-
Chương 35Tại Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 7 khoá VIII diễn ra từ ngày 2-4 đến ngày 5-4-1959 ở Thượng Hải, Mao vẫn luôn tỏ ra lạc quan. Lòng tin của ông vào Đại nhảy vọt, vào công xã nhân dân vẫn không thay đổi. Tuy chiến dịch Đại nhảy vọt đã vấp phải một số vấn đề nhỏ nhưng có thể giải quyết được. Cơ cấu tổ chức của các công xã phải được hoàn thiện, có nghĩa phải định ra chính sách điều tiết sức lao động giữa các lò luyện kim gia đình và sản xuất nông nghiệp. Mao đã kéo quá nhiều đàn ông khỏe mạnh khỏi công việc đồng ruộng. Phương thức trả lương ở các công xã được điều chỉnh, các khoản thuế cũng phải giảm bớt sao cho hợp lý hơn. Sản lượng năm 1958 thổi phồng quá mức, chỉ tiêu đề ra 1959 nhiều triển vọng đạt được.
Lo ngại lớn nhất của Mao không phải vấn đề thiếu lương thực, những chỉ tiêu kế hoạch quá cao hay những lò luyện kim gia đình đã phung phí quá nhiều sức lao động, tạo ra vô số phế phẩm, điều ông lo ngại nhất là tính sáng tạo của quần chúng đã được phong trào Đại nhảy vọt cởi trói sẽ bị kìm lại. Nếu nhận thức được đất nước đang tới gần thảm hoạ, chắc không bao giờ ông để lộ suy nghĩ này. Tôi cũng cho những vấn đề hiện tại chỉ tạm thời. Đó là hậu quả do khó khăn trong việc liên lạc với các cấp cơ sở ở địa phương. Tôi đồng ý với Mao, bỏ ngoài tai mọi dư luận bên ngoài.
Trong thời gian Hội nghị Thượng Hải, Mao ngủ ở trên đoàn tàu. Có thể, một là ông không ưa cách bài trí trưởng giả trong nơi ở cũ của Silas Hardoon; hai là ông vẫn quan hệ với cô Tiểu Lý, y tá đi theo đoàn tàu. Tối nào ông cũng đi với Tiểu Lý đến câu lạc bộ Tân Cương, của người Pháp trước đây, bây giờ trở thành nơi đàng điếm sang trọng dành cho cán bộ cao cấp.
Biết Mao đặc biệt sủng ái giới nữ, cơ quan an ninh địa phương đã bố trí để Mao gặp các nữ diễn viên, nữ danh ca nổi tiếng nhất của Thượng Hải. Thế nhưng Mao chẳng hề để mắt đến những phụ nữ này. Đối với Mao, họ quá già, biết quá nhiều. Mao chỉ thích những cô gái trẻ, thơ ngây vì họ dễ xiêu lòng hơn. Thế là tối tối cơ quan an ninh thành phố Thượng Hải lại phải đưa các thiếu nữ trẻ, đẹp, ngây thơ từ các đoàn văn công đến trình diễn cho Mao xem.
Ngoài những buổi xem phim, Kha Thanh Thế cũng cho trình diễn một vở kinh kịch nữa về Hải Thuỵ. Năm ngoái, khi Mao ở Trường Sa, câu chuyện về nhân vật này đã từng gây ấn tượng mạnh đối với ông. Trong vở diễn, Hải Thuỵ đã phải ngồi tù vì ông phát hiện ra tên của vua Gia Tĩnh, đồng âm với chữ có nghĩa “vua sẽ đưa nhân dân đến tai hoạ”. Lúc đầu vua doạ sẽ xử trảm Hải Thuỵ nhưng sau khi đọc lá sớ giải thích của viên quan này lần thứ hai, rồi lần thứ ba cuối cùng vua nhận ra rằng, Hải Thuỵ, một người trung thực và cương trực, sẵn sàng quên mình vì hạnh phúc của nhân dân. Tuy Hải Thuỵ vẫn bị giam trong ngục, nhưng vua đã bãi bỏ án tử hình. Một hôm, người coi ngục mang đến cho Hải Thuỵ một bữa cơm rất thịnh soạn. Viên quan này tưởng rằng đây là bữa ăn cuối cùng của người tử tù. Nhưng khi vừa ăn xong, người cai ngục liền chúc mừng, báo cho ông biết tin vua đã băng hà. Hải Thuỵ, người thực sự trung thành với vua, buồn đến nỗi đã nôn hết những gì ông vừa ăn.
Một lần nữa Mao lại thán phục Hải Thuỵ, Mao bắt đầu quảng bá tư cách của Hải Thuỵ bằng cách cho in tiểu sử Hải Thuỵ, phân phát cho những người tham dự Hội nghị. Ông hối thúc họ noi gương Hải Thuỵ. Sau này ông đề nghị các nhà sử học phải nghiên cứu kỹ hơn nữa về Hải Thuỵ và các bài viết đã được đăng trên các báo chí cả nước. Ở Thượng Hải và Bắc Kinh người ta đã dàn dựng những vở kịch hiện đại Hải Thuỵ khiến viên quan đời nhà Minh này trở thành người anh hùng dân tộc.
Trong khi đó Mao lại không hài lòng với Ban chấp hành Trung ương, đổ lỗi cho ban lãnh đạo đã làm chệch hướng phong trào Đại nhẩy vọt. Báo cáo thống kê các con số đã thổi phồng quá mức xảy ra ở mọi nơi, mọi chỗ. Mao bảo tôi:
- Tất cả đều báo cáo láo, đã lừa trên được tất nhiên họ sẽ dối dưới.
Lòng ngưỡng mộ của Mao đối với Hải Thuỵ cũng tiềm ẩn nỗi trớ trêu. Cũng vì sau này, nhân vật Hải Thuỵ trở thành một biểu tượng chủ yếu của sự bất bình đối với chiến dịch làm trong sạch đảng, chống lại Bành Đức Hoài và đối với việc khởi đầu của Cách mạng văn hoá, tôi thường ngẫm nghĩ ý nghĩa của nhân vật này đối với Mao. Tính khí của Mao thật phức tạp, đầy mâu thuẫn. Cũng như vua, Mao tin, ông không hề làm điều gì sai trái. Nếu có một quyết định nào sai, lỗi không phải ở ông, mà chỉ vì ông nhận được tin tức sai. Vua không hề nhầm lẫn được, nhưng vẫn có thể bị lừa.
Mao đặc biệt thích Hải Thuỵ vì ba lý do: Hải Thuỵ chỉ nói sự thật, luôn trung thành với vua, mặc dù bị kết án oan, thà chịu chết không một lời phản kháng để giữ tiếng cho vua và giữ hạnh phúc cho nhân dân. Hải Thuỵ không đổ lỗi cho vua mỗi khi có việc gì đó không thành, mà quy tội cho bọn quan lại lừa lọc, và đồi bại.
Mao cũng muốn người ta luôn nói sự thật với ông. Mặc dù đến nay tôi đã tỉnh ngộ, nhưng tôi vẫn thường cho rằng, nếu Mao biết được toàn bộ sự thật ngay từ khi chiến dịch bắt đầu, ông đã ngăn chặn ngay sự tiến triển đầy tai hoạ này từ rất sớm. Tuy nhiên, phải có một Hải Thuỵ hiện đại, với những điều kiện riêng, mới có thể nói cho Mao biết được sự thật. Nhưng Mao lại không thể chấp nhận được sự thật, nếu sự thật đó chứa đựng những lời chỉ trích, hoặc bắt nguồn từ những quan chức thâm hiểm, đang thèm khát quyền lực của ông. Cho nên, nói cho ông biết sự thật phải là những người không có tham vọng chính trị.
Nhưng rất ít người không tham vọng leo đến được chức vụ cao trong bộ máy quyền lực. Thực tế, hầu như chẳng có một cán bộ nào không ích kỷ, không vụ lợi lại dám sẵn sàng đứng ra vì hạnh phúc của đất nước. Vì Mao biết quá rõ lịch sử Trung Quốc với tất cả các cuộc phân tranh quyền lực, các thủ đoạn chính trị nên cũng đã tính đến những âm mưu trong triều đình và chính ông cũng tham gia trò chơi này.
Như vậy việc Mao khuyến khích mọi người noi gương Hải Thuỵ cũng như việc kêu gọi trí thức phê phán đảng đều nằm trong chiến lược có chủ định. Ông muốn nghe sự thật từ những người tuyệt đối trung thành, không hề có tham vọng chính trị. Tuy nhiên việc Mao đề cao Hải Thuỵ là một xảo thuật để nhử kẻ thù bò ra khỏi hang. Cũng như vua, Mao tự cho mình được độc quyền phán xét xem ai là thuộc hạ trung thành, ai là người chỉ phê phán vua để củng cố quyền lợi của chính người đó. Nhưng lập luận của Mao vẫn có những kẽ hở. Trong khi Mao đánh giá rất cao những ông vua như Tần Thuỷ Hoàng, vua Trụ, Tuỳ Dạng Đế, những ông vua mà nhân dân căm giận nhất, đa số những người đã đọc truyện về Hải Thuỵ đều coi những ông vua đó và cả vua Gia Tĩnh là những kẻ tàn bạo, bất công. Nhiều thuộc hạ thân tín của Mao tỏ ra sẽ trung thành với Mao như Hải Thuỵ trung với vua. Mao khẳng định, những cán bộ cấp dưới đã nói dối vì họ phải chịu “sức ép từ trên xuống” và do đó họ đã phê bình cả những nhân viên của chính họ. Nhưng sức ép đó lại chính do Mao gây ra. Năm 1958, ông quy cho những người đã phê phán ông là hữu khuynh, trừng phạt không thương tiếc. Sau đó, ông thường lôi kéo đảng vào những chiến dịch mới, khích động cán bộ lãnh đạo phải nâng cao chỉ tiêu sản xuất. Chính ông đã tạo ra bầu không khí khiến các nhà chính trị khác khó có thể nói lên sự thật, các cán bộ cấp cao của đảng vì trung thành hoặc vì sợ phải theo ông. Mao không nhận thấy sai lầm của chính ông, ở những cán bộ lãnh đạo khác của đảng, ở đám quan lại đồi bại trong triều đình Gia Tĩnh. Lòng hâm mộ Hải Thuỵ còn giúp ông đổ lỗi của mình cho người khác. Tuy nhiên, những người như Chu Tiểu Châu lại hiểu lịch sử một cách khác. Họ là những người như Hải Thuỵ, thuộc hạ tin cẩn của Mao, họ đã bị kết tội, bị phạt oan, khiến Mao không còn là một ông vua xứng đáng của họ nữa.
Giữa tháng 4 năm 1959, chúng tôi trở về Bắc Kinh để dự kỳ họp thứ nhất của Đại hội nhân dân toàn quốc khoá Hai, Quốc Vụ Viện ở Trung Quốc. Quốc Vụ Viện theo chỉ thị của Uỷ ban trung ương đảng, chấp thuận việc Mao xin từ chức Chủ tịch nước và bầu Lưu Thiếu Kỳ lên thay. Còn Chu Đức vẫn tiếp tục điều hành Uỷ ban Thường vụ Hội đồng nhân dân. Tống Khánh Linh và Đổng Bích Vũ được bầu làm phó Chủ tịch nước.
Việc Mao từ chức, bầu Lưu Thiếu Kỳ vào chức vụ trên đã được dự định từ lâu và sự thay đổi này cho đến lúc đó vẫn chưa được công bố. Đến lúc này, cả hai chức được gọi là “Chủ tịch” – Chủ tịch đảng cộng sản Trung Quốc và Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa – đều trong tay Mao và chỉ có một mình Mao có chức danh này. Từ khi bổ nhiệm Lưu Thiếu Kỳ giữ chức Chủ tịch nước, ở Trung Quốc nơi mà chức danh được coi là quan trọng, có hai Chủ tịch. Điều này khiến Mao không chịu được.
Việc Trung Quốc có hai Chủ tịch trong khi Mao vẫn nắm quyền tối thượng đã kéo theo những hậu quả chính trị mà tôi và đa số nhân dân Trung Quốc lúc đó không thể lường hết.
Trước khi Lưu Thiếu Kỳ nhận chức và Mao từ chức năm 1959, tất cả chúng tôi gọi ông là đồng chí Thiếu Kỳ, đột nhiên bây giờ ông có tên mới, Chủ tịch Lưu. Chức vụ đi đôi với quyền lực. Chức vụ Chủ tịch mà Lưu nhận có quyền lực quan trọng, điều hành đất nước hàng ngày, uy thế mỗi ngày một tăng, nhiều vấn đề ông không cần tham khảo ý kiến Mao.
Vì thế, trận đấu của Mao để đoạt lại quyền giữ chức Chủ tịch duy nhất của Trung Quốc đã bắt đầu và sẽ được kết thúc bằng sự sụp đổ của Lưu Thiếu Kỳ với việc ông bị phế truất khỏi chức “Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa”.
Chúng tôi ở lại Bắc Kinh một tháng, cuối tháng 5 lại lên tàu xuôi xuống miền Nam Trung Quốc.