Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

Ký sự: Nước Nga ‘gồng mình’ để tồn tại

-Son Tran -Son Cao-
Ký sự: Nước Nga ‘gồng mình’ để tồn tại
Phương Ðoàn MOSCOW (NV) - Ðang trên Quảng Trường Ðỏ ở Moscow, tôi chựng người lại khi bắt gặp một hình dáng người rất quen mà không thể nhớ liền được là ai? Người đàn ông thấp người, mặc bộ đồ đại lễ, đầu đội chiếc mũ kếp pi - tất cả cùng màu đen, đút tay vào túi quần với khuôn mặt trầm tư...

Cảnh chợ trời nhếch nhác ngoại ô Mosow. (Hình: Phương Ðoàn)
Bắt gặp cái nhìn của du khách, ông liền nở nụ cười, giơ tay vẫy vẫy mời chào: “Chụp hình kỷ niệm đi. Chỉ 100 rub thôi, hay $2 đô la Mỹ cũng được!” Tôi vừa lắc đầu vừa phá lên cười vì nhận ra người “quen quen” ấy: Lenin. Hiển nhiên, chính xác hơn, là người đóng vai Lenin.
Trong thời gian lang thang xung quanh điện Kremlin, tôi còn gặp mấy “Lenin” nữa, cũng đang mời chào du khách chụp hình. Tự nhiên tôi liên tưởng đến câu đầu tiên trong “Tuyên Ngôn Ðảng Cộng Sản: “Một bóng ma đang ám ảnh Châu Âu: Bóng ma Chủ Nghĩa Cộng Sản.”
Chẳng những không chỉ Lenin thôi mà tại Quảng Trường Ðỏ - biểu tượng của nước Nga - du khách còn gặp được vô số nhân vật nổi tiếng, những vị vua chúa của Nga thời xưa, như Groznyi Ðại Ðế, Nữ Hoàng Ekaterina Ðệ Nhị, và cả lãnh tụ Soviet sắt máu sau này như Stalin...
Người Nga ngày nay không chỉ bị ảnh hưởng của học thuyết Cộng Sản lỗi thời (dầu đã cố thoát khỏi nó), họ mang cả tâm lý của một quốc gia từng là đại cường, muốn phục hồi với mong mỏi khôi phục lại đế chế Nga hùng mạnh, cho dầu dưới một tên gọi khác. Các phương tiện truyền thông thế giới phần lớn đang mô tả nước Nga như một quốc gia hung hãn đang bị cô lập, cấm vận và kiệt quệ... Vậy thật sự nước Nga hiện tại ra sao?
Tôi trở lại thăm Nga sau 7 năm, ngạc nhiên bởi những đổi thay của nó. Nếu chỉ nhìn bề ngoài thôi thì có vẻ hầu như tất cả đã đẹp hơn, lịch sự hơn, tốt hơn rất nhiều. Những đại lộ giữa Moscow với cả gần chục lanes mỗi chiều, những cao ốc kính lấp lánh không khác gì tại các downtown của các đô thị của Mỹ, những dãy cửa hàng sang trọng tập trung tất cả các nhãn hiệu thời trang danh tiếng thế giới, những siêu thị thực phẩm đầy ắp thức ăn... Không còn cảnh dày đặc cảnh sát vũ trang mang áo giáp lăm lăm súng tiểu liên trên mỗi góc phố như trước kia. Cảnh sát giao thông cũng vắng bóng, các camera giám sát giao thông dày đặc, phiếu phạt được gửi về theo bưu điện kèm theo hình ảnh chứng minh. Không còn thấy cảnh các nhóm đầu trọc hung hãn quấy rầy du khách. Giới trẻ dùng tiếng Anh phổ thông hơn trong giao tiếp...
Nếu đến nước Nga vào khoảng thời gian Tháng Chín, du khách sẽ cảm thấy một nước Nga thật thơ mộng. Cuối Thu nhưng trời chưa quá lạnh vì đang “mùa Hè rớt,” nắng vẫn lấp lánh trên những nóc giáo đường dát vàng rực rỡ. Cái lạnh chỉ đủ để khoác lên người chiếc jacket mỏng làm dáng. Khắp nơi, mọi chốn hầu như chỉ một màu vàng, của cây cỏ, của thiên nhiên.
Lang thang trên các nẻo đường, góc phố Moscow hay Saint Petersburg, du khách ngỡ ngàng bởi kiến trúc cổ kính, những giáo đường lộng lẫy, những con sông uốn mình soi bóng những lâu đài trầm mặc...
Lãnh tụ Lenin lăn lóc dưới đất cùng nồi niêu, xoong chảo. (Hình: Phương Ðoàn)
Không những bị mê hoặc bởi sắc đẹp của thiên nhiên và kiến trúc, du khách sẽ còn “mê” nước Nga hơn vì giá cả hiện nay đều... quá rẻ, khi quy tiền Nga ra tiền Ðô La. ($1 đổi được khoảng 66 rub).
Vé tàu điện ngầm tại S. Petersburg là 30 rub (tức chỉ gần 50 xu Mỹ) cho 1 lần đi không giới hạn khoảng cách. Vé một ngày ở Moscow là 200 rub (khoảng $3), không giới hạn số lần sử dụng.
Thịt bò loại ngon khoảng $5/kg. Có cả crawfish (còn tươi, sống, loại to khoảng 10 con/kg giá $9. Loại nhỏ hơn khoảng $6/kg). Giá bia rượu khoảng bằng một nửa so với Mỹ, ngoại trừ một số đồ nhập khẩu. Giá dịch vụ ăn uống cũng vậy. Với khoảng $20-$30 trong túi, du khách có thể tự cho phép mình ghé hầu như mọi quán sang trọng ở trung tâm, ngồi nhâm nhi bia rượu với đồ nhắm mà không phải lo nghĩ nhìn vào giá ở... menu. Nếu chỉ quanh quẩn ở Moscow, St. Petersburg hay vài thành phố lớn nữa thì, đối với du khách, nước Nga quả là “tuyệt vời.”
Ðúng, nước Nga thật tuyệt vời, nhưng chỉ đối với du khách!
Tôi theo một người bạn đến thành phố Lipesk, cách Moscow khoảng 500 km về phía Nam. Ðây là thành phố công nghiệp có tiếng ở Nga với những building kiến trúc thô kệch mà ngay cả người Nga cũng phải thốt lên là “quái thai.”
Ngay trong thành phố vẫn có những con đường lầm bụi, chi chít ổ gà như trong thời chiến tranh khiến xe không thể tránh mà chỉ có thể cố điều khiển làm sao cho bánh xe rơi xuống hố một cách... nhẹ nhàng nhất. Mới sáng Thứ Hai đầu tuần mà trên bến xe bus ngay trung tâm thành phố đã có người say rượu nằm sóng soài ngay trên lề đường. Khác hẳn với vẻ mặt rạng rỡ, viên mãn của người Moscow hay St. Petersburg, con người Lipetsk trông khắc khổ, ủ dột, đậm nỗi suy tư... Tôi thắc mắc với người bạn (là người Nga) sao không thấy cô gái đẹp nào trên đường phố. Anh trả lời, vừa chua chát, vừa phóng đại: “Gái đẹp lên Moscow làm điếm hết rồi!”
Chúng tôi ghé vào một công sở, nơi chuyên cung cấp giấy phép cho các doanh nghiệp toàn Lipetsk và vùng lân cận. Vào toilet thì thấy chiếc “xí xổm” (tức loại ngồi chồm hổm, vốn rất thịnh hành ở Việt Nam thời xa xưa), không có giấy toilet, không có xà bông rửa tay, nhưng lại có... chén bột giặt! Tôi mang điều này ra kể cho người bạn Nga, anh ta lại một lần nữa nhún vai: “May mà còn có chỗ để đái.”
Cờ nhung, nội dung “dưới ngọn cờ của Chủ Nghĩa Marx-Lenin, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản, tiến lên tới chiến thắng của Chủ Nghĩa Cộng Sản,” cũng ra chợ trời luôn. (Hình: Phương Ðoàn)
Mà cần gì phải đi xa đến 500 km, chỉ cần ra khỏi Moscow là đã thấy một bức tranh hoàn toàn khác với sự lộng lẫy, hào nhoáng của thủ đô nước Nga.
Một hôm, tôi đi chợ trời nằm tại thành phố nhỏ Khimki, cách Moscow khoảng 80 km. Ở đây đường phố đã hẹp hẳn, những ngôi nhà gỗ xiêu vẹo, hoang tàn... Khác với chợ trời Mỹ quy củ trên những sân vận động hay bãi đậu xe của các trường học, chợ trời ở Nga được họp trên một mảnh đất hoang đầy bụi, khấp khểnh sỏi đá... Phong cách nhếch nhác, hàng hóa nhếch nhác, người bán cũng nhếch nhác... Chợ trời Mỹ hầu như người bán là chuyên nghiệp, nguồn hàng thường là từ những người không còn nhu cầu sử dụng nữa, trong đó có cả đồ mới toanh. Còn ở Nga phần lớn người bán nghiệp dư, mang những thứ mình đang dùng ra bán, vì túng tiền.
Tôi thật sự đau lòng khi nhìn thấy một bà cụ người Nga đứng rao bán những chiếc túi ni lon đã cũ, đã sử dụng. Nhìn trang phục và nét mặt khắc khổ của bà, tôi hiểu những chiếc túi cũ này là nguồn thu nhập chính cho cuộc sống của bà và tôi đã rất ân hận về sau khi tự dằn vặt mình là sao không mua giùm bà vài cái.
Ði chợ trời chủ yếu là để quan sát chứ không có nhu cầu mua sắm nên tôi thường đứng lâu ở một nơi, đảo mắt nhìn xung quanh. Một phụ nữ đứng tuổi đứng rao chào bán loại keo dính kim loại, một hộp chỉ 15 rub mà mãi không có khách mua. Tôi nhẩm tính phải bán được hơn 4 chai mới được $1. Vậy một ngày bà có thể bán được bao nhiêu chai để đủ sống? Thấy tôi chăm chú nhìn, bà quay sang cười hỏi: “Này, dân tộc Việt Nam, tìm cái gì ở đây thế?” Cả hai bắt chuyện, bà kể, trước đấy bà dạy trung cấp kỹ thuật, có dạy cả học sinh từ Việt Nam sang du học nữa. Chồng bà cũng dạy sinh viên Việt Nam. Hỏi về cuộc sống hiện tại, bà ngán ngẩm lắc đầu nói đồng lương hưu chết đói, “kiếm sống từng bữa chứ tương lai vô định không biết sẽ đi đến đâu.” Khi nghe tôi kể về nơi tôi từng học trước đây trên lãnh thổ Liên Xô (cũ), bà phẩy tay: “Ðó không phải là thành phố của chúng tao. Ðó không phải là Nga.” Câu nói của bà toát lên đặc trưng cố hữu của dân Nga: Tự kiêu về nguồn gốc của mình và tự ti vì cứ nghĩ rằng người ta không coi trọng mình.
Một điểm đặc biệt của chợ trời Nga là bày bán rất nhiều những gì thuộc về “tàn tích, tàn dư” thời Xô Viết. Chân dung các lãnh tụ Cộng Sản như Lenin, Kark Marx... nằm la liệt giữa những đống xoong nồi lủng củng, giữa đám đất lầm bụi... khiến người xem thoáng có những suy tưởng so sánh chua xót, mỉa mai và hài hước về lý tưởng cao xa và thực tế trần trụi. Những lá cờ nhung màu đỏ thêu chỉ vàng ca ngợi về những thành quả của Chủ Nghĩa Xã Hội với những câu khẩu hiệu đanh thép, tự tin về sự bất diệt của Marx-Lenin... giờ nằm lăn lóc trên các tấm ni lông sơ sài đặt trên mặt đất. Một quá khứ đầy hoang tưởng.
Khi nghe lời thán phục về giá cả rẻ ở Nga, người bạn Nga bĩu môi: “Ðó chỉ là rẻ đối với dân du lịch có Ðô La Mỹ thôi chứ dân Nga khổ lắm. Bởi vì đồng lương nhận bằng rub hầu như vẫn vậy nhưng vật giá lại tăng theo sự lạm phát. Tuy vật giá tăng chưa bằng với mức độ mất giá của đồng rub, đối với dân chúng thì đó cũng là sự quá tải về ngân sách thu chi của gia đình. Ví dụ, trước khi bị Mỹ và Tây Phương cấm vận và giá dầu đang cao, 30 rub đổi được $1, còn giờ đây thì phải gần 66 rub mới được $1. Giá cả thiết yếu tăng ít nhất 30% nên mới có nghịch lý “du khách thì rẻ, người Nga thì đắt.” Sự mất giá của đồng rub quả là cơn ác mộng của người bản xứ.
Người đóng giả các nhân vật nổi tiếng để kiếm sống. Cô gái đóng vai nữ hoàng Nga, Ekaterina Ðệ Nhị, phía xa là Stalin, Quảng Trường Ðỏ. (Hình: Phương Ðoàn)
Với một bề ngoài hào nhoáng, nước Nga đang vật lộn, trăn trở với thực tế khắc nghiệt, phũ phàng. Tổng thống Putin trong phát biểu trả lời phỏng vấn Thông Tấn Xã Nga, TASS, nói rằng việc đồng rub mất giá... có lợi cho ngân sách. Ông lý luận: “Trước đây chúng ta bán hàng, $1 thu về được 32 rub. Còn bây giờ cũng món hàng đó, $1 chúng ta thu được... 45 rub. Ngân sách được tăng lên chứ không phải là giảm đi!”
Có lẽ đây là phép trấn an dư luận và tự trấn an bản thân chứ hơn ai hết, ông Putin thừa biết Nga phải mất 10 năm phát triển kinh tế nữa mới vượt qua được khủng hoảng tài chính do cấm vận lúc này.
Phải khách quan mà nhận xét thì những biện pháp kích thích “lòng tự hào dân tộc” của chính phủ Nga hiện tại đã mang lại kết quả tích cực giúp dân Nga quên đi phần nào những khó khăn kinh tế.
Khi đi chợ trời ở Nga khoảng cuối Tháng Chín, lúc mặc cả mua một món đồ cổ, tôi trả giá bằng USD và nói là người bán sẽ có lợi khi giữ ngoại tệ vì đồng rub Nga mất giá từng ngày. Người này hùng hồn trả lời: “Hãy chờ đấy, vài ngày nữa máy bay Nga sẽ ném bom Syria và đồng rub sẽ có giá trở lại!” Y như rằng, ngày 30 Tháng Chín, Nga tham chiến trên không tại Syria và đến giữa tháng 10 thì $1 đổi chỉ được còn khoảng 63 rub. Nhưng hiệu quả của sự “lên gân cơ bắp” bằng quân sự không giữ được lâu: Ðến Tháng Mười Hai, đồng rub tiếp tục đà mất giá. Một đô la đổi được đến 70 rub.
Trong bối cảnh bị phương Tây cấm vận, nước Nga đang gồng mình để tồn tại. Những biểu tượng búa liềm Xô Viết lại xuất hiện nhiều hơn trên những đường phố, tượng Kark Marx vẫn đứng sừng sững ngay sát Quảng Trường Ðỏ, một số tượng các lãnh tụ Xô Viết cũ được phục chế... Nước Nga đang lấy “hào quang” của quá khứ để trấn an hiện tại.
Giới chính trị Nga hiểu được tâm lý người Nga, và lợi dụng tâm lý ấy. Bản tính chung của người Nga là vừa giản dị đến dân dã (hay gọi là cục mịch cũng không sai), vừa rất đôn hậu. Tôi nhớ mãi một buổi chiều ngồi trầm tư trong công viên nơi thi hào Pushkin từng ngồi để viết nên những bài tơ tình bất hủ thì một người đàn bà Nga đẩy xe nôi dẫn cháu đi dạo ngang qua. Bà dừng lại âu yếm nhắc tôi - một người ngoại quốc hoàn toàn xa lạ: “Cẩn thận, trời lạnh lắm, ngồi như vậy có thể bị cảm đấy!” Thật sự là tôi cảm động, sống mũi cay xè.
Tôi bỗng nhớ lại thời điểm đứng ở Quảng Trường Ðỏ, vỗ vai nói với người đóng giả Lenin: “Nếu không có Lenin thật thì anh đã không phải làm Lenin giả để kiếm sống như vầy. Nước Nga xứng đáng nhiều lần hơn thế này.”-


Cuộc chiến các giá trị với Nga Anders Fogh Rasmussen – Project Syndicate
Biên dịch: Trần Anh Phúc | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp 27/04/2015
Nguồn: Anders Fogh Rasmussen, “A War of Values with Russia”, Project Syndicate, 20/04/2015.
Giới chức Nga gần đây đã đe dọa nhắm tên lửa hạt nhân vào các tàu chiến Đan Mạch nếu Đan Mạch tham gia hệ thống phòng thủ tên lửa của NATO. Đây rõ ràng là một mối đe dọa gây phẫn nộ nhằm vào một đất nước không có ý định tấn công Nga. Nhưng nó cũng phản ánh một yếu tố cơ bản hơn trong chính sách đối ngoại của Kremlin: sự tuyệt vọng trong nỗ lực duy trì ảnh hưởng chiến lược của Nga tại một thời điểm xuất hiện những thách thức chưa từng có đối với quyền lực của nó.

Tất nhiên, các nhà lãnh đạo của Nga biết rất rõ rằng phòng thủ tên lửa của NATO không nhằm trực tiếp vào đất nước của họ.
Khi tôi giữ chức Tổng thư ký NATO từ năm 2009 đến năm 2014, chúng tôi liên tục nhấn mạnh rằng mục đích của phòng thủ tên lửa là để bảo vệ các thành viên thuộc Liên minh khỏi các mối đe dọa từ bên ngoài khu vực châu Âu – Đại Tây Dương. Bất cứ ai chỉ với một kiến ​​thức sơ đẳng về vật lý và kỹ thuật – hai chủ đề mà người Nga vốn vượt trội – đều có thể thấy rằng hệ thống được thiết kế để thực hiện chính mục đích đó.
Những đe dọa hạt nhân của Nga đối với Đan Mạch và những nước khác là những dấu hiệu của một quốc gia đang suy yếu về kinh tế, nhân khẩu học và chính trị. NATO đã không đối xử một cách hung hăn đối với Nga giống như tuyên truyền của Kremlin. Cuộc xung đột hiện nay giữa Nga và phương Tây – tập trung vào cuộc khủng hoảng ở Ukraine – về bản chất là một cuộc đụng độ của các giá trị.
Hãy nhớ lại cách cuộc xung đột Ukraine bắt đầu: Hàng chục nghìn người dân Ukraine thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong các cuộc biểu tình chủ yếu ôn hòa, đã yêu cầu việc ký một thỏa thuận liên kết với Liên minh châu Âu. Không ai kêu gọi một cuộc tàn sát chống lại những người nói tiếng Nga ở Ukraine, bất chấp những tuyên bố trái ngược của Kremlin. Và vai trò thành viên NATO (của Ukraine) không phải là một phần của thỏa thuận này.
Tuy nhiên, Nga đã phản ứng một cách nhanh chóng và gay gắt. Rất lâu trước khi bạo lực nhấn chìm các cuộc biểu tình, các quan chức Nga đã bắt đầu buộc tội những người biểu tình là những phần tử phát xít mới, những kẻ cực đoan và khích động. Ngay khi Tổng thống Ukraine lúc đó là Viktor Yanukovych trốn chạy khỏi Kiev, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã bắt đầu khởi động quá trình sáp nhập Crimea.
Đây không chỉ là một sự vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế mà còn trái ngược rõ ràng với lời tuyên bố khăng khăng của Nga rằng không nước nào có quyền bảo đảm an ninh của mình mà làm phương hại an ninh của nước khác. Những người biểu tình Ukraine đã tuần hành chống chính phủ của họ, không phải chính phủ của Nga. Thật vậy, quan niệm cho rằng Ukraine có thể gây ra mối đe dọa quân sự cho Nga hoàn toàn vô lý. Thậm chí nếu Ukraine là một thành viên NATO, một cuộc chiến tranh xâm lược chống lại Nga cũng sẽ là một kịch bản vô lý, vì nó sẽ không phục vụ bất cứ lợi ích gì của các đồng minh.
Đối với Nga, mối đe dọa do những người biểu tình Ukraine gây ra là mang tính sống còn. Với việc yêu cầu thay đổi, tự do và dân chủ – ngay ở khu vực tiếp giáp với Nga – những người biểu tình đã thách thức mô hình “dân chủ tập quyền” (sovereign democracy) của Putin, trong đó Tổng thống loại bỏ tất cả các phe đối lập, hạn chế tự do truyền thông và rồi nói với người dân rằng họ có thể lựa chọn các nhà lãnh đạo của mình. Kremlin lo sợ rằng nếu người Ukraine đạt được những gì họ muốn, người Nga có thể được truyền cảm hứng để đi theo những tấm gương đó.
Đó là lý do tại sao các nhà lãnh đạo của Nga đã quá say sưa với việc “gắn mác” cho các nhà lãnh đạo của Ukraine là phát xít và những người ghét Nga. Đó là lý do tại sao trong nhiều năm họ đã miêu tả các nước vùng Baltic là những kẻ đàn áp bất thường các công dân Nga. Và đó là lý do tại sao bây giờ họ đang mô tả chân dung EU là suy đồi, vô đạo đức và tham nhũng. Kremlin đang cố gắng hết sức để thuyết phục người Nga rằng dân chủ tự do là xấu và rằng cuộc sống dưới thời Putin là tốt. Điều đó đòi hỏi không chỉ lan truyền những lời dối trá gây tác động xấu ở trong nước, mà còn cần gieo rắc bạo lực và bất ổn ở các nước láng giềng.
Đối mặt với một cuộc tấn công tuyên truyền ồ ạt của Nga, phương Tây phải tiếp tục đứng lên ủng hộ Ukraine, cũng như Gruzia và các thành viên NATO như Estonia, Latvia và Litva. Dù có hứng chịu bất cứ thương đau nào, chúng ta vẫn phải duy trì – và nếu cần thiết, làm sâu sắc hơn – các biện pháp trừng phạt nhằm vào Nga và củng cố tiền tuyến của NATO. Và chúng ta phải đối mặt với thực tế rằng, sau cùng, chúng ta có thể phải trả giá cho sự phòng thủ của chúng ta.
Sức mạnh lớn nhất của phương Tây là dân chủ; đó là những gì đã cho phép chúng ta có thể đảm bảo hòa bình cho hai thế hệ và chấm dứt chế độ cộng sản ở châu Âu gần như không phải bắn một phát súng nào. Mặc dù nền dân chủ tự do còn chưa hoàn hảo, nó vẫn là sự bảo vệ tốt nhất chống lại chủ nghĩa cực đoan và tính không khoan dung – và là người bảo vệ quyền lực nhất cho sự tiến bộ của con người.
Nếu phương Tây cho phép Nga tấn công các nước láng giềng đơn giản vì họ có thể truyền cảm hứng cho người Nga để theo đuổi sự cải cách, nó sẽ gửi đi thông điệp rằng các giá trị dân chủ là không đáng để bảo vệ. Nó sẽ làm suy yếu vai trò của phương Tây như là một mô hình của sự thịnh vượng và tự do mà các xã hội trên toàn thế giới muốn noi theo. Và nó sẽ loại bỏ không chỉ uy tín đạo đức còn lại của phương Tây, mà cả ý nghĩa mục đích làm nên sinh khí cho NATO.
Cách tiếp cận như vậy sẽ khiến phương Tây dễ tổn thương trước các cuộc tấn công của Putin và những kẻ xâm lược tương tự. Và nó sẽ là một cái tát vào mặt đối với tất cả những người đàn ông và phụ nữ dũng cảm trên toàn thế giới dám đánh liều mạng sống của mình mỗi ngày để theo đuổi sự tự do và dân chủ.
Không ai nên bị đánh lừa bởi các nhà tuyên truyền của Kremlin. Các cuộc xung đột ở Ukraine không phải là về Ukraine. Nó cũng không phải là về Nga, hoặc thậm chí là về NATO. Nó là về dân chủ. Phương Tây phải phản ứng phù hợp.
Anders Fogh Rasmussen, cựu Thủ tướng Đan Mạch và Tổng thư ký NATO, là người sáng lập và Chủ tịch của hãng Rasmussen Global.




-Từ Staline tới Putin-Trọng Đạt
Ptin và Stalin
Putin và Stalin
Nước Nga, một giải đất rộng mênh mông bát ngát chiếm 1/6 diện tích thế giới, một đất nước vĩ đại vô cùng lạnh lẽo, một dân tộc bất hạnh chịu nhiều tang thương đau khổ bị dầy vò xâu xé vì chiến tranh cách mạng, chịu nhiều thảm kịch núi xương sông máu qua những thập niên dài đằng đẵng.
Mùa đông nước Nga lạnh nhất thế giới, thường là bốn, năm chục độ dưới số không. Họ có một nền văn chương giầu vào bậc nhất trên thế giới với nhiều nhà văn hào, thi hào vĩ đại như Léon Tolstoi, Dostoievsky, Pouchkine, Sholokhov… đã được cả thế giới nhất là Tây phương vô cùng ngưỡng mộ.
Thời Nga hoàng, đất nước, xã hội không văn minh bằng Anh, Pháp, cuộc cách mạng tháng 2-1917 nhà lãnh đạo Kerensky lật đổ Nga Hoàng, từ tháng 3 tới tháng 5 ông làm Bộ trưởng tư pháp và chiến tranh, tháng 7 làm Thủ tướng một chính phủ tư sản. Tháng mười 1917 Kerensky bị Lénine cướp chính quyền lật đổ. Người ta thường hiểu lầm cuộc cách mạng vô sản hay cách mạng Bolshevik lật đổ Nga hoàng, thực ra chính quyền tư sản lật đổ chế độ phong kiến (tháng 2) sau đó nhóm Marxist mới cướp lại chính quyền từ tay tư sản (tháng 10).
Mới đầu các lý thuyết gia Mác xít tưởng cách mạng vô sản sẽ nổ ra tại Đức, một nước công nghiệp, nơi phát sinh lý thuyết Marx Engels. Đúng lý thuyết một nước muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa phải là một nước tư bản công nghiệp vì họ có sắn nhiều xưởng máy có khả năng sản xuất nhiều của cải vật chất tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế cách mạng lại diễn ra tại Nga một nước nông nghiệp lạc hậu, sau đó nó cũng phát sinh tại Trung Hoa, Việt Nam … những nước lạc hậu nông vi bản. Những nước nghèo đói, xã hội thối nát là những miếng mồi ngon của Cách mạng, có người nói.
“Con vi trùng Cộng Sản chỉ sinh sôi nẩy nở trong những đống rác xã hội hôi thối”
Lý thuyết vô sản chỉ sống được trong những môi trường dơ bẩn thối tha, những nước Nga, Tầu, Việt Nam , Cuba … nghèo nàn đói rách, xã hội đầy bất công là môi trường thuận lợi nhất cho cách mạng. Những nước này tiến lên Xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn tư bản.
Sau cách mạng 1917 nước Nga lâm vào một cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài từ 1917 cho tới 1922 giữa khoảng 4 triệu lính Hồng quân và 2 triệu rưỡi Bạch Vệ. Khi cuộc chiến kết thúc Hồng quân có một triệu hai và Bạch vệ một triệu rưỡi người tử trận.
Joseph Stalin được cử làm Tổng bí thư Trung ương đảng từ 1922, ông củng cố địa vị mạnh sau khi Lénine chết năm 1924, xóa bỏ những lời kết tội của Lénine. Di chúc Lénine được soạn đầu năm 1923 trong đó có đề nghị truất Staline ra khỏi chức Tổng bí thư Trung ương đảng. Tháng 3-1923 Lénine bị liệt, cuối cùng bản di chúc không loại được Staline khi Lénine mất tháng 1 năm 2014, vợ Lénine muốn di chúc phải được đọc trước Đại hội đảng lần thứ 13, tháng 5 năm 1924. Năm 1926 Staline bị áp lực phải cho đọc bản di chúc trước kỳ họp của Trung ương đảng. Staline đã củng cố địa vị của ông ta những năm cuối thập niên 20, kết án những ai trích dẫn di chúc này coi như phản động.
Sau khi Nikita Khrushchev hạ bệ Staline tại Đại hội đảng kỳ 20 năm 1956, chính phủ cho chính thức in lại di chúc. Từ 1926 bản di chúc đã được đăng đầy đủ trên báo New York Times, trong bộ Lénine tuyển tập, bản dịch tiếng Việt do Hà Nội ấn hành thập niên 70 có ghi lời Lénine;
“Chúng ta không dùng đồng chí Staline nữa, đồng chí Staline là một người thô bạo”
Sau năm 1924 Staline cho xóa bỏ những chỉ trích kết án của Lénine, Staline làm Tổng bí thư cho tới 1952 khi chức này bị bỏ vào năm 1952, ông ta đồng thời làm Thủ tướng từ 1941. Dưới thời Staline, lý thuyết chủ trương chỉ thực hiện xã hội chủ nghĩa trong nước thôi được chấp nhận từ 1924, trái ngược với Léon Trosky chủ trương tiến lên vô sản hóa toàn thế giới. Staline thay đổi chính sách kinh tế mới của Lénine bằng chính sách kinh tế chỉ huy tối đa, xúc tiến một giai đoạn công nghiệp hóa và hợp tác xã để biến nước Nga thành một cường quốc kỹ nghệ. Staline đã đưa nước Nga phong kiến lạc hậu lên hàng cường quốc kỹ nghệ nhưng phải trả giá quá đắt, ông đã làm đổ máu khoảng 10 triệu người.
Thập niên 1930, một thập niên đẫm máu ghê tởm nhất của lịch sử nước Nga khi Staline tiến hành thực hiện Hợp tác xã nông nghiệp, làm ăn tập thể tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa. Staline cho lệnh tiêu diệt những thành phần ăn bám, chống đối, lừng khừng, phản động …Đây là giai đoạn đoạn bắn giết tập thể theo kế họach của Staline.
Sau này Tổng thống Nga Gorbachov tố cáo Staline tắm trong máu, ông cho biết đã thấy danh sách tử hình dài do Staline ký hàng loạt, trong khoảng 1937-1941 có tới 11 triệu người bị giết.
Churchill viếng Kremlin năm 1942, Staline thú thực với ông đã có 10 triệu người bị đổ máu trong giai thực hiện Hợp tác xã, ông nói không thể làm khác hơn được. Phim The Soviet Story nói trong khi ấy tại Đức Hitler theo dõi và khâm phục Staline, trong một khoảng thời gian không dài lắm đã giết được nhiều người như thế.
Năm 1932-33 Staline đã gây nạn đói tại Ukraine khiến 7 triệu người chết. Từ 1934-1939 Staline mớ những cuộc thanh trừng vĩ đại, đẫm máu trong đảng, trong chính phủ, quân đội, ngành tình báo….nhiều triệu người bị coi là kẻ thù của nhân dân bị tù đầy bắn giết trong các trại tập trung từ 1936-1939. Ông ta mở chiến dịch chống kẻ thù trong các khuôn mặt lớn của Đảng CS như các Bolsheviks lão thành, Léon Trosky và phần lớn các Tướng lãnh Hồng quân. Họ bị xử tử với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền, Trosky trốn sang Mễ Tây Cơ bị Staline cho ngưòi tới ám sát năm 1940.
Năm 1939 Staline đàm phán với Anh Pháp để lập liên minh chống Đức Quốc Xã nhưng thất bại, ông ký hòa ước với Đức tháng 8-1939. tháng sau Staline cho chiếm đông Ba Lan trong khi Đức chiếm phía tây Ba Lan.
Hitler trở mặt mở chiến dịch Barbarossa tấn công Sô Viết ngày 22-6-1941 với đạo quân khổng lồ 180 Sư đoàn bộ binh và cơ giới (70% lực lượng) nhưng Staline lại thờ ơ không tin mấy. Quân Nga mặc dù đông nhưng trang bị lỗi thời đã bị Đức đè bẹp ngay từ đầu. Khởi đầu chiến dịch cho tới những ngày gần chót khi quân Đức đã tiến sát Mạc Tư Khoa trong gần nửa năm, họ đã bắt được khoảng 3 triệu tù binh Nga.
Đầu tháng 12-1941, quân Đức chỉ còn cách Mạc Tư Khoa 18 dặm Anh (30km), cả thành phố hốt hoảng tưởng như địch sắp vào tới nơi, Hitler đắc thắng tuyên bố “Cộng Sản Nga đang dẫy chết”. Thế giới nín thở, người ta cho rằng nước Nga đã thua trận, khoảng hơn 200 Sư đoàn chủ lực đã bị đánh tan rã. Nhờ tin tình báo của Tiến Sĩ Sorge cho biết quân Nhật ở Mãn Châu sẽ không tấn Nga như đã dự trù. Staline cho rút 40 sư đoàn tại đây về tăng cường cứu nguy Mạc Tư Khoa, chuyển bại thành thắng, đẩy lui được quân Đức ra xa hằng 100km. Trận Moscow kéo dài từ tháng 10-1941 cho tới tháng 1-1942
Hitler cho tiến xuống chiếm Stalingrad phía nam, vì tiến quá xa thiếu tiếp tế, bị Nga bao vây từ tháng 8-1942 tới đầu tháng 2-1943 quân Đức đầu hàng, Staline thắng một trận lớn nhưng thiệt hại quá nặng, khoảng nửa triệu lính tử trận, nhiều hơn toàn bộ số binh sĩ tử trận của Mỹ trong suốt Thê chiến (400 ngàn). Những năm 1942, 1943 đất nước trở thành bãi chiến trường đẫm máu cho các trận đánh long trời lở đất giữa hàng trăm sư đoàn Nga-Đức.
Những tháng đầu 1944, quân Đức phải rút về phía tây vì thiệt hại nặng, thiếu tiếp liệu, Staline đã đuổi được quân thù ra khỏi đất nước.
Không ai ngoài Staline có thể lãnh đạo thắng lợi trận chiến mà họ gọi là Cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại, Great Patriotic War nhưng với cái giá quá cao. Theo tài liệu do Liên Xô đưa ra là 20 triệu người trong đó một nửa là dân, một nửa là lính (sách báo Liên xô tại Saigon sau 1975) nhưng theo Tây phương tổng cộng có 27 triệu người Nga bị giết trong cuộc Thế chiến (phim Anh-Mỹ: World War II Behind Closed Doors). Ngoài ra (theo tài liệu Nga) có hơn 1,000 tỉnh, thị xã, quận huyện Nga bị phá hủy. Sự lãnh đạo sắt máu tàn bạo của Staline không kể gì tới sinh mạng người dân mà chỉ cần tiến tới mục tiêu chiến thắng.
Thế chiến thứ hai gần kết thúc, Staline họp với Roosevelt, Churchill tại hội nghị Yalta, Mỹ nhường Đông Âu cho Nga để nhờ phụ Mỹ đánh quân Nhật tại Á châu vì địch còn mạnh. Staline truy kích Đức Quốc Xã đầu năm 1944 và chiếm luôn các nước Đông Âu như Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức… tại những nước này quân Nga lấy hết vàng bạc, quí kim, ngoại tệ trong các ngân hàng đem về.
Staline chủ trương chỉ tiến lên xã hội trong một nước nhưng cuối Thế chiến nhân đánh đuổi quân Đức rồi chiếm các nước Đông Âu dựng lên nhiều chính quyền Cộng Sản. Nhân dịp này ông ta tiến lên vô sản hóa thế giới không bằng đấu tranh giai cấp mà bằng họng súng đẻ ra chính quyền. Cuộc Thế chiến là cơ hội nghìn vàng cho CS bành trướng rất nhanh mà chính họ cũng không ngờ.
Ngày 6 và 9 tháng 8-1945 Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố lớn ở Nhật, ngay sau đó một triệu rưỡi quân Nga tấn công lộ quân Quân Đông Nhật tại Mãn Châu. Sự thực Sô Viết chỉ nhẩy vào ăn có sau khi Mỹ đã ném bom nguyên tử, khoảng một triệu quân Nhật đầu hàng. Người Nga lấy kho vũ khí to lớn của Nhật kể cả xe tăng thiết giáp giao cho Mao Trạch Đông, thật là giáo vào tay giặc. Nga cũng tháo gỡ hết các nhà máy tại đây đem về nước.
Giữa năm 1946 cuộc nội chiến Trung Hoa giữa Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông nổ ra, Mỹ giúp Tưởng, Nga giúp Mao.. sau mấy năm chinh chiến, Mao thắng trận, Tưởng đại bại. Ngày 1-10-1949, Mao tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thủ đô là Bắc Bình, nay đổi là Bắc Kinh. Cuối năm 1949 Tưởng và khoảng 2 triệu Quốc Dân Đảng chạy khỏi Đại lục tới đảo Đài Loan.
Thế là Staline lập được một đế quốc CS mênh mông từ Âu sang Á y như đế quốc Mông cổ của Thành Cát Tư Hãn bẩy thế kỷ trước, nước Tầu rơi vào tay CS làm lệch cán cân giữa Thế giới tự do và Xã hội chủ nghĩa Sô viết. Mặc dù đã bị Đức Quốc Xã đập cho một trận nên thân, Nga không lo tái thiết mà vẫn không ngừng bành trướng.
Cuối tháng 8-1949, Nga thí nghiệm thành công bom nguyên tử lần đầu nhờ đánh cắp tài liệu Mỹ. Giữa năm 1950 Staline giúp Bắc Hàn tấn công chiếm Nam Hàn, Mỹ vào can thiệp, sau mấy năm chiến tranh tàn khốc, hai bên ký đình chiến tháng 7-1953 Staline mất ngày 5-3-1953 sau gần 30 năm cầm quyền.
Nikita Khrushchev
Ông là người kế vị Staline, giữ chức Bí thư thứ nhất đảng CS Nga từ 1953 tới 1964, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng hay Thủ tướng từ 1958 tới 1964. Khrushchev là người hạ bệ Staline và yểm trợ chương trình không gian Nga và có một số cải cách trong nội trị, chú trọng nâng cao đời sống nhân dân. Năm 1964 ông bị Bộ chính trị đảng lật đổ và đưa Leonid Brezhnev lên thay, xuất thân công nhân kim loại thời trẻ tuổi, thời nội chiến ông là Ủy viên chính trị, ủng hộ cuộc thanh trừng của Staline. Năm 1939 Khrushchev được Staline gửi tới Ukraine tiếp tục thanh trừng tại đó, ông làm chính ủy thời Thế chiến, sau 1945 ông về Ukraine và được Staline gọi về làm cố vấn.
Nikita Khrushchev
Nikita Khrushchev
Sau 1953 ông ta dành được quyền. Khi đã diệt hết tay chân của Staline, năm 1956 trong kỳ Đại hội đảng lần thứ 20 ông ta tố cáo cuộc thanh trừng, tố cáo tội ác của Staline và bắt đầu một chính sách cai trị ít đàn áp hơn. Khruschev cải thiện cuộc sống ngưòi dân nhưng ít kết quả nhất là nông nghiệp. Từ 23-10-1956 cho tới 10-11-1956 cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi tại Budapest đòi tự do bị Khrushchev cho xe tăng đàn áp dã man có khoảng 2,500 người Hung bị thiệt mạng, quân Nga có 700 người chết.
Ông hy vọng nhiều ở hỏa tiễn và giảm bớt lực lượng thuộc chiến tranh qui ước, tuy cắt giảm nhưng ông cũng gặp nhiều căng thẳng trong chiến tranh lạnh nhất là vụ khủng hoảng hỏa tiễn tại Cuba trong 13 ngày căng thẳng tháng 10-1962 Mỹ-Nga về hỏa tiễn Xô viết đặt tại Cuba đã được đưa lên truyền hình trên toàn thế giới và đã suýt đưa tới chiến tranh nguyên tử toàn diện.
Để trả đũa vụ Mỹ xâm lược Vịnh Con Heo năm 1961 và Mỹ đặt hỏa tiễn tại Thổ Nhĩ Kỳ, Ý mà Moscow nằm trong tầm, Khrushchev theo yêu cầu của Cuba đặt hỏa tiễn mang đầu đầu đạn hạt nhân tại đây để ngăn ngừa Mỹ xâm phạm như vụ Vịnh Con Heo sau khi ông ta họp mật với Fidel Castro tháng 7.
Tháng 10-1963 Mỹ đang có tranh cử Tổng thống, máy bay do thám U-2 khám phá ra hỏa tiễn tầm trung nguyên tử tại Cuba , TT Kennedy làm dữ cho ngăn chận tầu Nga mang hỏa tiễn tới và buộc phải tháo gỡ hỏa tiễn đã gắn tại Cuba mang về Nga. Sau cuộc thương thuyết căng thẳng đạt tới thỏa thuận giữa Kennedy và Khrushchev, Nga tháo gỡ hỏa tiễn tại Cuba mang về có Liên Hiệp Quốc giám sát, ngược lại Mỹ sẽ phải thỏa thuận không được xâm lược Cuba mà không tuyến chiến. Mỹ cũng bí mật tháo gỡ hỏa tiễn tại Ý, Thổ Nhĩ Kỳ đem về nhưng không tuyên bố cho dân biết.
Sau đó Mỹ-Nga thỏa thuận thiết lập đường giây điện thoại nóng giữa Moscow và Washington để ngăn ngừa Thề chiến mà cả hai bên cùng sợ, tình hình đã dịu sau đó.
Năm 1949 Nga thỏa thuận sẽ giúp Trung Cộng chế tạo bom nguyên tử, sau 1956 khi Khrushchev hạ bệ Staline khiến Nga-Hoa lạnh nhạt rồi căng thẳng, Mao tức giận vì Khrushchev không hỏi ý kiến Mao trước, ông này âm mưu phá Khrushchev đang muốn hòa hoãn với Mỹ. Nga cho rút các chuyên viên nguyên tử về nước 1959. Năm 1960 hai bên công khai chỉ trích, xỉ vả nhau ngày càng dữ dội, Trung Cộng chỉ trích Nga là xét lại sự va chạm hai bên gia tăng.Ngày 16-10-1964 Trung Cộng thành công cho nổ trái bom nguyên tử đầu tiên nhờ đánh cắp tài liệu Mỹ, cùng năm đó Khrushchev bị Leonid Brezhnev và Trung ương đảng lật đổ tháng 10 khi ông vắng mặt, người ta cũng cho là Mao lật đổ Khrushchev và cho nổ bom nguyên tử.
Leonid Brezhnev
Ông giữ chức Tổng bí thư Trung ương đảng Sô Viết từ tháng 10-1964 cho tới khi chết tháng 11-1982, tổng cộng 18 năm, làm Tổng bí thư lâu nhất sau Staline, ông giữ chức Chủ tịch Liên Bang Sô viết từ tháng 6-1977 tới tháng 11-1982. Dưới thời Brezhnev ảnh hưởng Nga trên thế giới sút giảm mạnh phần vì phát triển quân sự đánh dấu thời kỳ sự trì trệ xã hội, kinh tế của Liên bang Xô viết.
Leonid Brezhnev
Leonid Brezhnev
Tốt nghiệp kỹ sư ngành luyện kim tại Ukraine , ông tham gia Thanh niên xung phong năm 1923, sau đó vào quân đội tham gia Thế chiến Thứ hai. Năm 1946 giải ngũ khi mang cấp bậc Trung tướng, năm 1952 ông trở thành Ủy viên Trung ương đảng, năm 1964 kế vị Khrushchev trong chức Bí thư thứ nhất trong khi Kosygin kế vị chức Thủ tướng.
Ông thường hỏi ý kiến các cộng sự trước khi hành động nhưng lế lối cầm quyền thiếu cải cách kinh tế khiến đưa tới suy thoái giữa thập niên 1970, thời kỳ bị đình trễ. Chi phí quốc phòng lên cao vì chạy đua vũ trang khoảng 12.5% tổng sản lượng, các nhà lãnh đạo Nga giai đoạn này nói chung già nua thiếu khả năng khiến Tổng sản lượng kinh tế sút giảm so với Tây phương. Theo lượng giá CIA, từ 1960-1965 tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Nga là 4.8, từ 1970-1975 tụt hậu còn 3.00, từ 1980-85 tụt xuống còn 1.8. Kinh tế gia Samuelson nói trong cuốn Economics trang 830 (in 1970).
“Thập niên 1970 cũng như thập niên 1960 Tổng sản lượng kinh tế của Nga vào khoảng một nửa Tổng sản lượng Mỹ”
(In the 1970s, as in the 1960s, U.S.S.R real GNP is about one-half United States real GNP)Brezhnev thúc đẩy hòa hoãn với Tây phương theo lời kể của Henry Kissinger trong White House Years (chương 8, The Agony of Vietnam tr. 276-311) , năm 1969 Nga muốn đàm phán với Mỹ về tài giảm binh bị. Cuối tháng 5-1972 TT Nixon sang Moscow ký với Brezhnev hiệp ước tài giảm binh bị vũ khí hạt nhân.
Tuy thế năm 1968 ông ra Thuyết Brezhnev cương quyết trấn áp một nước trong khối xã hội chủ nghĩa một khi có ý muốn chuyển qua tư bản, nó không chỉ liên quan tới nước đó nhưng liên hệ tới cả khối CS. Cuối năm 1979 Nga đưa quân qua Afghanistan để giúp chính phủ thân Nga chống lại cuộc nổi dậy, cuộc chiến sa lầy 9 năm cho tới đầu năm 1989 đã khiến 14,453 lính Nga bị giết. Trong No More Vienams trang 214 (in 1985) Cựu Tổng thống Nixon khâm phục Nga nói trừ Afghanistan họ đưa quân đàn áp phong trào chống chính phủ bù nhìn Nga, Moscow đã thống trị được 9 nước kể từ 1974 mà không phải gửi quân vào. Thật vậy Sô viết chỉ đứng ngoài dựt giây đã chiếm được nhiều nước.
Thuyết Brezhnev được tuyên bố để biện minh cho việc Nga đưa quân sang Tiệp Khắc tháng 8-1968 đàn áp cuộc nổi dậy tại Prague cũng như sự đàn áp tại Hung gia Lợi từ năm 1956.
Khrushchev bị lật đổ phần lớn vì ông không quan tâm tới các Ủy viên cao cấp trong đảng và chính phủ, thời Brezhnev nước Nga do một tập thể cai trị từ thập niên 60 cho tới 70.
Quan hệ với Trung Cộng ngày càng xuống, hai bên đã chạm súng nhau tại biên giới tháng 3-1969, Nga có 59 người Thiệt mạng, Trung Cộng từ 200 tới 800 người, cả hai bên đều dấu kín chuyện này.
Khrushchev mới đầu trợ giúp Bắc Việt trong tình đồng chí nhưng khi chiến cuộc leo thang ông kêu gọi các lãnh đạo BV từ bỏ con đường giải phóng miền Nam . Ông từ chối giúp BV và bảo họ thương thuyết với Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Sau khi Khrushchev bị lật đổ, Brezhnev tiếp tục giúp CSVN dấn thân vào cuộc chiến đẫm máu, nhất là thập niên 70, Nga viện trợ quân sự cho BV rất nhiều để chiếm cho được miền nam VN và toàn cõi Đông dương.
Yuri Andropov
Hai ngày sau khi Brezhnev chết, Andropov được bầu làm Tổng bí thư đảng CS Sô viết từ tháng 11-1982 cho tới khi chết 14 tháng sau đó. Từ 1967 Andropov làm Giám đốc KGB, đây là lần đầu tiên một Giám đốc KGB được bầu làm Tổng bí thư. Trong thời gian tại chức, ông đã cách chức 18 bộ trưởng, lần đầu tiên những sự kiện trì trệ kinh tế hoặc khoa học trở ngại tiến bộ được cho phổ biến và chỉ trích.
Yuri Andropov
Yuri Andropov
Mặc dù nhận thấy chiến tranh Afghanistan có thể là sai lầm nhưng ông không thành tâm nghĩ tới thương thuyết để rút quân. Dưới thời Andropov quan hệ Nga-Mỹ xấu đi, họ không muốn hoà hoãn, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan coi Xô Viết là một Đế quốc xấu, nguy hiểm.
Một việc đáng lưu ý trong thời gian làm Tổng bí thư, ông đã trả lời thư một cô gái Mỹ 10 tuổi ở Maine , mời cô sang chơi với trẻ con Nga tại Moscow . Trong khi đó đàm phán tài giảm binh bị hỏa tiễn tầm trung tại Âu châu bị Nga hủy bỏ.
Chiến tranh lạnh lại căng thẳng khi chiến đấu cơ Nga bắn rơi một máy bay hàng không Đaị Hàn từ Anchorage , Alaska Mỹ tới Hán Thành ngày 1-9-1983 bay lạc vào không phận Nga khiến 269 hành khách tử nạn. Chính Nga đã tìm được hộp đen nhưng giả vờ nói không biết cho tới 1992 Yeltsin công bố bí mật này.
Konstantin Chernenko
Andropov chết tháng 2-1984 sau 15 tháng cầm quyền, bốn ngày sau Chernenko được bầu làm Tổng bí thư lên thay trái với ý của Andropov muốn Gorbachev thay ông. Chernenko là Tổng bí thư thứ năm của Sô viết, Gorbachev là nhân vật thứ hai sau Chernenko, thường chủ toạ các phiên họp Bộ chính trị khi Chernenko bị bệnh, về sau sức khỏe suy yếu, Gorbachev luôn thay thế ông.
Chernenko được coi là người trở lại chính sách thời Brezhnev, ông thực hiện một thay đổi nhân vật dưới quyền là cất chức Tổng tham mưu trưởng Thống chế Ogarkov, ông này cổ võ tiết giảm tiêu xài để tăng chi phí nghiên cứu và phát triển quân sự và thay bằng Thống chế Akhromeyev. Về đối ngoại ông ký hiệp thương với Trung Cộng, mặc dù kêu gọi hòa hoãn nhưng ông ta không giảm chiến tranh lạnh với Mỹ .
Chernenko chết bệnh 10-3-1985 sau 13 tháng cầm quyền.
Mikhail Gorbachev
Lên thay Chernenko năm 1985, Gorbachev là người lãnh đạo Liên Bang Sô Viết cuối cùng, ông giữ chức Tổng bí thư đảng CS Nga từ 1985-1991, ngưởi đứng đầu nhà nước từ 1988 cho tới khi giải thể năm 1991. Gorbachev sinh năm 1931 là Tổng bí thư duy nhất sinh sau Cách mạng tháng mười.
Tốt nghiệp đaị học luật, chính sách của ông gồm Mở rộng và Tái cấu trúc (Đổi mới) và họp Thượng đỉnh với TT Ronald Reagan của Mỹ với khuynh hướng tài giảm binh bị chấm dứt chiến tranh lạnh. Ông chủ trương bỏ vai trò đảng cai trị đất nước đưa tới giải thể Liên bang Sô viết. Gorbachev được giải Nobel hòa bình năm 1990 và nhiều giải thưởng hoà bình, tiến sĩ danh dự.
Mikhail Gorbachev
Mikhail Gorbachev
Ông cải tổ đảng trì trệ và kinh tế bằng cởi mở, tái cấu trúc, đổi mới, dân chủ hóa và đẩy mạnh tiến bộ kinh tế tại Đại hội đảng thứ 27 năm 1986, mục đích làm sống lại kinh tế Nga sau những năm trì trệ thời Brezhnev. Gorbachev nói kinh tế trì trệ cần tái tổ chức, cải cách chính gồm:
Cải cách trong nước
Mục đích làm sống lại nền kinh tế, ông chủ trương cải tiến kỹ thuật cấp tốc, tăng sản xuất kỹ nghệ, canh nông, cải tiến chính trị Sô viết cho hữu hiệu hơn. Theo ông muốn cải tổ kinh tế phải cải tổ chính trị xã hội, tháng 5-1985 ông cổ võ canh tân, thay ngoại trưởng Andrei Gromyko người đã giữ chức vụ này 28 năm qua.
Tái cấu trúc (perestroika)
Người ta cũng thường gọi là đổi mới, nó là cơ bản để canh tân giải quyết kinh tế trì trệ, năm 1986 được phác họa tại Đại hội đảng kỳ 27, phát huy dân chủ, chính quyền tự chủ, chỉ trích, phê bình mọi cơ cấu xã hội.
Tháng 1-1987 Gorbachev đề nghị cho nhiều ứng cử viên tham gia bầu cử, những viên chức chính phủ không cần có đảng tịch, không cần phải là đảng viên (CS)
Cởi mở
Gorbachev chủ trương cho người dân quyền tự do ngôn luận, bãi bỏ kiểm duyệt, thả tù chính trị, tù bất đồng chính kiến, ông chấp nhận cho người dân được quyền chỉ trích ông và chính phủ . Năm 1988 ông thực hiện một cải cách lớn nhất từ thời Lenine, đó là chính sách kinh tế mới ra luật cho tư nhân được quyền sản xuất, buôn bán, hoạt động ngoại thương. Mới đầu luật cho đánh thuế cao và hạn chế thuê nhân viên về sau có xét lại để tránh gây trở ngại cho lãnh vực kinh tế tư. Từ đó cửa hàng, cửa tiệm tư, hãng xưởng bắt đầu hoạt động, cho tổ chức nghiệp đoàn. Hoạt động dịch vụ tự trị được khuyến khích để mong đầu tư nước ngoài vào làm ăn. Tháng 6-1988 Gorbachev cho cải cách cấp tiến cắt giảm quyền kiểm soát của đảng CS trong chính phủ, tháng 3-1989 cho bầu cử Quốc hội tự do trên toàn liên bang, đây là cuộc bầu cự tự do lần đầu tiên kể từ 1917 tại Liên bang Xô viết.
Ngày 25-3-1990 Gorbachev được các Đại biểu bầu làm Tổng thống liên bang Sô viết với 59% phiếu bầu, Quốc hội họp lần đầu ngày 25-5 được đưa lên truyền hình bị chỉ trích, người dân muốn cải tổ nhanh hơn nữa. Trong cuộc bầu cử nhiều ứng cử viên của đảng CS thất cử, Yeltsin được bầu ở Moscow và trở thành chính khách nổi luôn chỉ trích Gorbachev
Đối ngoại.
Gorbachev cải thiện bang giao, thương mại với Tây phương , giảm cường độ chiến tranh lạnh. Năm 1986 ông tiến xa trong quan hệ quốc tế, đề nghị hủy bỏ hỏa tiễn tầm trung tại Âu châu và chiến lược của ông để hủy bỏ vũ khí nguyên tử vào năm 2000. Ngày 11-10-1988 Gorbachev và TT Mỹ Reagan họp tại Iceland bàn về tài giảm vũ khí nguyên tử tầm trung. Họ thỏa thuận rời bỏ 100 hỏa tiễn tầm trung khỏi Âu châu, sẽ loại bỏ tất cả vũ khí nguyên tử trong vòng 10 năm vào 1996 thay vì 2000 như Gorbachev lần đầu đề nghị, thực hiện ký kết Thỏa ước hỏa tiễn tầm trung năm 1987.
Tháng 2-1988 ông cho rút khỏi Afghanistan , tổng cộng có 28,000 người Nga bị giết từ 1979-1989. Một sự kiện vô cùng quan trọng là Gorbachev.
tuyên bố bãi bỏ học thuyết Brezhnev (nêu trên) cho phép các nước Đông Âu tự do lựa chọn số phận của họ. Ngày 4-6-1989 Ba Lan cho bầu cử tự do, chính phủ CS bị hạ bệ, Nga bỏ thuyết Brezhnev khiến dân Đông Âu nổi dậy suốt năm 1989 khiến cho chủ nghĩa CS bị hủy bỏ. Cuối năm 1989 cuộc nổi dậy tại thủ đô các nước Đông Âu từ nước này sang nước khác vứt bỏ chế độ CS xây dựng tại đây từ sau Thê chiến thứ hai. Cuộc cách mạng dân chủ tự do bắt đầu từ Ba Lan và sau đó Hung Gia Lợi, Đông Đức, Bảo Gia Lợi, Tiệp Khắc, chỉ có Lỗ Ma Ni (Roumanie) là nước duy nhất dùng bạo lực lật đổ chính quyền Cộng sản, biến cố Thiên an Môn năm 1989 ở Bắc kinh thất bại. Thời kỳ chiến tranh lạnh chấm dứt, Gorbachev được cấp giải Nobel hòa bình 15-10-1989 và nhiều giải thưởng của các nước, nhiều tổ chức trên thế giới. Ngày 9-11 dân Đông Bá Linh tràn qua Tây Bá Linh
Giải thể Liên bang Xô viết
Mặc dù Gorbachev cải tổ tự do dân chủ cho Sô Viết và Đông Âu nhưng kinh tế đi gần tới khủng hoảng , cuối thập nên 80 thực phẩm khan hiếm phải dùng tem phiếu như như thời chiến. So với 1985 khiếm ngạch từ 0 lên 109 tỷ rúp, dự trữ vàng giảm từ 2,000 xuống còn 200 tấn, nợ bên ngoài từ zero tới 120 tỷ đô la.
Vả lại việc dân chủ hóa Sô viết và Đông Âu phá hủy quyền lực của Đảng CS Nga cũng như của Gorbachev, các nước thuộc địa đòi trả độc lập nhất là ba nước Lithuania, Latvia, và Estoniađã bị Staline sáp nhập vào Nga năm 1940. Năm 1989 người Tây phương gọi là cuộc Cách mạng 1989 (Revolutions of 1989) các nước đông Âu từ bỏ chế độ CS và trở lại chế độ dân chủ tự do của họ trước 1945. Ngoài ra các nước trong Liên bang, thuộc địa cũ từ thời Nga Hoàng tuyên bố độc lập, Liên Bang Sô viết tan như xác pháo cuối năm 1991. Mười lăm (15) nước tuyên bố độc lập tách khỏi Liên bang Xô viết là Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Russia, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine, và Uzbekistan. Sự ly khai này đã khiến Nga mất một nửa dân số, trước là 290 triệu nay chỉ còn 145 triệu.
Cách đây 72 năm Lenine đem lý thuyết Marx Engels về thực hiện cuộc Cách mạng vô sản long trời lở đất năm 1917 và bây giờ Gorbachev thực hiện cuộc Cách mạng 1989, giải tỏa xiềng xích chế độ CS áp bức, đem lại dân chủ tự do cho Nga, cho các nước Đông Âu và các nước thuộc địa cũ của Nga từ thuở xa xưa. Gorbachev là người có công lớn với nhân loại, ông đã cứu nước Nga, các nước Đông Âu, các thuộc địa cũ của Liên bang, đem lại tự do bác ái cho nhân dân. Gorbachev người có ảnh hưởng nhất thế giới thập niên 80, đã thay đổi cả một kỷ nguyên, một vĩ nhân của thế kỷ. Chính ông ta đã đào huyệt chôn vùi chế độ CS tại Nga, Đông Âu và cả trên thế giới mặc dù nay các nước CS da vàng còn thoi thóp thở nhưng chúng cũng đang từ từ giẫy chết.
Tháng 8-1991, Ủy ban nhà nước tình trạng khân trương đưa quân nhẩy về Moscow làm đảo chính theo kiểu Nguyễn Chính Thi năm 1960 tại Sài Gòn để lật đổ Gorbachev, ông này bị giam ba ngày tại Crimea . Yeltsin, Tối cao liên bang (Chủ tịch quốc hội) đã đứng trên một chiếc xe tăng hô hào nhân dân chống đảo chính, ông đã dẹp được cuộc phản loạn, nhân dân biểu tình chống quân đảo chính, Gorbachev được cứu tại Crimea.
Cuộc đảo chính của nhóm CS bảo thủ thất bại, người dân không muốn trở lại chế độ hà khắc, tàn bạo, đây là cái quẫy mình cuối cùng của bọn tàn dư CS Nga trước khi chết.
Boris Yeltsin
Sự nghiệp chính trị Gorbachev suy thoái, Yeltsin dần dần nắm được quyền hành từ bộ này sang bộ khác kể cả điện Cẩm Linh. Ngày 6-11-1991 ông ra nghị quyết bãi bỏ tất cả mọi hoạt động của Đảng CS trên đất Nga. Mới đầu ông là người ủng hộ Gorbachev, Yeltsin nổi lên khi thực hiện Tái cấu trúc, đổi mới, ông thành đối thủ chính trị mạnh nhất của Gorbachev. Ngày 29-5-1990 Yeltsin được bầu Chủ tịch Tối cao Sô viết (Chủ tịch Quốc hội). Ngày 12-6-1991Yeltin được bầu theo phổ thông đầu phiếu làm Tổng thống Cộng hòa Xã hội liên bang Sô Viết Nga (Russian Soviet Russian Soviet Federative Socialist Republic), lúc đó là một nước trong liên bang 15 nước. Khi Gorbachev từ chức và Liên bang Số viết giải tán ngày 25-12-1991, Yeltsin giữ chức Tổng thống liên bang Nga, năm 1996 ông tái đắc cử.
Boris Yeltsin
Boris Yeltsin
Ông chủ trương cải tổ kinh tế chỉ huy xã hội chủ nghĩa tới một nền kinh tế thị trường tự do, dưới thời Yeltsin, nhiều suy thoái như lạm phát, tham nhũng, kinh tế khủng hoảng và nhiều vấn đề chính trị xã hội ảnh hưởng nặng nước Nga. Năm 1992 vật giá tăng vọt, thập niên 90 tổng sản lượng suy giảm còn một nửa, thất nghiệp dữ dội, lạm phát phi mã khiến bao nhiếu người mất hết tiền tiết kiệm, mười triệu người Nga lâm vào cảnh bần hàn.
Ông tiếp tục giữ chức Tông thống cho tới 31-12-1999, tỷ lệ ủng hộ xuống không còn gì trong những ngày cuối cùng, một loạt những khủng hoảng kinh tế chính trị khiến Yeltsin không lấy lại được uy tín lúc ban đầu. Ông từ chức ngày 31-12-1999, Thủ tướng Vladimir Putin trở thành tổng thống lâm thời cho tới khi cuộc bầu cử mới được tổ chức ngày 26 tháng 3, 2000.
Vladimir Putin.
Ông giữ chức Thủ tướng Nga từ tháng 8-1999 tới tháng 12-1999, sau đó làm Tổng thống lâm thời do Yeltsin trao lại từ cuối 1999 tới tháng 3-2000. Putin đắc cử Tổng thống 26-3-2000 với 53% số phiếu nhiệm kỳ đầu 2000-2004 và tái đắc cử nhiệm kỳ hai 2004-2008 đồng thời với hai nhiệm kỳ của TT Mỹ Bush con. Ông lại làm Thủ tứớng từ 2008-2012 trong khi Dmitry Medvedev, Thủ tướng của ông lên làm Tổng thống. Putin cũng là chủ tịch đảng Thống nhất Nga, đã phục vụ cho KGB 16 năm, lên tới trung tá trước khi hoạt động chính trị. Ông tham gia chính phủ Yeltsin và lên rất nhanh. Vì hiến pháp chỉ cho làm Tổng thống hai nhiệm kỳ ông không thể ra ứng cử tiếp năm 2008.
Dmitry Medvedev, Thủ tướng của Putin đắc cử Tổng thống 2008 và cử Putin làm Thủ tướng. tháng 9-2011 sau khi luật thay đổi tăng nhiệm kỳ Tổng thống từ 4 lên 6 năm, Putin cho biết ông sẽ ứng cử lần thứ ba (2012) khiến nhân dân biểu tình chống đối tại nhiều thành phố Nga. Ông lại thắng cử Tổng thống năm 2012 (63.6% số phiếu) và sẽ cầm quyến 6 năm, cử Dmitry Medvedev làm Thủ tướng. Đây chỉ là một trò hề bầu cử, ông Tổng thống xuống làm Thủ tướng rồi ông Thủ tướng lên làm Tổng thống, nước Nga trở thành một hí trường cho hai anh hề diễn tuồng bầu bán ma mãnh.
Putin bị trong nước chống đối, bị thế giới coi là dân chủ giả hiệu, người ta cho là nền dân chủ lai căng này sẽ từ từ đưa tới độc tài, năm 2014 Nga bị truất khỏi G-8 vì sáp nhập bán đảo Crimea vào nước họ. Ngày 21-2-2014 Quốc hội Ukraine lật đổ Tổng thống thân Nga Yanukovych và cử TT lâm thời Turchynov lên thay. Mỹ và Tây phương công nhận chính phủ mới, Nga phủ nhận. Hai ngày sau Putin đưa vũ khí lén giúp bọn gốc Nga chiếm bán đảo Crimea, cuối tháng 3 họ tổ chức bầu cử ma mãnh dưới sự yểm trợ xe tăng để sáp nhập bán đảo này vào Nga.
Kinh tế tốt đẹp trong thời kỳ Putin làm Thủ tướng và Tồng thống lần đầu 1999-2008 lợi tức thực sự tăng 2.5 (hai lần rưỡi), lương bổng thực sự tăng gấp ba, thất nghiệp, nghèo nàn giảm một nửa, nhân dân mãn nguyện. Nhiệm kỳ trước của Putin được đánh dấu kinh tế tăng trưởng, kinh tế Nga tiến một mạch 8 năm, Tổng sản lượng tăng 600% , chính phủ giảm thuế. Chính sách năng lượng khiến Nga trở thành siêu cường năng lượng. Putin trợ giúp kỹ nghệ high tech như Quốc phòng, nguyên tử, đầu tư ngoại quốc gia tăng khiến kỹ nghệ xe hơi tăng trưởng. Nay đầu tư vừa giảm 2.5% vì Ukraine khủng hoảng, nước Nga khác thường trong số những nền kinh tế lớn ở chỗ họ dựa vào lợi tức năng lượng dầu, khí để tăng trưởng.
Đất nước được thiên nhiên ưu đãi có đầy tài nguyên thiên nhiên gồm dầu, khí đốt thiên nhiên, kim loại quí…chiếm phần lớn hàng xuất khẩu Nga. Những thập niên 2000 năng lượng nhiên liệu đã thay đổi bộ mặt nước Nga trở thành siêu cường năng lượng như năm 2012 dầu và khí đốt chiếm 16% Tổng sản lượng, chiếm 52% lợi tức ngân sách liên bang và chiếm hơn 70% hàng xuất cảng. Kỹ nghệ quân sự Nga rất cao, năm 2013 vũ khí xuất cảng là 15 tỷ (Mỹ kim) đứng thứ hai sau Mỹ gồm máy bay chiến đấu, phòng không, tầu chiến, tiềm thủy đĩnh …
Từ 2000-2012 xuất cảng dầu khí khiến đời sống người dân tăng, lợi tức tăng 160% nhưng lợi tức phân phối không đều trong khi 110 nhà tỷ phú chiếm giữ 35% tiến của trong nước. Nga cũng bị nạn tiền thất thoát ra ngoại quốc, từ 2000-2012 mất 880 tỷ Mỹ kim.
Nay kinh tế Nga bị suy thoái từ khi sáp nhập bán đảo Crimea, bị Mỹ và Tây phương trừng phạt kinh tế, thị trường chứng khoán lao xuống vực thẳm, đồng Rúp mất giá gần một nửa. Nay giá dầu thô tụt xuống dưới 50 đô so với trên 100 đô nửa năm trước khiến kinh tế Nga càng khốn đốn vì họ sống bằng bán dầu, năng lượng.
Nga hoàn toàn trái ngược với nước Nhật, diện tích Nga nay 17 triệu Km vuông gấp 44 lần nước Nhật (337 ngàn Km2), Nga có rừng vàng biển bạc trong khi Nhật bị thiên nhiên bạc đãi, không có tài nguyên nhưng nhờ trí thông minh, tài năng họ đã chế tạo được các hàng xuất khẩu tuyệt hảo bán khắp năm châu. Kỹ nghệ đã đưa Nhật lên hàng kinh tế lớn thứ nhì trên thế giới thập niên 80, 90 và 2000, chỉ mới xuống hàng thứ ba những năm gần đây. Putin có công đào xới cái “của trời cho” đem xuất cảng đưa đất nước lên hàng cường quốc kinh tế thứ 8 mà trước đó đứng hàng thứ mấy chục.
Cuối thập niên 90 sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, 15 nước trong Liên bang đòi trả độc lập, Đông Âu từ bỏ chế độ CS, nưóc Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, Tổng sản lượng suy giảm còn 50%, lạm phát gia tăng.
Thời mà đế quốc Sô viết đã từng chọc trời khuấy nước nay còn đâu?
Dậu đổ thì bìm bìm leo, nhiều nước nhất là Mỹ, Tây phương khinh rẻ nước Nga hết thời, có người nói đừng coi thường Nga họ vẫn còn cả một kho vũ khí cũ. Đó cũng là lý do thúc đẩy Putin vùng vẫy để lấy lại chút hào quang quá khứ mà nhân dân cũng đồng ý để ông quậy cho đỡ tủi. Ông dật dây dựng lên một chính quyền thân Nga tại Ukraine trước đây để từ từ kéo họ về Nga nhưng thất bại, người Ukraine ác cảm với Nga vì họ đã từng bị Staline giết bẩy triệu người năm 1933. Họ lật đổ Tổng thống thân Nga khiến Putin nổi giận sáp nhập bán đảo Crimea vào Nga trắng trợn
Khi bị Tây phương trừng phạt kinh tế, Putin quá giận mất khôn tuyên bố Nga là nước duy nhất có thể biến Hoa Kỳ thành tro bụi. Nay bất lực trước đòn kinh tế Putin chỉ còn nước hù dọa cho đỡ tủi. Đe dọa chỉ là vũ khí của kẻ yếu, nay kho vũ khí cũ đã quá lỗi thời chẳng dọa được ai, cũng chẳng đánh được ai. Ngay cả những tay trùm CS như Staline, Khrushchev, Brezhnev .. đã từng hét ra lửa, mửa ra khói cũng không dám nói vậy. Putin lợi dụng chính sách đối ngoại mềm yếu của Obama để lộng hành, nhưng hai năm nữa, Cộng hòa sẽ lên nắm quyền, khi ấy ông sẽ không dại gì mà vuốt râu hùm.
Có vài người nịnh Putin, thổi ông lên hàng người có nhiều quyền lực nhất thế giới nhưng quyền lực ở chỗ nào? Nay dân số Nga chỉ còn một nửa (145 triệu, List of countries by population Wiki) sau khi Liên bang Sô viết tan rã đứng hàng thứ 9 trên thế giới. Tổng sản lượng Nga thập niên 60, 70 bằng nửa của Mỹ như Samuelson đã nói trên, nay TSL Nga (2,000 tỷ) đứng hàng thứ 9, chỉ bằng gần 1/8 của TSL Mỹ (16,7 68,000). Ngân sách quốc phòng Nga (88 tỷ) hiện đứng thứ ba trên thế giới nhưng chỉ bằng 1/7 của Mỹ (640 tỷ), diện tích Nga từ 24 triệu Km2 còn 17 triệu Km2.
Nhiều người cho rằng Putin muốn trở lại thời chọc trời khuấy nước của Liên bang Xô viết xa xưa nhưng than ôi thời oanh liệt nay còn đâu? Muốn vậy trước hết phải chiếm lại 15 nước thuộc địa cũ để đưa dân số từ 145 triệu trở lại 290 triệu và Tổng sản lượng lên hàng thứ hai, thứ ba, sau đó chiếm lại Đông Âu để tái lập giang sơn nhưng chỉ có những thằng điên mới mang ảo tưởng như vậy, làm sao có thể quay ngược bánh xe lịch sử?
Liên bang Xô viết, cái nôi của CS đầu hôm sớm mai tan như xác pháo, nhà Phật gọi là vô thường, chẳng có gì là thường còn, có sinh thì có diệt.
Có lẽ ông Putin nên nghĩ tới kế hoạch phục hưng nền kinh tế đang suy thoái thì hay hơn là đào xới “của trời cho” đem bán, miệng ăn núi lở, ăn mãi nó cũng phải hết. Các nước Nhật , Nam Hàn không có nguyên liệu, họ có tài năng làm ra của cải vật chất không phải phụ thuộc vào thị trường năng lượng như Nga.
Tương lai kinh tế nước Nga thật là ảm đạm, một ngày nào Putin cũng sẽ quan tâm tới chính sách xét lại con đường sai lầm mà ông hằng theo đuổi một cách vô ích.
©  Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
-===============================

Năm ngày hấp hối của Stalin 


(Thụy My RFI)

LND: Nhân kỷ niệm 60 năm ngày mất của Stalin (05/03/1953), xin giới thiệu với bạn đọc bài viết của Thierry Lentz, giám đốc Quỹ Napoléon trong tập sách “Những ngày cuối cùng của các nhà độc tài” do nhà sử học tên tuổi Diane Ducret và nhà báo Emmanuel Hecht của tuần báo L’Express chủ biên, xuất bản tại Paris tháng 10/2012. Bài viết mang tựa đề “Chiếc trường kỷ của quỷ sứ - Năm ngày hấp hối của Joseph Stalin”.

Độc đoán, tàn bạo và xảo quyệt, nhà độc tài của đất nước xô-viết chết đi trong cô độc, như ông ta đã sống. Đây là sự trả thù của số phận cho những tội ác khủng khiếp mà ông ta đã gây ra.

Stalin luôn đi ngủ rất muộn, và không có ai dám đánh thức ông dậy trước khi chính ông ta quyết định là ngủ như thế đã no nê. Từ các vệ sĩ, những người giúp việc cho đến quản gia, không ai có quyền bước vào phòng nếu không được gọi. Ông thường ngủ đến tận 10 hay 11 giờ sáng. Cũng như tất cả những gì liên quan đến ông ta, giấc ngủ của đồng chí Stalin là bất khả xâm phạm.

Ở tuổi 73, vojd (người hướng đạo, lãnh tụ) vẫn làm việc 15 đến 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Là Tổng bí thư đảng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông lãnh đạo Liên bang Xô viết với bàn tay sắt, trong không khí thanh trừng thường trực. Ông nắm mọi thứ, muốn biết tất cả, đọc và ghi chú một lượng báo cáo khổng lồ, dự vô số cuộc họp, thảo ra các thông cáo, chỉnh sửa các bài báo, viết lại các sách về lịch sử và tiếp tục soạn thảo các lý luận chính trị. Stalin chỉ đạo cách xử sự, những quyết định của các đại sứ cũng như lãnh đạo các đảng anh em, và những ai không chịu nghe lời “tư vấn” của ông thì hãy coi chừng!

Tổng bí thư Tiệp Khắc Rudolf Slansky và hai người phó của ông đã bị treo cổ trước đó vài tháng vì đã quên điều ấy. Một chiến dịch tương tự cũng diễn ra ở Ba Lan, nhắm vào các phụ tá người Do Thái của Tổng bí thư Boleslaw Bierut. Xa hơn về phương Nam, những tay bắn tỉa của Stalin chuẩn bị ám sát Thống chế Tito, nhà lãnh đạo Nam Tư dám vùng vẫy để thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Matxcơva.

Giữa bấy nhiêu âu lo và “dự án”, trong cái đế quốc mênh mông và bấy nhiêu nhiệm vụ, đôi khi Stalin cũng dành chút thì giờ cho những vấn đề nhỏ nhặt. Có khi chính tay ông viết thư trả lời cho một nhà giáo bất mãn với cấp trên, hay một công nhân đang cần một lời khuyên.

Theo thói quen thời trẻ và chủ trương đạm bạc của chính quyền bôn-sê-vích, dù tự cho phép mình nhận vô số danh hiệu và huy chương, mang chức vụ Thống chế và sự tôn sùng lãnh tụ tột đỉnh, Stalin vẫn ăn mặc rất giản dị, với những bộ quần áo đơn sơ, chiếc nón kết cũ và đôi giày bốt đã sờn. Đôi khi ông mặc nguyên quần áo, ngủ quên suốt đêm trên chiếc ghế sofa. Tuy vậy ông không hề từ chối các nghi thức và đội ngũ cận vệ hùng hậu. Bởi vì đồng chí Stalin mắc bệnh hoang tưởng. Ông rất sợ hãi cái chết.

Ngay cả trong hành lang điện Kremli, ông ta chỉ di chuyển khi có cả một đội ngũ cận vệ đi phía trước và phía sau hộ vệ. Khi đi ra ngoài, ông sử dụng ba chiếc xe hơi, trong đó có hai chiếc nhằm đánh lạc hướng. Chỉ có những đầu bếp trung thành mới được nấu ăn cho ông, và các chai rượu đặt trên bàn phải còn nguyên nắp. Văn phòng của ông trong dinh thự chính phủ được coi như nhà ở thực thụ, một datcha (nhà nghỉ) rộng mênh mông và tiện nghi ở Kountsevo là những ngôi đền thánh được giám sát chặt chẽ, được bảo vệ bởi những cận vệ đã qua chọn lựa gắt gao, và chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Stalin.

Nếu vào cuối ngày Stalin muốn giải trí một chút ở nhà hát Bolchoi hay trong phòng chiếu phim của điện Kremli, thì luôn có những người tâm đầu ý hợp trong chính phủ đi kèm. Bây giờ là Beria, Malenkov, Khrouchtchev và Boulganine, sau khi đã xa rời Molotov, Mikoian hay Kaganovitch. Nhóm này tạo thành một thứ “Bộ Chính trị cơ động”, sau khi những phiên họp toàn thể của Bộ Chính trị - thường gồm khoảng hai chục thành viên - ngày càng thưa thớt dần.


Trong một "datcha" trước đây của Stalin

Những buổi tối như thế nhất thiết phải kết thúc tại Kountsevo, cách điện Kremli nửa tiếng đồng hồ. Từ đầu Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, lãnh tụ hiếm khi ăn tối và ngủ ở nơi nào khác, trừ những lúc đi nghỉ ở Sotchi. Về khuya, khi các vị khách đã quay về Matx cơva, Stalin nghỉ ngơi đôi khi ở một trong những căn phòng của mình, đôi khi trên chiếc ghế dài ở một trong những phòng khách.

Tối thứ Bảy 28/02/1953, hoạt cảnh bất di bất dịch ấy lại tái diễn. Suốt cả ngày tại datcha, Stalin đọc các báo cáo, nói chuyện với các cận vệ, đi dạo trong khu vườn tuyết phủ rồi thư giãn bằng cách tắm hơi.

Nổi tiếng là người lực lưỡng và dẻo dai, thực ra các mạch máu ông đã lão hóa và bắt đầu cảm nhận được hậu quả. Tất cả những người thân cận ghi nhận là ông bỗng già hẳn đi từ khi chiến tranh chấm dứt. Tuy nhiên ít ai biết được là Stalin đôi khi ngất xỉu vì lao lực, ông bị thấp khớp và trầm trọng hơn là một chứng bệnh ở não đã ảnh hưởng đến tính tình của ông (vốn ngày càng tồi tệ hơn), gây ra những giây phút lú lẫn. Việc chẩn đoán này và lời khuyên của các bác sĩ là nên nghỉ ngơi, đã gây một tác động bất ngờ nơi vị lãnh tụ già nua: các y bác sĩ giờ đây bị nằm trong tầm ngắm của Stalin.

Vào cuối buổi chiều, Stalin đến điện Kremli và gặp bốn đồng chí quen thuộc, trong đó có thêm Thống chế Vorochilov - một trong số hiếm hoi những lãnh đạo quân đội còn được ông ưu ái, chứ không dám nói là cảm tình. Một cuộc họp khoảng hai mươi người chấm dứt hoạt động chuyên môn trong ngày. Sau đó sáu lãnh đạo cao cấp xem phim: Stalin tự cho là một chuyên gia về nghệ thuật thứ bảy, và ưa thích một bộ phim mà mọi người buộc phải khen ngợi.

Vào khoảng 23 giờ, Vorochilov trở về nhà trong khi những người khác đi đến Kountsevo, nơi một bữa ăn tối tuyệt vời với rượu vang ngon từ Gruzia đang chờ đợi họ.


Danh sách 346 "kẻ thù của nhân dân" bị Stalin ký lệnh hành quyết năm 1940.

Như thường lệ, đó là một buổi tối nghiêm túc và vui nhộn. Vị “Sa hoàng đỏ” muốn có không khí vui tươi trong nhà, cho dù lúc đó có những ưu tư gì đi nữa. Người ta đề cập một ít về kinh tế, và nhiều hơn một tí về chiến tranh Triều Tiên. Nhưng chủ đề chính, giống như nhiều tuần qua, là một “âm mưu phản loạn” mới mà thủ lãnh không ngần ngại đấu tranh một cách cố chấp, hiệu quả như thói quen xưa nay. Một vụ thanh trừng mới đã được lên kế hoạch.

Lần này, “vụ mưu phản” được cho là một băng nhóm bác sĩ cầm đầu – nhóm “phản động” này là cánh tay vũ trang của “bọn vận động hậu trường quốc tế người Do Thái” được Hoa Kỳ giật dây. Và vì Stalin chưa bao giờ hà tiện về danh sách “bọn nổi dậy”, “kẻ phản bội” và những “con chó dại” khác mà việc trừ khử theo ông ta là cần thiết, số phận tệ hại nhất đang chờ đợi những nghi can chủ chốt. Tuy họ đều xuất thân từ những gia đình xô-viết gương mẫu, nhưng có thể những “kẻ giật dây” người Mỹ gốc Do Thái đã thuyết phục được họ trở mặt, đầu độc những nhân vật ưu tú của cuộc cách mạng – mà theo điệp khúc của chính quyền thì đang trên đường chiến thắng.

Sau những vụ bắt giữ và hỏi cung đầu tiên, người ta chuẩn bị một phiên tòa công khai mới mà ai cũng biết sẽ diễn ra như thế nào. Các “thủ phạm” sẽ thú tội trước mặt mọi người, tiếp theo là màn luận tội mà các bị can đều xin được tha thứ. Và để trả giá cho tội lỗi: một viên đạn bắn vào ót đối với kẻ cầm đầu, lao động khổ sai cho những tên hạng hai, vợ con, anh em ruột, anh chị em họ và bạn bè của họ. Thống chế kiêm Tổng tư lệnh quân đội Boulganine phải chuẩn bị đưa đi đày hàng loạt người…và có thể đưa một phần lớn người Do Thái ở Liên Xô đi Kazachzstan, Uzbekistan hay đối với những người “nguy hiểm” nhất, tống đi Xibêri.

Người ta nêu ra kế hoạch này vào đêm 28/02 rạng 01/03/1953 hôm ấy, với ly rượu trên tay. Đối với bốn khách mời của Stalin, chủ đề khá là tế nhị. Họ phản đối chương trình trên không phải vì nhân đạo, mà vì lo sợ chính mình sẽ bị thất sủng. Thường là đồng lõa, họ thừa biết động cơ những vụ thanh trừng của Stalin: luôn nhằm trừ khử - theo nghĩa đen - những người bị lãnh tụ cho là kẻ cạnh tranh với mình.


Molotov và Stalin

Beria và Khrouchthchev rất có thể sẽ trở thành các nạn nhân liên đới của vụ “áo choàng trắng”, theo chân Molotov - vợ ông này đã bị tra tấn trong một căn hầm ở Loubianka. Đương nhiên là đêm đó cũng như những đêm khác, họ không dám nói trái ý ông chủ. Thời kỳ các hội nghị Bộ Chính trị trong đó người ta có thể nói tương đối khác ý Stalin, đã qua lâu rồi. Từ nay, thậm chí họ còn không dám phiêu lưu ngay cả trong những cuộc chè chén hàng ngày ở Kountsevo - mà các khách mời biết rất rõ là lãnh tụ thường thay rượu vodka trong ly mình bằng nước lã, để có thể đánh giá ngôn từ của các người khách.

Vào khoảng 4 giờ sáng, Stalin tiễn chân các khách mời đến tận những chiếc Limousine của họ. Ông ta nhìn họ khuất dần, rồi trở về căn phòng ấm cúng, cho các cận vệ đi nghỉ, rồi thả người trên chiếc ghế sofa trong phòng ăn. Người ta đóng cửa lại. Ánh sáng trong ngôi nhà nghỉ lần lượt được tắt đi.

Mặt trời đã lên cao vào sáng ngày 01/03, nhưng datcha vẫn chìm trong im lặng. Các cận vệ chờ đợi được gọi vào. Thời gian trôi qua, nhưng không ai lo lắng cả. Lãnh tụ có thể đã thức dậy làm việc trong đêm, hoặc đang tập trung vào mớ hồ sơ. Ông có đầy đủ đồ ăn thức uống trong phòng. Có thể là ông không muốn ai làm phiền.

Tuy vậy đến chiều, tâm trạng lo ngại mơ hồ có thể cảm thấy nơi những cận vệ và phía người quản gia. Bất chợt vào khoảng 18 giờ, các nhân viên nhận thấy một chiếc đèn ngủ trong phòng ăn vừa được bật sáng. Họ sẵn sàng chờ đợi nhận lệnh. Nhưng mệnh lệnh vẫn chưa hề được ban ra.

Khoảng 22 giờ, một chiếc xe hơi của điện Kremli mang đến các thư từ và hồ sơ. Trưởng đội cận vệ trực hôm ấy, Lozgatchev, vẫn còn do dự nhưng rốt cuộc quyết định bước vào gian phòng ăn nhỏ. Khi cánh cửa được dè dặt mở ra (lãnh tụ rất ghét bị trông thấy đang mặc đồ lót), anh hiểu vì sao đã không được triệu đến trong ngày: Stalin nằm dài trên thảm trải sàn, mặc chiếc áo lót mình, còn chiếc quần pyjama thì ướt đẫm nước tiểu. Lozgatchev vội chạy đến và nhận ra Stalin vẫn còn sống, nhưng không nói được nữa. Đại tá Starotsine và quản gia Boutouzova được vời đến. Người ta đưa bệnh nhân lên chiếc ghế sofa, rồi chuyển sang một chiếc ghế dài khác trong phòng ăn lớn, thoáng khí hơn.

Chúng ta đang ở Liên Xô vào thời kỳ Stalin. Ngay cả trong thời điểm khẩn cấp như vậy, không có vấn đề đưa ra ý kiến cá nhân, ngay cả để làm những gì mà tất cả những người bình thường phải làm trong trường hợp tương tự.

Đó là lý do vì sao thay vì gọi một bác sĩ – một việc có thể gây hậu quả xấu trong thời điểm bị cho là có vụ âm mưu phản loạn “áo choàng trắng” – trước tiên Lozgatchev gọi điện thoại cho thủ trưởng trực tiếp là người đứng đầu ngành an ninh quốc gia (MGB), Ignatiev. Ông này cũng tỏ ra thận trọng: trong khi Starotchine gọi điện cho Beria và Malenkov, bản thân Ignatiev muốn núp bóng Krouchtchev. Đến lượt Malenkov và Krouchtchev liên lạc với Boulganine. Cả ba muốn đá trái banh qua Beria, nhưng không gọi được cho ông này – có thể ông ta đang ở bên một trong những cô bồ nhí. Cuối cùng, đến một tiếng đồng hồ sau đó Beria mới ra lệnh: đừng làm gì cả trước khi ông ta đến Kountsevo.



Hoa được đặt trước căn nhà nơi Stalin sinh ra ở Gori ngày 05/03/2013.

Đến ba giờ sáng, tức hơn 20 tiếng đồng hồ sau khi Stalin bị tai biến, Beria và Malenkov mới đến nơi. Ông ta có vẻ như đang ngủ, những tiếng thở dốc của ông có thể bị lầm tưởng là tiếng ngáy. Đến nỗi Beria ngỡ (hay làm ra vẻ như thế) là người ta đã quấy nhiễu ông ta vô ích. Beria quát mắng các cận vệ đang nài nỉ gọi bác sĩ…và bỏ đi, với Malenkov vạm vỡ luôn theo chân.

Có thể Beria đã hiểu rằng chúa tể của Liên bang Xô Viết sẽ không qua khỏi nếu không được chạy chữa. Nhưng nếu không cố gắng cứu chữa cho Stalin thì vẫn hơn. Quyền lực đang bỏ trống, và tốt nhất nên nắm lấy. 

Trong những ngày tiếp theo, Beria và ba ủy viên “Bộ Chính trị cơ động” tranh luận gay gắt để phân chia quyền hành, củng cố vị trí mình và giữ cho các đối thủ tiềm năng phải đứng ngoài cuộc. Do có bốn con cá sấu trong cùng một đầm nước thì cũng đã quá đủ, các cận vệ và người hầu cận ở Kountsevo nhận lệnh không được tiết lộ những gì đã xảy ra…và để cho đồng chí Stalin yên ngủ.


Thế nên Lozgatchev và các vệ sĩ còn lại phải đơn độc bên cạnh ông chủ đang hấp hối. Thêm một ngày nữa trôi qua, mà không có bác sĩ nào được mời đến. Cuối cùng, các nhân viên của MGB và Maria Boutouzova, càng lúc càng lo lắng, cố gắng liên lạc lần nữa với Malenkov. Ông này xiêu lòng, bèn gọi cho Beria và Khrouchtchev, hai người này đùn đẩy sang Bộ trưởng Y tế Tratiakov. Rốt cuộc ông Bộ trưởng cho gởi đến một toán y bác sĩ do giáo sư Loukomski dẫn đầu. Họ đến nơi vào lúc 7 giờ sáng ngày 03/03, tức 48 giờ sau khi Stalin gặp nạn.

Trước sự hiện diện của Bộ tứ, và cả Molotov, Mikoian, Kaganovitch, Vorochilov rồi sau đó là Svetlana cùng với Vassili – con gái và con trai của Stalin – các bác sĩ, run rẩy vì sợ hãi, bắt tay vào công việc. Họ cởi quần áo bệnh nhân, gỡ bộ răng giả ra và chẩn đoán. Nhịp tim và huyết áp thấp, nửa người bên phải bị liệt, nửa người trái bị những cơn co giật. 

Từ lúc đó, tiên lượng tỏ ra bi quan: Stalin bị xuất huyết não trái, nặng cho đến nỗi có thể chắc chắn rằng ông ta không bao giờ còn làm việc được nữa. Các bác sĩ kê toa sulphate magnésium (để rửa) và đặt những con đỉa sau tai trái. Rồi đáng sợ thay, đội ngũ hùng hậu ra đi, để lại một bác sĩ thần kinh, một bác sĩ đa khoa, một nữ y tá. Người bệnh được chỉ định là phải…nghỉ ngơi và ăn kiêng.

Vào cuối ngày, các thành viên Bộ Chính trị trở về điện Kremli. Beria cảm thấy đang mọc cánh và bắt đầu với tay về phía vương trượng của “Sa hoàng đỏ”. Trong buổi chiều, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hội đồng Bộ trưởng và Xô-viết Tối cao họp lại để giải quyết vấn đề người kế vị. Như vậy là có ba trăm người được thông báo về tình hình thực tế. Vị lãnh tụ già nua được giải phóng khỏi nhiệm vụ Tổng bí thư và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Người ta không dám gạch tên Stalin khỏi danh sách các ủy viên Bộ Chính trị. 

Việc điều hành tạm thời được giao cho Malenkov, với Molotov (trở lại một cách huy hoàng), Boulganine và Kaganovitch làm phó. Vị trí người đứng đầu an ninh nội chính của Beria càng vững chắc hơn. Cùng với Malenkov và Khrouchtchev, ông ta còn được giao trách nhiệm « sắp xếp » các giấy tờ của Stalin. 

Ba người này lập tức bắt tay vào công việc, mở các rương giấy tờ bí mật nhất và hủy đi tất cả những gì tố cáo họ có tham gia các vụ thanh trừng trong quá khứ và hiện tại. Việc « phi Stalin hóa » như vậy đã bắt đầu ngay từ khi Stalin vẫn còn thở.

Nếu kể từ sáng 04/03 các đài phát thanh đã có thể công bố « căn bệnh » của Stalin, thì mức độ báo động đã được tăng lên : từ sáng sớm 05/03 radio loan báo mạng sống của Stalin đang « lâm nguy».

Tại Kountsevo, Stalin dường như vẫn luôn ngủ trên chiếc ghế sofa, đôi khi có mở mắt, phát ra được đôi ba tiếng động nhưng không thể nào trả lời những câu nói được người ta thầm thì bên tai.

Liệu có lúc nào đó ông ta cảm nhận được những gì đang diễn ra, giữa hai cuộc họp ở Kremli ? Sau này con gái ông cho biết : « Có lúc ông bỗng mở mắt ra, nhìn bao quát những ai đang đứng xung quanh. Đó là một cái nhìn khủng khiếp, hoảng loạn và giận dữ, chứa đầy nỗi kinh hoàng trước tử thần và khuôn mặt của các thầy thuốc không quen biết bao quanh. Ánh mắt ấy bao trùm lấy chúng tôi trong một chớp mắt. Rồi ông giơ bàn tay trái lên – có thể là ông chỉ cho chúng tôi điều gì đó trên cao, hoặc là ông đe dọa tất cả mọi người. Hành động này khó thể hiểu được ».


Lời kể của các nhân chứng cũng làm cho Vassili Stalin lo ngại. Là tướng không quân và có tiếng là nghiện rượu, anh ta hoàn toàn mất tự chủ và lên án Bộ tứ đã « sát hại » cha mình. Cần phải nhờ đến sự quyết đoán của Vorochilov và những cử chỉ thân thiện của Krouchtchev để trấn an được anh ta.

Từ sự tuyệt vọng của người con trai không được sủng ái cho đến lời tuyên bố sau đó của một cận vệ tuy - không thấy gì nhưng khoe là biết tất cả, và đơn giản là cái chết của Stalin làm thỏa mãn được nhiều người, nảy sinh giả thiết nhà độc tài bị ám sát. Điều này khó thể chứng minh.

Đương nhiên là người ta lên án Beria, người đã được lãnh tụ giới thiệu với Roosevelt và nói rằng : « Đây là Himmler của chúng tôi ». Nhưng thủ lãnh cơ quan an ninh nội chính, bị Stalin cho giám sát từ nhiều năm, khó thể có khả năng xúi giục một vụ khủng bố, nhất là hoàn toàn không có ảnh hưởng gì lên MGB và các gia nhân ở Kountsevo. Ngay cả nếu ông ta reo lên trước các nhân chứng là : « Tôi đã thắng được ông ấy ! », vẫn không có gì làm căn cứ cho giả thiết nào khác, ngoài trách nhiệm trong việc đã để mặc cho sự việc diễn ra một cách tự nhiên, khi trì hoãn việc cứu cấp bệnh nhân.

Giải phẫu tử thi cho thấy cơn xuất huyết não ồ ạt đã trầm trọng thêm do thể trạng của Stalin : ông ta bị chứng xơ cứng tiểu động mạch não (đã được giữ bí mật trong nhiều năm). Với trình độ khoa học của năm 1953, ông khó thể qua khỏi một cuộc giải phẫu. Trong mọi trường hợp, sự nghiệp chính trị của Stalin như thế đã kết thúc.


Diễu hành nhân kỷ niệm 60 năm ngày mất của Stalin, 05/03/2013.

Vào buổi sáng 05/03/1953, Stalin dần bước vào cõi u minh : buồn nôn, khó thở, ói ra máu, trụy tim mạch liên tục, biến chứng ở tim và ngộp thở. Chính là trước một cử tọa đông đảo – gia đình, các nhà quý tộc đỏ, các nhân viên MGB, gia nhân và y bác sĩ, mà người « cha già dân tộc » rốt cuộc đã chịu trút hơi thở cuối cùng.

Lúc đó là 9 giờ 50 phút. Các đồng chí và các con ông hôn lên khuôn mặt đã tím ngắt. Beria quỳ xuống để hôn lên tay Stalin.

Thế giới biết tin về cái chết của Stalin vào sáng hôm sau. Làn sóng xúc cảm, những tiếng kêu khóc vật vã, những lời tán tụng mà cái tin ấy gây nên, ngày nay khó thể hiểu nổi.

Tại Pháp, Hạ viện dành một phút mặc niệm. Jacques Duclos, Quyền Tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp kêu gọi các nhà máy ngưng hoạt động, tập hợp tại Vélodrome d’hiver nhằm « để tang » ! Tờ Le Monde bình luận trang trọng về « Cái chết của Thống chế Stalin », trong khi tựa chính của tờ báo cộng sản L’Humanité dài đến ba dòng nói về « CÁI TANG CỦA TẤT CẢ CÁC DÂN TỘC khi tưởng niệm đã biểu lộ tình cảm sâu sắc ĐỐI VỚI STALIN VĨ ĐẠI ». Vài hôm sau, trang nhất của tạp chí Văn chương Pháp đăng chân dung của người quá cố do Picasso vẽ, tạo ra một cuộc tranh cãi dữ dội và giám đốc tạp chí là Louis Aragon phải xấu hổ tự kiểm điểm.

Tại Liên Xô, nếu chỉ nói là sững sờ và đau buồn bao phủ lên 200 triệu con người từ nay bị mất đi lãnh tụ, thì hãy còn quá nhẹ. Sự xúc động còn có thể cảm thấy ở các gulắc, không chỉ vì cái tin này gợi lên hy vọng nơi những người tù. Hàng chục ngàn người khóc sướt mướt diễu qua trước cái xác ướp đặt tại đại sảnh của trụ sở các nghiệp đoàn ở Matxcơva, nơi từng diễn ra các phiên xử quan trọng.

Ngày 09/03, sau vụ chen lấn hỗn loạn trên đường phố gây ra hàng trăm nạn nhân, xác của Joseph Stalin được trọng thể đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng : lăng mộ tại Quảng trường đỏ. Ông ta được đặt cạnh Lênin – từ hơn ba chục năm qua Stalin vẫn được xem là « người nối nghiệp thiên tài của Lênin. Hệ thống tuyên truyền xô-viết loan báo hôm ấy có 5 triệu người khóc lóc tiễn đưa Stalin trên các đường phố. Con số được thổi phồng này tuy vậy không làm giảm đi sự long trọng của đám đông tham dự tang lễ.

Vào tháng 3/1953, hiếm ai biết được hay thậm chí nghi ngờ về mặt trái các tác phẩm của Stalin. Ông ta đã để lại phía sau nhiều máu và nước mắt nhất trong lịch sử. Không kể Đệ nhị Thế chiến, Stalin đã làm cho ít nhất 20 triệu người chết do bị lưu đày, thanh trừng, ám sát cá nhân hay tàn sát tập thể, nạn đói. Những người chân thành khóc thương « người hướng đạo », « cha già dân tộc », « người bạn lớn nhất của trẻ em », « người mạnh nhất và sáng suốt nhất » chỉ thấy nơi ông ta người lãnh đạo một cuộc cách mạng đã đưa nước Nga ra khỏi thời Trung cổ, và thắng được phát-xít với một cái giá bằng máu chóng mặt.

Chiếc khăn voan che đậy những tội ác của « con quỷ đỏ » chỉ được vén lên từ từ. Nhưng cho dù nhiều tù nhân được trả tự do (trong đó có các chiếc « áo choàng trắng »), việc trừ khử Beria một cách thô bạo (tháng 12/1953), báo cáo của Khrouchtchev (tháng 2/1956), sự trình diễn ngắn ngủi của một chủ nghĩa bôn-sê-vich cởi mở và việc đưa xác ướp ra khỏi lăng (ngày 31/10/1961), Liên Xô và nước Nga vẫn chưa chấm dứt được với Joseph Stalin.


Nguồn thuymyrfi.blogspot-

Tổng số lượt xem trang