Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2015

Các dữ liệu "hoang tưởng" về cây mắc-ca

-Chủ một vườn mắc ca trồng xen cà phê tại Tuy Đức, Đak Nông. Ảnh Thanh Thương
Một mắc-ca đang “xấu xí”: 20 năm, Bộ ở đâu?
Được xem là “nữ hoàng của các loại hạt khô”, nhưng hình ảnh của mắc-ca gần đây bỗng nhiên trở nên “xấu xí” tại Việt Nam...-NGUYÊN HỒNG
Như một bài viết gần đây trên VnEconomy, sau 11 năm từ chính sách và nguồn giống thí điểm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, gia đình ông Đinh Kim Thu (thôn Lộc Xuân, xã Phú Lộc, huyện Krông Năng, tỉnh Đắc Lắc) đã làm giàu được. Nhưng, bền vững hay không còn khó nói…
Tham gia chương trình thí điểm, trên diện tích 0,5 ha, vườn ông Thu có 100 cây mắc-ca trên 10 tuổi. Có loại cho bình quân 17 kg quả mắc-ca/cây, có loại lên tới khoảng 50 kg/cây. Tổng thu năm 2014 đạt tới 300 triệu đồng, trong đó chi phí chỉ mất khoảng 10%.

Hiện tại, đây là một mô hình thành công. Nhưng tính bền vững còn khó nói, do cách làm và thị trường có thể thay đổi trong tương lai.

Chưa được chuẩn hóa

Khảo sát của VnEconomy tại vườn ông Thu cho thấy, loại giống cho tới khoảng 50 kg quả mắc-ca/cây là giống OC. Gia đình ông có xu hướng chọn lọc và đi theo loại giống này, vì năng suất vượt trội.

Tuy nhiên, điểm hạn chế của loại giống OC là khó thu hoạch, dẫn đến chi phí nhân công cao nếu trồng diện rộng. Đặc biệt, nhân hạt mắc-ca loại này nhỏ, vỏ lại dày hơn các loại khác.

Khi mà thị trường mắc-ca Việt Nam còn nhập nhèm, đa số người tiêu dùng chưa phân biệt rõ các dòng sản phẩm, việc mua bán chủ yếu tính theo trọng lượng, thì năng suất của giống OC được nhiều chủ vườn ưa thích.

Thế nhưng, tại cuộc họp Ban Chỉ đạo dự án phát triển mắc-ca Lâm Đồng ngày 8/4 vừa qua, có một quan điểm được xác định ngay từ đầu: không tiến hành phát triển giống OC.

Một mặt, loại giống này khó thu hoạch dẫn tới chi phí nhân công cao; mặt khác, trong tương lai, khi sự phân biệt về chất lượng rõ ràng hơn, nhất ở ở các thị trường xuất khẩu khắt khe, sản phẩm từ nguồn OC (xuất xứ từ Trung Quốc) sẽ rất khó cạnh tranh, khó được giá.

Dù sao, mắc-ca từ giống OC cũng là một sản phẩm điển hình, được thị trường chấp nhận khi sản xuất đúng tiêu chuẩn. Còn trên thị trường hiện nay, loại quả này đang khoác một chiếc áo “xấu xí” trong mắt người tiêu dùng, vì thiếu tổ chức và chuẩn hóa từ gốc.

Theo phản ánh của một số thương lái tại Lâm Đồng, ngay người dân khi thu hoạch cũng không ý thức để phân loại rõ loại quả hạt nhăn và quả trơn, dù chúng rất khác nhau về chất lượng khi dùng: loại nhăn chế biến thành sản phẩm tốt, loại trơn chủ yếu ép lấy dầu.

Sự lẫn lộn đó trôi nổi trên thị trường có thể khiến nhiều người tiêu dùng ban đầu nhầm tưởng mắc-ca là “xấu xí”, khi dùng loại quả trơn kém chất lượng.

Chưa hết, do được khía vỏ khi chế biến để tiện dùng, việc chế biến và bảo quản không đúng tiêu chuẩn dễ dẫn đến tình trạng ẩm mốc, hạt đổi màu, không giữ được hương vị và chất lượng…, khiến loại hạt này càng “xấu xí” hơn trong mắt người tiêu dùng chưa rành.

Về giá, mắc-ca tại Việt Nam cũng trở nên thiếu thiện cảm vì “ở trên trời” và có tình trạng loạn giá thời gian gần đây.

Tại vườn, một số hộ dân bán nguyên liệu quả tươi từ 100.000 - 120.000 đồng/kg, có nơi hét tới 300.000 đồng/kg, thậm chí tới 500.000 đồng/kg kiểu hàng chọn…

Loại quả có vỏ đã khứa có từ 250.000 - 300.000 đồng/kg, nhưng cũng có đầu mối áp tới 400.000 - 500.000 đồng/kg. Loại nhân hạt có từ 800.000 - 900.000 đồng/kg…

Với chất lượng không đồng đều, thậm chí có những loại kém chất lượng, giá bán lại quá cao, khiến mắc-ca trở thành món hàng xa xỉ đối với đại chúng. Và nếu nhiều người quay lưng với thực trạng đó thì cũng dễ hiểu.

Hiện Việt Nam chưa có một thị trường sản phẩm mắc-ca đúng nghĩa. Nó chưa được chuẩn hóa từ gốc: chọn lọc giống, tạovùng chuẩn nguyên liệu, tổ chức chế biến và kiểm soát chất lượng đầu ra; lượng hàng khan hiếm dẫn tới bị làm giá và giá ảo.

20 năm, Bộ ở đâu?


Bắt đầu từ năm 1994, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chính thức bắt tay vào quá trình thí điểm và khảo nghiệm mắc-ca tại Việt Nam.

Và sau 20 năm, Bộ có trong tay 10 loại giống và… 35 ha trồng thử nghiệm rải rác tại 16 tỉnh.

Thế nhưng, mất tới 20 năm nghiên cứu và khảo nghiệm, cùng không ít tiền ngân sách chi ra, để rồi đến ngày 6/4 vừa qua, khi báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho hay, vẫn chưa tìm đủ “căn cứ khoa học” để phê duyệt quy hoạch phát triển cây mắc-ca.

Điều ngạc nhiên là, cũng trong báo cáo đó và trong công văn gửi UBND các tỉnh, dù “chưa đủ căn cứ khoa học”, Bộ lại xác định rõ rằng, từ nay đến năm 2020 tổng diện tích mắc-ca cả nước chỉ khoảng 10.000 ha mà thôi.

Mặc dù thực tế thì rất khác. Cũng theo báo cáo của Bộ, đến nay nhiều hộ dân và doanh nghiệp cũng tự làm mắc-ca, và họ đã có tới 1.923 ha, chủ yếu ở Tây Nguyên với 1.645 ha.

Và theo kế hoạch dự kiến, chỉ riêng đề án quy hoạch gần 14.000 ha của tỉnh Đắc Nông, 22.000 ha của tỉnh Lâm Đồng…, cũng như của một số doanh nghiệp lớn như Công ty Cổ phần Thương mại Đầu tư và phát triển công nghệ Quốc tế (IDT), Công ty Cổ phần Him Lam…, thì quy mô dự tính khoảng 10.000 ha của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã trở nên lỗi thời, dù mới nằm trên giấy.

Nếu như Bộ mất tới 20 năm với 35 ha để rồi “chưa đủ căn cứ khoa học”, thì nhiều hộ dân và doanh nghiệp đã phát triển hàng nghìn ha, nhiều mô hình đã thành công về sản lượng và doanh thu, đã được kiểm chứng thực tế những năm gần đây.

Tuy nhiên, với thị trường và trong mắt người tiêu dùng, một mắc-ca “xấu xí” nói trên đang tồn tại, rồi tình trạng loạn giá và loạn cây giống, rồi chuyện người dân “khóc ròng” đốn mắc-ca vì không có quả…

Vậy nên, sau khi đã mất 20 năm, đến khi nào hoạt động trồng và sản xuất mắc-ca tại Việt Nam mới thực sự được tổ chức, được chuẩn hóa; thị trường mắc-ca Việt Nam mới thực sự được tạo lập và bảo đảm lợi ích người tiêu dùng?

Ngày 8/4 vừa qua, UBND tỉnh Lâm Đồng đã họp Ban Chỉ đạo dự án phát triển mắc-ca, phối hợp với Công ty Cổ phần Him Lam, để bàn về hướng quy hoạch dự kiến khoảng 22.000 ha mắc-ca.

Cuộc họp này là một tín hiệu cụ thể cho yêu cầu chuẩn hóa việc trồng, chế biến và tạo thị trường mắc-ca tại Việt Nam. Trong đó, doanh nghiệp đứng ra đảm bảo tiêu chuẩn giống, kỹ thuật trồng và chăm sóc, bao tiêu, chế biến và tổ chức thị trường, hỗ trợ vốn và mua bảo hiểm rủi ro cho các hộ dân tham gia.

Đáng chú ý, tại cuộc họp trên, Lâm Đồng cũng đã xác định phải xây dựng thương hiệu cho mắc-ca địa phương mình.

Thương hiệu đó là sự cam kết với người tiêu dùng, để họ không quay lưng với một mắc-ca bị nhầm tưởng là “xấu xí” vì chưa chuẩn hóa và thiếu tổ chức.

-Các dữ liệu "hoang tưởng" về cây mắc-ca
GS. Đinh Xuân Bá (*)
Thứ Tư, 4/3/2015, 11:12 (GMT+7)

(TBKTSG Online) - Chung quanh chủ trương phát triển cây mắc-ca (maccadamia) ở Tây Nguyên hiện đang có nhiều ý kiến đa chiều. TBKTSG Online đã có nhiều bài viết, phỏng vấn về đề tài này. Trong mạch thông tin đó, bài viết dưới đây của GS Đinh Xuân Bá sẽ đưa ra một cách nhìn khác, tập trung vào dữ liệu nghiên cứu chuyên nghiệp, hy vọng sẽ có ích cho việc thực hiện chủ trương trên.

Ngày 7-2-2015 tại Đà Lạt đã có hội thảo 
“Chiến lược phát triển cây mắc-ca tại Tây Nguyên”. Tại đó và ở một số bài viết liên quan, các tác giả đã đưa ra nhiều dữ liệu “hoang tưởng” về cây mắc ca. Ngày 22-2-2015, trên TBKTSG Online, Ngọc Hùng và Hoàng Sơn đã phê phán các số liệu phóng đại do những đơn vị cổ vũ cho chương trình này đưa ra và cho rằng “việc quảng bá quá mức về hiệu quả của cây mắc-ca, trước mắt chắc chắn sẽ tạo lợi nhuận "khủng" cho những người bán cây giống, có thể kéo theo nhiều hệ lụy khó lường …” (xem “Cây mắc-ca và nhiều bài toán phải giải”).
Người viết bài này hoàn toàn tâm đắc với phản biện nghiêm túc của hai tác giả trên và cho rằng sự phóng đại đó có lẽ còn có lợi cho những người “ăn theo” dự án và sẽ làm khổ những người dám thực hiện dự án mà thiếu các nghiên cứu chuyên nghiệp về loại cây này.
Trước hết hãy xem vài ví dụ về các dữ liệu hoang tưởng đã được đưa ra:
- Bài "Đưa cây mắc-ca lọt vào danh sách “cây trồng tỉ đô” của Thùy Dung (9-7-2014) viết: theo ý kiến của ông Nguyễn Công Tạn “….xét về giá trị kinh tế, một cây mắc ca có thể cho tới 70 kg hạt với giá hiện khoảng 15 đô la Mỹ /kg…”
- Bài "Phát triển cây mắc ca tại Việt Nam: Nhiều kỳ vọng" của Anh Khoa – Nhà báo và Công luận(22-01-2015) viết: “…..với thực tế hiện nay, một cây macadamia có thể cho tới 70 kg hạt và với giá hiện khoảng 15 USD/kg thì Việt Nam chỉ cần 10 năm để phát triển 100.000 ha và có thể đạt được kim ngạch 1 tỉ USD”
- Bài "Lâm Đồng: Mắc ca sai quả mùa đầu" của báo Lâm Đồng đăng lại trên TBKTSG Online ngày 3-7-2011 viết: “ông Lê Đức Ba có vườn mắc ca gần 5 năm tuổi, gồm 300 cây, trung bình mỗi cây cho 7 kg hạt khô, vị chi ông Ba có 2,1 tấn hạt, tính thành tiền mỗi tấn 200 triệu đồng…(nếu quy ra giá đô la Mỹ thời đó thì giá hạt khô là khoảng 10 USD/kg)”.
- Bài "NHNN sẽ hỗ trợ phát triển cây mắc ca ở Tây Nguyên" của Thanh Thương ngày 7-2-2015 viết: “Giá trị kinh tế của mắc ca là 5,5 đô la Mỹ/kg trái tươi còn cà phê chỉ từ 2,5 – 3 đô la Mỹ”.
Tuy nhiên, khi so sánh các thông tin trên với số liệu của các tổ chức quốc tế có uy tín thì có thể nhận ra rằng, không có cơ sở để lạc quan như vậy.
Để có các dữ liệu khách quan và chính thống thì phải nghiên cứu và khai thác một cách chuyên nghiệp các tư liệu của Cơ quan thống kê của Liên hiệp quốc (United Nations Statistics Division, UNSD, UN COMTRADE, http://unstats.un.org/unsd/comtrade/) và Trung tâm thương mại quốc tế (International Trade Centre, ITC, www.intracen.org/marketanalysis) trực thuộc Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Tất cả các nước đều có nghĩa vụ thông báo các dữ liệu thương mại đã qui định (ví dụ xuất nhập khẩu) cho UNSD, nếu thiếu dữ liệu thương mại của nước nào thì UNSD sẽ dùng các số liệu “phản chiếu” (mirror data) để bù vào. Ngược lại, để nghiêu cứu các chiến lược thương mại, người ta thường khai thác kho dữ liệu khổng lồ, khách quan, chuyên nghiệp và rất chi tiết này. Khi dẫn chứng dữ liệu lấy từ các nguồn chính thống nói trên thì người đọc dễ dàng kiểm chứng được bằng cách truy cập vào các cơ sở dữ liệu (database) của UNSD, UN COMTRADE và ITC.
Tại các cơ sở dữ liệu này không có khái niệm "chung chung" về hạt mắc ca như trong các ví dụ trên mà có các qui định thống nhất về thuật ngữ mà các nước phải dùng khi giao thương về hạt mắc ca. Cụ thể là theo UNSD và ITC thì có 3 loại hạt mắc ca sau (xem http://www.tradetracing.com/hs-se/macadamia-nut.html và http://comtrade.un.org/db/dqBasicQuery.aspx):
- Hạt mắc ca nguyên vỏ (in-shell macadamia nut) có mã số HS2012 là 080261
- Hạt mắc ca đã bóc vỏ (shelled macadamia nut) có mã số HS2012 là 080262
- Hạt mắc ca nói chung (tươi hoặc khô, nguyên vỏ hoặc đã bóc vỏ) có mã số HS2007 là 080260.
Các hạt mắc ca 080261 và 080262 đều là hạt khô có độ ẩm khoảng 10%.
Không nên dùng các khái niệm mơ hồ (ví dụ: hạt khô, trái tươi, hạt thành phẩm,…) để làm dữ liệu nhằm thuyết phục cho một dự án hoặc thâm chí một chiến lược. Dùng các mã số đã được qui định thống nhất đó ta sẽ có tiếng nói chung với thế giới về hạt mắc ca, ta có thể truy cập vào các nguồn dữ liệu của UNSD và ITC để khai thác thông tin và tìm câu trả lời cho những vấn đề ta cần tìm hiểu. Sau đây là vài ví dụ:
Để trả lời cho câu hỏi là các nước nào xuất khẩu hạt mắc ca 080260 nhiều nhất, từ các nguồn dữ liệu nói trên ta có bảng 1:
Bảng 1:
Nước xuất khẩu
Số lượng xuất khẩu (tấn)
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Tổng
Úc
17.173
15.951
13.417
14.854
4.793
9.277
15.639
91.104
Nam Phi
10.231
9.276
9.756
9.399
13.264
11.316
21.696
84.938
Hà Lan
1.198
1.845
1.852
2.951
4.033
1.195
1.586
14.660
Guatemala
1.502
1.264
1.488
1.713
1.990
1.803
2.583
12.343
Zimbabwe
0
80
233
1.953
2.109
2.297
1.443
8.115
Malawi
0
170
312
676
1.073
1.041
1.425
4.697

Như vậy Mỹ không thuộc vào các nước xuất khẩu nhiều hạt mắc ca 080260 như một vài bài đã viết. Năm 2013 Mỹ xuất 1.715 tấn hạt mắc ca 080260 nhưng lại nhập 7.534 tấn hạt đó, chiếm 23,25% tổng số lượng nhập khẩu toàn cầu và là nước nhập khẩu nhiều nhất hạt mắc ca 080260 (xem http://www.trademap.org/Index.aspx).
Theo http://en.wikipedia.org/wiki/Macadamia, năm 2013 Úc thu hoạch 35.200 tấn hạt 080260 và(theo bảng1) xuất 15.639 tấn, vậy tỷ lệ xuất khẩu chiếm 44,43%. Năm 2013 Nam Phi thu hoạch 37.000 tấn hạt 080260 và (theo bảng 1) xuất khẩu 21.696 tấn, vậy tỷ lệ xuất khẩu chiếm 58,64%. Như vậy, số lượng xuất khẩu cũng phản ánh năng lực sản xuất của các nước đó. Ngoài ra, năm 2013 Úc không còn là nước có sản lượng hạt mắc ca 080260 lớn nhất.
Để trả lời cho câu hỏi giá xuất khẩu hạt mắc ca nguyên vỏ 080261 là bao nhiêu, từ các nguồn dữ liệu nói trên ta có bảng 2:
Bảng 2:
Nước xuất khẩu
2012
2013
Đơn giá trung bình
(USD/kg)
Trị giá (USD)
Số lượng
(kg)
Đơn giá
(USD/kg)
Trị giá (USD)
Số lượng
(kg)
Đơn giá
(USD/kg)
Nam Phi
$38.077.628
7.371.124
5,17
$63.714.678
15.356.711
4,15
4,48
Úc
$27.556.048
5.392.635
5,11
$39.110.560
10.169.057
3.85
4.28
Guatemala
$1.509.518
645.895
2,34
$1.667.141
1.129.908
1,48
1,79
Hà Lan
$4.496.178
302.075
14,88
$741.529
78.410
9,46
13,77
Zimbabwe



$1.707.499
1.344.425
1,27
1,27

Từ bảng 2 ta rút ra các nhận xét sau:
- Dựa vào số liệu xuất khẩu của 5 nước nói trên trong hai năm 2012 và 2013 thì đơn giá trung bình của hạt mắc ca nguyên vỏ trong 2 năm 2012 và 2013 là USD4,27/kg . Nếu không xét giá xuất khẩu của Hà Lan (vì giá cao đột xuất) thì đơn giá trung bình của hạt mắc ca nguyên vỏ 2 năm 2012 và 2013 là USD4,19/kg
- Đối với hạt mắc ca nguyên vỏ, tốc độ giảm đơn giá sau một năm của Nam Phi là 19,73%, của Úc là 24,66%, của Guatemala là 36,75%, của Hà Lan là 36,42%. Từ đó có thể tính được tốc độ trung bình giảm đơn giá (sau một năm) của 4 nước đầu tiên là 24,52%. Nói cách khác, sau khi xét cả tốc độ giảm giá thì đơn giá trung bình của hạt mắc ca nguyên vỏ là USD3,16/kg.
- Cần phân biệt giá xuất khẩu với giá thị trường nội địa và giá cửa-nông-trại (farm gate price), giá xuất khẩu cao hơn giá thị trường nội địa và càng cao hơn giá cửa-nông-trại. Giá cửa-nông-trại là giá hạt tươi, sau đó phải qua nhà máy hay xưởng để làm sạch, sấy khô, sàng lọc, phân loại, bao bì đóng gói, chi phi tiếp thị,…rồi mới thành giá xuất khẩu hay giá nội địa.
Theo www.australian-macadamía.org/industry, năm 2012 giá thị trường nội địa Úc của hạt mắc ca nguyên vỏ là AUD3,20/kg (hay USD2,60/kg). Cũng trong năm đó giá cửa-nông-trại ở vùng Bundaberg là AUD3,20/kg. Theo https://www.daff.qld.gov.au/plants/ thì giá của hạt mắc ca nguyên vỏ dao động từng năm nhưng có giá thấp nhất là AUD1,5/kg (năm 2007) và cao nhất là AUD3,60/kg (năm 2005).
Vậy các giá hạt mắc ca nói đến trong 3 ví dụ trên (USD15/kg, USD10/kg, USD5,5/kg) cao gấp nhiều lần so với giá USD2,60/kg, thậm chí còn cao hơn cả giá xuất khẩu hạt mắc ca nguyên vỏ (giá này lại đang giảm hàng năm), đấy chính là các số liệu hoang tưởng.
Để trả lời cho câu hỏi giá xuất khẩu hạt mắc ca đã bóc vỏ 080262 là bao nhiêu, từ các nguồn dữ liệu nói trên ta có bảng 3:
Bảng 3:
Nước xuất khẩu
2012
2013
Đơn giá trung bình
(USD/kg)
Trị giá (USD)
Số lượng
(kg)
Đơn giá
(USD/kg)
Trị giá (USD)
Số lượng
(kg)
Đơn giá
(USD/kg)
Nam Phi
$56.592.241
3.944.791
14,35
$82.184.822
6.338.879
12,97
13,49
Úc
$59.058.639
3.884.025
15,21
$74.564.560
5.470.064
13,63
14,29
Guatemala
$15.675.020
1.157.338
13,54
$18.570.247
1.453.129
12,78
13,12
Hà Lan
$14.314.512
892.590
16,04
$24.767.928
1.508.071
16,42
16,28
Zimbabwe



$222.750
99.000
2,25
2,25

Từ bảng 3 ta rút ra các nhận xét sau:
- Dựa vào số liệu xuất khẩu của 5 nước nói trên trong hai năm 2012 và 2013, đơn giá trung bình của hạt mắc ca đã bóc vỏ trong hai năm 2012 và 2013 là USD13,98/kg. Nếu không xét giá xuất khẩu của Zimbabwe (vì giá thấp đột xuất) thì đơn giá trung bình của hạt mắc ca đã bóc vỏ trong 2 năm 2012 và 2013 là USD14,03/kg.
- Đối với hạt mắc ca đã bóc vỏ, tốc độ giảm đơn giá sau một năm của Nam Phi là 9,62%, của Úc là 10,39%, của Guatemala là 5,61%, của Hà Lan là 2,37%. Từ đó có thể tính được tốc độ trung bình giảm đơn giá (sau một năm) của 4 nước đầu tiên là 8,07%, tức là đơn giá trung bình của hạt mắc ca đã bóc vỏ chỉ còn USD12,90/kg.
- Cần phân biệt rõ giá xuất khẩu của hạt mắc ca đã bóc vỏ với giá hạt mắc ca nguyên vỏ và với giá cửa-nông-trại. Tỷ lệ nhận được hạt mắc ca đã bóc vỏ từ hạt mắc ca nguyên vỏ là 30% (theowww.australian-macadamias.org/industry/ thì 32.400 tấn hạt nguyên vỏ cho 9.500 tấn hạt đã bóc vỏ), chưa kể phải bỏ nhiều chi phí lớn cho xây dựng nhà máy, các chi phí công nghiệp khác (sấy, chọn lọc, phân loại, khử trùng, bao bì đóng gói,…) và chi phí tiếp thị.
Bây giờ thử tính xem nếu Việt Nam trồng 100.000 hecta mắc ca thì sau 10 năm ta có thu nhập trung bình trong 1 năm là bao nhiêu đô la Mỹ? (giá bán hạt là giá cửa-nông-trại, ví dụ USD2,6/kg, không thể tính theo giá xuất khẩu được vì chưa biết các chi phí công nghiệp và chi phí tiếp thị…). Để trả lời câu hỏi này, cần phải trả lời một vài câu hỏi liên quan:
Một hecta trồng được bao nhiêu cây mắc ca? Theo https://www.daff.qld.gov.au thì một hecta trồng được 312 cây (mật độ trồng 8x4m), theo www.macnut.co.nz thì môt hecta trồng được 416 cây (mật độ trồng 6x4m), còn theo www.nhandan.com.vn thì tại Tây Nguyên VN một hecta trồng thí điểm có hơn 200 cây. Vậy ta tạm lấy con số trung bình là một hecta có 300 cây mắc ca.
Một cây thu hoạch được bao nhiêu kg hạt? Theo https://www.daff.qld.gov.au/plants/ ta có số liệu của 2 dòng đầu tiên của bảng 4 (trong 4 năm đầu ta chưa thu hoạch được hạt nào, đến năm thứ 5 thì thu hạt được 1 kg/cây, năm thứ 10 thu được 10kg/cây. Vậy tính cả 10 năm thì thu được trung bình mỗi năm là 3,2kg/cây, không phải là 70kg/cây như ông Tạn và nhà báo Anh Khoa nói).
Từ những số liệu trên ta lập được Bảng 4:
Bảng 4:
Năm thứ
5
6
7
8
9
10
Sản lượng hạt (kg/cây)
1
2
4
6
9
10
Sản lượng hạt (kg/ha)
300
600
1200
1800
2700
3000
Thu nhập trên 1 hecta (USD/ha)
780
1560
3120
4680
7020
7800
Thu nhập trên 100.000 hecta (triệu USD)
78
156
312
468
702
780

Từ bảng 4 ta tính được tổng thu nhập trong 10 năm (khi trồng 100.000 hecta cây mắc ca) là 2.496 triệu USD, tức là thu nhập trung bình mỗi năm là 250 triệu USD (1/4 tỉ đô la).
Tóm lại, người viết bài này ủng hộ chủ trương chiến lược phát triển cây mắc ca tại Tây Nguyên nhưng khi làm các dự án, nhất là khi điều hành các dự án và chương trình cụ thể cần phải tác nghiệp thận trọng và chuyên nghiệp, lấy lợi ích của người lao động ở nông thôn và lợi ích kinh tế xã hội của đất nước làm trọng, hạn chế tối đa các hiện tượng tiêu cực “đục nước béo cò” (nghe nói có nơi nông dân đã phải mua cây giống mắc ca với giá “khủng” là 100.000 VNĐ/cây).  
--
(*) Giám đốc Trung tâm Sinh học ứng dụng SECOIN

Tổng số lượt xem trang