và đi cùng họ. Tất nhiên, trong tiến trình dân chủ, chúng ta sẽ có sai lầm, sẽ có va vấp, nhưng hãy tin vào chính mình. Với sự tự do lựa chọn, tự do bầu cử, tự do quyết định, chúng ta sẽ đủ minh mẫn để tìm ra giải pháp cho mình, chắc chắn tốt hơn giải pháp của những người tự cho là đỉnh cao trí tuệ nhưng khư khư ôm lấy cái học thuyết đã thất bại mấy trăm năm.
2. Có thể chúng ta không liên minh với nước này chống nước kia, nhưng chúng ta buộc phải liên minh với nước khác để bảo vệ chủ quyền. Sự liên minh này không phải là sự ràng buộc ý thức hệ, mà là liên minh theo tiêu chuẩn tự do, dân chủ, nhân quyền. Tất nhiên, cái gì cũng có giá của nó, nhưng cái giá phải trả bao giờ cũng rẻ hơn việc mất tất cả vào tay Trung Quốc.
3. Thoát Trung và thay đổi quan hệ với Trung Quốc là một vấn đề phức tạp, nằm ngoài khả năng của một cá nhân, một cuộc hội thảo, của các tổ chức XHDS và nằm ngoài cả khả năng của ĐCS do những ràng buộc và nợ nần hiện tại. Cần phải có những giải pháp chính trị từ những tổ chức chính trị chuyên nghiệp.

Trên đây là những gì mình thu hoạch được sau buổi hội thảo, mong mọi người chỉ giáo!

Theo: Fb Lã Việt Dũng.
-“Thoát Trung” nhưng cũng cần cẩn trọng
Phan Minh Ngọc
Thứ Sáu, 6/6/2014, 10:41 (GMT+7)

(TBKTSG) Vào lúc này một chương trình “thoát Trung” (ít nhất là về mặt kinh tế) đang được rục rịch bàn thảo và chuẩn bị, nhưng nên tỉnh táo phân tích tình hình, tránh chạy từ thái cực nọ sang thái cực kia một cách cực đoan, cảm tính.
Ngoài yếu tố chính trị và dân tộc chủ nghĩa, “thoát Trung” được đưa ra trong bối cảnh khi Việt Nam nhập siêu kinh niên với Trung Quốc ở quy mô ngày càng lớn, lên đến trên 20 tỉ đô la Mỹ vào năm ngoái.



Điều đáng nói hơn là hàng hóa Trung Quốc nhập vào Việt Nam có chất lượng trung bình và thấp, nhiều mặt hàng độc hại cho sức khỏe và môi trường.

Công nghệ và máy móc của Trung Quốc cũng vậy, đa phần ở tầm “thường thường bậc trung” trở xuống, tiêu hao năng lượng lớn và ô nhiễm môi trường. Ưu điểm của hàng hóa và công nghệ Trung Quốc thường là giá rẻ và đa dạng, hầu như kiểu gì cũng có, cũng đáp ứng được.

Quan trọng hơn, Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào nguyên vật liệu, công nghệ và máy móc của Trung Quốc khi mà chúng chiếm tỷ trọng lớn, mang tính chi phối trong các yếu tố đầu vào cho các hoạt động sản xuất và chế biến tại Việt Nam.

Trong bối cảnh trên, nhiều người cho rằng nếu không nhanh chóng “thoát Trung” thì có nguy cơ Trung Quốc sử dụng thương mại và đầu tư từ Trung Quốc làm công cụ khống chế Việt Nam. Trước xu thế này, nên tỉnh táo phân tích tình hình, tránh chạy từ thái cực nọ sang thái cực kia một cách cực đoan, cảm tính.

Điều đầu tiên cần nhìn nhận rõ là Trung Quốc xấu chơi nhưng không có nghĩa là cần phải chấm dứt hoặc thu hẹp nhất có thể quan hệ thương mại và đầu tư với Trung Quốc.


Trung Quốc không dại gì mà tự bắn vào chân mình khi tìm cách dùng các quan hệ thương mại và kinh tế với Việt Nam để kiềm tỏa Việt Nam, ví dụ bằng cách hạn chế xuất khẩu các nguyên vật liệu đầu vào cho các ngành gia công, chế tạo tại Việt Nam.



Ví dụ, với Nhật, đương nhiên Trung Quốc cũng chẳng tử tế gì hơn, nhưng thực tế là Nhật vẫn cứ phải duy trì mối quan hệ thương mại và đầu tư với Trung Quốc ở mức thậm chí rất lớn.

Theo số liệu của JETRO, nhập khẩu của Nhật từ Trung Quốc đã đạt 189 tỉ đô la, và xuất khẩu đạt 145 tỉ đô la năm 2012 (Nhật nhập siêu 44 tỉ đô la từ Trung Quốc). Trung Quốc là bạn hàng thương mại lớn nhất của Nhật, chiếm tới 19,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật năm 2012, tuy có giảm nhẹ từ mức 20,6% năm 2011 (và năm 2012 là năm duy nhất có tỷ lệ này thấp hơn 20% kể từ năm 2008).

Nhìn vào những con số trên, có thể thấy với một nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghệ và kỹ thuật cao như Nhật mà vẫn phải phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung từ Trung Quốc, điều này đủ để nhận ra rằng tự thân trình độ và chất lượng “thường thường bậc trung” hoặc thấp của hàng hóa Trung Quốc không phải là cái cớ để “nghỉ chơi” với Trung Quốc.

Nếu có làm một phân tích tương tự như vậy giữa Mỹ và Trung Quốc cũng thấy Trung Quốc là một trong những bạn hàng và thị trường đầu tư quan trọng nhất của Mỹ. Bởi vậy, tuy Mỹ có ngày càng khó chịu với Trung Quốc về mặt nào đó (và ngược lại) thì ít nhất về mặt kinh tế cả hai quốc gia vẫn (biết rằng) phải gắn bó với nhau, phụ thuộc lẫn nhau dài dài.

Điều cần nhìn nhận thứ hai là trừ khi có xung đột quân sự ở quy mô lớn đương nhiên làm đóng băng mọi quan hệ giao thương giữa hai nước, Trung Quốc không dại gì mà tự bắn vào chân mình khi tìm cách dùng các quan hệ thương mại và kinh tế với Việt Nam để kiềm tỏa Việt Nam, ví dụ bằng cách hạn chế xuất khẩu các nguyên vật liệu đầu vào cho các ngành gia công, chế tạo tại Việt Nam.

Không nói làm gì đến những tư cách thành viên của các hiệp định đa phương (WTO, ASEAN+Trung Quốc) vốn không cho phép các thành viên muốn làm gì thì làm, Trung Quốc chắc chắn sẽ luôn phải nghĩ hai lần trước khi có ý định làm tổn hại đến dòng chảy thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc, đơn giản vì con số vài chục tỉ đô la kim ngạch thương mại giữa hai nước, chưa kể đến hàng trăm dự án đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam, hoàn toàn không phải là con số vô nghĩa để có thể dễ dàng bỏ qua.

Ngược lại, quy mô đủ lớn của quan hệ kinh tế song phương này lại làm cho mọi mưu đồ dùng kinh tế để kiềm tỏa đối phương không dễ mà thực hiện được, đơn giản vì các chủ thể kinh tế ở hai nước sẽ tìm ra được con đường đi thích hợp để gặp được nhau, hoặc gây áp lực lên thế lực cầm quyền.

Điều cần nhìn nhận thứ ba, chính người Việt Nam là nguyên nhân chính làm cho hàng hóa, thiết bị và công nghệ chất lượng thấp, độc hại của Trung Quốc lọt vào và khuynh đảo thị trường như hiện nay. Trong thế giới phẳng này, rõ ràng nhà cung cấp Trung Quốc không thể ép buộc nhà nhập khẩu Việt Nam phải nhập hàng Trung Quốc. Ở đây hầu như chẳng có chuyện ai lừa/ép được ai cả, mà là trên cơ sở tự nguyện.

Mức thu nhập thấp của đại bộ phận người Việt Nam là một nguyên nhân để cho hàng hóa giá rẻ (đương nhiên chất lượng thấp, độc hại) tràn vào Việt Nam, đáp ứng được những người có túi tiền eo hẹp.

Trình độ và quy mô sản xuất của Việt Nam ở dạng thấp của thế giới, kèm với hạn chế về vốn và tiếp thị, thì thiết bị và công nghệ của Trung Quốc là phù hợp do có giá rẻ, chi phí bảo dưỡng và phụ tùng thấp, dễ tiếp cận, giá thành thấp, dễ cạnh tranh được về giá...

Bản thân các bất cập về pháp luật cũng như những yếu tố chính trị lại tạo điều kiện để cho công nghệ và thiết bị, cũng như nhà thầu Trung Quốc chi phối nhiều lĩnh vực ở Việt Nam. Ví dụ, quy định về đấu thầu thường “giúp” cho các nhà thầu (Trung Quốc) thắng thầu nhờ bỏ thầu giá rẻ nhất.

Ngoài ra, cũng có nghi ngờ về sự tiếp tay của một bộ phận quan chức với các doanh nghiệp Trung Quốc do các doanh nghiệp Trung Quốc không ngần ngại “đi đêm” để giành lấy công việc. Các dự án ODA của Trung Quốc, hay sự thỏa thuận giữa hai chính phủ tập trung trong một số lĩnh vực cũng là một lý do để sự hiện diện của (các yếu tố) Trung Quốc nhiều hơn mức bình thường trong những lĩnh vực này.

Quan trọng không kém là đặc tính của nền kinh tế Việt Nam, vốn có ngành công nghiệp chế tạo mang tính gia công lớn, hầu như chỉ có sức lao động trong công đoạn lắp ráp, chế biến là phần giá trị thặng dư được tạo ra trên lãnh thổ Việt Nam, với nguyên vật liệu và đầu vào, đầu ra được khống chế bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Mà nhà đầu tư nước ngoài luôn tính toán bài toán chi phí và lợi nhuận, nên luôn tìm các nguồn cung với chi phí hạ nhất, tất nhiên phần lớn là từ Trung Quốc.

Tóm lại, cần phải xác định rằng Việt Nam không hoàn toàn là “nạn nhân” về kinh tế của (hoặc dưới bàn tay) Trung Quốc. Có những yếu tố chủ quan và khách quan để dẫn đến tình trạng lệ thuộc (về kinh tế) vào Trung Quốc như hiện nay. Bởi vậy, việc “thoát Trung” trên cơ sở cực đoan, thành kiến sẽ chẳng mang lại mấy lợi ích, dù là trong dài hạn.

Điều quan trọng là phải biết “sống chung với lũ”, tìm cách khắc phục các mặt hại nảy sinh từ sự lệ thuộc này. Ví dụ như phải siết hàng rào về chất lượng hàng nhập khẩu, tăng cường kỷ cương pháp luật để hạn chế sự lũng đoạn của (doanh nghiệp) Trung Quốc trong những lĩnh vực đã nêu trên, tiếp tục tích cực hòa nhập với khu vực và thế giới qua các hiệp định tự do thương mại song phương và đa phương để đa dạng hóa thị trường, nguồn cung, nguồn đầu tư, qua đó biến cả Việt Nam và Trung Quốc thành những thực thể kinh tế ngày càng phụ thuộc vào nhau và với các quốc gia khác trong một chuỗi mắt xích của phân công lao động toàn cầu không thể tách rời ra và/hoặc “ăn hiếp” nhau được.



Tường thuật trực tiếp: TỌA ĐÀM “LÀM SAO ĐỂ THOÁT TRUNG?”

Nguyễn Xuân Diện-Blog 5-6-2014



TS. Phạm Gia Minh trình bày về Thoát Á, Thoát Trung.
Xem bài tại đây: Một số ý kiến đóng góp vào cuộctọa đàm với chủ đề THOÁT TRUNG



TS. Đinh Hoàng Thắng:
Xem bài tại đây:Để “thoát Trung”có thể thành hiện thực



“Thoát Trung”: vẫn chỉ là giấc mơ 5-6-2014

Ts Đinh Hoàng Thắng/Chương trình Minh triết Bảo vệ Biển Đông



Chúng ta phải trả lời câu hỏi “Thoát Trung là thoát những gì”.? 5-6-2014

Trần Ngọc Vương- Phát biểu tại tọa đàm: ” Làm sao để thoát Trung?”




Tổng số lượt xem trang