CHƯƠNG XIV
GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH
Ngày 9 tháng 10 năm 1954, quân Pháp qua cầu Long Biên, bắc qua sông Hồng nước đục ngầu, rút khỏi thành phố Hà Nội. Trong buổi lễ ngắn ngủi, đại tá Lefebre d'Argence, tư lệnh những phân đội Pháp cuối cùng, bàn giao việc quản lý thành phố cho Trung đoàn Thủ đô. Trong thời gian hai tuần lễ trước đó, thành phố gần như trống rỗng, khi hàng ngàn người di cư đi dọc Quốc lộ 5 về Hải Phòng. Đường phố Hà Nội vắng lặng về đêm, hầu như tất cả các tiệm ăn, tiệm rượu, cửa hàng, cửa hiệu ở trung tâm buôn bán đều đóng cửa.
Quân Pháp đi ra, quân Việt Minh tiến vào tiếp quản Thủ đô, hình ảnh chụp trên cầu Long Biên 1954.
Ngày hôm sau, thành phố trở lại hồi sinh, khi dân chúng địa phương đón chào những nhà cai trị mới. Đó là một ngày hội thực sự. Các đường phố tràn ngập cờ, khẩu hiệu chào đón Đảng và chính phủ. Các đám rước gồm thiếu nhi, đại biểu các nhóm và tổ chức xã hội khác nhau, diễn ra trước đám đông cuồng nhiệt tụ tập phía trước Phủ Toàn quyền ở công viên cạnh Bắc Bộ Phủ, từng là trụ sở chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước đây. Ngày 11 tháng 10, những đơn vị Việt Minh mang súng máy, những khẩu pháo nhẹ bắt đầu đổ vào thành phố, nơi họ được chào đón với những tiếng hô to “độc lập” từ đám đông. Trong những thành viên chính phủ Hồ Chí Minh, nhiều người lần đầu tiên đặt chân lên thủ đô sau gần tám năm.
Bản thân Hồ Chí Minh lặng lẽ tới thành phố này ngày 12-10 hoặc sau đó vài hôm, nhưng không có lễ đón tiếp đánh dấu sự kiện này và ông xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên ngày 17-10 khi đón Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru. Trong xã luận đăng trên báo địa phương ngày hôm sau, Hồ giải thích, ông không muốn phí thời gian cho nghi lễ chào đón. Ông nhấn mạnh”Sự yêu quý lẫn nhau không phụ thuộc vào sự hiện diện”. Ông giải thích, sự phát triển kinh tế và tiến bộ tiến tới thống nhất đất nước quan trọng hơn nghi lễ.
Trước ngày quân giải phóng tiến vào thủ đô, Hà Nội chìm trong sự tĩnh lặng do lệnh giới nghiêm. Phố Hàng Đào trước ngày lịch sử vắng lặng không một bóng người.
Nhưng Hồ Chí Minh đã tiếp một nhóm nhỏ những cán bộ đảng bộ thành phố tại buổi lễ nhỏ ngày 16-10. Nhận xét ngắn về sự kiện này, ông nhấn mạnh, còn có nhiều khó khăn cần vượt qua, nhưng những khó khăn đó có thể giải quyết từ từ nếu mọi người hợp tác và tuân thủ luật pháp của chính quyền mới. Ông tuyên bố chính phủ mới đại diện cho ý nguyện nhân dân và là đối tượng để nhân dân phê bình. Các cán bộ được dặn dò cẩn thận đối xử đúng mực với dân chúng địa phương, đồng thời sinh viên và giáo viên tiếp tục tới giảng đường, các thương gia tiếp tục buôn bán trong thành phố vừa được giải phóng. Những người nước ngoài được khuyến khích ở lại và tiếp tục công việc của họ. Bản thân Hồ vào bệnh viện kiểm tra điều trị thuốc men. Sau khi ra, ông từ chối sống ở Phủ Toàn quyền, vì ông coi là quá xa hoa, quyết định ở một ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên dinh. Dù vậy, toà nhà chính được đổi tên thành Phủ Chủ tịch.[638]
Đoàn quân Việt Minh tiến vào Hà Nội.
Theo cử chỉ thông thường, Hồ Chí Minh có đường lối hoà giải trong quan hệ đối ngoại. Trong những cuộc thảo luận với Nehru, ông tán thành năm nguyên tắc cùng chung sống hoà bình mà Nehru và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đưa ra tại cuộc họp tháng 6-1954, ông cam đoan với Nehru, nước Việt Nam mới sẽ duy trì những mối quan hệ đúng đắn với Chính phủ Hoàng gia Lào và Campuchia. Ngày 18- 10, ông gặp Jean Sainteny, vừa trở lại Hà Nội theo đề nghị của Thủ tướng Pierre Mendes - France đại diện cho quyền lợi Pháp tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sainteny báo cáo với Paris, Hồ bày tỏ nguyện vọng giữ lại sự hiện diện văn hoá và kinh tế của Pháp tại Bắc Việt Nam, thành lập mối liên hệ ngoại giao với những quốc gia không cộng sản. Hồ khẳng định thêm, ông không phải là nô lệ cho những phần tử quá khích trong Đảng. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo đầu tháng 11-1954, Hồ nhấn mạnh, từ nay trở đi quan hệ giữa Pháp - Việt phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng.[639]
Dù có lời cam đoan của Hồ Chí Minh, một nhóm người Âu và Mỹ ở Hà Nội vẫn bị theo dõi chặt và những hoạt động của họ bị cấm đoán khắt khe. Tương phản với thái độ ung dung, nhã nhặn của Hồ, nhiều cán bộ chính quyền mới, như Jean Sainteny mô tả “là những kẻ lăng xăng, thường xuyên tổ chức mít tinh, diễu hành, hội hè, tuyên truyền nhồi sọ, tập thể dục buổi sáng…”. Bị theo dõi chặt nhất là người Mỹ. Báo chí địa phương, bây giờ do Đảng kiểm soát, lớn tiếng đả kích Mỹ. Uỷ ban Việt Minh ra thông báo không công nhận quy chế hợp pháp của lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Hà Nội. Thái độ chống Mỹ trong dân chúng địa phương được cổ động bởi chính Hồ Chí Minh, thỉnh thoảng viết những bài báo đả kích Mỹ đăng công khai trên những tờ báo địa phương dưới bút danh C.B. Trong vài tuần lễ sau đó, chính quyền đưa ra những hạn chế nhỏ mọn đối với hoạt động của lãnh sự quán Hoa Kỳ, khiến lãnh sự quán Hoa Kỳ buộc phải đóng cửa vào cuối năm. Sự kiện công khai cuối cùng của Lãnh sự quán Hoa Kỳ tổ chức bữa tiệc Lễ Tạ ơn, cho một nhóm nhỏ các nhà ngoại giao phương Tây và nhân viên Uỷ Ban kiểm soát quốc tế được thành lập theo Hiệp định Geneva.[640]
Ngày 3-11-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập một cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng để điểm lại những chương trình của chính phủ và bổ nhiệm Uỷ Ban Hành Chính mới cho thủ đô. Chính phủ đối mặt với những vấn đề cấp bách. Sẽ áp dụng chiến lược nào để giúp miền Bắc phục hồi sau tám năm chiến tranh và vài thập niên bị nước ngoài chiếm đóng? Liệu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự chỉ đạo vững chắc của Đảng, bước những bước đi nhanh chóng thủ tiêu chế độ thuộc địa và bắt đầu đặt nền móng xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai hay không, hoặc tiến từ từ qua thời kỳ chuyển tiếp phát triển kinh tế và nâng cao mức sống của quảng đại quần chúng hay không? Liệu chế độ có thể giành được sự ủng hộ của nông dân và dân nghèo thành thị trong khi xoa dịu những người giàu có? Cuối cùng, tiến hành việc thống nhất và thực thi Hiệp định Geneva như thế nào?
Vấn đề đầu tiên đã có sẵn câu trả lời. Đối với Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông, có đủ kinh nghiệm cho chính sách khôn khéo. Sau khi nội chiến ở Nga chấm dứt năm 1920, Lenin khuyến khích việc kéo dài tạm thời cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động để thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế và hiện đại hoá công nghệ. Chính sách đó chấm dứt năm 1928, khi Stalin đưa ra chương trình kêu gọi quốc hữu hoá công nghiệp và tập thể hoá nông nghiệp. Trung Quốc theo con đường tương tự sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc giành được quyền lực năm 1949, đưa ra chương trình riêng “dân chủ mới” để thu hút sự ủng hộ những người ôn hoà và đặt nền móng kinh tế cho việc chuyển đổi xã hội giữa thập niên 1950.
Ít ngày trước khi ký Hiệp định Geneva, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tại Việt Bắc, công bố sắc lệnh về chiến lược tương lai sau khi ngừng bắn. Đó là chương trình tám điểm hứa với các thương gia, các nhà chuyên môn, công chức và những người nước ngoài trong thời gian này chính phủ mới không can thiệp vào công việc riêng của họ. Bản sắc lệnh chỉ đòi chính phủ quốc hữu hoá xí nghiệp và những dịch vụ xã hội của bọn đế quốc hoặc “chính quyền bù nhìn” (chính phủ Bảo Đại). Mọi hình thức sở hữu riêng được bảo đảm. Công chức dân sự làm việc cho chế độ cũ sẽ không bị bắt nếu họ không cầm vũ khí chống lại kháng chiến hoặc phạm phải những hành động phá hoại chống lại nhân dân. Tất cả quan chức dân sự được chỉ thị ở lại vị trí của mình, tuân lệnh trong lúc chờ đợi chính quyền nhân dân thành lập. Các sĩ quan cũ Quân Đội Quốc gia Việt Nam phải báo cáo với Uỷ ban quân quản do chính quyền cách mạng thành lập. Những ai không làm như thế sẽ bị “trừng trị nghiêm khắc”. Tự do tôn giáo cũng như an ninh cá nhân và tài sản của người nước ngoài được bảo đảm.[641]
Trong lời kêu gọi nhân dân Việt Nam hồi tháng 9-1954, trước khi chính phủ về Hà Nội, Hồ Chí Minh có giọng hoà giải. “Chúng tôi sẵn sàng hòa hợp với bất cứ ai từ bắc chí nam yêu hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, bất kể trước đây họ cộng tác với ai”. Bảo đảm quyền của các nhà tư bản trong nước và nước ngoài tiến hành làm ăn hợp pháp và chào đón tất cả những nhân viên của chế độ cũ mong muốn làm việc cho nhân dân.[642]
Giới lãnh đạo đảng có nhiều lý do để hoà giải với kẻ thù cũ. Mùa Thu năm đó, hàng ngàn người di cư rời Hà Nội bỏ vào Nam. Cuối cùng hơn 800.000 người Việt Nam rời bỏ đất Bắc, đa số là dân Thiên Chúa Giáo nghe lời cảnh báo của các cha đạo, “Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam. Còn con còn chần chừ gì nữa?” Số đông người Thiên Chúa Giáo có quan hệ mật thiết với Pháp hoặc chính phủ Bảo Đại, còn một số nữa bị chính quyền mới nghi ngờ lòng trung thành nên họ tin có thể bị khủng bố.
Hình (U.S. Foreign Adminstration, 1955): Cuộc di cư vĩ đại đầu tiên của dân tộc Việt Nam lánh nạn Cộng Sản vào năm 1954 từ miền Bắc vào miền Nam.
Việc di cư làm bớt đi những người chống đối tiềm năng, nhưng lại làm suy yếu các tỉnh miền Bắc chiếm tỷ lệ lớn những người giàu có, những nghệ nhân, những nhà công nghiệp vì những người Thiên Chúa Giáo chiếm tỷ lệ cao trong thương mại, chuyên môn và tầng lớp trí thức thượng lưu của đất nước. Một quan sát viên đánh giá, tháng 10-1954 chính phủ mới chỉ có 50 người tốt nghiệp đại học và khoảng 200 có bằng tú tài. Phần lớn các xí nghiệp đóng cửa, nhiều chủ xí nghiệp phải bỏ nước ra đi. Theo một báo cáo, hai mươi chín trong ba mươi nhà máy của Pháp ở Hải phòng bị đóng cửa. Giao thông vận tải là một vấn đề nghiêm trọng. Xăng dầu cho ô tô khan hiếm, hệ thống đường sắt không hoạt động.[643]
Thêm nữa, nhiều mạng lưới thuỷ lợi bị Pháp phá huỷ, gần mười phần trăm đất canh tác ở đồng bằng sông Hồng bị bỏ hoang do chính sách “vành đai trắng” (vùng đất Pháp tuyên bố có quyền tự do oanh tạc hoặc bắn phá). Sau đó, tháng 12-1954 những nạn lụt khủng khiếp dọc bờ biển miền Trung làm tăng nguy cơ xuất hiện một nạn đói mới, giá gạo trên thị trường tăng đến chóng mặt.
Vì thế, khi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu củng cố bộ máy hành chính trung ương đầu tháng 11-1954, buộc phải giữ lại một số công sở đang hoạt động, đồng thời cố gắng sử dụng những nhân viên hành chính từng làm việc cho chế độ Bảo Đại. Ở cấp thành phố, Uỷ ban hành chính kháng chiến được thành lập trong kháng chiến tiếp tục hoạt động, mặc dù từ “kháng chiến” đã được cắt bỏ để thích hợp với hoàn cảnh mới. Tuy nhiên, chính phủ tuyên bố, những cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân sẽ sớm được tổ chức ở cấp địa phương để tạo nền tảng hợp pháp vững chắc thiết lập quyền lực của nhân dân.[644]
Lần đầu tiên ít tháng sau khi về Hà Nội, sự lãnh đạo của Đảng tự giới hạn đưa ra những biện pháp xây dựng bộ máy hành chính cách mạng, mở rộng cơ sở quần chúng ủng hộ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thiết lập nền tảng vững chắc để kiến thiết kinh tế sau chiến tranh. Tuy vậy, đằng sau màn kịch đó, có dấu hiệu giới lãnh đạo đảng bắt đầu nghĩ tới tương lai. Đầu tháng 9, Bộ Chính Trị họp, đưa ra dự thảo chính sách lâu dài. Bản dự thảo kết luận, ngay sau khi chính quyền được củng cố ở miền Bắc, phải chuẩn bị tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh trong bài phát biểu trước công chúng ngày 2-9-1956, nhấn mạnh một cách bí ẩn, chính quyền mới sẽ là dân chủ tư sản về hình thức, nhưng là dân chủ nhân dân về nội dung.
Một trong những lý do chủ yếu không vội vã tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là Đảng mong muốn thống nhất hai miền theo Hiệp định Geneva. Nhiều người trong phong trào Việt Minh - đặc biệt ở miền Nam - rất thất vọng với kết quả Hội nghị Geneva. Giới lãnh đạo đảng chắc chắn chia sẻ với việc mất tinh thần vì nhiều năm hy sinh mà chỉ thu được một phần thắng lợi, nhưng họ có thể tự an ủ với niềm tin, với sự nổi tiếng của Hồ Chí Minh và sự yếu kém của chính phủ Bảo Đại, cuộc Tổng tuyển cử tương lai theo Hội nghị Geneva sẽ đem lại cho họ lợi thế. Con đường để đảm bảo cuộc Tổng tuyển cử thành công là chính phủ ở miền Bắc phải thể hiện bộ mặt ôn hoà trước thế giới qua những chính sách đối nội, tranh thủ những người không cộng sản ở Nam Việt Nam cũng như sự quan tâm theo dõi của thế giới.
Theo một người tâm giao của ông kể, Hồ Chí Minh lạc quan với cuộc Tổng tuyển cử sẽ tiến hành theo lịch trình và ông có lẽ cảm thấy áp lực của dư luận thế giới sẽ buộc chính quyền miền Nam tôn trọng những điều khoản hiệp định. Mặc dù vậy, về mặt cá nhân, một số những đồng sự Hồ tỏ ra hoài nghi. Thậm chí Phạm Văn Đồng, cựu trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Geneva, vừa được bổ nhiệm chức thủ tướng vào tháng 9-1955, nói với một quan sát viên: “Ông cũng biết như tôi là sẽ không có Tổng tuyển cử đâu”. Nếu không có Tổng tuyển cử, Hà Nội buộc phải tìm cách khác, có thể quay sang chiến lược chiến tranh cách mạng. Trong lúc này, Hồ Chí Minh buộc phải dùng tài năng của mình thuyết phục các đồng chí của ông dành cơ hội thực thi hiệp định.
Trong thời gian này, giới lãnh đạo đảng gắng sức chuẩn bị tình huống xấu. Theo những đánh giá khác nhau, có khoảng 50.000 và 90.000 người thiện cảm với Việt Minh (nhiều người trong số này là con cái các cán bộ đảng đang sống ở miền Nam) ra miền Bắc sau hiệp định và khoảng 10.000 đến 15.000 người, chủ yếu là những cựu trào cách mạng, vẫn ở lại miền Nam tham gia hoạt động hợp pháp thúc đẩy Tổng tuyển cử. Một số khác rút vào bí mật để bảo toàn và duy trì bộ máy cách mạng bí mật, khi cần ra hoạt động trở lại.[645]
Có nhiều trở ngại cho Tổng tuyển cử, trong số những trở ngại lớn nhất là thái độ của chính phủ mới ở miền Nam. Tháng 6-1954, khi hội nghị Geneva đang họp, Quốc trưởng Bảo Đại đã bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Ngô Đình Diệm, một chính trị gia cựu trào từng bị chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh bắt giam một thời gian ngắn vào mùa Thu năm 1945, sau khi được thả, để bảo vệ tính mạng, Diệm đã trốn một thời gian ngắn tại Đại sứ quán Canada ở Hà Nội. Diệm từng sống ở Mỹ đầu thập niên 1950 và không ngừng tìm kiếm sự ủng hộ của chính quyền Eisenhower quay lại chính trường. Là một con chiên ngoan đạo, sống nhiều tháng trong trường dòng Thiên Chúa Giáo ở New Jersey và xem mình có sứ mệnh cứu vớt đồng bào khỏi sự đe dọa của bọn cộng sản vô thần.
Lúc đầu Washington ủng hộ Diệm dè dặt vì nhiều quan chức Mỹ xem ông là một thầy tu không thực tế, thiếu tư chất của một người lãnh đạo và không phải ứng cử viên nghiêm túc để trở thành nhà lãnh đạo chính trị. Một quan sát viên Mỹ khinh bỉ gọi ông là “một thiên sứ không mang thông điệp”. Không nản lòng, Diệm tiếp tục sấn đến các nhà ngoại giao Mỹ xin lời khuyên, tìm kiếm người bảo trợ trong chức sắc Thiên Chúa Giáo ở Mỹ, bao gồm Hồng y giáo chủ Francis Spellman và Joseph Kennedy - cựu đại sứ Mỹ tại London.
Ngô Đình Diệm (1901-1963) tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hoà.
Trong thâm tâm, Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm vì tin thái độ chống cộng điên cuồng của Diệm làm vừa lòng một số “diều hâu” ở Washington. Dù có những tin đồn, chính quyền Eisenhower chính là người quyết định, tin tức này được đón nhận ở Washington với sự thất vọng và dè dặt. Việc bổ nhiệm Diệm chẳng mấy gây được hào hứng tại Sài Gòn. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Thiên Chúa Giáo có quan hệ mật thiết với triều đình Huế, Diệm bị nhiều nhân vật chính trị sành sỏi ở miền Nam ngờ vực. Tân thủ tướng cảm thấy những chính trị gia người miền Nam quanh ông là những người quá dễ dãi không đủ khả năng chống cộng. Vì thế, chẳng ngạc nhiên trong thành viên chính phủ Diệm phần đông người miền Bắc và miền Trung.[646]
Khi nhận chức, Diệm tỏ ra không tán thành những điều khoản dàn xếp đưa ra tại Hội nghị Geneva vào tháng 7-1954, sau khi kết thúc hội nghị ông lập tức cho thấy không có ý định hiệp thương với cộng sản. Cảnh sát chính quyền Sài Gòn bắt đầu quấy nhiễu những người có cảm tình với Việt Minh ở miền Nam, đóng cửa những văn phòng uỷ ban mà Việt Minh lập ra để thúc đẩy Tổng tuyển cử. Diệm đàn áp mạnh giáo phái Cao Đài và Hoà Hảo vì thủ lĩnh của họ không hăng hái ủng hộ chính phủ Sài Gòn như trước kia ủng hộ Việt Minh. Ông cũng tìm cách thanh lọc những thành viên chính phủ có thiện cảm với Quốc trưởng Bảo Đại, người mà ông coi là tay sai của bọn thực dân Pháp.
Thái độ hiếu chiến của Diệm thể hiện vào mùa đông năm 1954-1955 gây nên nhiều lo lắng trong hàng ngũ quan chức Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Washington. Dù vậy, hội nghị Geneva kết thúc, chính quyền Eisenhower quyết định sự tồn vong của một chế độ độc lập, không cộng sản ở Nam Việt Nam cốt yếu để bảo vệ lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực. Mùa thu năm 1954, tổng thống Eisenhower cử người bạn của ông, tướng J. Lawton Collins (biệt danh “Joe sấm sét” vì tính quyết đoán khi ông là Tư lệnh quân đoàn trong Thế chiến II) làm đặc phái viên tổng thống trực tiếp điều khiển những hoạt động của Mỹ ở Nam Việt Nam. Tại Sài Gòn, Collins kiên trì khuyên nên thay Diệm bằng một nhân vật ôn hoà hơn để Pháp và nhân dân Nam Việt Nam dễ chấp nhận. Đầu mùa xuân năm 1955, Nhà Trắng bắt đầu xem xét đề xuất của Collins. Tuy thế, đến tháng 4 năm 1955, Diệm đàn áp những người trong nước đối lập với chính quyền, đẩy Washington phải quyết định ủng hộ ông. Eisenhower nhấn mạnh với tướng Collins, lợi thế thành công ở Nam Việt Nam đã tăng từ 10 phần trăm lên 50 phần trăm. Ngay sau đó, Diệm công khai bác bỏ đề nghị hiệp thương của Hà Nội về cuộc Tổng tuyển cử tương lai.
Ở Washington, tin Diệm từ chối hiệp thương Tổng tuyển cử gây ra những ý kiến khác nhau. Một báo cáo mới đây của CIA tiên đoán chắc chắn Việt Minh sẽ thắng lợi, không những do uy tín rộng lớn trong nhân dân của Hồ Chí Minh, mà còn do giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc có nhiều kinh nghiệm vận động chính trị hơn chế độ non trẻ ở miền Nam. Họ sử dụng tốt chiến thuật cơ bản của Lenin bảo đảm có được kết quả thuận lợi ở những khu vực họ kiểm soát. Ký ức về những cuộc bầu cử tổ chức tại những quốc gia Đông Âu bị Liên Xô chiếm đóng sau khi kết thúc Thế chiến II vẫn còn chưa phai, các quan chức Mỹ tin, cuộc tổng tuyển cử chưa thể được tổ chức ở Việt Nam trong hoàn cảnh hiện tại.
Cũng lúc này, nhận thức của công chúng Mỹ về Hồ Chí Minh và chế độ của ông đã thay đổi mạnh từ khi bắt đầu kháng chiến chống Pháp. Quan điểm trước đây xem Việt Minh là những người yêu nước chiến đấu thoát khỏi áp bức chế độ thực dân, nay dân chúng có cái nhìn ảm đạm hơn về Hồ và các đồng chí của ông khi họ biết ông là đặc vụ Quốc tế Cộng sản. Sau khi hội nghị Geneva kết thúc tháng 7-1954, quan điểm mới này càng được khẳng định khi xem cuốn phim ghi cảnh hàng ngàn người di cư vào Nam để tránh bị khủng bố khi chế độ kiểu Stalin lên nắm quyền ở Hà Nội.
Dù vậy, chính quyền Mỹ cũng đau đầu khi chính quyền Sài Gòn từ chối hiệp thương, tìm mọi xảo thuật đổ lỗi cho Hà Nội. Giữa mùa Xuân năm 1955, những quan chức Mỹ gợi ý Diệm đồng ý tổ chức hiệp thương, sau đó đặt ra những điều kiện khó khăn, đòi có quan sát viên nước ngoài thanh tra để bảo đảm tổng tuyển cử tự do. Điều này sẽ giúp chính phủ Diệm có chỗ đứng hợp pháp vững chắc khi những đòi hỏi đó chắc chắn bị cộng sản bác bỏ (điều này từng xảy ra tương tự tổng tuyển cử ở những vùng nước Đức bị chiếm đóng).
Dù Mỹ khuyến cáo, việc thẳng thừng bác bỏ tổng tuyển cử của ông ta đã công khai vi phạm Hiệp định Geneva, Diệm từ chối những góp ý này. Một số quan chức Mỹ tán thành quyết định của Diệm, chính quyền Eisenhower bị đặt vào thế khó xử. Dù từ chối dính líu đến hiệp định, Washington từng tuyên bố tại Geneva “Bất cứ việc vi phạm hiệp định nào cũng có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường”. John Foster Dulles lo lắng, cuộc can thiệp của miền Bắc vào Nam Việt Nam có được coi là vi phạm Hiệp định Geneva hay không nếu chính Diệm không tôn trọng những điều khoản Hiệp định? Cuối cùng, Washington đi cùng với Diệm. Tại một cuộc họp báo Dulles tuyên bố, Hoa Kỳ không phản đối tổng tuyển cử tự do ở Việt Nam, nhưng đồng ý với Ngô Đình Diệm, những điều kiện trong thời gian này chưa chín muồi.
Thành công của Ngô Đình Diệm củng cố quyền lực ở miền Nam, cùng với sự ủng hộ của Mỹ với Diệm làm giới lãnh đạo đảng ở Hà Nội ngạc nhiên vì họ xưa nay vẫn đánh giá thấp những phần tử dân tộc chủ nghĩa không cộng sản. Tại những phiên họp Bộ Chính Trị vào cuối năm 1954, Hồ Chí Minh kêu gọi các đồng chí của ông không nên bi quan hoặc mất kiên nhẫn, phải đánh giá lại tình hình, tìm cách giành thuận lợi. Để cô lập Hoa Kỳ và chính quyền Diệm tại Sài Gòn, Hồ đề xuất nhượng bộ kinh tế và văn hoá cho Pháp. Tại hội nghị toàn thể vào tháng 3-1955, Ban Chấp Hành Trung ương chính thức tuyên bố đường lối mới đặt ưu tiên cao nhất là xây dựng miền Bắc, dùng ngoại giao để thúc đẩy giải quyết hoà bình ở miền Nam.[647]
Dù nhiều quan chức Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hoài nghi về Tổng tuyển cử, việc Diệm từ chối tổ chức hiệp thương chắc chắn làm điên đầu Hà Nội. Giới lãnh đạo đảng chỉ còn hy vọng, áp lực đồng minh của họ sẽ làm thay đổi quan điểm của Washington và Sài Gòn. Cuối tháng 6-1955, Hồ Chí Minh cùng Tổng bí thư Trường Chinh và những quan chức Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sang thăm chính thức Trung Quốc. Hai tuần lễ ở Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Hồ thảo luận với những quan chức cao cấp và thăm Vạn Lý Trường Thành, rồi đoàn đại biểu rời Ngoại Mông tới Moscow.
Không may cho Hồ, tình hình ở Trung Hoa và Liên Xô không giúp ích cho chuyến đi. Sau khi hội nghị Geneva kết thúc, cả Bắc Kinh lẫn Moscow tập trung vào việc cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ, giảm bớt căng thẳng về xung khắc tư tưởng với các quốc gia tư bản. Bắc Kinh chuẩn bị một loạt các cuộc thương lượng cấp đại sứ với những nhà ngoại giao Hong Kong tại Geneva. Trung Quốc hy vọng những cuộc thương lượng này dẫn đến việc Mỹ bỏ cấm vận và giải quyết xung đột về vấn đề Đài Loan. Ở Moscow, nhà lãnh đạo mới Khrushchev tích cực thực hiện đường lối mới của Liên Xô cùng chung sống hoà bình để ổn định tình hình châu Âu, giảm bớt căng thẳng chiến tranh lạnh với Mỹ. Đối với giới lãnh đạo đảng cả hai nước, mọi dàn xếp về Việt Nam là trở ngại để thực hiện các mục tiêu lớn của họ trên thế giới.
Cả hai nước chấp nhận lời yêu cầu Hồ Chí Minh ủng hộ vấn đề Tổng tuyển cử với thái độ lạnh nhạt. Tuy vậy, trong thông cáo chung tại Bắc Kinh, Trung Quốc hứa ủng hộ Hà Nội về hiệp thương, Thủ tướng Chu Ân Lai đồng ý gửi bức thư phản đối tới Anh và Liên Xô, hai đồng chủ tịch hội nghị Geneva. Hồ có ít thành công ở Moscow, Liên Xô chỉ ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà một cách chiếu lệ. Giới lãnh đạo Xô viết vẫn còn nghi ngờ về tư tưởng chính thống gắn nhãn chủ nghĩa Marx - Lenin của Hà Nội. Ngoại trưởng Molotov đồng ý đặt vấn đề với Ngoại trưởng Anh Anthony Eden triệu tập lại hội nghị Geneva, nhưng khi Eden từ chối đề xuất, thật đáng ngạc nhiên Molotov lại bằng lòng. Vấn đề đó cũng không được chính thức đem ra bàn tại Hội nghị những người đứng đầu bốn nước lớn một năm sau đó, mặc dù Molotov đưa vấn đề một cách chiếu lệ khi tuyên bố “việc thi hành Hiệp định Geneva về Đông Dương và những vấn đề khác không được trì hoãn”.
Dường như để an ủi thất vọng của Bắc Việt, Trung Quốc và Liên Xô hứa cung cấp khoản viện trợ tài chính khổng lồ (200 triệu đô-la từ Trung Quốc và 100 triệu đô-la từ Liên Xô) để giúp Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tái thiết hậu chiến, cải thiện xã hội. Cả Liên Xô và Trung Quốc cũng đồng ý tiếp tế lương thực để chống lại nạn đói ở Bắc Việt. Ngày 22-7-1955, sau khi trở về Hà Nội, Hồ Chí Minh phát biểu về kết quả chuyến đi, cám ơn Trung Quốc và Liên Xô về viện trợ kinh tế, nhưng khuyến cáo nhân dân nên dựa vào sức mình để thống nhất đất nước. Tại hội nghị toàn thể một tháng sau đó, Ban Chấp hành Trung ương ra nghị quyết trong lúc này, những quyết định của Ngô Đình Diệm không được phép tác động đến chính sách. Kết thúc hội nghị tuyên bố Đảng tiếp tục mong muốn thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình.[648]
Quyết định của Hà Nội chẳng đem lại an ủi cho những đảng viên trung thành ở miền Nam. Mùa Hè năm đó, Diệm tung ra chiến dịch “Chống Cộng” nhằm tiêu diệt những tàn dư phong trào Việt Minh khắp Nam Việt. Hàng ngàn người bị bắt do tình nghi tham gia hoạt động lật đổ. Một số được đưa vào trại tập trung - hoặc bị tống giam vào “chuồng cọp” do Pháp xây dựng ở Côn Đảo - đồng thời những người khác bị xử tử. Chính quyền Sài Gòn ra sắc lệnh cho phép có quyền “bắt bất cứ ai tình nghi gây nguy hiểm tới an ninh đất nước và đưa vào trại tập trung”. Theo một tài liệu ở Hà Nội ghi lại:
Từ cuối năm 1955 đến 1956, khi Diệm phát động chiến dịch “Chống Cộng”, cuộc săn lùng những người yêu nước và những người kháng chiến cũ trở nên tàn bạo hơn. Nhận thấy không thể sống và tiến hành đấu tranh chính trị ở nông thôn, những người kháng chiến cũ chạy vào chiến khu Đồng Tháp Mười, rừng U Minh hoặc Chiến khu D và C (ở tây và tây bắc Sài Gòn).[649]
Nguyễn Văn Linh, một lãnh đạo trẻ của phong trào ở lại miền Nam sau hội nghị Geneva để chỉ đạo những hoạt động của Đảng, gọi đó “thời kỳ khốc liệt”, khiến các cán bộ Việt Minh phải giảm chiến đấu vì sự sống còn.[650]
Không có gì ngạc nhiên, quyết định của Hà Nội làm kìm hãm, ít nhất là tạm thời, chiến tranh cách mạng dẫn đến cuộc tranh cãi nẩy lửa trong hàng ngũ cán bộ ở miền Nam. Một số đã quyết định bỏ phong trào hoàn toàn, một số khác tìm kiếm tổ chức kháng chiến vũ trang theo cách của họ. Trong rừng Cà Mau hoặc đầm lầy Đồng Tháp Mười, họ gia nhập những lực lượng kháng chiến của đạo Cao Đài và Hoà Hảo, hai giáo phái này nổi giận vì những biện pháp cứng rắn của Diệm năm 1955 bắt họ quy phục ông ta.
Mùa hè năm 1955, mọi hy vọng ngây thơ cho rằng dễ dàng thống nhất với Nam Việt được thay thế bằng nhận thức tỉnh táo hơn. Thông điệp này được Hồ Chí Minh phản ánh tại Hội nghị toàn thể lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương họp tháng 8-1955. Hồ tuyên bố, về mặt tích cực, tình hình thế giới ít căng thẳng hơn so với thập niên trước. Mặt khác, tình hình châu Á, nếu có, là bi đát hơn. Những sự kiện mới đây cho thấy Mỹ dự định biến miền Nam thành một tiền đồn ngăn chặn làn sóng cách mạng ở Đông Nam Á.
Mỹ thể hiện là kẻ chủ chốt ủng hộ chế độ Sài Gòn - “kẻ thù chính” của nhân dân Việt Nam - làm phức tạp nghiêm trọng đến những kế hoạch của Hà Nội thống nhất đất nước bắt đầu phương pháp hoà bình. Dù Hồ Chí Minh cố gắng đưa ra cách nhìn nhận tích cực về tình hình, ông báo cáo trước hội nghị toàn thể, cả Trung Quốc và Liên Xô đã lên tiếng ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập, bây giờ con đường thống nhất đất nước chắc chắn là con đường lâu dài. Ban Chấp hành Trung ương thông qua chương trình hành động tạm thời đặt mục tiêu trọng tâm vào việc củng cố cơ sở chính trị Đảng Lao động Việt Nam ở miền Bắc, kiến thiết đất nước và đặt bước chân đầu tiên tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Khẩu hiệu mới lúc này phản ánh thực tế mới:“Xây dựng miền Bắc, hướng về miền Nam”.
Một vấn đề quan trọng cần làm sáng tỏ, làm như thế nào để xây dựng được sự ủng hộ của toàn dân. Tháng 9-1955 Hồ Chí Minh kêu gọi sự ủng hộ của tất cả những ai muốn chia sẻ mục tiêu chung xây dựng nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, bất kể quá khứ chính trị trước đây. Tháng 9-1955, Mặt trận Liên Việt, năm 1951 thừa kế Mặt trận Việt Minh, bây giờ được thay bằng Mặt trận Tổ quốc rộng rãi hơn ra đời. Mặt trận Tổ quốc nhằm thu hút đông đảo nhân dân Việt Nam cả hai vùng, bao gồm tất cả những ai chân thành ủng hộ mục đích độc lập, thống nhất đất nước. Kết thúc bài phát biểu tại buổi thành lập, Hồ nhấn mạnh mục đích của tổ chức mới là tạo ra một liên minh dân tộc rộng rãi để đạt được hoà bình, độc lập và thống nhất đất nước. Ông nói Mặt trận Tổ Quốc sẵn sàng “liên minh với tất cả những người yêu nước bất kể xu hướng chính trị, tôn giáo, v.v…”, với những người chân thành chống lại âm mưu Mỹ - Diệm chia cắt đất nước, cả những ai muốn thống nhất đất nước.[651]
Tương đương với chính sách thực dụng trong lĩnh vực kinh tế, tất nhiên chủ trương “dân chủ mới” được Đảng đưa ra sau khi trở về Hà Nội mùa Thu năm 1954. Ở thành thị, đây thực sự đúng theo chủ trương. Chính phủ tỏ ra khoan dung với những hoạt động của xí nghiệp tư nhân và chào đón “những chuyên gia tư sản” mong muốn ở lại làm việc. Đa số các hãng buôn bị nhà nước chiếm do những nhân viên quản trị bỏ đi và nhà nước lo ngại nguy hiểm khi đóng cửa, đó là trong các mỏ, nhà máy xi măng và nhà máy dệt. Theo một nguồn tin mới đây, khu vực nhà nước chỉ chiếm 12 phần trăm hàng hoá sản xuất năm 1955. Tháng 10-1955, chính phủ lập ra Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, để vạch ra kế hoạch một năm - năm 1956 - nhằm phục hồi kinh tế quốc dân đạt mức năm 1939, năm cuối cùng trước khi nổ ra chiến tranh Thái Bình Dương. Chính phủ trực tiếp nhúng tay kiểm soát giá cả và hàng hoá tiêu dùng, với mục đích hạn chế áp lực lạm phát và đầu cơ thực phẩm bởi các hãng tư nhân.[652]
Dấu hiệu thái độ ôn hoà Hồ Chí Minh trong việc thành lập Mặt trận Tổ Quốc là giả dối, vì có những áp lực chống đối mạnh trong Đảng đòi có những chính sách cực đoan hơn, những biện pháp trừng phạt kẻ thù giai cấp và đặt nền móng để tiến nhanh tới xã hội xã hội chủ nghĩa. Manh nha cực đoan bắt đầu từ khi chính phủ trở về Hà Nội năm 1954. Các cán bộ kiêu căng lên giọng nghi ngờ những trí thức ôn hoà, nhiều người trong số này bị đi cải tạo để làm rõ liệu họ có bị quyến rũ bởi “những viên đạn bọc đường” của kẻ thù hay không. Theo mối nghi ngờ của họ, những người cực đoan Việt Nam được cố vấn Trung Quốc khuyến khích. Cố vấn Trung Quốc có mặt khắp miền Bắc, mặc dù ít nhìn thấy họ hơn so với ở vùng giải phóng trong thời gian chiến tranh.
Vũ khí mà những người quá khích dùng để phát động đấu tranh giai cấp ở nông thôn là luật cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh phản đối những biện pháp tàn bạo trong chiến tranh chống Pháp, nhưng năm 1953, theo mệnh lệnh cố vấn Trung Quốc, ông miễn cưỡng đồng ý phải dùng những quy tắc cứng rắn hơn làm phương tiện huy động dân nghèo chuẩn bị cho trận Điện Biên Phủ. Khi kháng chiến kết thúc, Đảng quyết tâm hoàn thành chương trình và đặt nền tảng việc tập thể hoá toàn bộ đất đai canh tác trong nước. Theo lời kêu gọi của ông với nhân dân đầu tháng 9-1954, Hồ Chí Minh hứa, chương trình “người cày có ruộng” cho những tỉnh ở miền Bắc nằm trong nghị sự của chính phủ. Tuy nhiên, ông cũng thổ lộ với một số cộng sự tin cậy, bản thân ông không thấy“cấp bách”, chẳng qua muốn làm vừa lòng Bắc Kinh và các đồng chí quá khích như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt.[653]
Để tiến hành giai đoạn tiếp của cải cách ruộng đất, giới lãnh đạo đảng có hai mục tiêu. Mục tiêu thứ nhất cơ bản là kinh tế: cho phép sử dụng hiệu quả đất canh tác thông qua việc chuyển ruộng đất “thừa” của những phú nông cho bần nông, cố nông, những người này chiếm phần đông trong nông thôn. Áp dụng mô hình ở Trung Hoa vài năm trước đây, giới lãnh đạo đảng hy vọng sở hữu đất sẽ thúc đẩy nông dân cố gắng hơn và tăng sản lượng ngũ cốc, do vậy làm nền móng cho việc xây dựng nông trang tập thể trong tương lai gần. Mục tiêu thứ hai và có lẽ là mục tiêu mục tiêu quan trọng hơn, mang màu sắc chính trị hơn: đánh đổ thế lực của bọn “phong kiến” ở cấp làng xã (cụ thể là giai cấp địa chủ) và thành lập cơ quan lãnh đạo mới ở nông thôn gồm những người xuất thân bần cố nông, họ sẽ biết ơn Đảng và trung thành tuyệt đối thực hiện những chính sách của Đảng.
Nhấn mạnh về lợi ích của chiến dịch cải cách ruộng đất, những người quá khích trong ban lãnh đạo Đảng thực hiện theo lời dạy của Mao Trạch Đông, tác giả chương trình tương tự ở Trung Hoa, nhận xét huỵch toẹt “cách mạng không phải là buổi dạ tiệc”. Từ thập niên 1920, Mao đã muốn đưa ra bóng ma đấu tranh giai cấp để chiếm lấy sự ủng hộ của những phần tử quá khích trong nông thôn. Dù chương trình đó bị gác lại trong kháng chiến chống Nhật, trong thời kỳ nội chiến và trong chiến dịch cải cách ruộng đất đầu thập niên 1950, các cán bộ Maoist chủ tâm tổ chức những buổi “ôn nghèo kể khổ” để khuyến khích bần nông phát biểu chống lại những kẻ áp bức - đặc biệt tất cả những ai có “nợ máu” với nhân dân. Tại các phiên toà dã chiến ở các làng mạc khắp Trung Hoa, hàng ngàn người bị kết tội bị hành quyết. Những thành phần quá khích trong nội bộ Đảng Lao động Việt Nam rất muốn áp dụng những biện pháp tương tự ở Việt Nam. Lê Đức Thọ, lúc đó là một cán bộ Đảng hàng đầu ở miền Nam, đã nhấn mạnh năm 1952, “Nếu muốn nông dân đứng lên cầm vũ khí, trước tiên cần phải khơi dậy lòng căm thù của họ đối với kẻ thù”, cũng như giải quyết những quyền lợi thực tế của họ.[654]
Chiến dịch được phát động mùa hè và đầu mùa thu 1954. Dưới sự chỉ đạo của Hoàng Quốc Việt, ban đầu chương trình lấy một số bộ phận trong công chúng, đặc biệt từ nông dân nghèo từng là bộ đội hoặc dân công trong chiến dịch Điện biên phủ, được Việt Minh tuyên truyền để họ tin rằng họ sẽ được thưởng bằng ruộng đất nếu họ cố gắng. Tuy vậy, có một số những lời chỉ trích về sự áp bức và tàn bạo. Khi Hồ Chí Minh biết những trường hợp này, ông phê bình các cán bộ đã coi thường nhân dân, cư xử hống hách.[655]
Dù lúc đầu chương trình còn ôn hoà - chỉ khoảng năm mươi làng ở tỉnh Thái Nguyên - sau rồi thành cơn sốt trên toàn quốc. Đây là tín hiệu rõ ràng cho những người ôn hoà biết, chiều hướng quá khích xuất hiện trong Đảng đầu thập niên 1950 đang còn sống và lớn mạnh, có thể làm hỏng chương trình hoà hợp mà Hồ Chí Minh đã hứa từ mùa Thu năm 1954.
Làn sóng thành công của Cải cách ruộng đất tiếp tục trong mùa đông và đầu mùa xuân năm 1955. Dù bài xã luận trong báo Nhân Dân tháng 2-1955, cảnh báo chống lại sự nguy hiểm của “sai lầm tả khuynh”, của các cán bộ quá khích (nhiều người trong số này là những người không được cố vấn Trung Quốc tập huấn về Cải cách ruộng đất và sau đó đưa về “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với nông dân), kích động dân chúng địa phương đả kích những người từng bóc lột họ trong quá khứ. Nhiều người bị buộc tội chống lại nhân dân và bị hành quyết. Có vụ, dân làng lợi dụng chương trình cải cách ruộng đất để giải quyết thù oán cá nhân, buộc tội những người khác tham gia hoạt động phản cách mạng. Trong quá trình cải cách ruộng đất, vài ngàn người, nhiều người trong số này từng trung thành ủng hộ Việt Minh, bị buộc tội phản quốc và bị trừng phạt. Trong một số trường hợp, các cán bộ lấy những bần nông cốt cán đấu tố những cựu chiến binh Việt Minh vừa ra khỏi dân quân và gia đình họ. Ngay cả những người có mối quan hệ với cán bộ cấp cao cũng không thoát. Có trường hợp, một cựu quan chức Việt Minh được chính Hồ Chí Minh che chở, Hồ ngỏ lời với chính quyền địa phương, không được mang vị quan chức này ra đấu tố. Vậy mà, vị quan chức này và gia đình vẫn bị dân làng mang ra làm nhục, ngược đãi và đấu tố. Người cháu của của viên quan này là Dương Vân Mai Elliot đã kể lại:
Mỗi khi bác tôi ra ngoài là bị trẻ con xúm vào ném đá. Dù bị người lớn chửi rủa hoặc đánh đập một cách vô lý, bác tôi vẫn phải cúi đầu nhẫn nhục van nài: “Con lạy các ông các bà tha cho con…” Địa chủ trở thành chỗ cho dân nghèo trút cơn giận dữ vì cuộc sống khó khăn của họ. Dân trong làng sốt sắng ngược đãi bác tôi để chứng tỏ họ hăng hái ủng hộ cải cách ruộng đất lấy lòng Đội cải cách đang nắm quyền lực. Một số khác chẳng qua vì ghen tức với tài sản và ảnh hưởng của địa chủ nên bây giờ thích thú làm nhục họ”.
Cuối cùng, vị cựu quan chức mất nhà, mất ruộng, buộc phải ở trong túp lều gần sườn đồi, ông và gia đình phải cày cấy trên vài sào đất sỏi đá do Đội cải cách chia.[656]
Không còn nghi ngờ gì nữa, bạo lực gắn với chiến dịch cải cách ruộng đất bột phát từ hận thù giai cấp và cá nhân đã được tích lũy bao đời nay trên những cánh đồng lúa. Hậu quả của những hành động này nhiều khi rất bi thảm, nhưng có thể nhìn nhận như một thứ sản phẩm phụ không thể tránh khỏi của bất cứ cuộc cách mạng nào.
Nhưng cũng có nhiều bằng chứng cho thấy lãnh đạo Đảng đã soạn thảo và thực hiện chương trình. Chỉ đạo chung cho chiến dịch cải cách ruộng đất là Trường Chinh, một người ngưỡng mộ chính sách nông nghiệp Trung Quốc, nhai lại quan điểm Maoist cho rằng cải cách ruộng đất là “cuộc đấu tranh giai cấp”. Những uỷ viên khác của uỷ ban cải cách ruộng đất là Hoàng Quốc Việt, thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Hồ Viết Thắng và Lê Văn Lương, những người quá khích theo đường lối Maoist, trưởng ban bí thư Trung ương Đảng thường xuyên kêu gọi một chiến dịch làm sạch Đảng. Theo gương Trung Quốc, những vị lãnh đạo đó tính toán, khoảng bốn tới năm phần trăm dân chúng địa phương phải được coi là kẻ thù giai cấp, bất chấp sự thật ra sao, ở nhiều làng nghèo ngay cả những người được coi là khá giả nhất cũng chỉ tạm đủ sống.[657]
Bạo lực chiến dịch cải cách ruộng đất có thể làm Hồ Chí Minh ngạc nhiên, mặc dù rõ ràng ông chia sẻ quan điểm quá khích, một trong những mục tiêu của chiến dịch là loại bỏ những phần tử thù địch và phản cách mạng tại cấp độ làng xã. Phát biểu trong một hội nghị cán bộ ở Thái Nguyên vào cuối 1954, Hồ tuyên bố, cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp:
Ở làng xã, nhiệm vụ quan trọng nhất là phải củng cố tổ chức làng xã bao gồm: Uỷ ban hành chính, dân quân du kích, hội nông dân, đoàn thanh niên và hội phụ nữ… Nếu những phần tử xấu còn nằm lại trong những tổ chức đó, chúng ta không thể tiến hành việc giảm tô… Để thực hiện chiến dịch này, những phần tử xấu phải bị trừng phạt thích hợp, nếu thấy cần phải cách ly hoặc khai trừ. Nếu có thể giáo dục được thì giáo dục họ. Đó là nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay của các tổ đội công tác.
Tuy thế, Hồ Chí Minh chống lại các hành động bạo lực bừa bãi, ông chỉ thị: “Để áp dụng sự trừng phạt thích hợp, không thể nói một nhóm người này tốt hay xấu. Để biết người ta tốt hay xấu, các đồng chí phải dựa vào quần chúng”. Lần khác ông nói các cán bộ cần phải phân biệt được sự khác nhau giữa các loại địa chủ. Nếu không, họ sẽ hợp nhau lại chống lại nông dân.
Hồ cũng phản đối việc sử dụng tra tấn, buộc tội các cán bộ vẫn còn dùng biện pháp tra tấn.
“Đây là phương pháp man rợ của bọn đế quốc và phong kiến sử dụng để áp đảo quần chúng và cách mạng. Tại sao chúng ta phải sử dụng những phương pháp tàn bạo đó, trong khi chúng ta có chương trình giáo dục và có chính nghĩa?”[658]
Việc Hồ Chí Minh quở trách cán bộ dưới quyền sử dụng những biện pháp tàn bạo có lẽ chẳng có hiệu lực. Một địa chủ ở Thái Nguyên, từng trung thành ủng hộ phong trào cách mạng suốt nhiều năm (thậm chí có lần che chở Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt khỏi bị Pháp bắt) bị cố vấn cải cách ruộng đất Trung Quốc buộc tội là địa chủ hung ác, kết án tử hình. Khi tất cả dân làng đứng lên bảo vệ bà, họ lại bị quy là tay sai của địch. Sau khi Hồ Chí Minh biết chuyện, ông đặt vấn đề với Trường Chinh, bản án được giảm nhẹ. Tuy nhiên, những sự việc được giảm nhẹ như thế có lẽ hiếm hoi, trước khi chiến dịch cải cách ruộng đất kết thúc cuối năm 1956, vài ngàn người bị xử tử, rất nhiều người khác bị hành hạ, tra tấn, giam cầm và bị xỉ nhục gán nhãn ô nhục “kẻ thù giai cấp” của nhân dân không gột rửa được. Dù Hồ Chí Minh có thể kinh hãi trước bạo lực bừa bãi trong chiến dịch cải cách ruộng đất, theo quan điểm của quan sát viên Việt Nam, ông bị Mao Trạch Đông hăm doạ, không dám chống lại đám cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam.[659]
Tháng 3-1955, Ban Chấp hành Trung ương họp ở Hà Nội. Một trong những chủ đề chính đem ra bàn, việc thực thi chiến dịch cải cách ruộng đất. Dù Hồ Chí Minh hiển nhiên lo lắng tới mức độ tăng cao bạo lực ở nông thôn, nhưng sự ra đời Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam Á (SEATO) do Mỹ lập lên ở Manila và sự kiện một nhóm biệt kích do CIA nuôi dưỡng gây ra những vụ phá hoại ở miền Bắc, khiến Hà Nội phải quan tâm. Nhiều lãnh đạo Đảng cho chương trình cải cách ruộng đất là công cụ cần thiết để đè bẹp bọn phản động. Dù hội nghị toàn thể kêu gọi kiểm soát cẩn thận chương trình cải cách ruộng đất để bảo đảm, chỉ có những địa chủ gian ác mới bị buộc tội chống lại nhân dân, hội nghị tuyên bố “hữu khuynh” (ám chỉ quan điểm coi trọng nhiệm vụ thống nhất đất nước hơn việc bắt đầu quá trình tiến lên xã hội chủ nghĩa) còn nguy hiểm hơn “tả khuynh” (hăng hái quá mức khi tiến hành Cải cách ruộng đất). Phát biểu kết thúc phiên họp, Hồ tỏ ra không hài lòng trước những quyết định hội nghị đưa ra, ông phàn nàn, hội nghị chưa được chuẩn bị tốt và chưa lôi cuốn được những cố gắng lớn hơn để có được sự thống nhất bên trong Đảng - đặc biệt là hàng ngũ lãnh đạo.[660]
Suốt những tháng còn lại năm 1955, chiến dịch cải cách ruộng đất lan khắp mọi vùng thôn quê. Đảng đưa thêm hơn hai mươi ngàn cán bộ về nông thôn thực hiện chương trình. Đến giữa mùa Hè, việc chính quyền Diệm không tham gia bầu cử đã trở nên quá rõ ràng, xóa bỏ mọi cố gắng thuyết phục hoãn cải cách cho đến khi nước nhà được thống nhất. Tháng Tám, báo Nhân Dân đăng xã luận phê bình “một số đồng chí” có quan điểm “cần phải tiến hành Cải cách ruộng đất chậm lại, để tập trung đấu tranh thống nhất. Điều này và củng cố miền Bắc là mâu thuẫn với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước”. [661]
Tại hội nghị toàn thể lần thứ Tám họp ở Hà Nội vài ngày sau, Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi cố gắng tập trung cao độ sử dụng chương trình cải cách ruộng đất là phương tiện nhổ tận gốc bọn gián điệp và phản cách mạng.
Làn sóng cuối cùng chiến dịch cải cách ruộng đất mở màn vào cuối 1955, đúng lúc cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn lên tới đỉnh cao. Hồ Chí Minh cố gắng hạ nhiệt những hành động quá khích của chương trình. Phát biểu với các cán bộ cải cách ruộng đất ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày 17 tháng 12, ông nhấn mạnh cần thận trọng phân biệt giữa những người sai trái với những người vô tình vi phạm, không được sử dụng biện pháp tàn bạo chống lại những người bị buộc tội chống lại nhân dân. Tại bữa ăn trưa, ông nói với họ, cải cách ruộng đất, giống như bát súp nóng, phải húp từ từ mới ngon. Nhưng những lời khuyên của Hồ cũng chẳng có tác dụng. Uỷ ban Nông hội toàn quốc gửi thư cho các cán bộ cải cách ruộng đất trong tháng đó gắn mối quan hệ trực tiếp giữa địa chủ với hoạt động phản động, đồng thời ngày 14 tháng 12 Ban Chấp hành Trung ương chỉ thị các cán bộ phải thực hiện cải cách ruộng đất chương trình như “một trận Điện Biên Phủ chống lại chủ nghĩa phong kiến ở miền Bắc”.[662]
Đầu mùa xuân năm 1956, tin tức bạo lực cải cách ruộng đất lan rộng ở Hà Nội, khi nhiều quan chức Đảng chính phủ có gia đình ở nông thôn bị đội cải cách ruộng đất tấn công. Khi xuất hiện những bài báo phê bình cải cách ruộng đất, Vũ Đình Huỳnh, một cựu thư ký của Hồ Chí Minh, đã linh cảm được và thận trọng nhắc Hồ: “Máu của đồng bào chúng ta đang đổ, lẽ nào Bác lại ngồi yên?” Dù Huỳnh bị những phần tử hiếu chiến trong Đảng coi là không có tư tưởng chiến đấu (Trường Chinh đã gạt bỏ Huỳnh vì coi ông là “tay chân của bọn phản cách mạng), song Hồ rất lo lắng trước việc cán bộ cải cách ruộng đất phân loại bừa bãi và gán cho tất cả địa chủ là bọn phản động. Tháng 4, phát biểu trước các cán bộ cải cách ruộng đất tại vùng duyên hải, ông cảnh báo họ đừng có thái độ cứng nhắc trong việc xử lý, vạch ra, không phải tất cả địa chủ đều bất lương và độc ác. Chỉ có người nào mắc những hành động bạo ngược mới bị trừng phạt. Ông nói, một con thuyền không những chỉ cần những tay chèo mà còn cần cả những người cầm lái.
Những phát biểu Hồ Chí Minh cũng chẳng có mấy hiệu lực. Dù lúc này sự phẫn nộ lên cao trào khắp nông thôn, một thông điệp của ông bắt đầu có người nghe. Giữa tháng 5, một bài báo trên tờ Nhân Dân thừa nhận, một số cán bộ cải cách ruộng đất đối xử bất công với con em địa chủ. Vài tuần sau, một bài khác vạch ra, đôi khi các quan chức chính phủ “đánh giá quá cao kẻ thù” và quy kết vội vã từ một vài hiện tượng cá biệt.[663]
Sự thay đổi suy nghĩ của những người lãnh đạo đảng phần nào do sự phản đối của những cựu binh Việt Minh, những người này cùng với gia đình của họ từng là nạn nhân. Nhưng một sự kiện diễn ra cách xa vài ngàn dặm ở Moscow cũng có vai trò quan trọng. Phát biểu tại Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô tháng 2-1956, Tổng bí thư Nikita Khrushchev làm choáng váng các đại biểu dự họp bằng bài phê bình mạnh mẽ người tiền nhiệm của ông - Joseph Stalin. Khrushchev buộc tội Stalin không những khuyến khích tệ “sùng bái cá nhân” thể hiện sự phản bội nguyên tắc Leninist về tập trung dân chủ, mà còn sử dụng quyền lực để đàn áp dã man và loại bỏ những người Bolsevich trung thành ra khỏi Đảng. Không những thế, Stalin còn thực hiện một số chính sách đối ngoại tai hại có tầm quan trọng chiến lược trong Thế chiến II. Khrushchev kêu gọi các đại biểu tại Hội nghị “tự phê bình” để không mắc phải những khuyết điểm đó nữa.
Việc Khrushchev công khai vạch mặt Stalin làm cho Bắc Kinh lo ngại tác động của cuộc tấn công đó, cho dù là chính đáng trong bối cảnh Liên Xô, nhưng lại có thể ảnh hưởng tới uy tín của Đảng cộng sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông và ảnh hưởng tới khái niệm Marxist về chuyên chính vô sản. Tuy nhiên, phản ứng của Hà Nội không rõ ràng, tù mù. Phái đoàn Việt Nam do Trường Chinh và Lê Đức Thọ tham dự hội nghị, nhưng báo chí ở Hà Nội bình luận rất thưa thớt. Ngày 28-5-1956, báo Nhân Dân nhấn mạnh một cách vắn tắt, Đảng Lao động Việt Nam “nghiên cứu kỹ chủ nghĩa Marxist - Leninist để áp dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam và kết hợp học thuyết này với thực tiễn cách mạng Việt Nam”. Ngay khi phái đoàn Việt Nam từ Moscow về nước, Bộ Chính trị họp xem xét kết quả hội nghị và tác động của nó tới tình hình ở Việt Nam. Ngày 31-3-1956, Đài phát thanh Hà Nội phát đi thông cáo của Bộ Chính trị đề cập tới “tệ sùng bái cá nhân” và “tinh thần phê và tự phê bình”, kết luận rằng những nghị quyết của Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô sẽ “củng cố đảng ta về mặt lý luận”.[664]
Theo quan điểm chính thức, vấn đề sùng bái cá nhân là việc nội bộ của Liên Xô, không liên quan đến bối cảnh Việt Nam và Hồ Chí Minh làm việc theo nguyên tắc tập thể. Dù vậy, một số người lãnh đạo trong đảng lo ngại vấn đề này sẽ nổi lên, đặc biệt những người không thích sự tôn sùng Hồ Chí Minh trên báo chí. “Bác Hồ” đã trở nên được biết rộng rãi như người trong gia đình khá quen thuộc đối với thế giới trong những năm cuối đời. Ông chụp hình với đồng bào đón chào ông tới thăm, cho dù hình ảnh ông hiền hoà, hình ông trên tem và thậm chí cả trên tiền. Trường Chinh, ghen tỵ với danh tiếng Hồ trong nhân dân, nghe nói rất khoái chiến dịch chống tệ sùng bái cá nhân. Ông nhấn mạnh “Chủ nghĩa xã hội không thể sống sót được với tệ sùng bái cá nhân”. Ông vạch rõ chủ nghĩa xã hội đối lập với sùng bái cá nhân như nước và lửa: Trong khi chủ nghĩa xã hội là dân chủ thì sùng bái cá nhân là phản dân chủ.[665]
Việc Khrushchev hạ bệ thần tượng Stalin chắc chắn có tác động đến quyết định của Đảng Lao động Việt Nam ở Hà Nội bắt đầu xem xét nghiêm túc và tranh luận. Tại phiên họp mở rộng Ban Chấp hành Trung ương Đảng cuối tháng 4-1956, vấn đề tự phê bình được đem ra thảo luận và nghị quyết của Hội nghị ca ngợi Đảng cộng sản Liên Xô dũng cảm nhận sai lầm, đồng thời thừa nhận Đảng Lao động Việt Nam thiếu sức chiến đấu nhận khuyết điểm. Nghị quyết viết “Thông qua phê và tự phê bình, chúng ta mới phát triển được dân chủ trong nội bộ, củng cố mối quan hệ với quần chúng, chống lề thói quan liêu”. Phát biểu kết thúc hội nghị, Hồ Chí Minh tuyên bố rõ ràng hơn, bằng sự tự phê bình, Đảng cộng sản Liên Xô thể hiện lòng can đảm đáng để các anh em noi gương. Bài học này đặc biệt liên quan tới Đảng Lao động Việt Nam, do “tàn dư phong kiến và thực dân” vẫn chưa bị loại bỏ trong nước, vì thế tạo ra sự giả tạo và để những ảnh hưởng không cộng sản thâm nhập vào Đảng. Dù Hồ tập trung chủ yếu vào vấn đề lề thói quan liêu và hống hách của quan chức, ông thú nhận “tệ sùng bái cá nhân” chắc chắn cũng tồn tại ở Việt Nam. Lúc này tuy chưa đưa đến những thiệt hại lớn, nhưng nó làm giảm sự nhiệt tình, cống hiến hết mình, tinh thần sáng tạo trong đảng viên và nhân dân. Để giải quyết những thiếu sót đó, ông nhấn mạnh cần phải củng cố lãnh đạo tập thể trong hàng ngũ cao cấp của đảng và chính phủ.[666]
Không rõ “tinh thần phê và tự phê bình” tác động tới cuộc tranh cãi về chiến dịch cải cách ruộng đất tới mức nào. Hình như phát biểu của Hồ Chí Minh nhận được sự đồng tình các đồng chí của ông trong Bộ Chính trị. Thực vậy, có sự trớ trêu khi ông nói tới nguy hiểm của tệ sùng bái cá nhân tại hội nghị, vì ông cảm thấy ảnh hưởng của bản thân trong việc thực thi chương trình cải cách ruộng đất bị hạn chế nhiều. Dù thế nào đi nữa, bài phát biểu Khrushchev giúp ông thuyết phục các đồng chí đánh giá lại những quyết định của chính họ cần phải có thay đổi trong chương trình cải cách ruộng đất.
Cho dù bài phát biểu của Khrushchev chống Stalin ở Việt Nam tác động tới đâu đi nữa, trong thời gian vài tháng sau đó, có sự đánh giá lại chương trình cải cách ruộng đất. Ngay sau khi kết thúc hội nghị, Đảng tiến hành những cuộc họp cán bộ theo lịch trình của quyết định Ban Chấp hành Trung ương. Những bình luận chính thức trên báo chí cho thấy sai lầm phạm phải khi thực hiện chương trình, một số người bị bắt trước đây vì cho là phản động được thả. Một bài báo giữa tháng 5-1956 ca ngợi kết quả toàn diện chiến dịch cải cách ruộng đất, nhưng lại kết luận với lời khiển trách tất cả những người dính líu đến chương trình cải cách ruộng đất. Trong một bức thư đề ngày 1-7-1956 gửi hội nghị cán bộ đánh giá đợt cuối cải cách ruộng đất, Hồ Chí Minh cho mô tả chương trình đạt thành công “chủ yếu” làm giảm uy thế giai cấp địa chủ tại nông thôn, nhưng ông nói thêm, một số sai lầm nghiêm trọng đã mắc phải đã làm giảm mạnh sự thắng lợi. Những người chịu trách nhiệm thực hiện chiến dịch cải cách ruộng đất cũng không muốn nhìn nhận vấn đề. Trong một bài báo tháng 7-1956, Lê Văn Lương thừa nhận sai lầm mắc phải khi thực thi chương trình, nhưng khẳng định hành động đó là cần thiết vì các tổ chức chính quyền địa phương ở nhiều nông thôn mới được giải phóng vẫn chưa thắng thế được những phần tử phản động.[667]
Lúc này một làn sóng mạnh mẽ chống lại Lương và phe cánh. Trong một báo cáo gửi các cán bộ nông thôn về kết quả chương trình cải cách ruộng đất ngày 17-8-1956, Hồ Chí Minh tuyên bố “một số cán bộ không nắm vững đường lối của chúng ta, không làm đúng đường lối dân vận. (Điều này) do sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và chính phủ có thiếu sót lớn… do vậy, cải cách ruộng đất có khuyểt điểm lớn và sai lầm trong công tác đoàn kết thống nhất ở nông thôn”. Ông hứa, những ai bị xử lý sai do những sai lầm đó sẽ được thả khỏi tù hoặc được phục hồi chức vụ trước đây.[668]
Chủ đề chính thảo luận tại Hội nghị X Ban Chấp Hành Trung ương họp bàn vào tháng 9-1956. Lúc này, những người thực hiện cải cách ruộng đất không thể bảo vệ được vị trí của họ nữa và những cuộc tranh cãi nẩy lửa diễn tại hội nghị. Bản thông cáo kết thúc Hội nghị toàn thể lần thứ X công khai phân tích vấn đề và quy trách nhiệm:
Những sai lầm và những thiếu sót đã phạm phải trong thời kỳ vừa qua. Trong công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, đã mắc phải những sai lầm. Hội nghị toàn thể lần thứ X Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã phân tích những kết quả cải cách ruộng đất, công tác chỉnh đốn tổ chức và đã kiểm tra nghiêm túc những khuyết điểm phạm phải trong hai nhiệm vụ đó. Tìm ra được nguyên nhân những khuyết điểm và đề ra những biện pháp sửa chữa.
Đây là lần đầu tiên, Đảng tìm ra được nguồn gốc vấn đề. Thông báo cho rằng những khó khăn này do “chệch sang tả”:
“Hội nghị toàn thể lần thứ X Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam công nhận những khuyết điểm là do những thiếu sót trong công tác lãnh đạo”. Vì thế Ban chấp hành Trung ương của Đảng phải chịu trách nhiệm về những khuyết điểm đó. Những uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương trực tiếp phạm phải những khuyết điểm đường lối và chính sách của Đảng phải tự kiểm điểm những thiếu sót và sai lầm của mình trước Ban Chấp hành Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương sẽ có kỷ luật thích đáng với những đồng chí đó.[669]
Hội nghị toàn thể lần thứ X Ban Chấp hành Trung ương đã có một bước đi chưa có trong tiền lệ khi cách chức những thành viên của Đảng và chính phủ. Trong số này có bốn nhân vật chính trong Uỷ ban Cải cách ruộng đất: Trường Chinh bị cách chức Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam. Hồ Viết Thắng bị khai trừ khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Lê Văn Lương mất chức Uỷ viên Bộ chính trị và Bí thư Ban Chấp hành Trung ương. Hoàng Quốc Việt ra khỏi Bộ Chính trị. Mấy ngày sau, Hội đồng Bộ trưởng ra sắc lệnh chỉ thị huỷ bỏ toà án nhân dân cấp xã, đồng thời uỷ ban cải cách ruộng đất thành lập trước đây tại trung ương và tỉnh bị hạn chế chức năng, chuyển sang làm cố vấn nhưng không còn quyền lực. Để phục hồi những tổn hại do cải cách ruộng đất phạm phải, những người bị tù oan được ân xá, những tài sản riêng bị tịch thu bất hợp pháp và đất nhà thờ được trả lại.[670]
Việc cách chức Trường Chinh, một bước đi chưa có trong tiền lệ đối với Đảng luôn tìm cách tránh né những cuộc đấu đá bè phái mãnh liệt vốn rất đặc trưng trong hai đảng Trung Hoa và Liên Xô anh em, buộc các đồng chí của Trường Chinh phải vội tìm người thay thế. Người thừa kế hiển nhiên là tướng Võ Nguyên Giáp. Đứng hàng thứ ba sau Hồ và Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp - anh hùng Điện Biên Phủ - có uy tín cao trong nhân dân. Ông và quân đội đã tránh được vết nhơ thất bại của chiến dịch cải cách ruộng đất. Nhưng uy tín cao của Giáp lại bị những đồng sự ghen tỵ. Ngoài ra, truyền thống của Đảng tránh gộp quyền lãnh đạo Đảng với chỉ huy quân đội. Do vậy, Giáp bị loại và Hồ Chí Minh đồng ý tạm thời giữ chức Tổng bí thư.
Hồ Chí Minh không trực tiếp nhúng tay vào việc vạch kế hoạch hoặc thực thi chiến dịch cải cách ruộng đất, có thể vì vậy không thể đóng vai trò chính gây ra thiệt hại và chịu trách nhiệm. Nhưng uy tín của ông, một người lãnh đạo hiểu biết, lãnh đạo mọi mặt đã bị sứt mẻ nặng nề, nhiều người trong tâm tư cảm thấy, mặc dù Hồ chỉ trích những việc diễn ra ở mức địa phương, nhưng không phải vô can, vì bản thân ông thông qua Luật Cải cách ruộng đất từ khi bắt đầu và bảo vệ thành tích của nó “là chính” thậm chí sau khi biết rõ những sai lầm nghiêm trọng đã xảy ra. Trong cuộc gặp riêng với những lãnh đạo đảng, Hồ tự phê bình chính mình “Bác đã thiếu dân chủ, không nghe, không thấy. Bởi thế tất cả chúng ta phải tiến hành dân chủ. Bác thừa nhận khuyết điểm trong vụ này. Từ nay tất cả các lãnh đạo trung ương phải nghe, quan sát, suy nghĩ trước khi hành động. Bài học đau thương này phải trở thành động lực mới cho chúng ta”.[671]
Thất bại chiến dịch cải cách ruộng đất là một bước lùi lớn của Trường Chinh. Do tính cách thiếu hòa đồng và khắt khe, Trường Chinh không được các đồng chí và những người xung quanh kính trọng không phải vì sự tàn bạo mà vì sự lạnh lùng, thiếu tình người và vẫn chắc chắn tin rằng khi tiến hành chương trình theo đề xuất cố vấn Trung Quốc ông hành động đúng theo ý thức hệ. Trong lúc bị bẽ mặt do giáng cấp, ông lại tỏ ra khá kiêu ngạo trước công chúng, nghe đồn không bao giờ kể chuyện này với các đồng chí của ông. Khi có dịp ông vẫn sẵn sàng bảo vệ quyết định của mình. Vài tuần lễ sau khi kết thúc Hội nghị X, Trường Chinh lập luận, mặc dù một số cán bộ sai trái phạm khuyết điểm tai hại trong chiến dịch, nhưng cải cách ruộng đất là “một cuộc cách mạng”và ông nói thêm “một cuộc cải cách ruộng đất hoà bình chẳng khác gì như kế hoạch giao đất là một ảo tưởng”.[672]
Cố gắng của Đảng trong việc thừa nhận sai lầm đã quá muộn để ngăn cản cuộc bạo động đầu tiên của dân chúng chống lại chính sách chính phủ kể từ khi kết thúc kháng chiến chống Pháp. Cuộc bạo động xảy ra ở một nơi không xa quê Hồ Chí Minh ở tỉnh Nghệ An. Huyện Quỳnh Lưu có phần đông dân chúng theo đạo Thiên Chúa. Người dân Quỳnh Lưu có tinh thần yêu nước cao, từng ủng hộ Việt Minh chống Pháp, nhưng cả hai bên đều nghi ngờ lẫn nhau. Cán bộ Việt Minh nghi ngờ đa số dân Thiên Chúa Giáo địa phương trung thành với Pháp hoặc Bảo Đại và thù địch cách mạng. Còn người theo Thiên Chúa Giáo tức giận trước những chính sách và hành động nghi ngờ của chính quyền nên họ chống lại.
Mối quan hệ giữa chính phủ và cộng đồng giáo dân Thiên Chúa không ngừng mâu thuẫn ở Việt Nam kể từ khi kết thúc chiến tranh Thái Bình Dương. Sau đình chiến vào tháng 7-1954, gần 600.000 người Thiên Chúa Giáo di cư vào Nam. Tuy thế, gần 900.000 Thiên Chúa Giáo vẫn còn lại ở miền Bắc sau Hiệp định Geneva và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cam đoan họ sẽ không bị ngược đãi. Một Uỷ ban lên lạc những người Thiên Chúa Giáo yêu nước và yêu hoà bình được thành lập như một nhóm trong mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên phát biểu với dân Thiên Chúa Giáo những cam kết của chính phủ về tự do tín ngưỡng. Bổ nhiệm những giám mục mới thay những giám mục đã vào Nam, những trường dòng đào tạo linh mục Thiên Chúa Giáo được thành lập cuối năm 1954. Tháng 6-1955 chính phủ ra sắc lệnh bảo đảm tự do tín ngưỡng và công nhận quyền của Vatican trong công việc nội bộ nhà thờ, mặc dù cấm đoán dân Thiên Chúa Giáo tuyên truyền chống đối những chính sách của chính phủ.
Tuy nhiên khi mở màn chiến dịch cải cách ruộng đất, mối quan hệ nhanh chóng phá hỏng tất cả, khi các cán bộ hiếu chiến thường tỏ ra chống người theo đạo Thiên Chúa, nhiều người trong số họ bị tình nghi phản động. Trong một số trường hợp, họ cũng có lý do để đặt những câu hỏi với cách mạng, vì nhiều người Thiên Chúa Giáo là những người giàu có của cộng đồng nông thôn, do vậy họ chống đối cải cách ruộng đất. Bản thân Nhà Thờ, chiếm khoảng 1,3 phần trăm đất canh tác trong nước, cũng công khai thù địch với chính phủ.
Vấn đề rắc rối ở huyện Quỳnh Lưu bắt đầu xuất hiện năm 1955, khi dân làng phản đối việc quan chức chính phủ ngăn cản họ di cư vào Nam. Mùa Hè năm 1956, chiến dịch cải cách ruộng đất quét qua vùng này, sự oán giận thái độ tàn nhẫn khi tiến hành cải cách ruộng đất tăng lên do những những đối xử bất công với người theo đạo. Cán bộ đảng thường xuyên quy kết những người thủ lĩnh Thiên Chúa Giáo địa phương là phản động, kẻ phá hoại. Khi đoàn thanh tra của Uỷ Ban Kiểm Soát Quốc tế tới, căng thẳng bùng lên và một số vụ đụng độ bạo lực xảy ra giữa lực lượng an ninh chính phủ với dân làng tìm gặp những thanh tra. Ngày 9-11-1956, một nhóm dân làng đưa đơn cho những thành viên Uỷ Ban Kiểm Soát Quốc tế, đang đi đến huyện trên xe Jeep. Một đơn vị cảnh sát cố tình giải tán đám đông và bạo lực nổ ra. Ngày 13-11-1956, vài ngàn người, vũ trang bằng gậy gộc, cuốc xẻng tiến về trung tâm huyện lỵ Quỳnh Lưu. Con đường tới huyện lỵ bị bộ đội phong toả, đụng độ xảy ra làm vài người biểu tình bị chết. Ngày hôm sau, một sư đoàn bộ đội được điều đến chiếm vùng này, bắt hết những người cầm đầu cuộc nổi loạn. Sau khi toán thanh tra Uỷ Ban Kiểm Soát Quốc tế từ Hà Nội tới để đánh giá tình hình, một số người bị bắt trong cải cách ruộng đất được thả, tài sản của họ được trả lại. Nhưng rõ ràng cuộc tranh cãi trong nội bộ Đảng về cải cách ruộng đất vẫn chưa chấm dứt. Trường Chinh, lúc đó còn là chủ tịch Uỷ ban Cải cách ruộng đất, cảnh báo trong báo cáo của mình về sự kiện này, một số “cá nhân nguy hiểm” đã được thả mà không có xét xử cần phải theo dõi chặt “những thành phần địa chủ” để họ không thể còn uy thế trong làng nữa.
Dù sự kiện Quỳnh Lưu là độc nhất trong mối quan hệ của chính phủ và Thiên Chúa Giáo, nó cũng chứng tỏ rõ ràng chương trình cải cách ruộng đất đã phá hoại nghiêm trọng sự tin tưởng của nhân dân miền Bắc với những người lãnh đạo Đảng, chắc chắn cản trở sự thống nhất và lãnh đạo tập thể trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng. Cuối tháng Mười, một đám đông gồm chủ yếu những thân nhân những người bị oan ức trong cải cách ruộng đất tụ tập trước cửa trụ sở Ban Chấp hành Trung ương gần Quảng trường Ba Đình đòi sửa sai. Tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu trước đông đảo nhân dân tại Nhà Hát Nhân Dân, công nhận những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Ông thừa nhận lãnh đạo Đảng dự đoán quá cao số lượng địa chủ trong nước, đã cứng nhắc khi coi toàn bộ tầng lớp này là kẻ thù nhân dân. Do vậy không phân biệt nổi bạn và thù, coi nhẹ tầm quan trọng mặt trận quốc gia thống nhất rộng rãi trong thời kỳ trước đây. Ông nói thêm, Đảng cũng vi phạm chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng khi tiến hành cải cách ruộng đất trong khu vực đông dân Thiên Chúa Giáo và không nhận ra sự cống hiến cho cách mạng của nhiều binh sĩ giải ngũ và cựu chiến binh.
Hồ Chí Minh, người tranh luận trong cuộc họp những lãnh đạo cao cấp chống lại tàn dư chiến dịch Cải cách ruộng đất, ít xuất hiện trước công chúng cho mãi đến tháng 2-1957, tại phiên họp Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ thừa nhận “có nhiều sai lầm nghiêm trọng” phạm phải khi tiến hành Cải cách ruộng đất. Nhưng một lần nữa ông bảo vệ chương trình Cải cách ruộng đất cho là chương trình này hoàn toàn đúng đắn về nền tảng với mục đích loại bỏ thế lực phong kiến tại làng xã và giải phóng nông dân nghèo khỏi vòng nghèo khổ. Những quan sát viên nhớ lại rằng Hồ khóc khi nói đến những đau thương đã xảy ra trong Cải cách ruộng đất.[673]
Về mặt nào đấy, chương trình cải cách ruộng đất có thể xem như thành công của chế độ. Hơn hai triệu mẫu ruộng (800.000 hectares) đã được chia cho hơn hai triệu gia đình nông dân, bằng một nửa số nông dân ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sự thống trị đời đời của bọn chủ đất tại làng xã đã bị phá vỡ, tầng lớp lãnh đạo mới hình thành bao gồm dân nghèo và trung nông. Nhưng cách làm này cũng để lại di sản cay đắng. Dù con số thực tế những người bị xử tử trong cải cách ruộng đất vẫn còn được tranh cãi, ngay cả những quan sát viên thiện cảm cho rằng ít nhất 3.000 đến 5.000 người có thể đã chết trong cải cách ruộng đất, thường bị đội hành quyết thi hành ngay sau khi “toàn án nhân dân” kết án. Có những đánh giá khác, cho rằng có khoảng từ 12.000 đến 15.000 người bị xử tử không xét xử với những lời cáo buộc chụp mũ tội phá hoại, nói một cách khác là ủng hộ hoạt động phản động. Còn vô số không kể hết những người bị đối xử tàn tệ do mối quan hệ của họ với nạn nhân. Có một thảm hoạ lớn cho tổ chức Đảng tại cấp địa phương. Một nghiên cứu đầu thập niên 1980 cho thấy ở một số vùng, 30 phần trăm chi bộ đảng phải giải thể do cán bộ chủ chốt bị thủ tiêu vì những kẻ quá khích trong đội cải cách ruộng đất gây ra. Trong 76 xã ở tỉnh Bắc Ninh, chỉ còn 21 bí thư chi bộ còn lại vào đợt cuối chiến dịch cải cách ruộng đất.[674]
Sự hỗn loạn xã hội do chiến dịch cải cách ruộng đất gây nên cũng không bó hẹp ở nông thôn. Nó cũng làm gia tăng sự tức giận đối với Đảng trong giới trí thức thành thị. Đó là những người đã ủng hộ mạnh mẽ Mặt trận Việt Minh trong nhiều giai đoạn trước đây của cuộc kháng chiến. Nhiều người có lòng yêu nước cao, hăng hái ủng hộ cương lĩnh Việt Minh kết hợp vấn đề độc lập dân tộc với những biện pháp cải cách ôn hoà.
Tuy nhiên, uy tín Đảng trong trí thức giảm sút nghiêm trọng vào đầu năm 1951, khi chiến dịch chỉnh huấn theo lối Trung Quốc khiến họ cảm thấy bị sỉ nhục trong những buổi phê và tự phê bình khi họ cố hoà hợp tinh thần yêu nước với những đòi hỏi khắt khe của tiêu chuẩn Maoist. Một số rời bỏ hàng ngũ. Một số không hài lòng việc bắt họ tuân theo kỷ luật đảng, hy sinh mục đích cá nhân trong kháng chiến. Như nhà văn - nhân sĩ Phan Khôi nhấn mạnh, vị ngọt của lòng yêu nước giống như đường trong tách café, đã pha nhạt vị đắng của lãnh đạo Đảng và sự cứu rỗi nhân cách của người trí thức.[675]
Tình thế khó xử này trở nên mạnh hơn sau hội nghị Geneva, khi vấn đề độc lập dân tộc được đặt trước vai trò Đảng lãnh vai trò lãnh đạo trung tâm. Chuyện nhà văn trẻ Trần Dần là một minh hoạ điển hình. Là cựu chiến binh Điện Biên phủ, Dần đã viết một tiểu thuyết theo phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa về kinh nghiệm chiến trường. Ngay sau khi ngừng bắn, ông được cử sang Trung Quốc tu nghiệp viết kịch bản phim dựa trên cuốn tiểu thuyết của ông. Ở đó, ông gặp nhà văn Hồ Phong, người chủ trương phải trao quyền tự do hơn cho các văn nghệ sĩ ở nước Trung Hoa mới. Về nước, Trần Dần sửa lại câu chuyện của mình, thay thế việc miêu tả chủ nghĩa anh hùng và tinh thần hy sinh bằng một câu chuyện hiện thực hơn về những gian khổ của tổ tam tam (3 người lính) với sự khủng khiếp của chiến tranh. Mùa Đông năm 1954-1955, cộng tác với vài đồng sự cùng chí hướng trong bộ phận tuyên huấn quân đội, ông thảo ra một bức thư “Những đề xuất về văn hóa chính trị”, dự định gửi tới Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trọng tâm của bức thứ, đòi được tự do hơn cho sự sáng tạo của trí thức để phản ánh sự thật về cuộc chiến tranh vừa qua mà họ đã chứng kiến.
Thoạt đầu, bản dự thảo có lẽ được một số sĩ quan cao cấp quân đội ủng hộ, nhưng cuối cùng ban tuyên huấn quân đội nhận thư chính thức bác bỏ. Người cầm đầu duy trì sự trong sạch về tư tưởng là nhà thơ Tố Hữu, người nổi tiếng về những bài thơ trong kháng chiến chống Pháp, nay là người lính canh gác trên mặt trận văn hoá, tư tưởng của Đảng. Là người lớn tiếng cổ suý cho phong trào “nghệ thuật vị nhân sinh”, ông có bài phát biểu quan trọng tháng 9-1949 ở Việt Bắc kêu gọi loại bỏ những ảnh hưởng phản động của phong kiến và tư bản trong nền văn hóa cách mạng Việt Nam non trẻ.
Trần Dần lập tức bị cánh tả tấn công, không những vì lời phát biểu đòi hỏi chấm dứt kiểm soát tư tưởng đối với sự sáng tạo của các nghệ sĩ ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mà còn bị cáo buộc có “lối sống tư sản”. Bị khai trừ ra khỏi Đảng, ông bị giam ở nhà tù quân đội tại Hoàng Thành ở Hà Nội. Trần Dần viết (theo thể thơ bậc thang -người dịch):
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà,
chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ”.[676]
Nhưng sự xáo động do bức thư gây ra cộng với sự tàn bạo của chiến dịch cải cách ruộng đất và “sự tan băng” văn hoá ở Liên Xô do tác động bài phát biểu của Khrushchev chống Stalin tháng 2-1956, đã khích lệ nhiều trí thức khác. Mùa xuân năm đó, tạp chí Giai Phẩm Mùa Xuân bắt đầu ra đời, ít nhiều phê phán những chính sách của chính phủ. Tuy có ý kiến chính thức không tán thành, tạp chí vẫn tiếp tục ra vào mùa hè năm đó, khuyến khích sự ra đời của tạp chí thứ hai Nhân Văn vào tháng 9. Chủ bút của Nhân Văn, nhân sĩ Phan Khôi, một người tham gia phong trào cải cách của Phan Chu Trinh từ đầu thế kỷ. Lúc này, trí thức Việt Nam được chiến dịch “Trăm Hoa đua nở” ở Trung Hoa khích lệ, được nhà nước Trung Quốc chính thức tài trợ khuyến khích phát biểu công khai những thiếu sót của Đảng cộng sản và chính phủ Trung Quốc. Nhà thơ Hoàng Cầm đã viết một bài phê phán chính quyền đàn áp Trần Dần và bảo vệ Trần Dần trước những lời phê bình. Những bài báo khác trong hai tạp chí miêu tả nỗi thống khổ của thân nhân những người bị tù trong cải cách ruộng đất và lề thói quan liêu.
Phan Khôi (8-1887 - 1-1959)
Sự đả kích tàn dư chiến dịch cải cách ruộng đất, những lời yêu cầu phê và tự phê bình xuất phát từ Moscow và Bắc Kinh khiến những người nắm công tác tư tưởng trong Đảng chưa thể ra tay đàn áp. Trên thực tế, Hội nghị X tháng 9-1956 ra thông cáo kêu gọi nới rộng tự do dân chủ, đồng thời tháng 12-1956 sắc lệnh của chủ tịch Hồ Chí Minh bảo đảm tự do trong giới hạn của báo chí. Trường Chinh kêu gọi hình thành một nền văn hoá Việt Nam mới mang hình thức dân tộc và nội dung xã hội chủ nghĩa. Chẳng ai hiểu Trường Chinh nói thế nghĩa là gì. Khi một trí thức kêu ca với Trường Chinh vì không được tự do ngôn luận, Chinh ngạc nhiên đáp: “Thế à, nhưng các anh chẳng được tự do thoải mái phê phán chủ nghĩa đế quốc sao?”
Nhưng cuộc bạo động ở Quỳnh Lưu gây nên lo ngại trong những lãnh đạo Đảng ở Hà nội, đến cuối năm, tạp chí Nhân Văn và Giai Phẩm buộc phải đóng cửa. Báo Nhân Dân kêu gọi Đảng kiểm soát chặt trí thức, bắt buộc phải học về chủ nghĩa Marx - Lenin. Phan Khôi bị khai trừ ra khỏi Hội Nhà Văn và cuối cùng bị bắt. Ông chết trong tù trước khi ra toà. Trần Dần bị khai trừ khỏi Đảng, nhưng ông tự nhận mình trung thành với ý tưởng không tưởng “là người cộng sản ngoài đảng”.[677]
Không dễ dàng đánh giá vai trò của Hồ trong cả hai vụ cải cách ruộng đất và đàn áp trí thức. Những người ủng hộ Hồ vạch ra ông không trực tiếp can dự việc này, kiên trì thuyết phục những nhà lãnh đạo đảng cao cấp cần phân biệt cẩn thận giữa những người lầm đường, có thể đưa họ đi đúng đường và những phần tử thực sự phản động, phải bị cắt bỏ như ung thư khỏi cơ thể xã hội Việt Nam. Nhưng những nhà phê phán đáp trả, dù không trực tiếp cầm dao, ít ra Hồ cũng đã tạo điều kiện cho những đao phủ. Có dấu hiệu cho thấy ngay cả sau khi ông được thông báo về hậu quả trong hai chiến dịch, ông chẳng thèm dùng uy tín tuyệt đối của mình giảm nhẹ tác động hậu quả này.
Dù cá nhân Hồ không thể hiện dùng những biện pháp tàn bạo chống lại đối thủ hoặc kẻ thù, ông cũng bỏ qua những hành động đó của thuộc hạ vì lợi ích lớn hơn của sự nghiệp. Hồ Chí Minh biết một số trí thức bị tấn công trong chiến dịch mà ông có quen biết - ông thỉnh thoảng cũng đứng ra can thiệp, nhưng thường không có hiệu quả. Một người thân của một trí thức là nạn nhân của chiến dịch thông báo cho tôi biết Hồ cố gắng thay đổi quy chế đối xử trong tù của vị trí thức đó. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã trở thành tù nhân do chính ông tạo ra, như một con ruồi kẹt trong chai, không có khả năng thoát khỏi logic nghiệt ngã của hệ thống sẵn sàng “hy sinh” cá nhân cho “những mục đích cao cả” của kế hoạch lớn.[678]
Mặc dù Hà Nội chỉ quan tâm nhiều đến bài phát biểu chống Stalin của Khrushchev đầu năm 1956, nhưng Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô còn có nhiều nghị quyết quan trọng về chính sách cùng chung sống hòa bình với phương Tây. Khi đánh giá chính sách mới, Khrushchev lập luận chỉ có cách này mới tránh được cuộc xung đột hạt nhân, có thể dẫn đến cái chết của hàng triệu người ở cả hai bên chỉ vì do khác biệt hệ tư tưởng.
Chiến lược cùng chung sống hoà bình của Moscow không làm Hà Nội hứng thú, vì họ cho Liên Xô không để mắt tới cuộc đấu tranh cách mạng dẫn tới thống nhất hai miền Việt Nam. Lúc đó, chủ trương mới đó cũng phù hợp chính sách của Hà Nội, vì tháng 8-1955 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định một lần nữa mong muốn tìm cách thống nhất bằng phương pháp hoà bình. Đầu năm 1956, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp thuận đề nghị của Trung Quốc tái nhóm họp Hội nghị Geneva để thảo luận việc thi hành.
Dù vậy, vấn đề này cũng còn đang tranh cãi trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp Đảng. Cuối mùa đông 1956, một đoàn đại biểu do Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng dẫn đầu đã bí mật vào miền Nam tham khảo với những người lãnh đạo Việt Minh ở đó. Chủ tịch Ban Chấp hành Đảng miền Nam (thay thế Văn phòng Trung ương Nam Việt, giải tán sau Hiệp định Geneva) là Lê Duẩn, một đảng viên kỳ cựu, người chỉ đạo hoạt động ở đó từ khi Nguyễn Bình bị đẩy ra Bắc năm 1951. Mục tiêu chuyến đi của Văn Tiến Dũng xây dựng những căn cứ địa cách mạng, xem xét nhu cầu củng cố lực lượng, cũng như tạo thuận lợi liên minh chính thức với hai nhân vật chống đối của hai giáo phái.
Lê Duẩn 1907-1986.
Là con trai thợ mộc ở Quảng Trị, bắc cố đô Huế, Lê Duẩn thiếu nền tảng học vấn và truyền thống gia đình trí thức như nhiều thành viên của Đảng, ngoại trừ vài người trong số này như Hồ Chí Minh xuất thân từ tầng lớp Nho giáo. Tuy dáng vẻ mảnh khảnh, điệu bộ cứng nhắc, nhưng Duẩn lại thừa tự tin, ông được coi là nhà tổ chức tài năng, người phát ngôn cho quyền lợi của phong trào miền Nam. Mặt khác, một số đồng chí nhận xét ông là người kiêu ngạo, không chịu lắng nghe ý kiến khác với ý ông.[679]
Hoạt động dưới bí danh anh “Ba”, đại diện cao cấp Ban Chấp hành Trung ương Cục ở các tỉnh miền Nam ngay sau khi kết thúc chiến tranh Thái Bình Dương, Lê Duẩn là sự lựa chọn thích hợp để giữ chức vụ lãnh đạo phong trào ở Nam Việt Nam. Ông toàn tâm cống hiến cho sự nghiệp thống nhất quốc gia, nhưng cũng là người thực dụng, trong những cuộc họp Ban Chấp hành khu vực, ông lập luận thao thao bất tuyệt về áp dụng một chiến lược thực tế không những ở hoàn cảnh miền Nam mà còn ở quốc tế nữa. Một mặt, ông tìm cách kìm chế những người nôn nóng muốn quay lại ngay với chiến lược dùng trong kháng chiến chống Pháp, ông nói, lực lượng vũ trang của Đảng chưa đủ sức. Mặt khác, ông hoài nghi giải pháp hoà bình, cho rằng cuối cùng vẫn phải sử dụng hình thức bạo lực. Ông nói, những hoạt động chính trị ở miền Nam, “đôi khi sẽ được hỗ trợ bằng những hành động quân sự để thể hiện sức mạnh của đội quân từng chiến thắng ở Điện Biên Phủ”. Tháng 3-1956, Lê Duẩn giao cho Văn Tiến Dũng một kế hoạch quân sự sẵn sàng quay lại chính sách đấu tranh vũ trang. Sau khi Văn Tiến Dũng ra về, Ban Chấp hành Đảng Bộ miền Nam thông qua việc tăng cường lực lượng quân sự địa phương, bao gồm thành lập 20 tiểu đoàn chủ lực và các đội du kích địa phương ở thôn xã có cảm tình với cách mạng.
Đề nghị của Lê Duẩn về đấu tranh vũ trang ở miền Nam đến Hà Nội đúng lúc ban lãnh đạo đảng tích cực thảo luận đường lối chung sống hoà bình của Moscow. Đầu tháng 4-1956, Phó thủ tướng Liên Xô, Anastas Mikoyan, đến Hà Nội để giải thích với Việt Nam quan điểm của Moscow về tình hình thế giới. Đây là lần đầu tiên một nhân vật cao cấp Liên Xô tới thăm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, một vị khách chắc chắn được Việt Nam nồng nhiệt đón tiếp. Hai tuần lễ sau khi Anastas Mikoyan về nước, Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp hành Trung ương Đảng tuyên bố chính thức phê chuẩn những nghị quyết của Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô. Nhưng Trường Chinh, người vẫn còn giữ chức Tổng bí thư thời gian đó, thú nhận, không phải tất cả các uỷ viên Trung ương đồng ý với quan điểm đó. Ông nhấn mạnh “Có một số người vẫn chưa tin vào sự đúng đắn của chương trình chính trị này và chính sách hoà bình thống nhất của đất nước, cho rằng đó là ảo tưởng và cải lương”.[680]
Không rõ có phải Trường Chinh ám chỉ Lê Duẩn, đại diện Đảng Bộ ở miền Nam không. Dù thế nào đi nữa, chính Hồ Chí Minh cũng theo quan điểm này. Dù ông công khai kêu gọi các chiến hữu quan tâm đến giải pháp hoà bình khi có cơ hội, ông vẫn tin vấn đề dân tộc phải được ưu tiên hàng đầu và vẫn chưa sẵn sàng quay lại sử dụng bạo lực nếu điều đó dẫn đến việc thống nhất. Ngày 24-4-1956, phát biểu tại Hội nghị IX, Hồ tuyên bố, nhân dân Việt Nam hiểu “tầm quan trọng” những quyết định đưa ra ở Moscow và sự lớn manh của lực lượng hoà bình thế giới. Tuy nhiên, ông kết luận: “Trong khi nhận thấy chiến tranh có thể không xảy ra, chúng ta cần phải thận trọng theo sát mưu đồ của bọn gây chiến. Chừng nào chủ nghĩa đế quốc còn, nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại”. Ông vạch ra, trong một số trường hợp con đường tới chủ nghĩa xã hội có thể là con đường hoà bình, nhưng chúng ta phải nhận rõ thực tế:
“Ở những nước nơi bộ máy nhà nước, quân đội, cảnh sát của giai cấp tư sản còn mạnh thì giai cấp vô sản cần chuẩn bị đấu tranh vũ trang. Do vậy, trong khi nhìn nhận khả năng thống nhất bằng phương pháp hoà bình, nhân dân Việt Nam đừng quên rằng kẻ thù chính của chúng ta là đế quốc Mỹ và tay sai của chúng đang chiếm nửa nước đang tích cực chuẩn bị chiến tranh. Vì thế, trong khi chúng ta giương cao ngọn cờ hoà bình, chúng ta đồng thời phải cảnh giác cao độ”.[681]
Quan điểm của Hồ Chí Minh phù hợp với nghị quyết được Hội nghị thông qua, nói rằng trong khi một số dân tộc có khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng phương pháp hoà bình, đôi khi một cuộc chiến tranh ác liệt có thể khó tránh được, vì thế giai cấp công nhân cần phải sẵn sàng tình huống này. Do vậy Moscow đã nhận xét, mặc dù các nước đồng minh chưa sẵn sàng trực tiếp đối đầu Khrushchev về vấn đề cùng chung sống hoà bình, nếu cần thiết, vui lòng xác định chiến lược đem đến giải pháp thành công cho cuộc đấu tranh vì giải phóng dân tộc và thống nhất ở Việt Nam.
Tán thành tuyên bố của Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô về chính sách chung sống hoà bình, Hội nghị IX bác bỏ đề nghị của Lê Duẩn đặt những bước đầu tiên chủ trương đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Dù thế vẫn không chấm dứt được những cuộc tranh cãi trong nội bộ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về hướng đi thích hợp cho miền Nam. Một bài xã luận dài đăng trên báo Nhân Dân giữa tháng 7-1956 nhận xét nhiều người vẫn còn nuôi “ý thức hệ phức hợp và ảo tưởng” về vấn đề này. Một số có “ý nghĩ đơn giản” tin tưởng Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức. Bây giờ họ thất vọng và bi quan. Một số khác ”không muốn tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài gian khổ”, tiếp tục hy vọng thống nhất là điều này có thể đạt được bằng biện pháp hoà bình.
Những người thất vọng nhất chắc chắn là đa số cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc sau Hội nghị Geneva để huấn luyện và học tập ý thức hệ Marxist, chiến thuật cách mạng. Để xoa dịu, trong bức thư ngỏ tháng 6-1956, Hồ Chí Minh giải thích cho họ chính sách tìm cách thống nhất bằng phương pháp hoà bình. Ông cảnh báo, cuộc đấu tranh sẽ khó khăn kéo dài và có thể không thành công nếu miền Bắc trước tiên không đủ sức mạnh làm hậu phương vững chắc. Ông nói, đấu tranh chính trị chính nghĩa chắc chắn chiến thắng. Nhưng “để xây dựng một ngôi nhà tốt, chúng ta phải xây dựng nền móng tốt”. Bình luận của Hồ về xây dựng miền Bắc có tiếng vang tới nhiều độc giả. Mùa Xuân năm đó, Bắc Việt Nam gặp nạn đói, cũng như thiếu những chuyên viên lành nghề giúp đỡ xây dựng kinh tế. Những hiệp định ký với Trung Quốc cung cấp viện trợ kỹ thuật xây dựng cơ sở công nghiệp nhẹ ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng trong khi đó, nhân dân cần phải được nuôi ăn trước. Một nhà thơ vừa đi thăm các tỉnh đồng bằng sông Hồng, viết:
Tôi qua làng
Kiến An,
Hồng - Quảng
bốn mùa biển lộng
Nơi đây
trận cuồng phong
tàn phá đã hai năm
Bờ đê quai
sụt lở
nước biển
trắng đồng
trắng ngõ
Đồng lúa
giờ thành
ruộng muối
Lay lắt nơi đây
thoi thóp qua ngày
củ khoai,
củ sắn
Các trẻ thơ
trơ xương
Bát cháo cám
thay
bát cơm gạo mới thơm hưong.[682]
Những người lãnh đạo đảng đã tư vấn những cán bộ chủ chốt trong ban lãnh đạo miền Nam về vấn đề thống nhất trước khi họp Hội nghị IX, Trường Chinh quở trách họ về sự thiếu kiên nhẫn. Nhưng những nghi ngờ về giải pháp hoà bình thống nhất đất nước vẫn dai dẳng ở Hà Nội. Tháng 6-1956, sau khi cuộc họp về chủ đề này, Bộ Chính trị ra nghị quyết nhan đề “Tình hình và nhiệm vụ của cách mạng ở miền Nam”. Bản nghị quyết nhận xét, do Nam Việt Nam trở thành một thuộc địa kiểu mới của Mỹ, cần phải tính đến áp dụng chính sách đấu tranh vũ trang để tự vệ. Dù vậy, Bộ Chính trị kết luận, vấn đề thời gian là quan trọng với chiến lược đấu tranh chính trị. Trong một bức thư gửi nhân dân Việt Nam vào tháng Bẩy, Hồ Chí Minh nói, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tiếp tục cố gắng theo đuổi thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình theo cơ chế Hiệp định Geneva.[683]
Là uỷ viên Bộ Chính trị, Lê Duẩn chắc chắn tham dự Hội nghị tháng 6-1956. Nếu vậy, ông phải truyền đạt lại chỉ thị quan điểm của Hà Nội cho các đồng chí của ông ở miền Nam. Mùa hè năm đó, ông viết một cuốn sách mỏng “Con đường cách mạng miền Nam” trình bầy những quan điểm của ông về chủ đề này. Vể mặt ngoài, những đề xuất của ông trùng với quan điểm của những người ủng hộ chính sách hoà bình trong nội bộ Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị. Lê Duẩn tuyên bố, tại giai đoạn hiện tại, cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam. Chính sách hiện nay đấu tranh chính trị một cách hoà bình ở miền Nam phù hợp với thực tế hiện tại, do bộ máy Đảng ở miền Nam còn yếu và cũng phù hợp với những quyết định đưa ra tại Đại hội XX ở Moscow và tình hình thế giới.
Tuy nhiên, việc Lê Duẩn nhấn mạnh tầm quan trọng chủ trương chính trị có chút giả dối, vì trọng tâm tranh cãi của ông lại nhằm vào chủ trương cần phải tăng cường mạnh mẽ cách mạng ở miền Nam. Dù không chính thức đi trệch chính sách hiện thời, ông vạch ra có sự khác biệt đáng kể giữa chính sách cải lương dựa trên “đấu tranh công khai và nghị trường” và với đấu tranh chính trị do phong trào cách mạng “xây dựng lực lượng cách mạng quần chúng”. Ông lập luận, là đội tiên phong của cách mạng, Đảng phải lãnh đạo quần chúng (ở đây ông dùng bài học Cách mạng tháng Tám năm 1945) cướp chính quyền. Nếu không, cơ hội may mắn lật đổ chế độ phản động Sài Gòn có thể bị lỡ.
Theo Lê Duẩn, bài học quý giá thu được từ Cách mạng tháng Tám là cần phải sẵn sàng cho tổng khởi nghĩa bằng cách xây dựng lực lượng cách mạng có đủ sức mạnh chính trị và quân sự. Lê Duẩn kết luận, đáng tiếc nhiều cán bộ có trách nhiệm dẫn dắt phong trào “vẫn chưa hiểu rõ sức mạnh của quần chúng cách mạng”, do vậy không lãnh đạo được quần chúng.[684]
Đầu năm 1956, Trung Quốc và Liên Xô thoả thuận cần phải có một thời kỳ hoà bình, ổn định quốc tế làm nền tảng để hai nước kiến thiết đất nước. Tháng 2-1956, cả Moscow lẫn Bắc Kinh kêu gọi Hà Nội chấp nhận đề nghị họp lại hội nghị Geneva như một chiến thuật giải cứu tiến trình hòa bình có nguy cơ đổ vỡ ở Đông Dương. Nhưng đề xuất của hai nước này chết yểu, do Anh, đồng chủ tịch với Liên Xô, không đồng ý họp lại hội nghị bởi Sài Gòn tuyên bố họ không phải là người tham gia ký hiệp định và không có trách nhiệm thi hành những điều khoản này. Liên Xô vì đã giao cho Trung Quốc trách nhiệm giải quyết mớ bòng bong ở Đông Dương nên chẳng có hành động nào cả. Còn Bắc Kinh đang bận tâm với những vấn đề nội bộ, nên cũng tảng lờ.
Tuy vậy, mùa Thu năm 1956 mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô bắt đầu lan sang những vấn đề khác. Giới lãnh đạo Trung Quốc bực tức việc Liên Xô can thiệp mạnh mẽ vào Đông Âu để ngăn cản bất ổn xã hội ở Ba Lan và Hungary. Điều này trái với quan điểm Trung Quốc, mâu thuẫn giữa các dân tộc nên được giải quyết bằng thương lượng dựa trên nguyên tắc bình đẳng và không can thiệp. Theo quan điểm Bắc Kinh, những cuộc bạo động chống lại chính quyền cộng sản ở Đông Âu là hậu quả trực tiếp bài phát biểu của Khrushchev hạ bệ Stalin, phá hoại uy tín đảng cộng sản, đội tiên phong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Để thể hiện phần nào ủng hộ quan điểm Trung Quốc về vấn đề cùng chung sống hoà bình, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mời Chu Ân Lai tới Hà Nội. Chu Ân Lai, có mối quan hệ từ lâu với Hồ Chí Minh, đến Hà Nội ngày 18 tháng 11 trong chuyến dừng chân đầu tiên đi thăm các nước Châu Á, Chu Ân Lai nêu vấn đề thống nhất Việt Nam. Chu Ân Lai đồng ý cần phải phối hợp hành động thực hiện những điều khoản hội nghị Geneva, nhưng ông né tránh nói cụ thể những gì sẽ được thực hiện. Khi lãnh đạo Việt Nam ép ông phải đòi hội nghị Geneva họp lại, Chu Ân Lai mập mờ nói, “sẽ nghiên cứu”.
Cuối cùng Việt Nam thấy rõ chuyến thăm của Chu Ân Lai chủ yếu do Bắc Kinh muốn tranh thủ sự ủng hộ của Việt Nam đối với Trung Quốc trong mâu thuẫn phát sinh với Liên Xô. Những người lãnh đạo Trung Quốc nói riêng bực bội việc Liên Xô đem quân lật đổ chính quyền ôn hoà Imre Nagy ở Hungary. Trong những phát biểu công khai tại Hà Nội, Chu Ân Lai bóng gió nói tới mối nguy hiểm của “chủ nghĩa sô-vanh nước lớn” ám chỉ những hành động của Liên Xô ở châu Âu và tầm quan trọng những mối quan hệ tương hỗ dựa trên năm nguyên tắc cùng chung sống hoà bình do Trung Quốc và Ấn Độ đề xuất hai năm trước đây.
Sự bực dọc của Bắc Kinh đối với xu hướng Moscow sai khiến các nước thành viên phe xã hội chủ nghĩa chắc chắn được nhiều nhà lãnh đạo Đảng ở Hà Nội đồng tình. Một số cảm thấy sỉ nhục vì chính sách cùng chung sống hoà bình của Khrushchev, coi đó là sự đầu hàng trước kẻ thù giai cấp, nên mới có mối quan hệ chặt chẽ hơn với Trung Quốc. Nhưng Hồ Chí Minh cho rằng cần duy trì những mối quan hệ thân mật với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, trong thông cáo chung về chuyến thăm chính thức của Chu Ân Lai không gián tiếp hoặc trực tiếp đả kích Liên Xô.[685]
Sau khi Chu Ân Lai ra về, Hội nghị toàn thể lần thứ XI Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 12-1956. Lê Duẩn tham dự hội nghị, chắc chắn ông bảo vệ quan điểm của mình trong cuốn sách “Con đường cách mạng miền Nam” trước các đại biểu dự họp. Những năm gần đây cuốn sách của Lê Duẩn xuất hiện ở Hà Nội được coi có “tầm quan trọng đặc biệt” trong lịch sử phong trào cách mạng Việt Nam, có thể đề xuất của Lê Duẩn làm cho cuộc thảo luận sôi nổi hơn, nhưng dường như không có tác động đến sự chuyển hướng tức khắc đường lối chung của Đảng. Bài xã luận đăng trên tạp chí Học Tập, tạp chí lý luận của Đảng, ít ngày sau khi kết thúc hội nghị toàn thể, nói rằng củng cố miền Bắc vẫn còn là nhiệm vụ trọng tâm: “Chúng ta không cho phép chiến thắng miền Nam phá hỏng yêu cầu củng cố miền Bắc”.
Không rõ vai trò của Hồ Chí Minh trong những cuộc tranh luận ra sao. Phát biểu trước Quốc Hội đầu năm 1957, ông nhấn mạnh quan điểm của ông trong thời gian này, xây dựng trong nước phải được ưu tiên, yêu cầu thống nhất Việt Nam đặt sau nhiệm vụ củng cố miền Bắc làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mặc dù “lâu dài và gian khổ” nhưng nhất định thắng lợi.
Hội nghị cũng cố gắng đáp ứng đề nghị của Lê Duẩn áp dụng chính sách bí mật xây dựng tổ chức cách mạng ở miền Nam và chính sách “trừ gian”, trừng trị có chọn lọc bọn phản cách mạng. Dù Hồ Chí Minh luôn chống lại sử dụng bừa bãi khủng bố làm công cụ cho hành động cách mạng, từng làm trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Bây giờ Ban Chấp hành Trung ương tán thành chính sách cụ thể hơn chương trình khủng bố có giới hạn để bảo vệ bộ máy cách mạng ở miền Nam bằng cách gây khiếp sợ vào hàng ngũ kẻ thù, tạo sự tin tưởng của quần chúng vào cách mạng.[686]
Hội nghị toàn thể lần thứ XI vào tháng 12-1956 là bước đi đầu tiên chấp thuận chủ trương quyết tâm thống nhất hai miền. Cũng tháng đó, Ban Chấp hành Đảng bộ miền Nam họp xem xét chỉ thị tháng 6-1956 của Bộ Chính trị kêu gọi chuẩn bị củng cố khả năng tự vệ của phong trào để hỗ trợ đấu tranh chính trị chống lại chế độ Sài Gòn. Lời văn của tài liệu của Ban Chấp hành, “qua chỉ dẫn Trung ương” bây giờ cho thấy chắc chắn chiến tranh cách mạng “là con đường duy nhất đúng đắn” dẫn đến thống nhất đất nước. Vài tháng sau, những hoạt động khủng bố trực tiếp chống lại những quan chức chính phủ và những nhân vật then chốt ở miền Nam tăng lên rõ rệt. Những nguồn tin chính thức ở Hà Nội tuyên bố mục tiêu của họ nhằm vào những quan chức tham nhũng, địa chủ độc ác và bọn phản bội. Trên thực tế, nhiều nạn nhân là những quan chức và giáo viên nổi tiếng, hiền lành và những người được coi là nguy hại tới phong trào cách mạng vì họ làm nâng cao tính hợp pháp của chính phủ Sài Gòn trong con mắt dân chúng địa phương.
Có lẽ dấu hiệu rõ ràng nhất cho kỷ nguyên mới đang hé lộ vào đầu năm 1957, khi Lê Duẩn bất ngờ được chọn làm Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam. Sau khi Trường Chinh bị cách chức tại Hội nghị X mùa Thu năm trước, Hồ Chí Minh đã giữ chức vụ này một cách miễn cưỡng. Hồ đã giữ hai chức vụ, Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ khi trở về Hà Nội tháng 10-1954. Ông tích cực quan tâm vấn đề chính sách đối ngoại và thống nhất đất nước, nhưng ít quan tâm đến điều hành công việc trong nước và Đảng, chỉ đưa ra những lời khuyên với các đồng sự tại những phiên họp Bộ Chính Trị, đồng thời trao quyền xử lý cho những đồng sự trẻ hơn là Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Trường Chinh.
Lý do chọn Lê Duẩn làm Tổng bí thư đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi. Một số tin Lê Duẩn là người có tài tổ chức, tận tụy, có tầm nhìn chiến lược, nhờ nó mà có khi Duẩn được gọi là “Cụ Hồ miền Nam”. Một số khác coi đó là biểu hiện của việc thừa nhận tầm quan trọng của cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Là người miền Nam, Duẩn đại diện cho tất cả nhân dân sống phía Nam khu phi quân sự. Hoặc có lẽ còn có lý do Lê Duẩn là người ngoài cuộc, không đe doạ tới quyền lực của Hồ Chí Minh và Trường Chinh, đang hy vọng giữ lại những ảnh hưởng của mình ở Bộ Chính trị trong kỷ nguyên Lê Duẩn. Một số cho Lê Duẩn hơn Võ Nguyên Giáp vì ông từng ở tù vài năm, vốn được coi là “trường học lớn” của Đảng, vì nhiều người đã phải trả nợ máu trong nhà tù Pháp. Giáp không những không bị tù mà lại còn bị mang tiếng đã nộp đơn xin đi học ở Pháp.[687]
Vì sao Lê Duẩn được thăng chức vẫn còn nhiều uẩn khúc. Dù thế nào đi nữa, sự bổ nhiệm này phải có sự đồng ý của Hồ Chí Minh, bảo đảm người kế nghiệp của ông sẽ có ưu thế cao cho vấn đề thống nhất. Lê Duẩn giữ vị trí đứng đầu Ban Chấp hành, Hồ bây giờ có thời gian tập trung vào vấn đề ngoại giao và quan hệ với phe xã hội chủ nghĩa, cũng như viết báo về những chủ đề khác nhau. Sau khi hai năm giấu danh tính thực của mình, ở tuổi sáu mươi bẩy, cuối cùng Hồ thừa nhận, ông thực là nhà cách mạng nổi tiếng Nguyễn Ái Quốc và tiểu sử chính thức bất ngờ xuất hiện trên những ấn phẩm ca ngợi sự cống hiến suốt đời của ông cho tổ quốc. Trong khi sự phát giác này hoàn toàn làm ngạc nhiên nhiều người Việt Nam thì những người gần gũi ông đã nhận ra danh tính thực của ông. Tháng 6-1957, ông về thăm làng Kim Liên, nơi chôn rau cắt rốn, nơi ông ra đi nửa thế kỷ trước đây.[688]
Trong khi giới lãnh đạo Bắc Việt Nam đang vật lộn tránh việc chia cắt Việt Nam vĩnh viễn thì giới lãnh đạo Liên Xô xem đó là việc đã rồi. Đầu năm 1957 Liên Xô bất ngờ đề xuất kết nạp hai miền Việt Nam vào ở Liên Hợp Quốc coi như là hai quốc gia riêng biệt. Hà Nội, có lẽ không được báo trước, nên khi nghe tin đã bị choáng và ngay lập tức chính thức lên tiếng phản đối. Ngay sau đó, Đại hội Đồng Liên Hợp Quốc, bằng đa số phiếu, kết nạp Việt Nam Cộng Hoà vào Liên hợp quốc. Phạm Văn Đồng viết thư phản đối tới Liên Xô và Anh, hai đồng chủ tịch hội nghị Geneva và vấn đề được đem ra bàn tại Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Trong lúc vấn đề vẫn còn chưa ngã ngũ, giữa tháng Năm, Kliment Voroshilov, chủ tịch Chủ Tịch Đoàn Xô viết Tối Cao Liên Xô và là một người bạn lâu năm của Stalin, đến thăm chính thức Hà Nội.
Có một số bàn tán về mục đích chuyến đi, vì chuyến đi này được đưa ra ở phút cuối cùng sau khi Kliment Voroshilov dừng chân tương đối nhàn nhã ở Trung Hoa và Indonesia. Việt Nam có lẽ muốn thăm dò quan điểm Liên Xô về việc thống nhất đất nước, trong khi mục tiêu của Liên Xô lại là thuyết phục Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tránh những hành động thù địch có thể dẫn đến chiến tranh ở Đông Dương. Đôi khi, Voroshilov công khai kêu gọi Việt Nam duy trì chính sách thúc đẩy “thống nhất trong hoà bình” giữa hai miền.
Lời kêu gọi về chủ trương ôn hoà vấn đề thống nhất đất nước không được đón nhận nồng nhiệt ở Việt Nam. Để xoa dịu sự bực tức của Hà Nội, Voroshilov tuyên bố tăng viện trợ kinh tế cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bảo đảm với lãnh đạo Việt Nam, Liên Xô sẽ không chấp thuận Việt Nam Cộng Hoà được kết nạp vào Liên Hợp Quốc. (Tháng Chín, Liên Xô dùng quyền phủ quyết tại Hội Đồng Bảo An phủ quyết đề xuất kết nạp cả hai miền Việt Nam vào Liên Hợp Quốc, vấn đề này bị hoãn lại vô thời hạn. Báo chí chính thức ở Hà Nội tuyên bố vắn tắt, Liên Xô đã có “thái độ đúng đắn”).[689]
Chuyến thăm Hà Nội của Voroshilov mang lại sự căng thẳng do Liên Xô vụng về đề xuất chấp nhận cả hai miền Việt Nam vào Liên Hợp Quốc, nhưng sự rạn nứt lớn giữa hai nước về vấn đề thống nhất Việt Nam vẫn còn tiếp diễn. Theo một quan sát viên nước ngoài sống ở Hà Nội, tâm lý chống Liên Xô đang lan rộng trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng, một số vấn đề nghị sự trong chuyến thăm của Voroshilov bị huỷ bỏ hoặc đón tiếp với lễ nghi tối thiểu để tránh tình huống bất đồng lộ ra trước mắt công chúng.[690]
Đối với Hà Nội, bất cứ sự bất hoà nào trong mối quan hệ với Moscow có thể thành thảm họa, do Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dựa vào Liên Xô không những về viện trợ tài chính để xây dựng kinh tế trong nước và hiện đại hoá quân đội mà còn dựa cả vào ủng hộ ngoại giao. Tháng 7-1957, Hồ Chí Minh lên đường tới Moscow thảo luận với giới lãnh đạo Xô viết về nhiều vấn đề then chốt. Trên đường, ông dừng tại Bắc Kinh, Mao Trạch Đông khẳng định quan điểm Trung Quốc, việc thống nhất hai miền Việt Nam có thể hoãn đến một thời gian thích hợp. Chuyến đi kéo dài gần hai tháng, dừng chân ở vài nước Đông Âu và Bắc Triều Tiên. Hồ trở về Hà Nội tháng Chín, tuyên bố với nhân dân Việt Nam, ông đã đạt được “thống nhất quan điểm” với các nước phe xã hội chủ nghĩa.[691]
Tình hình có vẻ khó khăn. Vài tuần sau, Hồ dẫn đầu đoàn đại biểu gồm Lê Duẩn và Phạm Hùng tham dự Hội nghị những Đảng cộng sản Quốc tế anh em ở Moscow tháng 11. Thành phần của đoàn quan trọng, vì có cả Lê Duẩn và Phạm Hùng hai người sinh ra và lớn lên ở miền Nam, Hùng từng là phó của Lê Duẩn tại bộ máy Đảng ở miền Nam hội nghị Geneva. Rõ ràng, vấn đề thống nhất đất nước sẽ là mối quan tâm lớn của Việt Nam tại Moscow.
Mục tiêu chủ yếu của Hội nghị những Đảng cộng sản quốc tế anh em ở Moscow tháng 11, đạt được một thoả thuận của các nước xã hội chủ nghĩa về vấn đề chuyển tiếp hoà bình lên chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc chống lại quan điểm Liên Xô, vì Trung Quốc lo giải quyết vấn đề vấn đề Đài Loan từ khi cuộc hội đàm Trung - Mỹ về Đài Loan đổ vỡ thêm nghi ngờ ban lãnh đạo mới ở Moscow sẵn sàng phản bội lợi ích cách mạng thế giới dưới chiêu bài cùng chung sống hoà bình. Theo Mao, những thành tựu ở Liên Xô chứng tỏ ưu thế kỹ thuật của phe xã hội chủ nghĩa đối với phe tư bản. Mao nói “Gió đông thổi bạt gió tây”, Moscow nên dùng ưu thế của mình đóng vai trò tích cực hơn lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Một cuộc tranh cãi lớn về vấn đề này đã đi đến thoả hiệp. Theo nguồn tin Trung Quốc, thoạt đầu, dự thảo của Liên Xô không nói gì về chuyển tiếp không hoà bình sang chủ nghĩa xã hội, nhưng sau khi thảo luận với các đại biểu thì được sửa đổi. Thông cáo cuối cùng vạch rõ “trong trường hợp giai cấp bóc lột sử dụng bạo lực chống lại nhân dân, cần phải xem xét khả năng khác - chuyển tiếp không hòa bình lên chủ nghĩa xã hội. Lenin đã dạy và lịch sử đã chứng minh, tầng lớp thống trị không bao giờ tự nguyện từ bỏ quyền lực”.[692]
Không rõ vai trò của Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam trong việc thảo ra bản Tuyên ngôn của Hội nghị như thế nào. Các báo cáo của Đức và Ý cho biết Tuyên Ngôn được thảo ra do thảo luận giữa Liên Xô và Trung Quốc, với chút ít tham gia của các đại diện đảng khác. Nhưng ngôn từ trong Tuyên Ngôn khá gần với văn phong mà Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội nghị IX vào tháng 4-1956, điều này cho thấy có lẽ ông có vai trò chính đem lại thoả hiệp của hội nghị. Dù thế nào đi nữa, nguồn tin Việt Nam cho biết, đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn thể hiện rõ quan điểm của mình, mặc dù chuyển tiếp hoà bình lên chủ nghĩa xã hội đôi khi xảy ra, nhưng chính sách “bạo lực cách mạng” vẫn là quy luật chung.[693]
Sau hội nghị, Lê Duẩn trở lại Hà Nội, nhưng Hồ Chí Minh vẫn còn ở lại Moscow hội đàm thêm với các nhà lãnh đạo Xô viết. Không rõ ông thảo luận chủ đề gì, nhưng dường như họ bàn về sự rạn nứt đang bắt đầu giữa Liên Xô và Trung Quốc về vấn đề cùng chung sống hoà bình và sự lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa. Sự chia rẽ Trung - Xô có thể ảnh hưởng tiêu cực đến Việt Nam, vì Mỹ có thể kích động hai nước cộng sản lớn chống lẫn nhau. Để ngăn cản sự chia rẽ, trong chuyến qua Đông Âu vào tháng 9-1957, Hồ bày tỏ quan điểm, sự thống nhất quan điểm trong những nước cộng sản là vì lợi ích tốt nhất của phe cách mạng. Trong một bài báo đăng trên tờ Sự Thật (Pravda của Liên Xô) tháng 11-1957, ông kêu gọi các nước xã hội chủ nghĩa cần thống nhất dưới sự lãnh đạo của Liên Xô, quan điểm ông phát biểu nhiều lần trước Xô viết Tối Cao Liên Xô ở Moscow. Nhưng bài báo của ông nhấn mạnh tầm quan trọng chiến thuật cách mạng thích đáng trước những hoàn cảnh cụ thể của từng nước.[694]
Ngay khi Lê Duẩn và phái đoàn về Hà Nội cuối tháng 11-1957, họ đã hội ý với Bộ Chính trị. Ngày 1-12-1957, Việt Nam Thông Tấn Xã tuyên bố, các nhà lãnh đạo Đảng hài lòng về kết quả thu được ở Moscow và bày tỏ sự tin tưởng vào sự duy trì đoàn kết của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Người ta hoài nghi về cái gọi là sự đoàn kết phe xã hội chủ nghĩa liệu có thực tồn tại hay không, khi mà những bất đồng đang tăng lên xuất hiện trong hàng ngũ những người lãnh đạo của Đảng trước những vấn đề trong sự nghiệp thống nhất đất nước. Trong ba năm, những người lãnh đạo đảng đã duy trì sự đồng thuận mỏng manh tạm hoãn những bước tiến ban đầu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa để củng cố quyền lực và đợi tình hình thống nhất đất nước trở nên rõ ràng hơn. Bây giờ, những kế hoạch thống nhất bị hoãn vô thời hạn, một số lãnh đạo cao cấp của đảng - do Trường Chinh cầm đầu, người đang cố gắng duy trì ảnh hưởng của mình trong Bộ chính trị dù đã bị cách chức - bắt đầu đòi tiến hành ngay việc chuyển hoá lên xã hội chủ nghĩa ở cả thành thị và nông thôn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước cuối thập niên 1960.
Vấn đề này được tranh luận sôi nổi tại Hội nghị Toàn Thể mở rộng lần thứ XIII Ban Chấp Hành Trung ương đầu tháng 12-1957. Bề ngoài, lý do Hội nghị để nghe báo cáo kết quả Hội nghị các đảng cộng sản anh em ở Moscow, nhưng chủ đề chính mang ra thảo luận bản dự thảo của Bộ Chính Trị về kế hoạch ba năm bắt đầu chuyển lên xã hội xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Báo chí cho thấy việc chấp thuận kế hoạch này không phải “hoàn toàn nhất trí”. Sau khi kết thúc Hội nghị, những người lãnh đạo đảng phát động chiến dịch giải thích nghị quyết và chấm dứt “tư tưởng băn khoăn về mối quan hệ gần gũi giữa nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và công cuộc giải phóng dân tộc ở miền Nam”.[695]
Những tranh cãi tại Hội nghị toàn thể lần thứ XIII chắc chắn phức tạp do sự xuất hiện của Lê Duẩn với tư cách Tổng bí thư. Việc đưa lên một người tương đối trẻ trong hàng ngũ lãnh đạo có thể không khiến một số người lãnh đạo đảng cao cấp bực tức. Dưới mắt Trường Chinh, Lê Duẩn là kẻ hãnh tiến chiếm vị trí đầy quyền lực của ông - đứng sau Hồ Chí Minh và là người thông thái về tư tưởng của Đảng. Ngoài ra, sự quan tâm rõ ràng của Lê Duẩn trong cuộc đấu tranh ở miền Nam đe doạ làm chệch hướng những kế hoạch của Trường Chinh bắt đầu xây dựng thể chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trường Chinh cố gắng lôi kéo những người ủng hộ ông trong Bộ Chính Trị và Ban Chấp hành Trung ương chấp thuận kế hoạch ba năm như một cách dằn mặt Lê Duẩn. Đối với Võ Nguyên Giáp, người vừa trải qua những cuộc tranh luận mới đây về sự lãnh đạo của Đảng, những đề xuất táo bạo của Lê Duẩn tiến hành đấu tranh ở miền Nam đã cắt bớt quyền hành của Giáp với tư cách là nhà chiến lược quân sự hàng đầu trong phong trào cách mạng Việt Nam. Ngoài ra, việc Lê Duẩn khát khao tăng cường hoạt động cách mạng ở miền Nam có nguy cơ lôi Quân đội Nhân Nhân Việt Nam vào một cuộc xung đột (theo quan điểm của Giáp) vẫn chưa được chuẩn bị. Bài bình luận trên báo Nhân Dân đầu tháng 11 viết, ”một số đồng chí” phải nhận thấy sự kiểm soát của Đảng với quân đội là hoàn toàn có lợi. Có thể đây là lời nhắn nhủ của Lê Duẩn đối với Giáp.[696]
Hồ Chí Minh không có vai trò trong cuộc tranh cãi này, thực ra ông cũng chẳng có mặt tại cuộc họp. Sau chuyến đi tới Moscow họp Hội nghị Đảng cộng sản toàn thế giới, ông tiếp tục tới Bắc Kinh, để “nghỉ ngơi”. Sự vắng mặt lâu và khó hiểu của ông khiến Hà Nội đồn rầm ông đã bị cách ly trung tâm những sự kiện mới đây hoặc thậm chí đã chết ở Liên Xô. Một số cho ông có chủ định ở xa để buộc các đồng chí chấp nhận lời khuyên của ông. Vẫn chưa có những giải thích nào hợp lý tại sao ông vắng mặt trong thời điểm nhạy cảm này. Có tin ông tới Trung Hoa chữa bệnh, thực tế, chuyến đi lang thang khiến ông không dự hội nghị toàn thể lần thứ XIII - một hội nghị có tác động lớn đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Dù ông vắng mặt với bất cứ lý do gì đi nữa, nhưng khi trở về Hà Nội ngày 24-12-1957, Hồ Chí Minh chấp thuận quyết định ưu tiên xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Một tuần sau khi về nước, nhân dịp chúc mừng năm mới ông tuyên bố, thời kỳ khôi phục kinh tế ở miền Bắc đã chấm dứt, mở đường tới kỷ nguyên mới bằng phát triển kinh tế theo kế hoạch. Ông nói đây là “một tiến bộ mới trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân chúng ta”. Năm ngày sau, báo Nhân Dân tuyên bố, bây giờ có hai cuộc cách mạng - cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hội nghị các cán bộ chủ chốt đã họp để vạch ra quá trình chuyển tới giai đoạn xã hội chủ nghĩa của cách mạng. Nhưng vẫn còn rơi rớt những nghi ngờ. Tháng 3-1958, Trường Chinh phàn nàn, “một số người” vẫn không hiểu tầm quan trọng của thành tựu chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là sự chuẩn bị cho giải phóng miền Nam. Phát biểu với đại diện Mặt trận Tổ quốc, Chinh kêu gọi cách mạng văn hoá để đào tạo trí thức mới phục vụ xã hội trong kỷ nguyên mới. Giải thích lý do qua quyết định phát động chương trình, Thủ tướng Phạm Văn Đồng - có lẽ là một trong số đồng minh của Trường Chinh lúc này - tuyên bố “miền Bắc mạnh hơn” giúp dân tộc Việt Nam mạnh hơn trong cuộc đấu tranh vì thống nhất đất nước, đồng thời “con đường làm cho miền Bắc mạnh hơn chính là con đường xã hội chủ nghĩa”.[697]
Lúc này, vai trò thống lĩnh của Hồ Chí Minh trong Đảng đã yếu đi. Quá trình này có thể bắt đầu khi ảnh hưởng của Trung Quốc tăng lên đối với phong trào đầu thập niên 1950 và tăng nhanh sau Hội nghị Geneva, khi các đồng chí của ông sôi sục do thống nhất trong hoà bình thất bại. Sự xuất hiện của Lê Duẩn là hình ảnh quan trọng nhất trên sân khấu chính trị, điều này làm giảm sút quyền lực của những người khác.
Dù bị Trường Chinh qua mặt trong cuộc tranh cãi chính sách tại hội nghị toàn thể lần thứ XII, Lê Duẩn không phí thì giờ để củng cố quyền lực của mình trong bộ máy Đảng. Vài tháng sau, những người ủng hộ Trường Chinh và Hồ Chí Minh bị loại bỏ ra khỏi vị trí quyền lực, thay thế bằng những người mới. Công cụ của Lê Duẩn để thanh lọc những người chống đối là Lê Đức Thọ, đồng sự cũ của ông.
Sinh ở Nam Định năm 1911 trong một gia đình Nho giáo, Lê Đức Thọ (tên thật Phan Đình Khải) đã tham gia phong trào cách mạng cuối thập niên 1920, nhưng chẳng bao lâu bị bắt, cầm tù gần hai thập niên. Ra tù năm 1945, ông được cử đến Nam Kỳ, phó của Lê Duẩn dưới bí danh “Sáu” trong kháng chiến chống Pháp. Tầm nhìn hạn hẹp, thái độ xảo quyệt, hình ảnh khắc khổ trong con mắt người ngoài, Thọ nhanh chóng được tặng biệt danh là “Sáu Búa” vì cách xử rắn với các đồng chí. Dù Thọ ghen tị với Lê Duẩn có vị trí cao hơn trong Đảng, nhưng hai người cộng tác hiệu quả, khi Lê Duẩn lên chức, Thọ theo Lê Duẩn ra Hà Nội, làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, một vị trí chẳng bao lâu ông biến thành một bộ máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát những hoạt động của các đảng viên cao cấp.
Lê Đức Thọ có một đối thủ có khả năng làm người khác khiếp sợ, ghê tởm ở Hà Nội, đó chính là Trần Quốc Hoàn, một quỷ sứ của Đảng. Sinh 1910 ở tỉnh Quảng Ngãi[698], Hoàn tiến thân trong chiến tranh Pháp - Việt, làm Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ năm 1953. Vừa thiếu văn hóa vừa thiếu trí tuệ, nhưng lúc nào cũng làm ra vẻ bí mật, xun xoe với cấp trên, Hoàn nổi lên như “Beria của Việt Nam” xử sự hung ác khi săn đuổi những phần tử phản động trong hàng ngũ. Lê Đức Thọ sớm nhận ra Hoàn là một đồng minh và một công cụ quyền lực.
Trần Quốc Hoàn 1910-1986
Việc Trần Quốc Hoàn trở thành một nhân vật quan trọng là một trong những sự kiện kỳ lạ nhất trong lịch sử Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1955, một phụ nữ trẻ sát biên giới tỉnh Cao Bằng đến Hà Nội. Xinh đẹp, cô Xuân chẳng mấy chốc lọt vào mắt vị chủ tịch già, ông thu xếp để cô làm y tá riêng. Cuối cùng sinh cho ông một con trai, được Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông nhận làm con nuôi. Một ngày năm 1957, xác cô Xuân được phát hiện bên lề con đường ở ngoại thành, trông như nạn nhân của một vụ tai nạn giao thông. Hai cô gái ở cùng phòng với Xuân ngay sau đó cũng chết một cách bí ẩn.
Thoạt đầu, tai nạn cũng chẳng ai biết đến, nhưng vài năm sau, chồng chưa cưới của một cô gái đã tố cáo với Quốc Hội, Xuân bị Hoàn hiếp và thủ tiêu để bịt đầu mối. Người chồng chưa cưới còn tố cáo, hai cô bạn cũng bị cùng chung một số phận để bịt đầu mối và để ngăn cản họ vạch trần những gì đã xảy ra. Mặc dù vụ việc bị “chìm xuồng”, Hoàn không bị hình phạt nào, nhưng tất cả đảng viên cao cấp của Hà nội đều biết chuyện này. Không rõ liệu Hồ Chí Minh có biết được những chi tiết bi thảm của câu chuyện hay không, nhưng ông chưa bao giờ đề cập đến.[699]
Nông Thị Xuân
12-1957, Hội nghị toàn thể lần thứ XIII thông qua kế hoạch xây dựng cơ bản tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đó kế hoạch bắt đầu tiến hành. Trong khi hầu hết ruộng đất nằm trong tay cá thể (tuy có một số ít đã thành hợp tác xã từ đầu thập niên 1950), hơn 40 phần trăm xí nghiệp, nhà máy, cơ sở bán buôn bán lẻ và khoảng gần một nửa phương tiện giao thong vận tải thuộc nhà nước quản lý. Tổ đổi công ra đời - hình thức cơ bản đầu tiên của chủ nghĩa xã hội hợp sức lao động trong mùa sản xuất đã tiếp thu kinh nghiệp từ Trung Quốc đầu thập niên 1950.[700]
Cuộc cách mạng Đại Nhẩy Vọt nông nghiệp ở Trung Quốc bắt đầu, với đường lối mới của Trung Quốc đã giúp cán bộ Việt Nam có cơ hội xem xét kết quả của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trung Quốc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1955, sau ba năm sản lượng thu hoạch lại giảm đáng kể, đến năm 1958 đột nhiên chính phủ ra sắc lệnh xây dựng hàng loạt “công xã nhân dân” trên toàn quốc. Mỗi công xã có hơn ba mươi ngàn nông dân, bao gồm các loại hình kinh tế, các tổ chức chính quyền cơ sở, các tư hữu cá thể, thành một tổ chức cao nhất theo nguyên tắc của chủ nghĩa Marxist - Leninnist - mà ngay Liên bang Xô viết cũng chưa dám thực hiện.
Ngay từ buổi đầu, kể cả những bài bình luận trên báo chí, Việt nam tuyên bố sẽ thực hiện theo kế hoạch riêng trên cơ sở hình thái của Trung Quốc. Trong một chuyến thăm ngắn ngày Bắc Kinh tháng 12-1957, Hồ Chí Minh ca ngợi phong trào Đại Nhẩy Vọt bằng một số bài viết ký tên T.L (Trần Lực) về chiến lược tự lực cánh sinh của Trung Quốc và chính sách riêng (chỉ công xã), ca ngợi cán bộ nội thành xuống trực tiếp lao động chân tay với quần chúng nhân dân. Nhưng cũng như Hồ Chí Minh sử dụng sự ca ngợi như cách làm cũ để hài lòng người mà ông cần sự ủng hộ của họ. Tháng 3-1958, ông đề nghị Bộ Chính trị cần cảnh giác tránh vội vàng, hấp tấp trong việc tiến hành hợp tác xã vùng nông thôn. Một bài xã luận đăng trên báo Nhân Dân vào tháng 7-1958, ông cảnh báo những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em cần phải nghiên cứu một các cẩn thận không nên “nhắm mắt” làm theo, cần phải biết tránh các sai sót. Mặt khác, ông lại tán thành chủ trương phong trào “công xã” của Trung Quốc, yêu cầu các lãnh đạo cao cấp của đảng xuống tham gia lao động với quần chúng tuần một buổi để nâng cao ý thức lao động cho bản thân.[701]
Trong mối nghi ngờ sự thích hợp phong trào Đại Nhẩy Vọt trong tình hình hiện tại ở Bắc Việt, Hồ Chí Minh có người cùng quan điểm với ông. Đó là Lê Duẩn, cũng có quan điểm nghi ngờ bất cứ chương trình quá tả nào để thay đổi xã hội miền Bắc là lực cản trở mục tiêu của ông ở miền Nam, ông cảnh báo và chống lại những người muốn liều lĩnh tiến hành. Phải áp dụng từ từ không nên vội vã thay đổi, ông dẫn chứng sự cảnh cáo của Mao đối với đồng sự Lưu Thiếu Kỳ. Trong quá khứ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nhấn mạnh mục đích kế hoạch ba năm tăng sản lượng nông nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân (loại bỏ mối quan hệ làm ăn cũ, theo quan điểm Maoist đó chính là nguyên lý cơ bản nâng cao tầm tư tưởng cho nông dân), trong khi đó Trường Chinh tuyên bố chương trình cần thực hiện “từng bước một”. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã học được một bài học cay đắng trong quá khứ theo mô hình Trung Hoa, không thể nhập cảng mọi thứ hổ lốn vào Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được.[702]
Tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ XIV, đưa ra kế hoạch cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách thay thế chế độ tư hữu sang chế độ tập thể hoá, quốc hữu hoá trong nông thôn cũng như thành thị. Kế họach Ba năm Phát triển kinh tế và xã hội (1958-1960) được Quốc hội thông qua vào tháng sau. Kế hoạch kêu gọi phát triển công - nông nghiệp nhưng nông nghiệp vẫn lấy làm chủ đạo.
Nhưng có một số người lại tiếp thu chiến lược yêu cầu Đảng phát triển theo mô hình Trung Hoa gần đây. Thực ra, Hồ Chí Minh đã từng bất đồng trong nhiều năm với một nước kém phát triển như Việt Nam cần phải ưu tiên phát triển ở nông thôn trước. Theo mục tiêu chính của chương trình nâng cao tiềm lực kinh tế quốc gia - tại thời điểm này vẫn ưu tiên phát triển nông nghiệp, làm nền tảng phát triển cách mạng công nghiệp trong tương lai. Một bài bình luận đăng trên báo vào tháng 12-1958, Hồ (ký tên Trần Lực) đưa ra nhận xét tóm tắt về chiến lược của Trung Hoa vẫn còn gặp nhiều “khó khăn” trong vấn đề quản lý từ trung ương đến các cơ sở địa phương, nhưng lại đồng tình quan điểm chung trong vấn đề hợp tác hóa, cho rằng cần phải thực hiện với sự cẩn trọng theo nguyên tắc “tự nguyện”. Phải chăng cuối cùng Hồ Chí Minh, cũng đã rút ra được bài học cay đắng về sự thất bại của chương trình cải cách ruộng đất.[703]
Hầu như năm 1958, vấn đề thống nhất hai miền không được các nhà lãnh đạo Hà Nội quan tâm nhiều. Vấn đề chủ yếu được đề cập hàng ngày ở miền Bắc làm sao có thể làm vừa lòng hai nước đàn anh Moscow và Bắc Kinh. Quan điểm của Khrucshchev họ đã rõ. Trong những cuộc trao đổi kín với lãnh đạo Bắc Việt, Mao Trạch Đông cũng đưa ra gợi ý tương tự. Vấn đề chia cắt hai miền không thể giải quyết một sớm một chiều, cần phải trải qua cuộc đấu tranh lâu dài. Mao cảnh báo: “Nếu mười năm không xong, có thể ta kéo dài trăm năm cũng được, không vội gì”.[704] Hầu hết các nhà lãnh đạo cao cấp Hà Nội không tán thành quan điểm đó và họ có kế hoạch riêng.
Trong thời gian ấy, các nhà lãnh đạo đảng tập trung vấn đề tái kiến thiết, còn vấn đề thống nhất hai miền vẫn tìm kiếm giải pháp hoà bình thông qua quy định của Hiệp định Geneva. Tháng 2-1958, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu Bắc Việt viếng thăm Ấn Độ và Miến Điện, đây là hai nước trung lập nhưng lại có cảm tình và ủng hộ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cuộc viếng thăm New Delhi theo kế hoạch cân bằng hai phe vì chính phủ Ấn Độ gần đây cho phép mở rộng ngoại giao, họ đã công nhận Việt Nam Cộng Hoà. Cuộc hội đàm với thủ tướng Nehru, Hồ đã thu được sự đoàn kết giúp đỡ và sự ủng hộ trong vấn đề thống nhất Việt Nam, nhưng lại từ chối công khai những vấn đề đã thỏa thuận với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trình bày với Mỹ sự thất vọng trong tổng tuyển cử mà Ấn Độ có liên quan. Hồ cũng nhận được sự ủng hộ tương tự của chính phủ Rangoon.[705]
Giờ đây, sự tham gia trực tiếp điều hành chính phủ của Hồ Chí Minh ngày một giảm nhường chỗ cho các cán bộ và cố vấn ngoại giao cũng như với tuổi cao ông trở thành người cha già dân tộc, linh hồn của cuộc cách mạng Việt Nam. Hồ đóng vai Bác Hồ kính yêu một cách hoàn hảo. Ông vẫn tiếp tục giữ chức vụ chủ tịch nước tượng trưng. Năm 1958 ông dọn về căn nhà sàn nhỏ ngay trong phủ chủ tịch, theo lệnh của Đảng căn nhà dựng lên giống căn nhà sàn Việt Bắc. Ngôi nhà này hiển nhiên gợi cho Hồ kỷ niệm những năm kháng chiến, thể hiện lối sống giản dị trong thời gian cực kỳ gian khổ đối với nhân dân. Ngôi nhà sàn dùng làm văn phòng và cũng là nơi ở cho đến khi ông qua đời.
Căn nhà sàn của Hồ Chí Minh ở từ năm 1958 – 1969
Ngay sau Đại hội toàn quốc XIV, Lê Duẩn đi khảo sát bí mật miền Nam kiểm tra tình hình cho việc chuẩn bị báo cáo đường lối chiến lược mới trước Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Duẩn trở lại Bắc Việt vào giữa tháng 1-1959, báo cáo trước Bộ Chính trị yêu cầu mở cuộc họp khẩn cấp bàn về tình hình miền Nam. Duẩn tuyên bố tình hình miền Nam đầy nguy nan. Kẻ thù quyết tâm đánh giập phong trào cách mạng, vì thế nhiều cơ sở bị dìm trong bể máu, giờ đây nhiều nơi nhân dân rất căm phẫn và đã có sự chống lại chính quyền Sài Gòn.
Bản báo cáo của Lê Duẩn rõ ràng, đầy đủ, nghiêm túc với con mắt nhà chính trị khách quan, sự mô tả của ông về tình hình Nam Việt hoàn toàn chính xác. Khi những người hoạt động cách mạng phát động chiến dịch khủng bố năm 1957, Ngô Đình Diệm đối phó bằng cách tăng cường mọi hoạt động tìm cách tiêu diệt phong trào. Để tăng cường kiểm soát vùng nông thôn, chính quyền Sài Gòn thiết lập kế hoạch mới nhằm tách nông dân ra khỏi những nhân tố cộng sản bằng cách xây dựng khu trù mật. Chiến lược “tát nước bắt cá”. Mỗi “Ấp Chiến lược” chính là một pháo đài kiên cố của từng làng xã, xung quanh có dây thép gai, tường đất và đường hào bao quanh, giúp cho người dân có thể tự kháng cự nếu bị kẻ thù tấn công. Mỗi ấp chiến lược, dân làng được tổ chức thành một đội dân vệ để tự vệ để bảo vệ dân cư trong cộng đồng chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài, trong khi các mật thám, chỉ điểm của chính phủ tìm cách phát hiện những ai đã từng ủng hộ Việt Minh từ sau Hiệp định Geneva.
Tài liệu nội bộ của Đảng sau này trùng khớp với nhận định trên. Chế độ Sài Gòn giai đoạn đầu hoàn toàn thu được thắng lợi trong việc bình định Nam Việt, đã hạn chế tối đa ảnh hưởng của các lực lượng cách mạng. Tài liệu viết:
Quân địch lúc này đã hoàn thành thiết lập được bộ máy cai trị từ trên xuống dưới, xây dựng một mạng lưới gián điệp mạnh và thành lập những đơn vị dân vệ ở từng làng. Địch kiểm soát tất cả và từng gia đình bằng hệ thống “liên gia” (tổ chức từng cụm gồm 5 gia đình, mỗi gia đình phải chịu trách nhiệm về sự trung thành của những gia đình hàng xóm). Phong trào đang xuống đến mức thấp nhất, những phản kháng nhỏ như đòi hỏi cho vay vốn để trồng trọt cũng bị gán cho là “hoạt động Việt cộng” và bị tra tấn, đe dọa. Trong khi đó, kẻ thù xây dựng một cách hệ thống “ấp chiến lược”, dồn dân sống ở các làng xã vùng sâu vùng xa tập trung vào các ấp gần những trung tâm thương mại, thuận tiện giao thông thủy bộ để dễ bề kiểm soát. Địch tiến hành xây dựng hệ thống kìm kẹp dân chúng ở nông thôn…
Thời kỳ này, dù vẫn tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng, nhưng nhân dân rất hoang mang dao động. Càng ngày càng xuất hiện nhiều nghi ngờ về phương pháp đấu tranh hòa bình và những quan điểm cũ. “Đòi dân chủ và dân quyền chỉ dẫn đến nhà tù hoặc nghĩa địa” và “Đấu tranh như thế này thì cuối cùng sẽ chết hết”. Tại nhiều nơi, nhân dân đòi hỏi Đảng phải đứng lên cầm vũ khí chiến đấu chống lại kẻ thù.[706]
Giữa thời kỳ 1957 và 1959, hơn hai ngàn người bị tình nghi cộng sản bị xử tử, thường bị chém đầu sau khi bị toà án lưu động buộc tội. Hàng ngàn người có cảm tình cách mạng bị bắt, bị bỏ tù. Quân đội Nam Việt Nam đột kích căn cứ Việt Cộng ở mũi Cà Mau và Chiến khu D, nơi có cảm tình từ lâu với cách mạng. Theo nguồn tin Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, số lượng đảng viên cộng sản ở miền Nam bị giảm từ hơn năm ngàn lúc đầu năm 1957 xuống còn dưới một phần ba cuối năm đó. Theo Trần Văn Giàu, nhà sử học uy tín Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đây là “những giờ phút đen tối nhất” đối với sự nghiệp cách mạng.[707]
Nhưng những hoạt động lật đổ của cán bộ Việt Cộng nằm lại ở miền Nam sau hội nghị Geneva không những đe doạ sự ổn định chế độ Sài Gòn mà ở nhiều mặt, Ngô Đình Diệm còn tự tạo thêm ra những kẻ thù cho chính mình. Theo đòi hỏi của của Mỹ, năm 1956, Diệm đồng ý công bố hiến pháp để tạo ra tính hợp pháp của chính phủ mới. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà kết hợp hình thức Tổng thống Nghị viện và bao gồm điều khoản tôn trọng quyền con người. Tuy nhiên, Diệm không có tư chất một chính khách dân chủ. Thô lỗ trong xử sự, rất sợ xuất hiện trước đám đông, Diệm không thể hòa đồng với các công dân của ông. Vốn rất nghi ngờ người miền Nam, Diệm lựa chọn tay chân toàn những kẻ tị nạn từ miền Bắc, theo đạo Ky tô Giáo và căm ghét cộng sản. Nhạy cảm với đả kích, ông nhanh chóng ra tay đàn áp bất cứ những ai chống sự cai trị của ông. Diệm để em trai Ngô Đình Nhu lập ra Đảng Cần Lao Nhân Vị. Các đảng phái đối lập bị coi là bất hợp pháp và những người đả kích chế độ thường bị bịt miệng hoặc hoặc bỏ tù.
Xây dựng ấp chiến lược
Có lẽ thất bại lớn nhất của Diệm là sự bất tài trong việc thu phục nông dân, tầng lớp chiếm hơn 80 phần trăm dân số Việt Nam Cộng Hoà. Do Mỹ hối thúc, chính quyền Sài Gòn đưa ra chương trình cải cách ruộng đất do sự bất công sở hữu ruộng đất (khoảng 1 phần trăm dân số sở hữu một nửa diện tích đất canh tác trong nước và nông dân nghèo phải nộp tô một phần ba vụ thu hoạch hàng năm cho địa chủ). Những địa chủ giàu có hoặc tầng lớp máu mặt sống trong những thành phố lớn, họ chống lại chương trình Cải cách ruộng đất vì đụng chạm đến quyền lợi, nhưng họ lại nằm trong số những người ủng hộ mạnh mẽ nhất trong chính phủ. Kết quả, những điều luật Cải cách ruộng đất được thảo ra có quá nhiều kẽ hở để địa chủ tránh né được các điều khoản và sau vài năm thực hiện, chỉ khoảng 10 phần trăm nông dân nhận được ruộng đất. Có nhiều trường hợp, những gia đình sống trong vùng Việt Minh kiểm soát bây giờ buộc phải trả lại đất đai mà họ đã nhận được trong kháng chiến chống Pháp cho chủ nhân cũ, thường là bị bắt buộc dưới mũi súng. Đối với họ, cũng đối với nhiều đồng bào ở miền Nam, chế độ Diệm chẳng mấy cải thiện được dưới kỷ nguyên thuộc địa mới. Cuối thập niên 1950, nhiều nông thôn ở Nam Việt càng ngày lĩnh hội được đòi hỏi phải thay đổi tận gốc.
Một thời gian ngắn sau khi Lê Duẩn báo cáo với Bộ Chính trị vào tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương triệu tập Hội nghị toàn thể lần thứ XV. Một số đại biểu tại cuộc họp là những cán bộ miền Nam, những người rõ ràng háo hức đóng góp ý kiến cá nhân vào kịch bản những sự kiện ở Việt Nam Cộng Hoà. Một số người khác là những người ủng hộ phong trào, những người đã lãnh đạo miền Nam sau Hiệp định Geneva và bất mãn giới lãnh đạo Đảng không có hành động mạnh bảo vệ đồng bào miền Nam. Những đại biểu đó chắc chắn có một người phát ngôn đầy quyền lực - Lê Duẩn, tranh luận trước Ban Chấp hành Trung ương, nếu lực lượng kháng chiến ở miền Nam không được phép xây dựng lực lượng chiến đấu thì phong trào cách mạng có thể bị tiêu diệt. Lê Duẩn tuyên bố, những bất mãn đang dâng cao của nhân dân chống lại chế độ Diệm là dịp may hiếm có để tiến những bước đi lớn tới thống nhất đất nước.
Giới lãnh đạo của Đảng không dễ dàng đi đến quyết định. Theo một tài liệu quân đội Nam Việt tịch thu vài năm sau đó, có “nhiều quan điểm và sự ngần ngại” trong số các đại biểu về câu hỏi làm thế nào đáp ứng tình hình biến đổi nhanh chóng. Một số tranh cãi, Đảng không còn sự lựa chọn nào khác để cứu phong trào ở miền Nam, đang bị bị suy yếu vì sự đấu tranh sống còn. Họ tuyên bố sự oán giận của nhân dân cả nước chống lại chế độ Diệm, đã lên đến đỉnh điểm. Nhưng một số người khác vạch ra, nếu tiếp tục đấu tranh vũ trang có thể làm Trung Quốc và Liên Xô giận, thậm chí có thể kích động Mỹ can thiệp. Còn một số người khác, như Trường Chinh và phe cánh, lại sợ leo thang chiến tranh miền Nam sẽ phá hỏng nguồn nhân lực quý báu của miền Bắc trong lúc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đang cố gắng đặt nền tảng tiến lên xã hội chủ nghĩa.[708]
Hồ Chí Minh phát biểu mạnh nhất, nhấn mạnh cần phải thận trọng. Ông cảnh báo, đừng đơn giản dựa chỉ dựa bạo lực vũ trang, Mỹ sẽ lấy cớ can thiệp. Ông nói cần phải đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh thế giới. Đế quốc Mỹ đang mạnh nhưng sẽ suy yếu, bởi thế chúng ta phải có chiến lược từng bước. Ông tin, khi có cơ hội tấn công, lực lượng cách mạng ở miền Nam sẽ thu được thắng lợi quyết định mau chóng. Đồng thời, ông khuyên họ hãy hài lòngvới những thắng lợi tuy nhỏ.[709]
Có lẽ để đáp lại yêu cầu của Hồ Chí Minh, hội nghị toàn thể đi đến một thoả hiệp. Quyết định chiến lược chiến tranh cách mạng để dẫn đến thống nhất hai miền của đất nước được chấp thuận, nhưng mức độ tương đối kết hợp cả hai cuộc đấu tranh chính trị và quân sự sẽ áp dụng vẫn chưa được giải quyết. Bản nghị quyết đó mãi đến sau này mới được ban hành, nói:
Con đường cơ bản sự phát triển cách mạng ở Nam Việt Nam là đấu tranh bạo lực. Dựa trên những điều kiện cụ thể và đòi hỏi hiện tại của cách mạng, lúc này con đường đấu tranh bạo lực là: dùng sức mạnh quần chúng, với sức mạnh chính trị là yếu tố chính, trong sự phối hợp với sức mạnh quân sự lớn hay nhỏ còn phụ thuộc vào tình hình, để lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm cùng thế lực đế quốc và phong kiến, xây dựng chính quyền của nhân dân.[710]
Ban Chấp hành Trung ương thừa nhận, cuộc đấu tranh có thể gay go, phức tạp, nhưng hy vọng cần phải sử dụng những phương pháp tự vệ kết hợp tuyên truyền vũ trang, chắc chắn sẽ thu được thắng lợi bước đầu thông qua đấu tranh chính trị.
Trong những năm gần đây, một số học giả phương Tây cho rằng cuộc tranh luận ở Hà Nội giữa những người miền Bắc sợ leo thang chiến tranh và những người miền Nam hiếu chiến quyết tâm đánh đổ chế độ tàn bạo. Nhưng chắc chắn có một số sự thật trong giả thuyết này - cán bộ miền Nam muốn chính sách bạo lực vũ trang và đụng độ với cán bộ miền Bắc - hình ảnh chia cắt Nam - Bắc có lẽ không phải là quá đáng. Một số người lãnh đạo đảng cao cấp ở Hà Nội, kể cả tướng Võ Nguyên Giáp và bản thân Hồ Chí Minh, đã nhiều năm tin tưởng chiến lược bạo lực cách mạng có thể là quan trọng đi đến thống nhất đất nước. Hồ và các đồng chí của ông tranh luận mạnh mẽ tác động này ở Moscow từ mùa Thu năm 1957 và có lẽ cũng đã lặp lại lập luận này trong những cuộc thảo luận với những lãnh đạo Trung Quốc. Cuộc tranh luận tại Hội nghị toàn thể lần thứ XV, lúc đó, phần nhiều xoay quanh vấn đề thời điểm. Tất cả - hoặc hầu như tất cả - lãnh đạo đảng đồng ý, đấu tranh vũ trang cần thiết và hoàn toàn chính đáng nếu như tất cả các con đường khác thất bại. Nhưng liệu bây giờ đã thích hợp đưa ra chiến lược đó chưa, sự phối hợp chiến thuật quân sự và chính trị sẽ áp dụng vẫn còn là vấn đề phải thảo luận thận trọng và thử nghiệm. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, vẫn còn thời gian hy vọng cho một giải pháp chính trị.
Cuộc tranh luận của các học giả phương Tây quanh những quyết định đưa ra tại hội nghị toàn thể lần thứ XV không chỉ là vấn đề lý luận. Một số học giả cho rằng nếu các đồng chí người miền Nam đề xuất kích động leo thang bạo lực cách mạng, thì đấu tranh cách mạng có thể được coi là một phong trào kháng chiến trong nước chống lại chế độ tham nhũng và chuyên chế. Bắc Việt Nam có thể đứng ở vai trò một quan sát viên bị động và cuối cùng miễn cưỡng tham gia. Nhưng nếu ban lãnh đạo Đảng ở miền Bắc đóng vai trò quyết định chủ chốt trong cuộc chiến, chứng tỏ Hà Nội có tham vọng củng cố quyền lực của mình trên toàn quốc. Có bằng chứng cho thấy sự thật nằm giữa hai thái cực. Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông tìm cách lập lại tổ chức và kỷ luật đối với dàn đồng ca lớn giọng thiếu mục tiêu của sự bất bình chống đối với những điều kiện kinh tế của chính trị ở Nam Việt Nam.[711]
Quyết định của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược cách mạng, tức Nghị quyết lịch sử XV, không được lưu hành ngay lập tức trong hàng ngũ lãnh đạo. Trong bốn tháng tiếp đó, Võ Nguyên Giáp được bổ nhiệm theo dõi toàn bộ các mặt của vấn đề, đồng thời thu thập các báo cáo hiện thời về tình hình miền Nam. Trong khi đó, Hồ Chí Minh ra nước ngoài tham khảo với Liên Xô và Trung Quốc để tìm sự ủng hộ của hai nước. Bây giờ ông gần bẩy mươi tuổi, nhưng vẫn không ngừng nung nấu ước mơ cuối cùng của đời mình, thống nhất đất nước theo chủ nghĩa xã hội. Hồ thăm Bắc Kinh giữa tháng 1-1959, sau đó tới Moscow dự Hội nghị lần thứ XXI Đảng cộng sản Liên Xô. Ông trở lại Hà Nội ngày 14-2-1959 sau vài ngày lưu lại Trung Hoa. Những chi tiết về những cuộc hội đàm của Hồ và giới lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô về tình hình ở Nam Việt Nam đến bây giờ vẫn chưa được tiết lộ, nhưng vào tháng 5-1959, Nghị Quyết XV được Ban Chấp hành Trung ương chính thức thông qua.[712]
-*******************************************************************************************************-
[638] Phát biểu của Hồ Chí Minh với quan chức thành phố có trong Toàn Tập I, tập 7, trang 49-51. Bộ đội Việt Nam và Hồ Chí Minh đến thành phố này, xem “Hà Nội 278 gửi Bộ ngoại giao, ngày 10-10-1954, và “Hà Nội 314 gửi Bộ ngoại giao, 20-10-1954, cả hai có trong RG 59, NXB Đại học Mỹ. Xem thêm Joint Weeka, 24-10-4, 1954, trong tài liệu đã dẫn. Cách cư xử của Hồ Chí Minh đối với cán bộ dân sự và quân sự có trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 5, trang 540. Về quyết định của ông từ chối sử dụng Phủ chủ tịch làm chổ ở riêng cho mình, xem “Tin tức Việt Nam” (tháng 5-1985), trang 3.
[639] Có trong Hà Nội 318, ngày 21-10-1954, trong RG 59, NXB Đại học Mỹ. Về chuyến thăm của Nehru', xem Joint Weeka 43, 24-10-1954. Bài phát biểu của Hồ Chí Minh đón tiếp Nehru trong Toàn Tập I, tập 7, trang 52-53.
[640] Jean Sainteny, “Hồ Chí Minh và Việt Nam” do Herma Briffault dịch (Chicago: Cowles, 1972), trang 117. Theo Sainteny, binh lính Việt Nam đóng bên ngoài Lãnh sự quán Mỹ ghi chép cẩn thận bảng số ô tô chở khách đến dự bữa tiệc này.
[641] Về Sắc lệnh tám điểm, xem Bản ghi nhớ, Joseph Yager, gửi đại sứ Johnson, ngày 16-7-1954, trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[642] Toàn Tập I, tập 7, trang 20-27.
[643] Về số lượng những nhà quản trị được đào tạo, xem Ken Post, “Cách mạng, Chủ nghĩa xã hội, và Chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, tập 2 (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), trang 54. Về những nhận xét tại sao khá nhiều người tị nạn dời Bắc Việt tới Nam Việt Nam, xem Mieczyslaw Maneli, “Chiến tranh hạn chế” (New York: Harper & Row, 1971), trang 38-39.
[644] Luật về Hội đồng Nhân dân được Quốc hội thông qua vào tháng 7-1957, và cuộc bầu cử đầu tiên tổ chức vào tháng 11-1957, xem Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập II, trang 55.
[645] Carlyle Thayer - một trong những người có uy tín về vấn đề này - ước tính năm 1954 có khoảng 100.000 người ủng hộ Việt Minh ở miền Nam và 90.000 ở miền Bắc - xem Carlyle Thayer, “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” (Sydney: Allen & Unwin, 1989), trang 18. Về sự tin tưởng của Hồ Chí Minh vào những cuộc bầu cử, xem Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày” (NXB Văn Nghệ, Westminster, Calif., 1998), trang 230.
[646] Thật trớ trêu, Việt Minh tiên đoán sớm ngay từ mùa thu 1950 rằng Mỹ cuối cùng sẽ thay Bảo Đại bằng Ngô Đình Diệm. Xem Sài gòn 245 gửi Ngoại trưởng, ngày 10-10-1950, trong RG 59, NXB Đại học Mỹ. Tin tức ở lưu trữ Bộ ngoại giao về hoạt động của Diệm ở Mỹ và sự bổ nhiệm ông làm thủ tướng, xem “Bản ghi nhớ cuộc hội đàm, Ngô Đình Diệm với Gibson và Hoey của PSA, ngày 15-1-1951; Sài gòn 2363, ngày 30-6-1951; Bản ghi nhớ PSA (Bonsai) gửi FE (Allison), ngày 16-1-1953; Paris 1076 gửi Ngoại trưởng, ngày 14-9-1953; Paris 4530 gửi Ngoại trưởng, ngày 25-5-1954; Paris 4538, ngày 26-6-1954; Paris 4756 gửi Ngoại trưởng, ngày 8-6-1954, trong tài liệu đã dẫn. Về phản ứng tại Sài gòn đối với sự bổ nhiệm Diệm, xem Sài gòn 2819 gửi Ngoại trưởng, cũng trong tài liệu đã dẫn. Về quan điểm của ông là Nam Việt Nam hoặc là trở thành những người lính hoặc chống Cộng sản, xem Sài gòn 105 gửi Ngoại trưởng, ngày 8-7-1954, RG 59, NXB Đại học Mỹ. Chỉ sáu trong số mười bảy bộ trưởng trong nội các đầu tiên của ông là người miền Nam. Câu nhận xét “vị cứu tinh không thông điệp” là của Robert McClintock - xem Sài gòn 48 gửi Ngoại trưởng, ngày 4-7-1954, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[647] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 5, trang 563-64, 568. Carlyle Thayer, “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” (Sydney: Allen & Unwin, 1989), trang 26. Trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp, Hồ Chí Minh nói đó ông đưa ra những nhượng bộ như vậy, xem Toàn Tập I, tập 7, trang 68-70. Về phản ứng của Dulles và những quan chức Mỹ khác, đối với quyết định của Diệm decision, xem William Duiker, “Chính sách ngăn chặn của Mỹ và cuộc xung đột ở Đông Dương” (NXB Đại học Stanford, California, 1994), trang 215.
[648] Trích dẫn từ Molotov có trong Carlyle Thayer, “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” (Sydney: Allen & Unwin, 1989), trang 35-37. Về hoạt động của Hồ Chí Minh ở Trung Quốc, xem Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 143-47. Phát biểu của Hồ Chí Minh khi ông trở về Hà Nội I được in trong Toàn Tập I, tập 7, trang 286-89. Xem thêm Guo Ming, “Bốn lăm năm quan hệ Trung-Việt”, (NXB Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, 1992), trang 65. Theo Mieczyslaw Maneli, khi đó đại diện Ba Lan trong Uỷ ban kiểm soát quốc tế ở Hà Nội, Moscow có thái độ thận trọng về Việt Nam sau hội nghị Geneva, ủng hộ Việt Nam trong vấn đề liên quan đến dàn xếp, mà không có lợi cho chính sách đối ngoại mới thúc đẩy cùng chung sống hoà bình - xem Maneli, “Chiến tranh hạn chế”, trang 24. Về sự dè dặt của Liên Xô trong đường lối tư tưởng ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, xem tài liệu đã dẫn, trang 36. Về bối cảnh quốc tế, xem R. B. Smith, “Lịch sử quốc tế cuộc chiến tranh Việt Nam”, Tập I, 1955-1961 (NXB St. Martin’s, New York, 1983), trang 30-33, 62.
[649] Tạ Xuân Linh, “Cuộc đấu tranh vũ trang ở Nam Việt Nam bắt đầu như thế nào?”, “Tin tức Việt Nam” (tháng 3-1974), trang 20, trích trong “Không còn con đường nào khác”, hồi ký của bà Nguyễn Thị Định, do Dương Vân Mai Elliott dịch (Ithaca, N.Y.: Cornell Data Paper số 102, 1976), trang 12.
[650] Neil Sheehan, “Sau khi cuộc chiến kết thúc: Hà Nội và Sài gòn” (NXB Vintage, New York, 1992), trang 77.
[651] Bản tiếng Anh bài phát biểu trong “Hồ Chí Minh: Tuyển tập”, trang 188-91, (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1977). Xem thêm Toàn Tập I, tập 7, trang 329-32.
[652] Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 267-268.
[653] Bernard Fall, ed., “Hồ Chí Minh trong Cách mạng: Tuyển tập, 1920-1966”, trang 12,. Những nhận xét cá nhân của Hồ Chí Minh, xem Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 221, và bài báo của Hiên đăng trong “Tin tức Việt Nam” (Mùa thu 1997), trang 12. Xem thêm Edwin E. Edwin Moise, “Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc và Bắc Việt Nam: Củng cố cách mạng tại cấp giải phóng” (Chapel Hill, N.C.: Đại học North Carolina Press, 1983), trang 191, 239-41.
[654] Lê Đức Thọ, “Làm thế nào để phát động chiến tranh du kích ở Nam bộ” trong “Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam”, tập 3, trang 289-292 (NXB Sự thật, 1958). Xem thêm Georges Boudarel, “Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam: chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến, 1954-1936” (Paris: Jacques Bertoin, 1991), trang 171.
[655] Bùi Tín, “Sau Hồ Chí Minh: Hồi ký của một Đại tá Bắc Việt Nam”, trang 23, (Honolulu: Đại học Hawaii Press, 1995); “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 5, trang 559; báo Nhân Dân, ngày 19-11-1954.
[656] Dương Vân Mai Elliott, “Cây liễu thiêng liêng: Bốn thế hệ trong cuộc sống một gia đình Việt Nam” trang 344-45 (New York: Đại học Oxford Press, 1999), Xem thêm Edwin Moise, “Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc và Bắc Việt Nam: Củng cố cách mạng tại cấp giải phóng” (Chapel Hill, N.C.: Đại học North Carolina Press, 1983), chương 11.
[657] Xem Edwin Moise, “Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc và Bắc Việt Nam: Củng cố cách mạng tại cấp giải phóng” (Chapel Hill, N.C.: Đại học North Carolina Press, 1983), trang 218-22, và Boudarel, “Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam: chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến, 1954-1936”, trang 177 (Paris: Jacques Bertoin, 1991). Về quan điểm của Lê Văn Lương, xem bài của ông “Vì sao phải chỉnh Đảng” trong “Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam”, tập 3, trang 293-302. Lê Văn Lương là em trai nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, người ở lại miền Bắc sau Hiệp định Geneva.
[658] “Bài phát biểu tại hội nghị Cải cách ruộng đất đợt II ở Thái Nguyên, Bắc Giang”, trong Toàn Tập I, tập 7, trang 112-21. Xem thêm Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 273, 289; Boudarel, “Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam: chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến, 1954-1936”, trang 177-78, 188 (Paris: Jacques Bertoin, 1991).
[659] Bùi Tín, “Sau Hồ Chí Minh: Hồi ký của một Đại tá Bắc Việt Nam”, trang 28-29, (Honolulu: Đại học Hawaii Press, 1995); Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 224; Edwin Moise, “Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc và Bắc Việt Nam: Củng cố cách mạng tại cấp giải phóng” (Chapel Hill, N.C.: Đại học North Carolina Press, 1983), trang 218-22.
[660] Toàn Tập I, tập 7, trang 179-82. Về cuộc thảo luận và những quyết nghị của Hội nghị toàn thể lần thứ VII, xem Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 271.
[661] Trích ở Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 272
[662] Trích ở Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 274. Phát biểu của Hồ Chí Minh có rằng Toàn Tập I, tập 7, trang 354-59. Sự so sánh với bát súp được trích trong Georges Boudarel, “Hồ Chí Minh”, trong George Fischer, ed., “Những người đàn ông của Nhà nước châu Á và chính trị” (Paris: Universite Rene Descartes, 1980), trang 127-28.
[663] Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 274; “Bài nói chuyện tại hội nghị cán bộ cải cách miền biển”, trong Toàn Tập I, tập 7, trang 413-16. Lời biện hộ của Vũ Đình Huỳnh được trích trong Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 225.
[664] Trích ở W. R. Smyser, “Việt Nam Độc lập: Cộng sản Việt Nam giữa Nga và Trung Quốc, 1956-1969” (Athens, Đại học Ohio, Trung tâm nghiên cứu quốc tế, 1980), trang 5-6. Theo Georges Boudarel, khi một nhà báo Đài phát thanh Moscow hỏi Trường Chinh về quan điểm của ông trong những quyết định đưa ra tại Đại hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên Xô, Chinh trả lời bằng những nhận xét mơ hồ về “phân tích tình hình mới với những nhận xét rất sâu sắc về lý luận và cách giải quyết những nhiệm vụ hàng đầu” - xem Boudarel, “Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam: chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến, 1954-1936” trang 193 (Paris: Jacques Bertoin, 1991). Vũ Thư Hiên cho biết chỉ vài Uỷ viên Bộ chính trị và Ban Bí thư được đọc bản sao bài phát biểu hạ bệ Stalin - xem “Đêm giữa ban ngày”, trang 101.
[665] Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 333; “Phát biểu của Vũ Thư Hiên”, trong “Tin tức Việt Nam” (Mùa thu 1997), trang 13.
[666] “Lời bế mạc Hội nghị toàn thể lần thứ 9 (mở rộng) của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam”, trong Toàn Tập I, tập 7, trang 426-30
[667] Boudarel, “Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam: chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến, 1936-1954” trang 199-200 (Paris: Jacques Bertoin, 1991). Thư Hồ Chí Minh: “Thử gửi hội nghị tổng kết cải cách ruộng đất đợt 5”, trong Toàn Tập I, tập 7, trang 460-461.
[668] Bài phát biểu có trong Toàn Tập I, tập 7, trang 506-9. Khái niệm “đường lối quần chúng” du nhập từ thực tế Trung Quốc, kêu gọi chính sách đáp ứng nguyện vọng nhân dân ở giai đoạn đầu cách mạng xã hội chủ nghĩa.
[669] Báo Nhân Dân, 30-10-1956, trích trong Carlyle Thayer, “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” trang 89-90 (Sydney: Allen & Unwin, 1989). Tôi sử dụng bản dịch của Carlyle Thayer.
[670] Edwin Moise, “Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc và Bắc Việt Nam: Củng cố cách mạng tại cấp giải phóng” (Chapel Hill, N.C.: Đại học North Carolina Press, 1983), trang 244-46; Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 280; “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 7, trang 364.
[671] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 7, trang 334. Xem thêm Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 457-58. Về cuộc thảo luận đánh giá trách nhiệm Hồ Chí Minh trong chiến dịch, xem Dương Văn Mai Elliott, “Cây liễu thiêng liêng: Bốn thế hệ trong cuộc sống một gia đình Việt Nam” trang 343-44 (New York: Đại học Oxford Press, 1999).
[672] Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 282-83. Về câu trả lời của Trường Chinh đối với sự giải tán, xem “Sau Hồ Chí Minh: Hồi ký của một Đại tá Bắc Việt Nam”, trang 31, (Honolulu: Đại học Hawaii Press, 1995), và Hoàng Giản, “Một giọt trong đại dương màu xanh vĩ đại”, đăng trong “Tin tức Việt Nam” (Mùa đông - Mùa xuân năm 1988), trang 23.
[673] Về bài phát biểu, xem Toàn Tập I, tập 7, trang 585-86. Bernard Fall, ed., “Hồ Chí Minh trong Cách mạng: Tuyển tập, 1920-1966”, trang 277-281, có cả bản tiếng Anh. Edwin Moise, “Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc và Bắc Việt Nam: Củng cố cách mạng tại cấp giải phóng” (Chapel Hill, N.C.: Đại học North Carolina Press, 1983), trang 246-250, cũng có những đoạn trích dài của bài phát biểu này. Những ghi chép về vụ Quỳnh Lưu, xem tài liệu đã dẫn, trang 258-260.
[674] Boudarel, “Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam: chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến, 1954-1936”, trang 202-204 (Paris: Jacques Bertoin, 1991). Về những đánh giá khác nhau số lượng người bị giết và bị hành hạ, xem tài liệu đã dẫn, trang 203-204. Boudarel cho biết chính Hồ Chí Minh thú nhận đã có từ 12.000 đến 15.000 người bị xử tử oan - xem trang 203. Về sự đánh giá thấp hơn, xem Edwin Moise, “Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc và Bắc Việt Nam: Củng cố cách mạng tại cấp giải phóng” (Chapel Hill, N.C.: Đại học North Carolina Press, 1983), trang 218-222.
[675] Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 287.
[676] Nguyễn Mạnh Tường, “Kẻ bị vạ tuyệt thông” trong “1954-1991: Bản án một trí thức” (Paris: Quê Mẹ, 1992), trang 9.
[677] Boudarel, “Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam: chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến, 1936-1954” trang 143 (Paris: Jacques Bertoin, 1991). Thông tin trong đoạn văn trên lấy từ Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập I, trang 280-90, và tập II, trang 156-57, và Boudarel, “Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam: chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến, 1954-1936”. Xem thêm Hirohide Kurihara, “Những thay đổi trong chính sách văn hoá của Đảng Lao động Việt Nam, 1956-1958”, trong Takashi Shiraishi và Motoo Furuta, ed., “Đông Dương trong thập niên 1940 và thập niên 1950” (Ithaca, N.Y.: Chương trình Đông Nam Á Đại học Cornell, 1992), trang 165-96. Ý kiến của Trường Chinh về tự do ngôn luận, xem Nguyễn Văn Trấn, “Viết cho Mẹ và Quốc hội” (NXB Văn Nghệ, Westminster, Calif., 1996), trang 275.
[678] Xem Bùi Tín, “Sau Hồ Chí Minh: Hồi ký của một Đại tá Bắc Việt Nam”, trang 36-37, (Nhà in Đại học Hawaii, Honolulu, 1995).
[679] Xem Bùi Tín, “Sau Hồ Chí Minh: Hồi ký của một Đại tá Bắc Việt Nam”, trang 32-33, (Nhà in Đại học Hawaii, Honolulu, 1995); Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 322.
[680] Việt Nam thông tấn xã, ngày 3-4-1956. Về phản ứng ban đầu của Hà Nội đối với chính sách mới của Liên Xô và chuyên thăm của Mikoyan, xem Smyser, “Việt Nam Độc Lập”, trang 6-7, và Ang Cheng Guan, “Mối quan hệ Cộng sản Việt Nam với Trung Quốc và cuộc xung đột Đông Dương lần thứ hai, 1956-1962”, trang 19-20 (Jefferson, N.C.: McFarland, 1999). Theo học giả Nga Ilya Gaiduk, Trường Chinh là một trong những người hoài nghi, thể hiện sự hoài nghi với một quan chức Liên Xô năm 1955 rằng có thể giải quyết vấn đề bằng phương pháp hoà bình. Xem bài của Trường Chính “Sự phát triển một đồng minh: Liên Xô và Việt Nam, 1954-1975”, có trong Peter Lowe (ed), “Cuộc chiến tranh Việt Nam” (NXB St. Martin’s, New York, 1998), trang 141.
[681] Tôi sử dụng bản tiếng Anh bài phát biểu trong Bernard Fall, ed., “Hồ Chí Minh trong Cách mạng: Tuyển tập, 1920-1966” trang 269-71. Bản tiếng Việt, xem Toàn Tập I, tập 7, trang 427.
[682] Về bài thơ này, xem Hoàng Văn Chí, “Tập thể hoá và sản xuất lúa gạo, “Trung Hoa Quý báo” (tháng 1 và 3-1962), trang 96. Về lá thư của Hồ Chí Minh, xem Toàn Tập I, tập 7, trang 453-57. Bức thư bằng tiếng Anh trong Bernard Fall, ed. “Hồ Chí Minh trong Cách mạng: Tuyển tập, 1920-1966”, trang 272-274. Trích dẫn “những ý nghĩ đơn thần” từ Xã luận báo Nhân Dân ngày 22-7-1956.
[683] Toàn Tập I, tập 7, trang 462-64; William Turley, “cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai: Lịch sử quân sự và chính trị, 1954-1955”, trang 22 (New York: Thư viện New American, Mentor, 1986).
[684] Cuốn sổ tay viết bằng tiếng Việt “Đường lối Cách mạng miền Nam” trong những tài liệu của Jeffrey Race, “Trung tâm các thư viện nghiên cứu, Chicago, Illinois). Xem thêm William Turley, “cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai: Lịch sử quân sự và chính trị, 1954-1955” trang 22 (New York: Thư viện New American, Mentor, 1986).
[685] Về những bình luận, xem Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 107. Phân tích chi tiết cuộc viếng thăm của Chu Ân Lai, xem Carlyle Thayer, “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” (Sydney: Allen & Unwin, 1989), trang 98-100 và Ang Cheng Guan, “Mối quan hệ Cộng sản Việt Nam với Trung Quốc và cuộc xung đột Đông Dương lần thứ hai, 1956-1962”, trang 43-45. Thayer cho biết thông cáo cuối cùng nằm trong năm nguyên tắc cùng chung sống hoà bình và mối nguy hiểm của chủ nghĩa Sô vanh (hiển nhiên sỉ nhục Liên Xô), nhưng không có cụm từ “dân tộc lớn”.
[686] Không phải tất cả thành viên ban lãnh đạo miền Nam muốn chấp nhận chủ trương dùng bạo lực để chống lại chế độ Diệm. Nhận xét vè những quan điểm khác nhau, xem William Duiker, “Con đường Cộng sản đến quyền lực ở Việt Nam”, 2nd ed. (Boulder, Colo.: Westview Press, 1996), trang 190-192. Phát biểu của Hồ Chí Minh trước Quốc hội (bản tiếng Anh) trong Bernard Fall, ed., “Hồ Chí Minh trong Cách mạng: Tuyển tập, 1920-1966” trang 277-281.
[687] Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 352-253.
[688] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 6, trang 472.
[689] Smyser, “Việt Nam Độc Lập”, trang 18.
[690] Gerard Tongas, “Địa ngục cộng sản ở Bắc Việt Nam” (NXB Delmesse, Paris, 1960), trang 85-86. Qua tính chính xác của tư liệu của Tongas đã được tham khảo bởi một số quan sát viên, những chứng cớ gần đây cho thấy những tư liệu đó đáng tin. Tuy nhiên, Tongas nói Voroshilov thăm Việt Nam vào tháng 9, khác hẳn với tháng 5. Tôi không tìm thấy tư liệu nói tới cuộc đi thăm thứ hai của Voroshilov vào tháng 9-1957.
[691] Bài phát biểu của ông nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có trong Toàn Tập I, tập 7, trang 771-781. Chuyến đi thăm của phái đoàn nhà nước có Bộ trưởng Bộ văn hoá Hoàng Minh Giám, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Hoa Hoàng Văn Hoan, và Thứ trưởng Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch.
[692] Smyser, “Việt Nam Độc Lập”, trang 19. Về số liệu Trung Quốc xem Carlyle Thayer, “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” (Sydney: Allen & Unwin, 1989), trang 171.
[693] Xem Trường Chinh, “Chúng ta cám ơn Karl Marx và nguyện đi theo con đường mà ông vạch ra, bài phát biểu trên Đài phát thanh Hà Nội vào tháng 9-1968 và được dịch ở “Tài liệu Việt Nam và Ghi chú nghiên cứu (Nhiệm vụ Mỹ tại Việt Nam, Sài Gòn)”, tài liệu 51, trang 16. Về báo cáo của người Đức và Ý, xem Smyser, “Việt Nam Độc Lập”, trang 19.
[694] Xem Smyser, “Việt Nam Độc Lập”, trang 19, trích từ “Hồ Chí Minh, tuyển tập, tập 4 (NXB Ngoại văn, 1960), trang 277, 278-283.
[695] Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập II, trang 151, trích từ “Năm mươi năm hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam” (Hà Nội, n.p., 1979), trang 135.
[696] Trích ở Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập II, trang 151. Đảng kiểm soát lực lượng vũ trang, một truyền thống của các tổ chức Marxist-Leninist, là nguyên tắc “bất di bất dịch” ở Việt Nam, nơi các sĩ quan quân đội phải nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng.
[697] Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập II, trang 153-55. Lời chúc Tết của Hồ Chí Minh có trong Toàn Tập I, tập 8, trang 20-27.
[698] Trần Quốc Hoà sinh ra ở Nam Đàn, Nghệ An (Người dịch).
[699] Câu chuyện lạ lùng cũng có một phần thành thực, xem Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 605-609. Bức thư của người chồng chưa cưới có trường hợp “Thư của nước mắt và máu”, “Tin tức Việt Nam” (Mùa thu 1997), trang 8-11.
[700] Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập II, trang 153-155.
[701] “Mấy kinh nghiệm Trung Quốc mà chúng ta nên học”, trích trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 7, trang 111-112; Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập II, trang 176. Xem thêm bài báo ngày 7 và 26-12-1957, ngày 7-1 và 1-2 và 1-3-1958, trong tài liệu đã dẫn, và Toàn Tập I, tập 8, trang 1-5.
[702] Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập II, trang 155. David W. P. Elliott, “Phục hồi cách mạng: So sánh sự thiết lập hệ thống chính trị sau giải phóng ở Bắc Việt Nam và Trung Quốc” (Luận văn Tiến sĩ triết học, Đại học Cornell, 1976), trang 417.
[703] Ken Post, “Cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam”, (Aldershot, U.K.: Dartmouth, 1989), Tập II, trang 176; Trần Lực, “Kinh nghiệm của Trung Quốc trong tập thể hoá nông nghiệp”, báo Nhân Dân, 25-12-1958, trích trong tài liệu đã dẫn, trang 199; Carlyle Thayer, “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” (Sydney: Allen & Unwin, 1989), War by Other Means, trang 181.
[704] “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975” (NXB Quân đội Nhân dân, 1980), trang 35.
[705] Carlyle Thayer cho biết Ấn Độ đón tiếp Hồ Chí Minh tương tự trước đây họ đón Tổng thống Ngô Đình Diệm;, xem thêm cuốn sách của ông “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” (NXB Allen & Unwin, Sydney, 1989), trang 166-67. Xem Ang Cheng Guan, “Mối quan hệ Cộng sản Việt Nam với Trung Quốc và cuộc xung đột Đông Dương lần thứ hai, 1956-1962”, trang 76-77. Thái độ của Ấn Độ đối với vấn đề Việt Nam phức tạp hơn thể hiện ngoài mặt. Trong khi Nehru ít nhiều tôn trọng chính phủ Bảo Đại và ủng hộ mạnh về mặt ngoại giao cho Việt Minh trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, trong những cuộc hội đàm riêng với quan chức Mỹ hoặc những nước phương Tây khác, ông bày tỏ mối quan tâm có thể Việt Nam được thống nhất dưới chính phủ cộng sản hiếu chiến ở Hà Nội. Ấn Độ chơi trò hai mặt, một mặt công khai ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng lại bày tỏ sự dè dặt có tính cá nhân.
[706] “Số liệu của Đảng về tình hình khu vực Nam Bộ, Nam Việt Nam, 1954-1960”, trang 26. Tài liệu này không đề ngày tháng, tôi có được bản sao của nó do quân đội Nam Việt Nam thu được trong một chiến dịch càn quét đầu thập niên 1960.
[707]Trần Văn Giàu, “Hiệu quả chiến lược lớn của chiến tranh du kích ở Nam Việt Nam qua mười năm đấu tranh vũ trang”, trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (tháng 7 1969), trang 19-32, bản dịch có trong “Cơ quan nghiên cứu liên hợp xuất bản” (Washington D.C), 49,387, Những bản dịch về Bắc Việt Nam, số 639. Tài liệu bị thu giữ này có tiêu đề “Số liệu của Đảng” thống kê những mất mát của Đảng trong thời kỳ này; trong một số căn cứ địa ở bắc ngoại thành Sài gòn, như Gò Vấp, Bà Điểm, và Gia Định, bộ máy Đảng hầu như bị tiêu diệt - xem trang 11, 26, và 36-37.
[708] Tài liệu quân đội Nam Việt Nam thu được của Việt Cộng gọi là tài liệu “CRIMP” (mang tên Chiến dịch CRIMP, 1963) và nằm ở Bộ ngoại giao, “Vai trò của Bắc Việt Nam”, Phụ lục số 301, trang 5.
[709] Nhận xét của Hồ Chí Minh trích trong “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” (NXB Sự thật, 1990), trang 174.
[710] “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975” (NXB Quân đội Nhân dân, 1980), trang 49-50.
[711] Về những quan điểm khác nhau, xem George McT. Kahin, “Sự can thiệp: Mỹ dính líu ở Việt Nam như thế nào” (Garden Thành phố, N.Y.: Double-day, 1987), và Carlyle Thayer, “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” (Sydney: Allen & Unwin, 1989).
[712] Carlyle Thayer, “Chiến tranh bằng những cách khác: Giải phóng dân tộc và Cách mạng ở Việt Nam 1954-1960” (Sydney: Allen & Unwin, 1989), trang 185; Smith, “Lịch sử quốc tế”, Tập I, trang 157; Ang Cheng Guan, “Mối quan hệ Cộng sản Việt Nam với Trung Quốc và cuộc xung đột Đông Dương lần thứ hai, 1956-1962”, trang 103-105.