Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Giải khăn sô cho huế: chờ đợi một ngày giỗ chung cho việt nam

-Tiếng Kêu Tết Mậu Thân Huế 1968Nhã Ca - Đại học UC Berkeley Ngày 150225
Những người Huế từng bị tàn sát Tết Mậu Thân xứng đáng được tưởng niệm.

* Từ trái, Giáo sư Olgar Dror của phân khoa Lịch Sử tại Đại học Texas A&M University, đồng thời là dịch giả sách “Mourning Headband for Huế” đang thuyết trình về trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, với hình ảnh những hầm chôn người tại Huế xuất hiện trên màn hình. Trên bàn thuyết trình là Giáo sư Peter Zinoman của Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á thuộc Đại học U.C. Berkeley và nhà văn Nhã Ca, tác giả “Giải Khăn Sô cho Huế tại Huế”. *
  

Kính chào quí vị,

Hôm nay, với người Việt chúng tôi, vẫn còn là ngày Tết. Mùng Bảy Tết. Xin chúc tết theo truyền thống Việt Nam: “Kính chúc tất cả quí vị một năm mới Ất Mùi an lành.”

Và xin cám ơn UC Berkely. Cám ơnm Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á; Cám ơn Giáo sư Peter Zinoman và quí vị trong ban tổ chức.

Giáo sư Olga Dror, nhà nghiên cứu và giảng dạy về văn hoá lịch sử Việt Nam, đã trình bầy đầy đủ về biến cố Tết Mậu Thân và "Giải Khăn Sô cho Huế." Cám ơn Olga.

Thưa quí vị và các bạn,

Là người viết văn thường viết khi một mình, tôi chỉ quen viết, không quen nói. Sẽ không bao giờ có thể là diễn giả. Bài nói chuyện này được viết trước. Tôi viết tiếng Việt và nói bằng "văn viết".


Tiếng Kêu Tết Mậu Thân

Hình như mỗi người đều có cuốn lịch riêng của mình, trong nhà hoặc trong đầu. Tôi biết mỗi tờ lịch có câu chuyện của nó, cả chuyện hôm qua, hôm nay, lẫn ngày mai. Câu chuyện của từng tờ lịch trong cuốn lịch chung được gọi là lịch sử.

Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất của lịch sử Hoa Kỳ trong thế kỷ 20. Cuộc chiến ấy có cái bóng dài hơn là chính nó. Đó là cái bóng của trận tổng tấn công Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968, do phía cộng sản thực hiện. Với những hầm chôn người và hàng ngàn thường dân Huế bị tàn sát, cái bóng oan khiên ấy ngày càng được nối dài. Dài hơn một trận đánh. Dài hơn cả cuộc chiến. Chưa biết đến bao giờ mới ngừng.

Là người sống sót từ trận chiến Tết Mậu Thân, tôi viết "Giải Khăn Sô cho Huế". Đây không phải tiểu thuyết hư cấu. Cũng chẳng phải văn chương thơ phú. Chỉ là chuyện thật, chuyện chạy bom chạy đạn. Chuyện mình, chuyện người. Mắt thấy tai nghe. Có sao viết vậy. Chỉ là những mảnh vỡ của một thành phố tan tác trong cảnh hỗn mang giữa máu lửa, chết chóc. Giáo sư Olga Dror gọi chúng là những "hình ảnh tức thì" của cuộc sống bị hủy hoại và vỡ nát. Bà "nghe" thấy tiếng nói từ loại hình ảnh này.

Là một trí thức Do Thái được sinh ra và lớn lên tại Nga từ thời Sô Viết, bà Olga đã rời khỏi đất nước này khi Liên Bang Xô Viết còn là một siêu cường. Hơn 10 năm sau khi chế độ Xô Viết đã sụp đổ, Giáo sư Olga Dror có dịp trở lại nước Nga. Năm 2012, trong một cuộc hội thảo về kinh nghiệm quan hệ giữa nước Nga và Việt Nam tổ chức tại Moscow, Olga thuyết trình về đề tài "Trận chiến Tết Mậu Thân tại Việt Nam và cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế." Nhưng nước Nga hậu Xô Viết vẫn không hề khác 25 năm trước. Thái độ của cuộc hội thảo với đề tài này là chỉ có thể đề cập tới "tội lỗi của phía Mỹ" trong trận chiến. Mọi lý lẽ khác bị dập tắt.

Olga kể là sau đó, ngay chính trên đất Nga chứ không phải đâu khác, bà thấy mình quyết tâm hơn bao giờ hết, trong việc phải bảo vệ thứ tiếng nói từng bị vùi dập trong chiến tranh. Olga còn cho biết nguồn sức mạnh khích lệ bà trong quyết tâm này là những chuyện mà ông bà nội của bà đã phải chịu đựng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến tại thành phố St. Petersburg.

Năm 2012 là lúc người dịch và người viết "Giải Khăn Sô cho Huế" bắt đầu liên lạc làm việc với nhau. Nhưng khi sự việc trên đây xẩy ra, tôi không hề biết gì. Khi đó chúng tôi chưa quen nhau. Tôi không biết cuốn sách "Giải Khăn Sô cho Huế" đã cùng đi với Olga tới nước Nga ra sao. Chỉ biết Olga Dror là vị học giả uyên bác, người viết về Bà Chúa Liễu Hạnh của Việt Nam, một công trình nghiên cứu mà chúng tôi khâm phục. Ba năm liên lạc thư từ cùng làm việc, đã coi nhau là bạn, nhưng chỉ khi công việc đã xong, cầm cuốn sách anh ngữ trên tay, đọc bài của Olga, tôi mới biết chuyện này.

Điều mà Giáo sư Olga tìm thấy trong cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế, là "tiếng nói của người dân trong chiến tranh." Bà nói cuốn sách là cái nhìn cuộc chiến không qua cặp mắt của người lính hay chính trị gia, bình luận gia, mà qua cặp mắt của người dân không phe phái. Nó mô tả kinh nghiệm của những người dân bình thường.

Sau khi liệt kê đầy đủ và đối chiếu với các loại quan điểm khác nhau về trận chiến đã được nói lên từ nhiều phía, nhiều nơi, nhiều nước, Olga nhấn mạnh "Mourning Headband for Huế" là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam. Với nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam, tiếng nói này hoàn toàn bị cấm kỵ. Tác giả từng bị bắt bỏ tù, cuốn sách từng bị đóng đinh và cho tới nay vẫn tiếp tục cấm đoán. Ngay tại Hoa Kỳ, tiếng nói của người dân miền Nam cũng chưa từng được lắng nghe. Sách viết về chiến tranh Việt Nam hầu hết đều phát xuất từ miền Bắc Cộng Sản.

Olga cũng nói đọc Nhã Ca trong Giải Khăn Sô cho Huế, có khi người ta nghe tiếng la thất thanh, tiếng kêu gào tới mức không còn ra tiếng nữa. Tôi biết đó là tiếng kêu từ Huế Tết Mậu Thân. Tiếng kêu của người dân miền Nam trong cuộc chiến.

Hôm nay, lần đầu tiên. tiếng kêu ấy được mang đến U.C. Bekerley.

Nhờ buổi họp mặt này, hai chị em chúng tôi được gặp nhau lần đầu. Cuốn sách chúng ta có hôm nay không chỉ là bản dịch. Phần chính của sách là công trình nghiên cứu nghiêm túc của Giáo sư Olga về tiếng nói của người dân trong trận tấn công 1968. Giải Khăn Sô cho Huếvà Nhã Ca, với hàng trăm chú giải chi tiết kèm theo bản Anh ngữ do Olga thực hiện, chỉ còn là đề tài của công trình nghiên cứu.

Tha lỗi cho tôi, Olga.

Tôi đã đẩy sang vai bạn phần lớn gánh nặng.

Bạn đã lãnh dùm việc nhìn lại toàn bộ trận chiến Tết Mậu Thân tại Huế. Bạn cũng đã giới thiệu quá đầy đủ về cuốn sách, tác giả và tác phẩm. Phần tôi, chỉ xin góp thêm chuyện bên lề, lan man không thứ tự. Bắt đầu bằng...

Ký ức một thời về chiến tranh, khủng bố

Tôi ra đời cùng lúc với cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ hai. Huế thời đó còn là kinh đô của các ông vua triều Nguyễn, nhưng cả nước đã trở thành thuộc địa của Pháp.

Năm 1937, quân Nhật tiến chiếm nước Trung Hoa rồi tràn vào Việt Nam kéo theo bom đạn của thế chiến.

Từ thủa còn bé thơ, hai ba tuổi, tôi đã biết nếm mùi chiến tranh, bom đạn, nhà cửa bị đốt cháy, cả nhà phải chạy loạn, đi tản cư trên những chiếc ghe, người lớn chèo trối chết, thuận hoặc ngược dòng sông để lánh nạn.

Năm 5, 6 tuổi, có lần theo lũ trẻ chơi đùa trên sân đình làng quê, thấy một bãi máu nhuộm đỏ từ gốc cây sung, bọn trẻ chạy theo, lên thềm đình. Xác một người đàn ông bị cưa ra làm 3 khúc. Đầu treo trên cây, thân nằm giữa sân và tay chân sắp trên thềm đình. Người bị giết là một thợ rèn, hiền lành. Việt Minh giết.

Năm tôi 9 tuổi. Tại Huế, Việt Minh cướp chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị, con đường Nam Giao của Huế, nơi có nhiều vườn chùa êm ả bỗng dấy lên nhiều cảnh kinh hoàng. Lúc đó, tôi học ở một trường tiểu học tên là trường Nam Giao. Sáng sớm, mấy bạn trong xóm rủ nhau đi học, bọn con nít chúng tôi thường kinh hoàng la hét, khi thấy một cái đầu bị cắt đứt lìa từ cổ để trong một cái rổ tre với một miểng giấy ghi của Việt Minh lên án Việt gian. Có khi đầu lâu hay thân người, hay cánh tay, đùi chân đặt trên cái rá, cái thúng. Có người tứ chi bị cắt rời, thân bỏ vào bao bố, đầu để ra ngoài, hai con mắt mở trừng trừng, miệng còn dính máu đông, rất hãi hùng.

Nhưng rồi... có một lần, bạn tôi không la, không hét, không xô đẩy. Mà cũng như thấy xung quanh không hề có ai. Cũng không nhấc tay, dợm chân. Bạn đứng sững. Tuy còn là một đứa nhỏ, nhưng tôi biết "đứng như trời trồng" là lúc bạn đứng đó. Hai cái đầu được bày trên hai cái nón lá chính là ba và mẹ của bạn. Bạn ra sao lúc đó? Bạn cứ đứng vậy. Hai mắt bạn cũng trắng dã, trợn trừng như bốn con mắt không thể nhắm của ba mẹ bạn.

Tôi cũng đứng như vậy. Không nhấc nổi tay chân. Không mở miệng. Sau đó, người ta xua đuổi bọn con nít đi. Tôi lạc mất bạn.

Và rồi, Tết Mậu Thân 1968, chuyện tàn sát tập thể bằng cách chôn sống đã diễn ra tại Huế. Hàng ngàn dân Huế bị chôn ở Thành Nội, ở Gia Hội, ở Bãi Dâu, ở Phú Thứ, ở khe Đá Mài... Không chỉ trong núi trong rừng, nơi họ bị chôn còn là đất chùa, đất nhà thờ, đất trường học, và ngay tại vườn nhà.

Trong số những người bị chôn có chị Tâm Tuý, cô bạn trường Đồng Khánh của tôi. Khi xác được đào lên, thấy tóc mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn. Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống, như nhiều nạn nhân khác.

Trong cuộc hưu chiến đêm giao thừa mùng một tháng Giêng Tết Mậu Thân, nhằm ngày 29 tháng Giêng 1968, các đơn vị cộng quân - gồm cả quân chính qui Bắc Việt và dân quân địa phương - lặng lẽ tiến vào Huế, kiểm soát được khu Gia Hội trong 20 ngày. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi này, có tới 473 người Huế bị chôn sống.

Tiếng kêu Tết Mậu Thân từ "Giải Khăn Sô cho Huế" mới chỉ là những ghi nhận đầu tiên. Còn hàng ngàn tiếng kêu khác bao năm qua vẫn liên tục cất lên, ngay trên đất Hoa Kỳ. Xin kể một trường hợp mà chính tôi biết rõ: Ông Võ Trang, 56 tuổi, cư dân San Diego, một kỹ sư điện đang làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại đây, hồi tưởng việc bố của ông được mời đi "họp" chỉ 2 ngày trước khi quân đội quốc gia tái chiếm thành phố Huế. Ngày ấy, ông còn là một thiếu niên 15 tuổi. Sau đây là đoạn trích do ông Võ Trang viết:

"Trong khi tôi đang ngồi cạo chiếc ghế xích đu cũ để sơn lại thì bỗng có người vỗ vai tôi và hỏi nhẹ "Em ơi! Có ba ở nhà không?" Tôi bàng hoàng quay lại. Hai người, một dân quân áo bà ba quần cụt, một chính quy với dép râu và quân phục, nón cối màu vàng. Tôi hỏi lại họ muốn kiếm ai thì họ nói tên ba tôi rõ ràng. Chị giúp việc mà gia đình tôi vừa thuê vài tháng trước đã mở cửa sau cho họ. Tôi vào kêu ba tôi trong hầm giã chiến. Hết đường chạy rồi! Phòng chỉ có một cửa ra vào thì họ đã đứng chận. Ba tôi mặt tái xanh và không nói gì nữa. Trong hầm còn có một người em trai của me tôi, là một cảnh sát viên, đã khuyên ba tôi nên đi ra để họ khỏi xông vào bắt thêm những người họ không dự định. Me tôi đưa thêm chiếc áo len cho cho ba tôi mặc vào. Người anh thứ hai của tôi chạy theo xin đi thế nhưng họ không cho. Hôm đó là ngày 19 âm lịch tháng Giêng năm Mậu-Thân...

"Khoảng hơn một tuần sau, các hầm chôn người tập thể nằm phía sân sau của trường Tiểu Học Gia Hội được phát hiện. Xác người khi được khai quật, tuy chưa bị rữa nhưng đã sưng phồng lên và bốc mùi.

"Cái thây người được kéo lên để nằm ngửa người trên một u đất, miệng há hốc, mặt đen xám và dính đầy đất, hình ảnh mà cả cuộc đời tôi không bao giờ quên. Đó là ba của tôi. Những chứng cớ không thể chối cãi. Chiếc áo có vẽ 4 cái đầu của ban nhạc "The Beatles" bên ngực trái, là chiếc áo độc nhất vô nhị của anh tôi mà ba tôi rất thích. Hai chiếc tất (vớ) thêu lủng lỗ mà anh em chúng tôi đều biết được chia đều vào 2 túi quần. Rõ ràng là dấu hiệu ba tôi để lại cho gia đình nhận diện. Tôi không biết ba tôi đã vật vã như thế nào vào giờ phút đó nhưng me tôi và các anh em tôi thì vẫn đau đớn cho đến bây giờ...".

Võ Trang cho biết trong số người bị chôn có cả cô gái 19 tuổi ở cách nhà ông 2 căn. Người anh là một cảnh sát viên vắng mặt nhưng có tên trong danh sách được mời, cô em thay thế anh "đi họp"!
Và kể thêm: "Thảm sát tập thể như thế này cũng đã xảy ra ở Sịa, vùng quê gần Huế, vào năm 1947. trước khi rút lui vì nghe tin quân Pháp sắp trở lại, cộng sản kêu gọi dân chúng đi đào hầm chống Pháp. Những hầm này thật ra chính là những hầm chôn tập thể chỉ trong vài ngày sau đó. Theo lời chú tôi kể lại họ đi bắt người cả ban ngày và ban đêm. Ông Cố Nội của tôi, đã 70 tuổi cũng đã bị bắt đi vào ngày 17 tháng 2 nhằm ngày 20 Tết Âm Lịch. Lúc đầu người ta phát giác xác anh TH., một nhân vật có võ được biết trong làng, chết bên vệ đường với nhiều vết chém, đứt cả bàn tay. Rồi lần theo vết máu người ta tìm đến những hầm chôn người tập thể trong đó có cả Ông Cố Nội của tôi và em của Ông. Những vết cắt cho thấy họ bị chặt đầu bằng mã tấu! (1).

Và Đêm Huế 1970. 

Hai năm sau trận chiến Mậu Thân, họp mặt ra mắt sách "Giải Khăn Sô cho Huế" lần đầu tại Sàigòn, với sự hiện diện của Hoà thượng Thích Trí Thủ, vị đại sư huynh của các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam. Sau đó toàn bộ số thu từ cuốn sách được mang về trao tặng trường trung học Đồng Khánh và Đại học Y Khoa Huế. Chuyến đi Huế lần này có sự tham dự của Linh mục Cao văn Luận, viện trưởng sáng lập Đại học Huế, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, các nhạc sĩ Phạm Duy, Cung Tiến.

Tại Huế vào thời điểm này, dân chúng ngày ngày đang lùng kiếm đào bới các hầm chôn người do cộng quân để lại, thành phố đổ nát đầy tang tóc. Đêm Huế 1970 cho tôi những hình ảnh nhớ đời.

Một buổi chiều, với chiếc xe Volkswagen, chúng tôi sang Thành Nội. Đây là chiếc xe của ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick để lại trong chung cư y khoa sau khi bị cộng quân bắt đi. Ông bà cùng hai vị bác sĩ người Đức khác là Raimund Discher và Bác Sĩ Altekoester là bốn bác sĩ người Đức sang giúp trường Y khoa Huế từ 1960. Cả bốn vị đều đã bị cộng quân bắt đi xử bắn.

Tại Thành Nội, chúng tôi có buổi ăn tối với các bạn ở trường Âm Nhạc Huế. Đây là nơi trú đóng của cộng quân trong cuộc giao chiến. Trong khu vườn nhà trường, có con mương dẫn nước chạy qua. Lúc đứng ở sân, người vợ của anh bạn giám đốc trường nhạc chỉ tay vào cái mương, nói là sau khi Việt Cộng đã rút chạy, anh chị trở lại đây, thấy xác binh sĩ Việt Cộng nằm chết xếp lớp dày đặc trong con mương.

Người chết không còn oán thù, có một mâm cơm, một bát nhang bày ở đó.

Trên đường lái xe về, trong đêm Huế thê lương đâu đâu cũng thấy bầy bàn thờ nhang khói, chúng tôi có ngừng lại thăm một ngôi nhà có người cha người anh đã bị cộng sản chôn sống tại Gia Hội. Con em trong nhà mang áo xô gai, thay nhau cầm bó đuốc chạy quanh gốc cây trước nhà. Theo niềm tin của dân gian, những hồn chết oan không biết đường về nhà. Phải đốt đuốc hướng dẫn cho linh hồn lưu lạc biết đường mà trở về.

Có biết bao hồn oan trong trận chiến Huế Mậu Thân đang chờ ánh đuốc, cả hồn oan của những chiến binh miền Bắc bỏ xác trong mương nước thành nội.

Năm Ất Dậu, 1885, Pháp đã đưa quân vào Huế uy hiếp triều đình. Đêm 23 tháng 5 âm lịch, 30,000 quân Nam tấn công căn cứ Pháp tại Mang Cá nhưng bị đánh bại. Kinh thành thất thủ, đại thần Tôn Thất Thuyết phải mang Vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị mở phòng trào Cần Vương. Trong trận chiến này, hơn 1500 quân dân Huế bị tàn sát. Ngay từ năm Mậu Tuất tiếp theo, Huế lập Đàn Tưởng Niệm, xây thêm miếu Âm Hồn trong Thành Nội, hàng năm, đúng ngày giỗ, cả thành phố đều đốt nhang, làm lễ. Thực dân Pháp không cấm việc dân Huế tưởng niệm người chết. Cộng sản thì khác.

Huế Mậu Thân, số nạn nhân bị tàn sát nhiều gấp 5 lần, nhưng từ sau 1975, mọi đài tưởng niệm đều bị phá bỏ, dân chúng thì bị công an đến từng nhà truyền lệnh cấm tụ tập làm giỗ.
Hình ảnh bập bùng của những ngọn đuốc đêm Huế ấy bao năm vẫn chập chờn trong đầu tôi.

 Từ trái: Giáo sư Peter Zinoman giới thiệu tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror


Thưa quí vị,

Năm Ất Mùi 2015, bốn mươi năm sau chiến tranh Việt Nam cũng là dịp kỷ niệm 20 năm bang giao Việt Mỹ.

Lịch sử có ghi là hai năm trước khi Nội chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã chỉ định "một ngày tủi nhục quốc gia" cho nước Mỹ. Trong ngày này ông đã kêu gọi cả nước nhận chung "tội lỗi của chúng ta" và cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự tha thứ.
"Ngày tủi nhục quốc gia" được công bố tại Mỹ là ngày 30 tháng 3 năm 1863. Đã hơn 150 năm. Nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào vào tháng Tư năm 1865. Liên Bang nước Mỹ, với sự tôn trọng dành cho phía miền Nam - lá cờ miền Nam vẫn được treo, binh sĩ miền Nam vẫn giữ súng cá nhân, liệt sĩ Nam Bắc chung nghĩa trang, cả nước không có một cuộc diễn binh hay lễ hội mừng chiến thắng. Từ đó mà có được nước Mỹ ngày nay.

Sau Tết Ất Mùi, sang năm sẽ là Tết Bính Thân. Sắp thêm một năm Thân.

Chiến tranh Việt Nam, anh em một nhà bị đẩy tới chỗ giết nhau, thù hận nhau. Tháng Tư 1975 của Việt Nam - sau tháng Tư của nước Mỹ 110 năm - thêm cả triệu người miền Nam bị thủ tiêu, tù đày, chìm dưới đáy biển. Vậy mà cho tới nay, tại Việt Nam cũng như tại nhiều nơi, trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thấy nghĩ lại.

Trong bài "Tựa Nhỏ: Viết Để Chịu Tội" mở đầu sách Giải Khăn Sô Cho Huế, tôi có viết rằng chính thế hệ chúng ta, thế hệ của tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát Tết Mậu Thân cũng như cả cuộc nội chiến. Tầm nhìn thế hệ không phải phân biệt tả hữu, nam bắc. Sau đó là lời mời gọi cùng đứng trước bàn thờ ngày giỗ.

Khi viết lời tựa nhỏ cho bản in lần đầu "Giải Khăn Sô Cho Huế" vào năm 1969, tôi viết với niềm tin vào tương lai của Huế, tương lai Việt Nam.

Vào năm 2008, khi viết thêm ít dòng cho bản Việt ngữ của cuốn sách được tái bản ở Mỹ, tôi viết "Sẽ tới lúc phải có một bàn thờ chung, ngày giỗ chung tại quê hương, nơi từng biết thế nào là sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hóa, lịch sử."

Và hôm nay, tại đây, vẫn với nguyên vẹn niềm tin xưa, tôi tiếp tục chờ đợi.

Những người Huế từng bị tàn sát Tết Mậu Thân xứng đáng được tưởng niệm.

Các thế hệ tương lai tại Việt Nam xứng đáng được nghe, được nghĩ, được nói điều chân thật, được hưởng một đất nước lành lặn, sạch sẽ. Ngày ấy sẽ tới.

Kính chào và cám ơn quí vị.

Nhã Ca

(1) Bài “Xuân Này Nhớ Xuân Xưa” của tác giả Võ Trang, sách “Viết Về Nước Mỹ” 2009.


Bài trích từ Việt Báo số ra ngày 150228:

http://vietbao.com/a234271/47-nam-sau-vu-tan-sat-tet-mau-than-giai-khan-so-cho-hue-toi-uc-berkeley

--giải khăn sô cho huế: chờ đợi một ngày giỗ chung cho việt nam
Phần Giới Thiệu:
Vào ngày 20 tháng 8 năm 2014, nhà xuất bản Indiana University Press chính thức ra mắt quyển Mourning Headband for Hue (dịch giả Olga Dror), là bản dịch Anh ngữ từ quyển Giải Khăn Sô Cho Huế của nhà vănNhã Ca. Indiana University Press chuyên phổ biến tài liệu về Chiến Tranh Việt Nam, gần đây nhất là hồi kýNationalist in the Vietnam Wars (Người Quốc Gia trong Các Chiến Trận Việt Nam) (2012) của Thiếu tá Nguyễn Công Luận.

Nhã Ca tên thật là Trần Thị Thu Vân, sinh năm 1939 tại Huế, nhưng lập gia đình và sự nghiệp văn chương ở Sài Gòn. Giải Khăn Sô Cho Huế, tác phẩm nổi tiếng nhất của bà, tường thuật lại những khổ nhục của người dân Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968. Vào thời điểm đó Nhã Ca rời Sàigòn ra Huế để dự tang lễ của thân phụ rồi bị kẹt lại trong thành phố. Những điều tác giả thấy tận mắt, hoặc thu thập từ những nhân chứng khác, như những cuộc truy lùng, bắt bớ, thanh trừng, hạ sát, những ngôi mả tập thể – đã tạo ra những cuộc tranh luận gay go về trách nhiệm của người Cộng sản trong biến cố Mậu Thân. Giải Khăn Sô Cho Huế là một trong những tác phẩm được giải Văn chương Quốc gia năm 1970.  Nhã Ca trao tặng thu thập từ tác quyền cho thành phố Huế để giúp vào việc tái thiết sau chiến tranh.
Sau khi Sài Gòn sụp đổ, Nhã Ca và chồng là nhà thơ Trần Dạ Từ bị chính quyền Cộng sản kết tội và giam giữ vì ở trong thành phần "biệt kích văn hóa.” Giải Khăn Sô Cho Huế được trưng bày tại Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy. Vào tháng 9 năm 1988, nhờ sự can thiệp của Hội Văn Bút Quốc Tế và sự bảo lãnh trực tiếp của Thủ Tướng Thụy Điển Ingvar Karlsson, Nhã Ca cùng gia đình rời Việt Nam sang Thụy Điển tị nạn chính trị. Từ năm 1992 bà định cư tại California, và là chủ nhiệm sáng lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Hoa Kỳ. Ngoài Giải Khăn Sô Huế, bà cũng là tác giả hai tập thơ, Nhã Ca Mới và Thơ Nhã Ca (được gồm lại và xuất bản dưới tựaNhã Ca Thơ năm 1999) và khoảng 43 tác phẩm văn xuôi.
Dịch giả Olga Dror là một trí thức Do Thái sinh ra và lớn lên tại Nga trong thời Sô-viết. Bà tốt nghiệp trường Leningrad State University chuyên ngành Văn Hóa Á Đông. Bà cũng từng là người phiên dịch Việt ngữ và làm công việc truyền thông tại Nga. Vào khoảng cuối thập niên 1980, trước khi Liên Xô sụp đổ, bà qua Do Thái và phục vụ trong ngành ngoại giao của quốc gia này. Sau đó bà sang Hoa Kỳ và tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Lịch sử Đông Nam Á tại Cornell University. Hiện nay bà là Giáo sư tại Đại học Texas A&M. Ngoài Mourning Headband for Hue, bà còn là tác giả nhiều công trình nghiên cứu về Việt Nam:
(1) Quyển Cult, Culture, and Authority – Princess Lieu Hanh in Vietnamese History, do University of Hawaii Press xuất bản năm 2007.
(2) Quyển A Small Treatise on the Sects Among the Chinese and Tonkinese (Một tiểu luận về các Giáo phái của Người Trung Hoa và Người Việt trên đất Bắc Hà) do Cornell University Press xuất bản năm 2002 (gồm bản dịch Anh ngữ một bút ký viết từ năm 1770 của nhà truyền giáo Ý Adriano di Santa Thecla, cộng thêm phần bổ cứu đặc biệt, dịch từ các nguyên bản La-tinh, Hán và Nôm).
(3) Tiểu luận “Doan thi Diem’s ‘Story of Van Cat Goddess’ as a Story of Emancipation” (Vân Cát Thần Nữ Truyện của Đoàn thị Điểm: Truyện Giải Phóng Phụ Nữ) – Lê thị Huệ (dịch giả), Gió O, 2002.
Hiện bà đang nghiên cứu về truyền thống giáo dục và văn hóa của thanh thiếu niên Bắc và Nam Việt Nam trong thời điểm 1965-1975.
Olga Dror cũng là vợ học giả Keith Weller Taylor, tác giả quyển The Birth of Vietnam (Việt Nam Khai Quốc), đăng nhiều kỳ trên Da Màu.

***
NhaCa-at Dong Khanh HS at the first imprint of GKSCH
Nhã Ca và các nữ sinh Đồng Khánh năm 1970 – vào dịp tác giả trao tặng tác quyền cho thành phố Huế (photo Việt Báo) 

(1) Cô và Olga có lúc nào thảo luận về ảnh hưởng lịch sử của Giải Khăn Sô Cho Huế hoặc những lý do, điều kiện liên hệ đến việc tác phẩm được chuyển ngữ sang tiếng Anh?
Nhã Ca: Cho tới nay, tôi chưa hề trực tiếp hỏi Olga điều này vì thấy không cần hỏi. Tuy giỏi nhiều ngôn ngữ và có trực tiếp làm công việc dịch thuật, như dịch bút ký truyền giáo của Linh Mục Adriano di Santa Thecla từ tiếng La Tinh sang Anh ngữ, hay bút ký chạy loạn Huế Mậu Thân của Nhã Ca từ Việt ngữ sang Anh ngữ, Olga không chỉ là một dịch giả mà là một học giả, và cũng như phu quân là ông Keith Taylor, bà là người giảng dạy về lịch sử Việt Nam.
Tại Hoa Kỳ, chúng ta đều biết từ bao năm qua, chiến tranh Việt Nam là đề tài chính thức được giảng dạy ở trung học cũng như đại học theo cách nhìn của phong trào phản chiến từng một thời thắng thế. Sau khi đẩy được chính sách Mỹ tới chỗ phải buông bỏ miền Nam tự do cho Cộng sản, mặc cảm từ “hội chứng Việt Nam” khiến họ tự bưng mắt, cố tình không nhìn thấy mặt thật của chế độ Cộng sản ngay cả khi mọi thứ màn tre màn sắt đã sụp đổ. Các sản phẩm từ miền Bắc Cộng sản tiếp tục được dịch, được xuất hiện thường xuyên trong những thư viện, trường học Mỹ. Trong khi ấy, mọi tiếng nói của cuộc chiến chống Cộng tại miền Nam Việt Nam bị vùi dập, các tác giả và tác phẩm của văn chương miền Nam tự do cũ bị bỏ lơ, quên lãng. Nữ diễn viên Jean Fonda nói vài câu xin lỗi vì hành vi phản bội khi đội nón cối ở Hà Nội thì dễ, có thể nói ngay. Thay đổi quan điểm và chương trình giảng dạy về cuộc chiến Việt Nam, dĩ nhiên khó hơn, lâu hơn. Nhưng dù khó, dù chậm, rồi vẫn tới lúc phải thay đổi.
Đúng 10 năm trước đây, vào mùa thu 2004, nhu cầu thay đổi ấy được Giáo sư Keith Weller Taylor lên tiếng trong bài “How I Began To Teach About the Vietnam War” (Michigan Quarterly Review: Fall 2004), lúc đó là một giáo sư sử học tại đại học Cornell, tiểu bang Nữu Ước.[i] Trước khi trở thành nhà sử học chuyên về Việt Nam, Giáo sư Taylor từng là một chiến binh tình nguyện tại chiến trường Việt Nam. Cũng như chồng, chính nhu cầu nghiên cứu để giảng dạy là sức thúc đẩy chính để Olga Dror làm công việc dịch Giải Khăn Sô Cho Huế. Đó là lý do trong ấn bản Mourning Headband for Hue, ngoài phần dịch trực tiếp từ nguyên tác Việt ngữ, Olga Dror còn có thêm phần “Translator’s Introduction,” (Giới Thiệu của Dịch Giả) bổ cứu công phu, phân tích tỉ mỉ các quan điểm của nhiều học giả, nhà văn về Chiến Tranh Việt Nam: người miền Bắc và Nam Việt Nam, Mỹ (khuynh tả và khuynh hữu), Sô viết, và hậu-Sô viết, v.v..
Olga Dror - Credit Michael Dror
Dịch giả Olga Dror (photo Michael Dror)
Olga DrorGiải Khăn Sô Cho Huế được viết vào năm 1969, một năm sau biến cố Mậu Thân, với tâm trạng nhà văn vẫn còn sốc vì những thảm cảnh bà đã trực tiếp quan sát hoặc nghe thuật lại từ các nhân chứng trong những tháng ngày đầu của năm 1968. Thường tôi thấy kinh nghiệm chiến tranh từ khuynh hướng người dân miền Nam ít khi được đề cập đến trong những sách viết về cuộc chiến Miền Nam. Tác phẩm của Nhã Ca tạo dựng lại những thử thách của người dân Huế khi họ bị kẹt giữa hai lằn đạn – giữa Cộng sản và lính Việt Nam Cộng Hòa cùng người Đồng Minh của họ. Người đọc cảm nhận được nỗi đau của Nhã Ca cho Huế và người dân Huế. Cách hành văn gần như thô sơ – mà tôi cố duy trì khi dịch sang Anh ngữ – phản ảnh nét trung thực của hiện tại chiến tranh. Do đó, Giải Khăn Sô Cho Huế cũng khác những hồi ký Anh ngữ của các tác giả miền Nam Việt Nam xuất bản trong những năm gần đây. Tuy những hồi ký của các tác giả miền Nam đã làm một công việc rất quan trọng là sửa đổi cái nhìn của người Mỹ – từ trước tới nay chỉ quan tâm đến Hoa Kỳ hay người Cộng sản mà ít khi đề cập đến miền Nam, những hồi ký này thường bị chi phối bởi những dữ kiện, kinh nghiệm, hoặc kiến thức kết tạo sau chiến tranh. Tính cách sống trong tác phẩm của Nhã Ca là nét độc đáo mà tôi thấy độc giả Mỹ nên tìm hiểu trong lúc này.
(2) Xin Cô và Olga cho biết thêm về quá trình cộng tác. Giải Khăn Sô Cho Huế được dịch trong bao lâu? Cô đã làm việc với Olga qua email, điện thoại, hoặc trực tiếp gặp mặt? Olga trao đổi với Cô bằng tiếng Việt hay phải qua một thông dịch viên? Cô và Olga đã có những thử thách hoặc giải pháp nào cho những đoạn khó dịch?
Nhã Ca: Tôi chính thức ký giấy ủy quyền về bản dịch Anh ngữ vào tháng Chín 2012. Tính tới ngày sách được phát hành là vừa đúng hai năm. Có thể trước đó, chúng tôi đã trao đổi ý kiến khá lâu. Mọi liên lạc hàng ngày cả trong công việc lẫn tình thân, đều bằng email, gần như hoàn toàn dùng chữ Việt. Cho tới nay, chúng tôi chưa hề trực tiếp găp mặt nhau, cũng không có nhu cầu nên chưa hề nói chuyện qua điện thoại. Công việc dịch trực tiếp từ Việt ngữ sang Anh ngữ được Olga tiến hành nhịp nhàng suông sẻ, không thấy khó khăn thử thách nào đáng kể. Đọc bài giới thiệu công phu của Olga dành cho cuốn sách và nhiều tình huống phức tạp quanh nó, chỉ cần nhìn những ghi chú, đã có thể thấy số lượng lớn sách báo, tài liệu mà tự Olga đã bỏ công tìm đọc, nghiên cứu.
Ngoài phần trả lời các câu hỏi về chính mình, vì tôn trọng cách làm việc khách quan của bà bạn, tôi không hề có ý kiến hoặc gợi ý nào liên quan tới người khác. Olga cũng hỏi tôi có muốn phát biểu gì không về vài ba trường hợp chỉ trích Giải Khăn Sô Cho Huế mà Olga trích dẫn trong phần Giới Thiệu của Dịch Giả, tôi cám ơn bà và nói không. Dù công việc đã xong, chúng tôi hiện vẫn giữ liên lạc.
Olga Dror: Tôi chưa hề gặp mặt Nhã Ca lần nào. Tôi đã đọc những tác phẩm của bà rồi sau đó viết thư xin phép được dịch quyển Giải Khăn Sô Cho Huế. Tôi nghĩ tôi bắt đầu dịch vào cuối năm 2011 hoặc đầu năm 2012. Do tôi không phải là một dịch giả chuyên nghiệp và vì việc dạy học tại đại học Texas A&M là việc chính của tôi, tôi dịch bất cứ lúc nào có thể. Nhã Ca tôn trọng cách làm việc của tôi. Khi nào tôi có những thắc mắc về nguyên bản, thứ tự thời gian, tên gọi của các nhân vật, phương ngữ Huế, tôi thường gửi các câu hỏi của tôi qua e-mail và chúng tôi trao đổi từ đó. Nhã Ca rất kiên nhẫn và hòa nhã trong việc giải thích các thành ngữ, cách phiên âm địa phương ở phần đối thoại trong tác phẩm. Ngoại trừ những thay đổi nhỏ mà tôi đã làm với sự chấp thuận của tác giả (như chuyển Chương Ba – “Những Mảnh Vỡ Góp Nhặt” thành Chương Bốn và ngược lại, Chương Bốn – “Qua Một Chuyến Đò” thành Chương Ba trong bản Anh ngữ), tôi chỉ coi mình như trung gian cho tiếng nói của tác giả, và qua bà, những tiếng nói của người dân Huế trong thời điểm Tết Mậu Thân.
(3) Trong Giải Khăn Sô Cho Huế, ở lời “Tựa nhỏ Cho Lần In Đầu Tiên: Viết Để Chịu Tội,” Cô đã viết, "Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương." Thưa cô, "chúng ta" đây là những ai? Và tại sao "chúng ta" mà không chỉ người Cộng sản, phải chịu tội với Huế? 
Nhã Ca: Từ đoạn trích dẫn trên, chỉ cần đọc tiếp là thấy ngay bàn thờ của “Ngày giỗ Huế Mậu Thân” và lời cuối: “Mời bạn, chúng ta cùng thắp đèn, châm nhang.” Đây là nơi và lúc tưởng nhớ, khấn vái.
Chuyện Huế và chiến tranh Việt Nam, khác biệt giữa người tự do với cộng sản khi cốt nhục tương tàn, là thứ dễ tìm thấy trong hơn 40 cuốn sách ký tên Nhã Ca – trên chục ngàn trang – đã xuất bản. Lời kết bài tựa nhỏ về thế hệ của mình chỉ là mấy dòng hướng tới lúc anh em một nhà có thể đứng chung trước bàn thờ ngày giỗ. Khi cùng nhau thắp đèn châm nhang – nếu có được ngày ấy – hẳn không phải là lúc để hạch tội tranh công hay đấu tố chụp mũ. Nếp nhà và văn hóa của một dân tộc biết tôn thờ sự linh thiêng, dạy bảo tôi viết vậy.
Cũng không chỉ dân tộc Việt, văn hóa Việt mới dạy bảo điều này.
Hai năm trước khi Nội Chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, Tổng Thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã chỉ định “một ngày tủi nhục quốc gia” cho nước Mỹ. Trong ngày đó ông kêu gọi cả nước cùng nhận chung “tội lỗi dân tộc của chúng ta,” cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự khoan dung, tha thứ. [ii]
“Ngày tủi nhục quốc gia” được công bố tại Mỹ là ngày 30 tháng Ba 1863. Đã hơn 150 năm. Nội Chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào Tháng Tư năm 1865. Liên bang nước Mỹ, với những khoan hồng cho các vị lãnh đạo và binh sĩ của miền Nam, đã có cơ hội và thời gian hàn gắn vết thương, dần dà trở nên vững mạnh.
Chiến tranh Việt Nam, anh em một nhà bị lừa phỉnh đẩy tới chỗ giết nhau, cũng đã 60 năm, 70 năm. Vậy mà cho tới nay chưa tỉnh. Tại Huế cũng như tại quê nhà và đâu đó trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thể có được một ngày giỗ chung, bàn thờ chung.
Khi viết lời tựa nhỏ cho bản in lần đầu Giải Khăn Sô Cho Huế vào năm 1969, tôi viết với niềm tin vào tương lai của Huế, tương lai Việt Nam. Vào năm 2008, khi viết thêm ít dòng cho bản Việt ngữ của cuốn sách được tái bản ở Mỹ, và ngay ngày hôm nay, khi bản Anh ngữ xuất hiện, tôi vẫn nguyên vẹn niềm tin xưa, tôi tiếp tục chờ đợi, “một ngày giỗ tương lai tại quê hương, nơi từng biết thế nào là tình yêu thương, sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hoá, lịch sử.
Olga Dror: Tôi không hỏi Nhã Ca về lời “Tựa Nhỏ” của bà. Đó là quan điểm cá nhân của tác giả, ít nhất là trong thời điểm 1968, và tôi tôn trọng nó. Trong những tác phẩm của bà, chúng ta thấy một bước nhảy khá dài, từ một người chuyên viết về đề tài lãng mạn, về tình yêu, đến một nhà văn với khuynh hướng chính trị được hun đúc bởi những yếu tố hữu cơ, qua những thực trạng của chiến tranh. Mục đích của tôi chỉ là tái tạo tiếng nói của tác giả, một tiếng nói dân sự của người miền Nam, để tiếng nói ấy không bị chìm vào quên lãng, để cho ta thấy một cái nhìn sâu sắc hơn về Chiến Tranh Việt Nam. Như tôi đã nói ở trên, trong cái nhìn của người Mỹ họ chỉ biết đến họ và người Cộng sản. Chúng ta nhiều khi quên rằng ở miền Nam có nhiều người không theo Cộng sản mà cũng không chấp nhận đường lối chính trị của Mỹ. Giải Khăn Sô Cho Huế cho ta thấy những kinh nghiệm cá nhân, đa diện, phong phú. Chính những kinh nghiệm đa diện này giúp cho ta nhận thức một khuôn khổ bao quát, phức tạp hơn về chiến tranh, gần giống như cách kể truyện dường như phân mảnh nhưng thật ra tổng hợp về xã hội Nhật bản trong phim Lã Sanh Môn (Rashomon) của nhà đạo diễn Akira Kurosawa.
Nha Ca at 14th Annual VietBao Writing Competition - Viet Bao photo
Nhà văn Nhã Ca trong buổi lễ trao giải Viết Về Nước Mỹ năm 2013 (photo Việt Báo)

(4) Câu hỏi cuối cùng xin được dành cho cô Nhã Ca. Trong hơn 40 năm qua, ngoài những đe dọa từ phía Cộng sản lúc tác phẩm xuất hiện vào năm 1969-70, cùng thời gian bị Cộng sản giam giữ sau 1975, cô đã có bao giờ đối phó với những nhân vật, dư luận chỉ trích Giải Khăn Sô Cho Huế?
Nhã Ca: Là người bị Cộng sản bỏ tù vì tội danh “văn nghệ sĩ phản động,” tôi từng được công an áp tải vào “Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy,” bắt đứng nhìn cuốn sách Giải Khăn Sô Cho Huế bị đóng đinh trưng bầy. Và tôi đã đứng lặng lẽ chào sách của chính mình và bạn hữu. Sách đã có đó, khen chê chỉ trích là quyền của người đọc. Tôi thấy mình không có nhu cầu phải đối phó. Xin nhận. Chừng đó là đủ.

[i]  Bản dịch bài nói chuyện của Giáo sư Keith Weller Taylor xuất hiện trên Da màu ngày 18 tháng 8 năm 2014.
[ii] “It behooves us, then, to humble ourselves before the offended Power, to confess our national sins, and to pray for clemency and forgiveness.” Abraham Lincoln: "Proclamation 97 – Appointing a Day of National Humiliation, Fasting, and Prayer," March 30, 1863. 
21/08/2014
14/08/2014
Tác phẩm “Mourning Headband for Hue” của nhà văn Nhã Ca, bản dịch của GS Olga Dror từ bản Việt ngữ “Giải Khăn Sô Cho Huế” đã có 100 ấn bản gửi tới nhà văn Nhã Ca ở Quận Cam hôm Thứ Tư 13-8-2014.

Dịch giả Olga Dror sinh và lớn lên ở Leningrda, Liên Xô. Bà tôt nghiệp văn bằng thạc sĩ về Đông Phương Học ở Leningrad State University năm 1987, sau đó học thêm văn bằng cao cấp ở Viện Ngữ Học Học viện Khoa học Moscow. Bà làm việc ở Ban Phát Thanh việt Ngữ của đài Radio Moscow. Năm 1990, bà định cư sang Israel, học về quan hệ quốc tế ở Hebrew University, làm việc ở Bộ Ngoại Giao Israel. Bà học và nghiên cứu về Việt Nam, lấy bằng tiến sĩ ở Cornell University. Hiện nay, bà Dror là giảng viên lịch sử ở Texas A&M University. Bà là tác giả và là biên tập nhiều sách nghiên cứu về Việt Nam và Trung Hoa.

Tác phẩm “Mourning Headband for Hue” có bìa cứng, dày 310 trang, có phần Giới thiệu do chính dịch giả Olga Dror viết. Nhà xuất bản Indiana University Press.

Riêng phần Giới thiệu của dịch giả Dror cũng đã dày tới 53 trang, trong đó bàn về nhiều vấn đề liên hệ tới trận Tết Mậu Thân 1968, hoàn cảnh bất ngờ của nhà văn Nhã Ca trong thời điểm này, về trận Mậu Thân dưới nhiều điểm nhìn.

Tại sao CSVN thảm sát thường dân ở Huế nhiều tới mức không hiểu nổi?

Trong đó dịch giả Dror cho thấy giải thích từ nhiều hướng, như từ điểm nhìn của TT Lyndon B. Johnson, về ghi nhận (3 giai đoạn Mậu Thân Huế trong đó có những cuộc xử tử tàn nhẫn của CS) của sử gia Douglas Pike, về số lượng thường dân bị sát hại ở Mậu Thân Huế dị biệt nhau, từ lý giải cuả viện nghiên cứu RAND Corporation để hiểu tại sao CSVN tàn sát những người thường dân ở cố đô, cho tới giải thích của tác giả Don Oberdorfer, cho tới lý giải của nhà hoạt động phản chiến Gareth Porter, cho tới trường hợp Alje Vennema (nhà hoạt động thân cộng, rời VN tháng 4-1968 và đã thức tỉnh, kinh ngạc vì sao những kẻ “giải phóng” lại xử tử hàng loạt “những người đươc giải phóng” như thế), cho tới điểm nhìn của Trương Như Tảng và Bùi Tín về thảm sát Mậu Thân...


Bìa sách.

Dịch giả Dror trong phần Giới thiệu cũng nói về Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân, và về lời giải thích của hai ông về mức độ liên hệ, nếu có, của họ với thảm sát Mậu Thân.

Nhưng trước hết, đây là một tác phẩm văn học với vị trí độc đáo của nó -- bản Việt ngữ của nhà văn Nhã Ca, và cả bản Anh ngữ của Olga Dror.

Heonik Kwon, tác giả “Ghost of War in Vietnam,” nhận định về “Mourning Headband for Hue”:

“Một tuyệt tác. Tôi chưa bao giờ gặp bất cứ tác phẩm nào như thế trong kho tàng văn chương khổng lô về Cuôc Chiến Việt?Nam...”

Peter Zinoman, tác giả “Vietnamese Colonial Republican: The Political Vision of Vu Trong Phung,” nhận định về “Mourning Headband for Hue”:

“Rất đơn giản, ‘Mourning Haedband for Hue’ là một tác phẩm lớn về chiến tranh thời hiện đại, và xứng đáng để được đọc bên cạnh All Quiet on the Western Front, Homage to Catalonia, Johnny Got His Gun, The Naked and the Dead, The things they Carried, va Black Hawk Down.”

Một số ấn bản đang bán với giá ghi ờ bìa sách là 30 Mỹ Kim, tại tòa soạn Việt Báo:

14841 Moran St.

Westminster, CA92683

Phone: 714.894.2500

Độc giả ở xa, xin mời tìm mua ở mạng Amazon (http://www.amazon.com/), nếu mua trước ngày phát hành 20-8-2014 sẽ có giá $21.78, chưa tính thuế và cước phí.




Tổng số lượt xem trang