Thứ Năm, 12 tháng 7, 2012

Chiến lũy Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam - Kỳ 14 (Huỳnh Tâm)

-“...Tôi thừa biết Viên Dung chỉ là một nghệ sĩ đam mê nghệ thuật và tìm hiểu nghệ thuật sống trong sinh động con người, còn một điểm khác tình báo Trung Quốc không chấp nhận Viên Dung len lỏi vào biên giới lần thứ hai...”
 Đã hơn 9 giờ sáng, nắng lên cao nghiêng 60° xuyên qua cây tạo thành bóng râm, sương mù hầu như trả lại không gian quang đảng, nhưng hôm nay cảnh vật muôn loài ngưng động, khác nào thung lũng trái son Tây Hàng làng, nằm dưới hai xường núi hơi thể thoi thóp, ngoài đường vắng bặt bóng người, thường ngày vào giờ này ít nhất có mươi trẻ em nô đùa dưới gốc cây cổ thụ giữa làng, thậm chí tiếng "Cờ tây" cũng không ham sủa, chỉ thấy một em bé H'mong ngồi bên vách đá đang ăn những thứ còn thừa của đêm hôm qua.


Em bé mồ côi H'mong, tại Tây Hành làng. Ảnh: HVD
Tôi thả bộ, lang thang không nhất định tới nơi nào, cứ đi theo đường trong làng, đặc điểm lòng đường 2 mét, mỗi bên lề đường rộng hơn 9 mét, cỏ xanh mọc tự nhiên óng mướt, có hơn 500 mái nhà tranh, mỗi tư gia cách nhau mãnh vườn nhỏ.
Chân rải bước đều, đôi tay vung vẩy thoải mái, mũi và tai cảm nhận được dưỡng khí núi rừng lành lạnh, chân cứ bước qua rác rưởi hôm qua để lại, những xác lá chuối rừng đủ màu xanh, vàng, thẩm, mo cây nứa, mo cây dừa ngổn ngang, những vòng hoa kết duyên đôi lứa của hôm qua, giờ này tơi tả vứt bên mặt đường. Mọi náo nhiệt thâu đêm, bây giờ trở lại đời thường, không còn tiếng ca hát những trò chơi rất thực đời đã tạo ra biết bao tình yêu cuộc sống mới.

Sực nhớ 4 cô xinh xinh ca hát trưa hôm qua, nhã ý hẹn mời tình cùng với Lành, Ái, Phước, Mỹ. Trong ý tưởng, tôi chúc 4 thằng bạn làm kẻ cướp bất đắc dĩ, đáp lời chân thành của những em miền sơn cước, hy vọng họ tiếp nhận được hạnh phúc đời đời.
Tôi dừng lại dưới gốc cây cổ thụ, chỗ đêm hôm qua đã từng ngồi yên lặng, chim ngưỡng những vũ điệu tuyệt vời, tiếng nhạc của trống, kèn, phèng la v.v...chính âm nhạc này đưa tôi đến gần với dân làng, không còn khoảng cách nào để con người phân chia giai cấp, sắc tộc rất tiếc một đêm náo nhiệt linh đình đã trôi qua hạnh phúc một đêm không dài lâu thế kỷ. Tại sao người đời chúc cho nhau hạnh phúc 100 nhỉ ? mà không hạnh phúc 1.000 năm !

Gần một tháng trôi giạt trên miền biên giới Tây-Bắc quê hương tôi, thế mà nay đất cùng dân biên giới đã thuộc xứ người Phương Bắc, lòng đau đất Tổ đã mất, tình yêu này thấm vào cơ thể vốn thuần Việt Nam, tôi tự:‒ tại sao quê hương bị mất vùng đất chiến lược, một gia tài Tổ quốc của Ông Cha để lại, vì ai nhỉ ? Lòng càng bâng khuâng hướng về Nam đất Việt, ôi thương nhớ đất, thương chân trời bình minh cả người đồng sinh.
Tự lòng hỏi bâng quơ: "Ai bảo tôi lạc lõng đến đây để rồi suy nghĩ bông lông, ai đưa tôi đến miền đất biên giới lạ này? Tự lòng cũng không trả lời được nửa câu:‒ Thôi, cứ để mặt tự do cho thời gian kéo đời theo vận hành của nó.

Bỗng có âm thanh kỳ diệu sau lưng gọi:

─ Anh, Ba Quang, anh từ đâu đến đây, sao anh ngồi ở đây, nhớ nhà hả? Tú Hiền em họ của anh đây nè.

Tôi chưa kịp đứng lên xoay lưng lại, đã có đôi bàn tay của người phụ nữ quàng ôm lấy cổ, cả thân người tôi bị đè nặng quằn lưng, cảm nghĩ trong đầu:‒ Không nhẽ nào, cô em gái họ thời thơ ấu 10 tuổi nay đã nặng trên 50 kg. Từ lúc tôi về Sài Gòn cho đến nay hơn 27 năm chỉ gặp vài lần, không thể nào đứa em gái lại hiện diện tại miền nước độc rừng sâu này được. Tôi tung người đứng lên xoay lưng lại nhìn chằm đôi mắt, đứng lặng yên tư thế nghiêm trang, đôi chân mày vần trán châu lại để tìm lại những nét dạng của người phụ nữ này là ai, mà biết gọi cả thứ lẫn tên, thực sự vợ con tôi chỉ biết thứ Ba chứ không biết tên Quang của thời thơ ấu đã qua, khi tôi về Sài Gòn cha mẹ làm lại khai sinh mới tên Tâm.

Người phụ nữ đứng khóc nức nở, tiếng nói nghẹn ngào, hầu như không ra lời:

─ Em là Tú Hiền đây, anh Ba đã thực sự quên em gái họ của anh rồi ư?

Trong đầu của tôi vẫn nhớ từng cử chỉ của Tú Hiền khi còn 6 tuổi, đôi khi Tú Hiền khóc, tôi chỉ biết cõng em trên vai đi một vòng, thế là em không còn khóc nữa, có lúc tôi còn làm con Khỉ đột nhảy múa để mua vui cho em, em xem Khỉ nhảy múa đến lúc cháng thì tôi làm con ngựa cho em cưỡi, hai vành tai của tôi trở thành dây cương, mỗi lần em thích thú miệng cười, tay giựt dây cương mạnh, vàng tai của tôi muốn đứt, những kỷ niệm ấy đã khằng trong ký ức làm sao quên Tú Hiền được, thâm tâm tôi vẫn nhớ về tuổi thơ của Tú Hiền, đời em không may mắn lúc 3 tuổi gặp cảnh cô độc. Chú-thím mất sớm, gia tài bị cháy sạch vì chiến tranh Quốc-cộng, em phải về ở với Bác, cha mẹ tôi, cả nhà thương yêu Tú Hiền, nhất là chị Thu không xa rời Tú Hiền.

Bây giờ tôi mới định thần lại, quả nhiên Tú Hiền đứng trước mặt, em tôi đã là một phụ nữ không còn ngày lên 6, em đứng khóc nức nở đôi tay duội vào mắt, cử chỉ này làm tôi xúc động, liền hỏi:

─ Đúng là em gái của anh, bằng cách nào em biết anh ngồi tại nơi này?

─ Thưa anh, chỉ cần thấy đôi vai của anh Ba là nhất định không sai, em có linh tính chính là anh chứ không ngoài ai khác, đôi vai và lưng của anh làm em khó quên được, tuy em không gặp anh thường xuyên nhưng lúc nào cũng theo dõi sinh hoạt của anh, nhất là những tấm ảnh của anh do Bác trai hay Bác gái đem về Nha Trang, Ninh Hòa để vào cuốn Album Ảnh của gia đình, em đã xem qua, cho nên nhận diện anh Ba rất nhanh.

Tú Hiền khóc miệng mếu máo không khác ngày thơ ấu là bao, đôi tay của Tú Hiến nắm chặt tay tôi như sợ biến mất, đôi mắt của em, lệ tuôn mãi, tiếng nói mỗi lúc trầm lại và đứt khoản, tôi xúc động đau đớn vô cùng, Tú Hiền nói:

─ Em van xin anh Ba, đừng bỏ em nhé ?
─ Đương nhiên, anh em mình đã hội ngộ thì không có lý do nào xa nhau nữa, anh hứa không bỏ em ở trong rừng già này, em hãy an tâm, nhưng mà em phải chờ một thời gian nữa nhé?

Tú Hiền khóc lớn nói:

─ Từ bây giờ anh ở đâu thì em ở đó, em rất sợ mất anh.

─ Tại sao em sợ mất anh ?

─ Từ xưa nay anh ra khỏi nhà là khó tìm, không ai biết thời gian đi và hẹn ngày về, chính Bác trai, Bác gái và chị Ba cũng nói vậy. Cho nên em không buôn tay anh, nếu buôn tay ra là hết hy vọng gặp lại.

Tôi lắc đầu vì cô em họ không tin lời hứa, đáp:

─ Được rồi cô ôm cổ anh như hồi nhỏ, để anh cõng em về chỗ anh đang tạm trú.

─ Em lớn rồi không cần cõng nữa, nắm tay như thế này được rồi.

─ Em nắm tay như vầy cả đời hay sao, nhỡ anh đi c... thì em cũng đi theo à?

─ Em sẽ đứng ngoài cửa chờ anh.

─ Anh thua cô rồi, nhưng em phải biết còn có cửa hậu, thôi được em đi theo anh.

Lòng phân vân nghĩ hômnay là ngày giỗ của anh chị Thu Minh, nhân dịp này có nên cho Tú Hiền biết hay không, dù saoTú Hiền cũng phải biết trước khi về nhà anh Dũng, tôi khẽ nói:

─ Tú Hiền, hôm nay là ngày giỗ anh chị Thu Minh!

Bỗng Tú Hiền la một tiếng thật lớn:

─ Hả...

Rồi ngất xỉu, cả thân người của Tú Hiền như một sợi bún, tôi không biết cách nào để diều trên 50 kl đi cho vững, tôi để tay lên đầu cô em cảm thấy nóng hừng hực, hai tay tôi đành phải xốc nách dìu đi từ từ, đi được độ 30 mét, từ xa Nhất Biến chạy lại hỏi:

─ Viên Dung làm cái trò khỉ gió gì thế, hồi đêm hôm qua đã làm gì với cô ta, sáng nay tự dưng biến mất, bây giờ Viên Dung xốc nách cô này đi đâu, lễ giỗcho anh chị Thu Minh chưa lo tròn bổn phận, đã đuổi theo cô gái này ư? Quả thật tôi quá tin Viên Dung, tưởng là một kẻ sĩ lương thiện, nào dè cũng là tầm thường.

Tôi bị Nhất Biến sổ ra một tràng đại liên, do hiểu lầm, tôi không thể nào trách y được, chỉ chờ em Tú Hiền tỉnh lại sẽ phân giải sau, còn bây giờ có nói cũng bằng thừa, hỏi:

─ Thưa anh Nhất Biến, trước hết anh chó cách nào làm cô này tĩnh lại được không?

Nhất Biến gắt gỏng đáp lại:

─ Thì đem về nhà nhờ chị Dũng trị liệu, bệnh đàn bà họ có cách trị riêng.

─ Cảm ơn, ý của anh hay đấy, anh phụ một tay đưa cô này về nhà nhanh lên.

Nhất Biến đương nhiên là người ngoài cuộc bình tĩnh hơn, liền xốc em Tú Hiền lên vai cõng về nhà, tôi chạy lúp súp theo sau.

Nhất Biến đặt Tú Hiền nằm xuống tấm phên tre nói:

─ Thưa chị Hồng, nhờ chị xem cô này có mệnh hệ gì không?

Cả nhà ngơ ngác nhìn mặt Nhất Biến, còn Nhất Biến nhìn tôi cử chỉ trách cứ, chị Chỉ Hồng xem toàn thân Tú Hiền, rồi nói:

─ Cô này không có bệnh gì cả, hình như bị xúc động mạnh rồi ngất xỉu, có thể vài phút nữa sẽ tĩnh lại, anh Nhất Biến an tâm.

Anh Dũng hỏi:

─ Sáng nay cậu đi đâu vậy?

─ Thưa anh, em lang thang trên đường làng ạ.

Nhất Biến xen vào nói :

─ Tôi thấy y đang ôm cô này rất là nham nhở, không biết y làm gì với cô ta, lúc ấy cô này trong tư thế ngất xỉu, y nhờ tôi một tay đem về đây, anh Dũng ạ, mình thấy người nhưng không thấy lòng bởi thế tôi xốc cô này lên vai, đem về nhờ chị xem bệnh tình.

Mười lămphút sau Tú Hiền tỉnh lại gọi:

─ Anh... Quang em khátnước.

Tôi rót nước hơi ấm đưa cho Tú Hiền uống, hỏi:
─ Thế nào em đã khoẻ chưa?

Tú hiền gật đầu hỏi:

─ Anh, Ba em khoẻ rồi, còn ở đây là nhà ai vậy?

─ Em, an tâm đây là nhà của anh chị Dũng, người bạn thân thiết nhất của anh chị Thu Minh.

Tú Hiền oà lên khóc nức nở, nói:

─ Tú Hiền chỉ có hai người thân nhất đó là chị hai Thu và anh ba Quang, tình cờ hôm nay gặp lại, em chưa hết xúc động này thì qua xúc động khác, vừa biết tin chị Thu anh Minh qua đời em chịu không nổi, sự đau khổ tinh thần này, em khó mà bình tĩnh.

Chị, Chỉ Hồng suy nghĩ một lúc, rồi nói :

─ Tôi hiểu rồi, ngày trước Thu có nói về em gái tên Tú Hiền học Văn-khoa, sau khi tốt nghiệp làm việc cho báo Điện Tín chủ nhiệm là ông Hồng Sơn Đông, về cậu Tâm, đúng là lúc nhỏ có cái tên Quang nhưng không ai còn nhớ nữa, bây giờ nghe em Tú Hiền gọi chị mới nhớ lại. Thế mà lâu nay chị nào biết trong làng này lại có một cô em gái của Thu và cậu Tâm.

Tú Hiền hỏi:

─ Khi nãy em bị xỉu anh Ba đưa em về đây hả?
─ Không phải, anh Nhất Biến cõng em trên vai chạy về đây đó, còn anh thì vô dụng, y còn sỉ vả anh đủ điều, nào là "Viên Dung làm cái trò khỉ gió gì thế, hồi đêm hôm qua đã làm gì với cô ta, sáng nay tự dưng biến mất, bây giờ Viên Dung xốc nách cô này đi đâu, lễ giỗ cho anh chị Thu Minh chưa lo tròn bổn phận, đã đuổi theo cô gái này ư? Quả thật tôi quá tin Viên Dung, tưởng là một kẻ sĩ lương thiện, nào dè cũng là tầm thường". Nhất Biến còn sỉ vả tiếp: "Tôi thấy y đang ôm cô này rất là nham nhở, không biết y làm gì với cô ta, lúc ấy cô này trong tư thế ngất xỉu, y nhờ tôi một tay đem về đây, anh Dũng ạ, mình thấy người nhưng không thấy lòng bởi thế tôi xốc cô này lên vai, đem về nhờ chị xem bệnh tình". Đúng là một kịch bản tồi của Nhất Biến phải không em Tú Hiền?

Tú Hiền đỏ mặt vì trước đây 1 giờ cả thân người trên vai của Nhất Biến, thẹn thùng nói:

─ Em, xin lỗi anh Nhất Biến vì quá xúc động cho nên có tình trạng ngất xỉu làm hai anh hiểu lầm nhau, xin quý anh bỏ qua vì em mà bất hòa, theo em suy nghĩ anh Nhất Biến có tính lương thiện quá cứng, còn anh Ba bị kẹt trong thế không đính chính được, mới có chuyện, tất cả cũng tại em, đề nghị hai anh hòa nhã đi nhé? Em kính đa tạ anh chị Dũng rất nhiều.

Nhất Biến xin lỗi nói:

─ Tôi xin lỗi Viên Dung nhé, vì đêm hôm qua tôi ngán ngẩm thằng Thượng sĩ Trung Quốctên Tô Trì Phươngnó sỗ sàng quá đáng với những cô dân tộc thiểu số, sáng nay thấy Viên Dung tôi hiểu lầm, luôn dịp xả một tràng chửi, thế mà Viên Dung không nói một câu nào, bây giờ thì tôi đã hối hận, hiểu rõ mọi việc, tôi xin lỗi Viên Dung.

Thực chất, Nhất Biến muốn bảo vệ danh dự cho bạn ư? Con người thực hay giả thì chưa rõ, ngoài ra Nhất Biến còn chứng tỏ đã làm được nhiều việc tốt vì bạn, nhưng không phải tính người hào sản. Y không ngại mọi cảnh trở, bởi y sống trong một môi trường và sinh hoạt qua mọi hành động có tính toán, đôi khi y nhằm lẫn việc và người vốn không cùng một góc nhìn, tôi nói:

─ Lúc nguy cấp, anh ép tôi vào chỗ có miệng mà không nói được, bởi vậy tôi im lặng có thế mới hòa nhã được, bây giờ xem như không có gì để chúng ta phải luận nữa, tất cả trở về như cũ và cảm thông hơn, phải nói tôi cảm ơn anh Nhất Biến mới phải.

Trong đầu tôi suy nghĩ, có ý phá vỡ không gian phiền muộn này, nói:

─ Nếu sau này vợ của Nhất Biến bị bệnh thì phải xốc lên lưng, cõng chạy như vậy hạnh phúc biết là bao, người được cõng cũng an tâm có sự che chở tốt.

Mọi người đồng cười, vô tình làm Tú Hiền và Nhất Biến đỏ mặt, họ im lìm không giám phản ứng.

Giờ lành đã đến, chúng tôi chuẩn bị làm lễ giỗ cho anh chị Thu Minh, anh chị Dũng đưa lễ vật lên bàn, đèn cũng đã  thắp sáng chỉ còn dâng hương, nói:

─ Cậu, Tâm khấn vái hồn linh thiên và cầu nguyện cho anh chị Thu Minh nhé?

─ Dạ, chúng em chuẩn bị hành lễ đây ạ. Nào em Tú Hiền cầm 3 cây hương chỉnh tề để chính giữa trán khấn vái cho anh chị Thu Minh, đọc theo anh nhé: "Chúng em là HQuang và HTú Hiền đứng trước bàn hương án cầu nguyện anh chị Thu Minh được hưởng hồng ân của Thượng Đế, hưởng mọi an lành của Đức Mẹ thiêng liêng ban bố, hôm nay ngày giỗ của anh chị, cũng là ngày hai em vừa hội ngộ, xin anh chị phò trì cho em Tú Hiền vượt qua mọi trở ngại, xin anh chị chứng giám cho".

Cuối cùng anh Dũng, chị Chỉ Hồng các cháu và Nhất Biến đồng niệm hương cầu nguyện cho anh chị Thu Minh, riêng Nhất Biến hơi dè dặt, bới cú đấm tâm lý bất ngờ của tôi “Nếu sau này vợ của Nhất Biến bị bệnh thì phải xốc lên lưng, cõng chạy như vậy hạnh phúc biết là bao, người được cõng cũng an tâm có sự che chở tốt ".

Trong khi Nhất Biến đang khấn nguyện, tôi tặng một câu thâm thúy để Nhất Biến tự suy lấy mình, tôi bảo:

─ Anh, Nhất Biến đọc theo tôi nhé ?

Nhất Biến gật đầu, đồng ý đọc theo:

─ Tôi tên là Nhất Biến, chưa biết mặt, chưa hiểu người nhưng thấy HQuang và Tú Hiền như thể ba là một, kể từ hôm nay tôi xin kết nghĩa với người trên lưng, kính xin anh chị Thu Minh chứng giám.

Tôi liền phán lễ thành.

Anh chị Dũng đứng sau lưng Nhất Biến, múm mím cười không bật thành tiếng, ngó tôi cử chỉ hiểu ý, riêng Tú Hiền im lặng đôi má hồng, còn Nhất Biến miệng đọc từng lời, biết rằng Viên Dung trả thù tâm lý nhưng phải đành miễn cưỡng đọc theo, vì đứng trước bàn hương ánh không thể cưỡng lại, NhấtBiến đọc có ấp úng nhưng đã đọc hết câu nguyện. Đương nhiên Nhất Biến tự biết mình, đây là một lời thề trước người khuất mặt chứng giám và người hiện diện chấp nhận.

Buổi lễ giỗ vừa thành, các anh Trương Hoán Tùng, Phó Như Bá, Hứa Bông Linhvà tên Tô Trì Phươngtừ ngoài cửa bước vào nhà, mọi người đồng chào nhau thân thiện, anh chị Dũng mời dùng cơm trưa và giới thiệu:

─ Thưa quý anh, đây là em họ, như ruột của hiền đệ Tâm, tên là Tú Hiền, tình cờ tìm được trong làng, nay chúng tôi đoàn tụ một nhà.

Nhất Biến âm thầm suy nghĩ:

─ Kể từ hôm nay tất cả mọi lời nói trong gia đình này rất sâu sắc đối với mình, như anh Dũng nói "nay chúng tôi đoàn tụ một nhà" đương nhiên Nhất Biến không ngoại lệ, hình như mình có tình ý riêng cho nên mới rụt rè chăng?

Anh, Trương Hoán Tùng, ồ... lên một tiếng, nói:

─ Thì ra cô Tú Hiền là em của hiền đệ Tâm, thảo nào có cá tính can trường, cô Tú Hiền nói tiếng Quan thoại rất chuẩn pha âm Thành Đô, cô ở kế dân tộc Choang và Mèo ai cũng kính trọng, thương yêu, chính cô giúp họ sản xuất lương thực nhiều nhất, hướng dẫn phương thức sấy khô ngũ cốc, và lưu trữ lương thực bằng thùng cây tránh sâu mọt, rất tiếc trong làng mình người đông quá cho nên tôi và chú Dũng không khám phá tài năng từng người. Hôm nay may mắn anh em hội ngộ, tôi thay mặt cả nhà chúc mừng cho hiền đệ Tâm gặp lại em gái Tú Hiền, phải nói nếu không có anh Nhất Biến thì làm sao mà có cảnh ngộ hôm nay, tôi chúc mừng.

Mọi người cụng ly lai rai, riêng Tú Hiền, chị Chỉ Hồng cụng ly trà thay rượu. Buổi tiệc kết thúc chúng tôi tiễn đưa hai anh Phó Như Bá, Hứa Bông Linh về lại Dòng nhà làng và Âu nhà làng, bằng xe quân đội Trung Quốc do tên Phương cầm lái, chở theo một số gia súc do Nhất Biến tặng. Xe lăng bánh mọi người vẫy tay chào:

─ Chào anh Hứa Bông Linh, Phó Như Bá, hẹn ngày gặp lại.

─ Gặp lại nhé.

─ Chúc anh, chị, em trong làng bình an.

Nhất Biến hỏi:

─ Viên Dung bao giờ trở lại Côn Minh?

─ Hôm nay chúng ta lên đường.

Tú Hiền bỗng khóc, và chạy đến nắm tay thật chặt nói:

─ Anh, Ba đừng bỏ em ở lại đây một mình, em rất sợ núi rừng này, từ hôm nay em thề rằng anh Ba đi đâu thì em theo đó.

─ Lại câu nói như sáng nay, anh bảo em cứ ở lại đây, hay là em xin phép anh Tùng về trọ tại nhà anh chị Dũng, chuyện từ giả làng đã có anh lo, đây là lời hứa cuối cùng, nếu em bận bịu thế này không khác nào em làm khó cho anh.

Tôi liền nói thẳng thắn với anh Phó Hoán Tùng:

─ Thưa, đại ca Tùng, đệ đến đây mục đích duy nhất là tìm mọi cách đưa cả nhà anh chị Dũng về Côn Minh và nay có thêm cô em, có thể hai tháng nữa sẽ rời khỏi làng, đệ xin lỗi đại ca tha thứ cho, vì tương lai của các cháu buộc đệ phải thực hiện theo lời cam kết với anh chị Thu Minh. Hy vọng đại ca cảm thông.

Anh Tùng có ít nhiều bùi ngùi, sau khi nghe lời nói thẳng thắn có tính quyết định, đương nhiên là không cản trở con đường sống thênh thang của mọi người, tuy nhiên người thân thương đột ngộc rời khỏi làng, đáp:

─ Hiền đệ đã quyết định rồi, anh nào cản bước chân được, trong thâm tâm của anh cũng hy vọng mọi người bình an và hạnh phúc ở miền đất tự do. Anh xúc động do tình thâm bao năm tháng của chúng ta, nay vì tương lai của các cháu anh không cản trở v.v...

Tú Hiền vẫn khóc nói:

─ Anh Ba, em chỉ muốn đi bây giờ không thể chờ hai tháng sau, nếu xa anh Ba một khắc thì xem như mất tất cả. Nếu hôm nay, anh Ba không đồng ý cho em đi theo, e rằng em đã quyết định mồ xanh cỏ rậm!

Tú Hiền khóc tủi phận. Tôi tự âm thầm nói: đúnglà cô em mình chưa biết gì về thế giới hung hãm ngoài làng, nhất là ở biên giới nguy hiểm này, nó đang theo dõianh, chỉ chờ cơ hội, anh của em bị chúng lấy mất mạng. Tôi biết gì hơn phải nói lên một phần sự thật may ra cứu được cô em:

─ Tại sao Tú Hiền cố chấp thế, anh đã bảo rồi, trái lại em không chịu nghe lời, việc khó làm cần bình tĩnh sẽ thành. Anh không có tài nào đưa em ra khỏi làng vào lúc này, khi chưa có thẻ nhận diện ID. Đây là lời dứt khoát để em hiểu, bây giờ anh cũng không còn dè dặt nữa, anh đang ở Pháp quốc chứ không phải ở Trung Hoa, anh đến đây vì tình thâm của anh chị Thu Minh và anh chị Dũng chứ không phải đi chơi. Em phải chờ đi cùng lúc với cả nhà anh chị Dũng.

Tú Hiền đáp:

─ Thưa anh Ba, em rất sợ cảnh sống này lắm, đã gần 8 năm trôi qua, em có ý định quyên sinh mấy lần rồi, giờ này em chỉ van xin anh hãy cứu em với, em chỉ hy vọng nơi anh, và anh là người thân duy nhất của em.

Tôi buồn quá đứng lên, dư định ra ngoài thở một ít không khí trong lành, Nhất Biến gọi giật người tôi lại nói:
─ Viên Dung hãy ngồi xuống để nghe tôi nói.

─ Anh nói cái gì, con nhỏ này nó bướng bỉnh lắm, nó muốn cái gì được cái nấy hay sao, đã từng ấy tuổi đầu mà không lượng sức để sống, cứ hy vọng nương nhờ vào người anh thì biết bao giờ khá được, tôi đã hứa rồi, thế mà nó không nghe. Này cô em hãy học sự kiên nhẫn của anh chị Dũng đi?

Cả nhà chưa bao giờ thấy tôi bực dọc, kể cả Tú Hiền hôm nay là lần đầu trong đời, anh Tùng cắt ngang, nỗi ưu phiền của tôi nói:

─ Hiền đệ Tâm, huynh hiểu có nào "lửa cơ đứt ruột dao hàn cắt da" hãy bình tĩnh để anh Nhất Biến phát biểu đã.

Nhất Biến nói:

─ Thưa cả nhà, tôi có khả năng đưa cô Tú Hiền về Côn Minh, Viên Dung an tâm đừng buồn nữa.

─ Anh có biết cái khó của người Việt tị nạn không ? Tại sao người ta gọi làng người Việt tị nạn là "Lồng chim Trung Quốc" hay " Đất Việt nhà tù Trung Quốc". Anh nhận đưa Tú Hiền về Côn Minh thì dễ dàng, tôi đưa cũng được, nhưng làm thẻ nhận diện không đơn giản cũng như ăn ở, làm việc, sống thế nào.

Tôi cho anh biết em tôi đã có một lần bỏ làng đi về Côn Minh, hy vọng nhà Tổ họ Hoàng sẽ che chở, cuối cùng chỉ một buổi gặp mặt trong họ, em tôi tiếp nhận lắm điều thất vọng. Tôi cảm ơn anh, có ý tốt nhưng tôi không muốn ai đặt cho em tôi một niềm tin rồi sau đó tiếp tục thất vọng, bởi phụ nữ không chịu đựng sự kiên nhẫn lâu, cho nên phụ nữ cần phải có chỗ an thân trước, rồi những chuyện khác tính sau, anh chưa có vợ con, bởi thế không biết trên đôi vai gánh nào nặng hay nhẹ.

Nhất Biến khẳng định:

─ Viên Dung lo như vậy cũng phải, tôi thán phục cách sống tình nghĩa này từ lâu, ví dụ Viên Dung đến được biên giới này cũng là một cách làm bất thường không phải ai cũng làm được, còn riêng tôi cũng muốn thử lửa một lần chứ, mỗi người có một cách hành động, suy nghĩ riêng, thậm chí đi chung mà sinh hoạt riêng, theo mỗi khả năng từng người, Viên Dung hãy tin nơi tôi hứa là thực hiện được, và hai tháng sau tôi sẽ thực hiện tiếp theo đưa gia đình anh chị Dũng đi Nam Ninh, và anh Tùng cùng đi nhé?

Anh Tùng đáp:

─ Lúc trước hiền đệ Tâm đã đề nghị với tôi rồi, nhưng tôi phải sống ở đây vì có những lý do tế nhị khác, cảm ơn anh Nhất Biến có thâm tình với tôi, chúc mọi người bạn tốt ra đi thành công.

Lúc này tôi nhìn em Tú Hiền, lòng thầm nghĩ em họ của mình vẫn còn tính trẻ con như ngày nào, nó không thay đổi mấy, bảo:

─ Tú Hiền về nhà lấy quần áo rồi đến đây đi cùng chúng anh.

─ Anh đừng lừa em, một phút cũng không xa anh, em chỉ mặc một bộ đồ này đủ rồi.

─ Tú Hiền không biết lạnh à?

─ Lạnh thì em sợ, nhưng không bằng sợ mất anh.

─ Con khỉ nhỏ này đúng là lì lợm.

Tú Hiền sực nhớ vợ con của anh Ba hỏi:

─ Thưa anh Ba, hiện giờ chị Ba và 4 cháu thế nào rồi, cho em biết tin được không?

─ Lại thêm một cái gánh trên vai, còn 30 ngày nữa chị và mấy cháu từ Tokyo, Nhật Bản qua Pháp đoàn tụ với anh, lúc ấy tự do của anh sẽ teo lại.

─ Em hy vọng sẽ gặp lại chị Ba và mấy cháu.

─ Cảm ơn cô, anh sẽ kể hết cuộc đời tị nạn của cô tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc cho chị Ba nghe, nhất là tính bướng bỉnh lớn theo từng ngày.

Nhân tiện tôi phán một câu:

─ Thằng nào mà lấy cô sẽ khổ suốt đời.

Chị Hồng nói:

─ Nếu em không về nhà lấy quần áo mặc thêm thì lạnh lắm vì chiều nay sương núi rừng xuống thấp.

─ Cảm ơn chị, em không về đâu.

─ Chị đề nghị, em cùng chị và anh Nhất Biến về nhà em lấy quần áo nhé? Em an tâm người lái xe là anh Nhất Biến.

─ Thưa chị, cũng không được trừ phi anh Ba đi với em.

Tôi phán cô em mấy lời:

─ Anh không dám gần em nữ rồi, đồ khỉ, đi về lấy quần áo nhanh lên.

Tú Hiền vâng lời, cùng lúc chị Chỉ Hồng, Nhất Biến đi ra khỏi nhà, tôi thở nhẹ người, ít nhất vào thời điểm này tôi vẫn dè dặt đối vớiNhất Biến. Bây giờ y tạo dịp để em tôi về Côn Minh, y còn kê lưng gánh một trách nhiệm quá khó khăn. Tôi sẽ tìm dịp cảm ơn Nhất Biến.

Anh Tùng và anh Dũng cũng thấy Nhất Biến là người bạn đáng tin cậy, anh Tùng hỏi:

─ Sau này anh em đi hết, trong làng chỉ còn có thằng đại ca này, suy nghĩ đến đây quá cô đơn, hai hiền đệ Dũng và Tâm có còn trở lại thăm đại ca không?

─ Đại ca an tâm, đệ sẽ thay mặt anh chị Dũng thăm mỗi năm, có thể đệ ở luôn trên biên giới quê hương này.

Ít nhất một lời nói tình nghĩa, anh Tùng cũng an tâm. Huynh đệ chúng tôi, nói chưa hết ý thì cả ba người đã về đến nhà, Tú Hiền vội vả đem theo vài bộ quần áo mới, còn lại những áo quần lao động và vật dụng trong gia đình nhờ chị Chỉ Hồng xem ai cần thì tặng, chị Chỉ Hồng vội vã vào nhà lo ba phần ăn để đem theo dùng dọc đường.

Chúng tôi bắt tay chào nhau tạm biệt, trong lúc này cũng xuất hiện Lành, Ái, Phước, và Mỹ, tôi trao đổi vài lới:

─ Tạm biệt bốn chú, chúng ta nhất định sẽ có ngày gặp lại, bốn chú nhớ khi anh Tùng gọi là có mặt nhé, hãy xem anh Tùng là đại ca. Sao hôm qua có đem lại kết quả nào không ?
─ Dạ, chúng em thành công, bốn chúng em đã hẹn làm lễ hỏi và lễ cưới cùng ngày, cùng tháng, cùng năm.

─ Thế thì mời anh Tùng đại diện cho nhà Trai nhé?

Cả bốn cúi đầu thay cho cử chỉ vâng lời, anh Tùng cười nói:

─ Bốn con khỉ đột này, sẽ đốt nhà anh nếu từ chối làm mai mối.

Mọi người đồng cười, chúng tôi tranh thủ lên xe, trên và dưới xe đồng vẫy tay chào, hẹn ngày tái ngộ. Tú Hiền ngồi ghế sau lưng tôi. Nhất Biến cho xe chạy ra khỏi đầu làng. Từ đây về doanh trại của Bộ Tư Lệnh tiền đồn Sư đoàn 189còn xa lắm rất nhiều thời giờ trống không, nếu không khơi chuyện sẽ buồn chán, cũng cần tìm hiểu thêm về lòng chân thực của Nhất Biến, vì lúc nào tôi cũng đặt câu hỏi nghi ngờ về sự xuất hiện của y, ngõhầu chuẩn bị đường binh nếu hậu quả sẽ đến với tôi, mọi tế nhị đang diễn biến trước bạn hay thù chưa thể nào biết trước, tôi hỏi:

─ Trước tiên tôi xin cảm ơn anh Nhất Biến đã dành cho tôi quá nhiều tình cảm, tạo cơ hội cho Tú Hiền sống ở Côn Minh, thế thí anh đã có một viễn ảnh nào chưa, suy xét điều kiện thuận tiện chưa hay mới có ý định chưa thành hình?

Nhất Biến đáp:

─ Thực ra, tất cả đều ở trong tầm tay, cô Tú Hiền đương nhiên là về ở với Mẹ tại Côn Minh mà có lần đã nói về quê Ngoại của tôi ở đó, còn làm thẻ nhận diện nếu Viên Dung làm được thì Nhất Biến cũng làm được, cái khó tìm cho được người bảo đảm không phát hiện được thẻ nhận diện ID.

Tôi nhạy cảm liền suy nghĩ: quả nhiên Nhất Biến làm mọi việc tốt cho mình, không phải vì tình bạn, bởi ngoài mục đích khác, y tìm mọi cách để biết thẻ ID xuất phát từ đâu mà có, hôm nay là cơ hội tốt cho y, Tú Hiền chỉ là lý cớ qua tình cảm, để rồi y kết thúc cuộc khai thác về tôi, có thể câu hỏi lớn nhất trong suy nghĩ của Nhất Biến: "Người nào đứng ra bảo kê làm thẻ ID cho Viên Dung". Tôi cười thầm:‒ Thì ra chỉ có mấy bí quyết vụng vặt của tên ký giả CPC, có thể khẩn định Cát Thuầnmới chính là tình báo nguy hiểm, đang lái xe.

Tôi không ngần ngại trả lời:

─ Thực ra muốn làm một thẻ nhận diện không khó, vì truyền thống Trung Quốc có nói "tiền đi trước là đồng tiền khôn" theo tôi tùy đồng tiền nặng hay nhẹ, thẻ ID giả hay thực đều do giá trị ở đồng tiền, có tiền ai làm chẳn được, như tôi có thẻ ID phải mất 5.000 Nhân Dân Tệ, đặc biệt không thể nào biết người trao cho tôi là ai, chỉ biết đến ngày hẹn tại khách sạn. Hôm ấy có một em bé trao thẻ và lấy bao thư tiền. Hy vọng anh Nhất Biến làm được thẻ nhận diện cho Tú Hiền mà không mất đồng Nhân Dân Tệ nào, bởi anh quen biết nhiều, nhất là người của Quân Ủy Trung Ương Trung Quốc, còn Bộ Nội Vụ chẳng qua tên cần vụ của đảng CSTQ.

Đồng Nhân Dân Tệ chồng chất theo chiều cao quyền lực
của đảng viên CS Trung Quốc.
Nguồn: Bài trừ tham nhũng Bắc Kinh.
Nhất Biến hỏi tiếp:

─ Viên Dung thực sự không biết người cấp thẻ hay sao?

Tôi cảm nhận được Nhất Biến, muốn đi sâu vào vấn đề thẻ nhận diện ID, tránh né bằng cách nào đây? Tôi đáp:

─ Thưa anh Nhất Biến, chính đảng CS Trung Quốc hướng dẫn đảng viên các cấp cho đến người dân lúc nào cũng đề phòng, và phản ửng tự vệ, bởi mỗi khi họ dính vào đồng tiền thì điên sao mà lộ mặt để cho đối phương biết. Làm thẻ nhận diện là chuyện tham nhũng, tuy nhiên đó chỉ là việc tham nhũng cỏn con. Theo tôi biết những phần tử có quyền lực bán quê hương Tổ quốc bằng nhiều cách rồi chia nhau để hưởng, đó mới đáng trách bọn tham nhũng, tại sao mình không trừ được nó nhỉ?

À kẻ tham nhũng cũng không hưởng được bao nhiêu, thế mà đến lúc xuôi tay vẫn lòng tham ấy, làm người như thế khổ nội tâm lắm, kẻ lòng tham nếu biết bỏ xuống cục đá ấy thì người nhẹ nhõm và sống ung dung, thoải mái hơn.

Ở Pháp, tôi có một ông Chú, lòng tham vĩ đại, trước 1975 trong tay có quyền lực, ông ta điều binh, khiển tướng, ho một tiếng đô-la, đá quí từ xa bay đến ào ào không có chỗ chứa, lúc mất miền Nam, ông định cư tại Mỹ rồi qua Pháp sống với cuộc đời cô độc thảm thương, lúc xuôi tay không có một bóng ma nào đến chia sẻ mãn phần.

Trong khi ấy tôi chu du khắp mọi nơi, không tiền vẫn chia vui với thiên hạ, đi đâu cũng không sợ chết, bởi quan niệm sống từng này tuổi đã quá đủ (40 tuổi), chết cũng không tiếc, nói vậy cũng có người tham sống sợ chết chẳngqua họ không biết giá trị ngày chào đời, ta hãy xem những công trùng tuổi thọ chỉ một sát-na, khi ấy ta mới biết vị trí nào của tự nhiên đã an bài, vị trí nào của vạn vật và vị trí nào của con người.

Nhất Biến nói:

─ Thảo nào Viên Dung lạc quan theo tác phẩm, lấy con người làm điểm sống.

─ Thế là anh Nhất Biến đã thấy điều đó trong tôi à. Hy vọng tha nhân không ra tay đày đọa tôi, nhưng nếu có cũng bằng thừa vì mục phiêu của tôi như thế, tôi đã thỏa mãn lắm rồi.

─ Thực là Viên Dung không sợ chết hay sao?

─ Nếu sợ chết thì tôi không đi biên giới Việt Nam-Trung Quốc làm gì, để rồi gặp phải hầm hố chông gai, mìn bẫy treo lơ lửng trên đầunón, mìn cài dưới đôi bàn chân lạnh. Có lần Bố tôi nói: "Làm trai thà chết cho tha nhân, chứ chết trên mình vợ là nhục".

Nhất Biến hơi cau chân mày nói:

─ Quả thực Viên Dung nói đã hết lời, bây giờ có dự phóng nào cho tương lai không?

─ Tôi không có dự phóng nào cả, chỉ đơn giản làm người cần có tiếng nói trong suy nghĩ, tự do, dân chủ, công bằng, quyền lựa chọn cái đa nguyên và bỏ đi cái độc quyền. Bởi thế tôi định cư nước Pháp là do lẽ ấy.

Nhất Biến hỏi tiếp:

─ Một người tị nạn mà có quyền lựa chọn hay sao.

─ Tôi là người tị nạn của thế giới tự do, còn Tú Hiền bị tị nạn trong thế giới CS, hai thể chế khác nhau. Chính tôi hiện có trên tay thẻ tị nạn do nước Pháp cấp, nhưng tôi có quyền đi khắp thế giới, trừ phi tôi không có tiền.

Nhất Biến gật gù đáp:

─ Quả nhiên Viên Dung lúc nào cũng thế, không quị lụy, phải thì chơi không phải thì tránh.

─ Thưa anh Nhất Biến, cõi đời này có trên 5 tỷ người (1987), tôi chỉ cần vài người làm bạn là đủ lắm rồi, nhưng hiện nay tôi có trên 9 người bạn tốt như vợ con tôi, em gái Tú Hiền và Nhất Biến v.v... Hạnh phúc của tôi quá thừa. Trong khi ấy hạnh phúc của anh Nhất Biến được bao nhiêu?

Nhất Biến suy nghĩ một hồi lâu rồi đáp:

─ Từ khi đến Trung Quốc bạn thân không có, hạnh phúc gia đình cũng không có.

─ Bởi anh sống trong sự lừa dối của chế độ CS, tôi hy vọng anh sẽ hạnh phúc như tôi.

─ Đa tạ, tôi có thể hạnh phúc được hay sao ?

Tôi nói thầm trong lòng: “Xin lỗi tên tình báo Cát Thuần, mầy là đảng viên CS Trung Quốc muốn hạnh phúc phải sám hối tư tưởng, tuy vẫn sống trong chế độ nhưng phải có quyết định từ chối hành động CS, có như thế mới bước ra được và tìm đến hạnh phúc riêng, hưởng hạnh phúc cũng phải trả giá cho cuộc đời”. Tôi nói tiếp:

─ Xin lỗi anh Nhất Biến, hạnh phúc của người đi trước đã gặp phải mong manh, người sau phải tránh.

Ý của tôi ám chỉ hạnh phúc Cha-mẹ của Nhất Biến bị đảng CSTQ chi phối, Nhất Biến đáp:

─ Đa tạ, tôi hiểu lời nhắc nhỡ của Viên Dung.

Hôm nay tôi và Nhất Biến có đôi lời qua lại, nhưng vẫn còn là tình bạn, chưa đến nỗi trở mặt thành thù, hiện Nhất Biến là tình báo của Quân Ủy Trung Ương Trung Quốc được ủy nhiệm công tác theo dõi tôi.

Y nói:

─ Tôi hành nghề ký giả cần vụ ho CPC, ngoài ra tôi cũng như anh.

─ Câu này Nhất Biến tự khai, đương nhiên tôi biết anh từ lúc mới gặp nhau nhưng chưa rõ lắm, ký giả chỉ là bình phong, làm sao như tôi được .

Nhất Biến nói:

─ Rất vui ở điểm Viên Dung bị tình nghi chứ không phải là địch thủ tình báo Trung Quốc. Tôi thừa biết Viên Dung chỉ là một nghệ sĩ đam mê nghệ thuật và tìm hiểu nghệ thuật sống trong sinh động con người, còn một điểm khác tình báo Trung Quốc không chấp nhận Viên Dung len lỏi vào biên giới lần thứ hai.

Tôi nhận được lời cảnh cáo của Nhất Biến, đáp:

─ Đa tạ, anh Nhất Biến nhắc nhở tôi, một lần nữa tôi được an tâm nhất là ở giây phút cảm xúc này.

Chúng tôi dừng xe bên đừng, ăn cơm chiều, không ngờ chị Chỉ Hồng kèm theo 1/4 rượu Đế của dân tộc Dao, thịt và xôi Gà thơm phức.

Tú Hiền làm từng mo cơm đưa cho tôi và Nhất Biến dùng, hỏi:

─ Có rượu quý anh dùng không ?

Nhất Biến đáp:

─ Trong lúc này mà không có rượu thì chúng tôi điên mất, lấy một ít rượu để ấm lòng, chúng tôi thực sự thù tạc với nhau, từ đây hai chúng tôi là bạn chân thành.

Tú Hiền hỏi:

─ Suốt dọc đường quý anh nói chuyện cùng ngôn ngữ Việt, thế mà em khó hiểu, tại sao lại có lúc nói chuyện trầm, có lúc như gay gắt, làm em lo quá, bây giờ em mới thấy thoải mái hơn.

Nhất Biến đáp:

─ Thực ra, không nói cũng không được, có nói mới cứu được bạn, tôi có nhiệm vụ đưa còng số 8 vào tay Viên Dung, dẫn độ về cục anh ninh quân đội. Một hành trình mấy ngày tôi nhận xét anh Viên Dung chân thực, đến đây vì bạn, không phải là tình báo của bất cứ quốc gia nào, cho nên chúng tôi mượn rượu để vui mừng, và tôi bảo đảm anh Viên Dung của Tú Hiền không thương tích, còn việc tra hỏi của an ninh đương nhiên không tránh khỏi, chuyến đi này Tú Hiền chỉ là vô tình.

Tôi hứa đưa Tú Hiền về nhà Mẹ ở tạm chờ ngày nhận thẻ ID, sau đó Tú Hiền tự do đi lại và tìm việc làm sống qua ngày, vài tháng sau tôi sẽ vận động vào quốc tịch Trung Quốc, tùy Tú Hiền chọn lựa tương lai, cũng có thể anh Viên Dung bảo lãnh Tú Hiền đi Pháp.

Tú Hiền hỏi:
─ Những ngày tới anh Nhất Biến sẽ ở đâu và sống thế nào?

─ Tôi chưa biết, trong khi chờ cơ quan phân bổ công tác, tạm thời tôi ở nhà của Mẹ, hy vọng tôi được nghĩ vài tuần, sau đó tôi về Nam Ninh.

Tôi không muốn cô em họsavào tình cảm với Nhất Biến, bởi bí ấn gia thế Mẹ của Nhất Biến, cho đến giờ này không biết nguyên nhân nào bà ta có mặt tại Chợ Lớn và về lại Trung Quốc khi nào ? Tôi cần phải đề phòng tình cảm của họ,tôi hỏi:

─ Thưa anh Nhất Biến. Tôi hơi tò mò, muốn biết thêm về cuộc chiến tranh giữa Việt Nam-Trung Quốc, họ tranh hùng tại mặt trận biên giới Tây-Bắc và Đông-Bắc của Việt Nam nhưng không ai am tường hơn ngoài anh,theo anh đánh giá thế nào về cuộc chiến này, nhất là con số.

Nhất Biến không từ chối câu hỏi của tôi, đáp:

─ Thực chất chẳng qua cuộc chiến nằm trong đổ vở của mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, người ta cố tình ép duyên VN-TQ chung sống theo tình đồng chí trừu tượng, họ mượn lịch sử đã trải qua nhiều thập kỷ, và ảnh hưởng của hai quốc gia, khi đã là trừu tượng đương nhiên không còn ý nghĩa, cuối cùng chiến tranh cũng phải đến vào năm 1979. Bắc Kinh đã có những toan tính trước, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình đã cầm trên tay chìa khóa chiến tranh, Trung Quốc đã chủ động chiến lược, chiến thuật, kỹ thuật, trang bị quân sự tấn công Việt Nam.

Cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh mang màu sắc đặc thù Trung Quốc, như kế hoạch xua quân qua biên giới, mục tiêu quan trọng trong chiến tranh, và khi nào sử dụng sức mạnh quân sự, do họ Đặng truyền lệnh. Theo nhận định về thắng lợi hay hậu quả của cuộc xung đột ở cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự, những bài học này đã được rút tỉa dưới con mắt của nhiều học giả Trung Quốc.

Đầu năm 1979 Trung Quốc xâm lược Việt Nam, theo cách nói của lãnh đạo Trung Quốc là để "dạy cho Việt Nam một bài học nhớ đời". Mặc dầu Bắc Kinh tự cho thắng lợi nhưng nói chung trong giới học giả vẫn tranh cãi cho rằng: "cuộc chiến tranh đã không diễn ra như Trung Quốc mong đợi vì trong cuộc xung đột này Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QGPND) đã tác chiến hết sức tồi tệ. Chính Trung Quốc chứ không phải Việt Nam, bài học đã rút ra từ cuộc chiến Việt Nam tặng cho Trung Quốc".

Các tài liệu của Trung Quốc về cuộc chiến tranh này vẫn được niêm phong rất cẩn mật do đó các thông tin về cuộc chiến không chỉ chắp vá, chủ quan mà còn đáng ngờ về tính xác thực. Mặc dù đã có một ít tài liệu bằng tiếng Anh, nhưng phần nhiều chỉ là đồn đoán và không chính xác, loan truyền không chính thức ở Hồng Kông và Đài Loan. Gần đây do việc kiểm soát thông tin của Bắc Kinh có phần lỏng lẻo hơn nên nhiều tài liệu lưu hành nội bộ về khả năng và kinh nghiệm của QGPND trong chiến tranh 1979, ngoài ra còn thấy xuất hiện rải rác trong các thư viện tại Mỹ, những biên khảo trong giới học giả Trung Quốc, thêm vào đó, hồi ký của một số sĩ quan cao cấp Trung Quốc cũng đã cho thấy nhiều thông tin giá trị.

Sự tàn phá Việt Nam qua cuộc chiến tranh, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, nhanh chóng pháo kích vào lãnh thổ của Việt Nam, tấn công những thành phố phía Bắc, kẹp lại chia thành khu vực, ví dụ tỉnh Cao Bằng, cứ mỗi Quân đoàn có từ 346 quân báo chịu trách nhiệm, xen kẽ quân đội chính qui gồm 126 đơn vị tăng tốc độ tấn công, Quân đoàn 42 là lực lượng chính tiến vào tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Các kiểu xe tăng 59, 62 chuyển quân bộ binh nhanh chóng hình thành xen kẽ với các cuộc tấn công nhanh, giải quyết thành công phía Tây-Bắc qua Cao Bằng, Lạng Sơn về phía Đông-Nam Trung Quốc có thể là một vị trí chiến lược. Trong quá trình số lượng xe tăng chở bộ binh cũng vậy, lên đến 20 người mỗi xe tăng.
Chính phủ Trung Quốc cho biết: Hai khu vực thành trì dân quân bảo vệ biên giới của Việt Nam là Cao Bằng và Lào Cai cần phải tiêu diệt sạch. Tuy nhiên, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bị thương vong nặng nề khó biện giải chiến thắng.

Theo báo cáo của CPC:

Giai đoạn đầu tiến quân

Ngày 17/2/1979, Trung Quốc bắt đầu đột kích vào biên giới Việt Nam.

Ngày 17 và 18/2/1979, số lượng thương vong của quân đội Trung Quốc đạt con số 9.574 người.

Ngày 18/2/1979, Trung Quốc tiến quân, bị cản trở do một thành trì ngoan cố của quân dân VN bảo vệ biên giới. Một nhóm tình báo khác cho biết chiến lũy Cao Bằng, Lạng Sơn, vũ khí tên lửa của Bộ chỉ huy bị phá hủy, đường chiến đấu phải rút ​​về phía phía Lai Châu.
Ngày 19/2/1979, Quân đội Trung Quốc đã đột kích và chiếm đóng các quận và núi Trường Bạch.

Ngày 20/2/1979, Quân đội Trung Quốc làm chủ tình hình biên giới Việt Nam.

Ngày 21/2/1979, Quân đội Trung Quốc chiếm đóng Cao Bằng.

Ngày 22/2/1979, Quân đội Trung Quốc chiếm đóng 6 tỉnh VN, hai sư đoàn ưu tú của Hà Nội bắt đầu triển khai từ Campuchia và Lào đã cố gắng đến Cao Bằng, Lai Châu chống lại các lực lượng Trung Quốc.

Ngày 23/2/1979, Lạng Sơn gần như chiến tranh bùng nổ khốc liệt, cùng ngày quân đội Trung Quốc chiếm đóng Hà Giang. Một phần hai bộ phận Không quân lực lượng thuộc Hải quân tấn công Móng Cái và Lu Ping.

Ngày 24/2/197, phía sau lực lượng Trung Quốc ở Cao Bằng, Lào Cai. Quân đội Việt Nam đã cố gắng xâm nhập lấy bạo lực đường phố chiến đấu.

Ngày 25/2/1379, tình hình chiến tranh bế tắc, bởi dân quân Việt Nam gắn bó với biên giới Lạng Sơn.

Ngày 02/03/1979, Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc bị bắt làm tù binh khá nhiều, đánh bại mưu đồ Trung Quốc chuẩn bị thành lập Hành‒chính Trung Quốc tại các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh của Việt Nam.

Giai đoạn thứ hai

Ngày 27/2/1979 đến 05/3/1979, Chính quyền Bắc Kinh thông báo: Việt Nam bắt giữ binh sĩ của Trung Quốc. Pháo đài quân sự, tiêu diệt các khu vực thành phố Lạng Sơn của quân đội Việt Nam.

Ngày 04/3/1979, Lạng Sơn được quân đội tăng cường vượt qua quân đội Việt Nam.

Ngày 05/3/1979, Trung Quốc thông báo rằng: "đã đạt được mục tiêu, bắt đầu tin tưởng quân đội hơn". Việt Nam tuyên bố lệnh tổng động viên, tình hình chiến tranh đã sẵn sàng.

Thông tin bổ túc:

Ngày 04/3/1979, trận chiến ở Lạng Sơn, một số lượng lớn quân đội Trung Quốc sử dụng pháo hạng nặng và móc-chê, tính theo diện tích thực tế tại Lạng Sơn về số lượng quân đội đã bắn đạn cá nhân, đạn pháo đủ loại, cứ  so sánh 1 mét vuông có trên 3 vỏ đạn, và 3 mét vuông có 1 vỏ đạn cối, pháo, có thể nói chiến thuật Lạng Sơn của Trung Quốc hoàn toàn thực hành lý thuyết của mô hình Biển-người. Một pháo lớn (nhân vật Tình báo uy tín) báo cáo về CPC: "Cựu chiến binh của Ta có khả năng cướp ngục". Cùng lúc Quân đội Trung Quốc nhận lệnh từ Bắc Kinh, tháo chất nổ kết thúc Cao Bằng, Lạng Sơn và cho phá hủy hai nhà máy, trước đây Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam, Trung Quốc gọi là để trả thù.

Một trong trăm ngàn vị trí hầm súng máy và vỏ đạn
của Trung Quốc, chôn dưới lòng đất chiến trường
tại 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Ảnh: HVD
Giai đoạn thứ ba

Ngày 06-16/3/1979, chính quyềnBắc Kinh cho biết: "Quân đội Trung Quốc thay thế đường rút lui làm sạch 6 tỉnh phía Bắc Việt Nam".

Ngày 13/3/1979, trước khi mở tuyến đường rút quân, Trung Quốc tiếp tục dùng tên lửa tầm xa, bao gồm pháo binh phá ủy các phương tiện sản xuất hầm mỏ của Việt Nam, được biết rút quân quy mô lớn không có động tĩnh nào của quân đội Việt Nam đuổi theo.

Lúc 22 giờ 20, ngày 15/3/1979, chiếc quân xa cuối cùng trở về lại lãnh thổ Trung Quốc.

Ngày 16/3/1979, lệnh rút tất cả binh sĩ Trung Quốc khẩn cấp ra khỏi Việt Nam.
Cùng ngày 16 /3/1979, Trung Quốc công bố việc hoàn thành thu hồi, chiến tranh kết thúc.

Trong thời điểm này chính quyền Bắc Kinh chưa công bố số lượng thương vong, tổn thất về quân sự, Việt Nam cũng thế. Chỉ có báo "Hàng ngày nhân dân" loan tải, và liệt kê thành tích rút quân, bao gồm chiến lợi phẩm, tù binh Việt Nam, phá hủy quy mô lớn những nhà máy, hầm mỏ, cầu kiều, cơ sở hạ tầng dân sự, quân sự. Tịch thu phương tiện sản xuất cho đến cơ sở hạ tầng dân sự, và quân sự của Việt Nam v.v...

Nhất Biến nói chưa hết con số của chiến tranh tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc. Bầu trời mây mưa kéo đến quá nhanh, toàn cảnh một vung xám xịt, cơn mưa đổ xuống như thác lũ, chúng tôi vội cuốn gói chạy lên xe cho khỏiướtvà tiếp tục hành trình, xelănbánh về hướng Đông, trên đường chiến lược Trung Quốc trong lãnh thổ biên giới của Việt Nam ■
Paris, 30/06/2012
Huỳnh Tâm

@-Chiến lũy Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam - Kỳ 14 (Huỳnh Tâm)


Chiến lũy Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam - Kỳ 15 (Huỳnh Tâm)

“ ...Nghiêm trọng nhất, chiến tranh vẫn tiếp tục cả thập niên 80, trong đó có trận chiến vào năm 1984 để lại cho Việt Nam một biên giới hoang tàn!...”

Một cơn mưa từ xa kéo đến bao phủ vung trời đen,nước đổ xuốngdài hột, con đường phía trước chỉ còn trông thấy lờ mờ cách ôtô 5 mét, Nhất Biến cho ôtôlănbánh chầm chậm, chân điều khiển bàn đạp ga để duy trì tốc độ, đôi mắt nhìn đồng hồ, điều chỉnh bàn đạp ga cho ôtô chạy với tốc độ 10 km giờ. Nếu giữ nguyên bàn đạp ga, ôtô sẽ chạy lúc nhanh lúc chậm tùy theo sức cản chuyển động của nước mưa trên mặt đường.

Tú Hiền sốt ruột hỏi:

─ Thưa anh Nhất Biến, để em lái ôtô một đoạn đường được không?

─ Không được, nhỡ bị quân biên phòng bắt bớ thì phiền lắm.

─ Anh an tâm ra khỏi đám mưa này là thay tay lái.

─ Cũng được, nhờ cô lái ôtô một chặng đường, hai nữa nước dưới đường dốc chảy quá mạnh, bám vào bánh ôtô hơi trơn, chân tôi kềm hãm bàn đạp tốc độ đã quá lâu cũng mỏi.

Nhất Biến không ngờ một cô gái ở núi rừng biết lái xe, tôi ra ghế sau ngồi Nhất Biến hỏi:

─ Viên Dung có biết lái ôtô không ?

Tú Hiền đáp hộ:

─ Anh Ba của em không biết lái ôtô, vì mọi việc lớn nhỏ trong nhà, ngoài ngõ đều do chị Ba trúng thầu trọn gói.

Tú Hiền cho một lượng ánh sáng đèn pha cực mạnh, xuyên qua sương mù hơn 100 mét, chân phải, đạp mạnh xuống bàn ga tốc độ, ôtô phóng nhanh 25 km giờ, em Tú Hiền không ngại rụt rè trước giông tố, mưa nặng hột, dù cho sương mù dài đặt dưới mặt đường, nước chảy lùa vào bánh ôtô kéo trì lại. Ôtô vô tư vuợt qua, bỏ lại sau lưng 70 km đường u ám, ra khoải vung trời mưa gió, khí hậu xuống thấp lạnh giá, đôi tay ẩm ướt.Cả 3 chúng tôi xuống ôtô thở một ít không khí sương mù cho và buồn phổi và đón chào ánh nắng buổi xế chiều. Nhất Biến tiếp tục lái xe, khởi hành với tốc độ 70 km giờ, tôi không cần biết ai lái ôtô, miễn sao đến nơi an toàn là yên tâm. Trong đầu tôi chỉ chú ý những việc nhạy cảm nhất về chiến tranh biên giới, và đem đến cho bạn bè, người thân một ít tin vui và hy vọng tương lai, còn lại những việc khác hầu như vô tư và bất cần động não thêm.

Tôi biết Nhất Biến có trí nhớ tuyệt vời, lăn lộn chiến trường cũng dày dặn thấm sương gối gió, nguyên là một ký giả có bề thế, ít nhất cũng là một chiếu hoa trong giới báo chí, nhất là người của CPC, chỉ cần một hay vài câu hỏi trọng tâm là giải đáp một mạch nhiều vấn đề, hỏi:

─ Có khi nào anh bỗng suy tư đến chiến tranh biên giới không? Những con số tổn thất của cả hai quốc gia trong chiến tranh này có đáp số không? Lương tâm mình có cho phép quên bẵng cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam-Tung Quốc vào mùa Xuân 1979 không ?

Nhất Biến liền đáp:

─ Vâng, tôi xin trình bày tổng quát cuộc chiến mùaXuân 1979, trong ba câu hỏi vừa rồi của Viên Dung là một đề mục lớn nói hoài không hết, cho nên chúng ta cần phải quan tâm hơn, cuộc chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc đã trở thành lịch sử, chúng ta cấn biết tường tận, chỉ có người mất trí, tuy sống trong thời đại mà lãnh đạm với Tổ quốc, và tôi xin trả lời tiếp nhé:

─ Hiện nay Trung Quốc vẫn còn đặt Bộ chỉ huy của Tổng Tham Mưu chiến trường, trên lãnh thổ Bắc-Đông thuộc tỉnh Cao Bằng của Việt Nam.

Bước đầu tiên trong cuộc chiến Việt Nam-Trung Quốc, theo tôi biết Cao Bằng là chiến trường chia phân thắng bại. Trung Quốc điều động Lữ đoàn 346 trinh sát, đánh phủ đầu vào Lạng Sơn, còn được gọi là "Bộ phận lạc hướng". Từ đó Trung Quốc thao túng mặt trận Bắc-Đông trên đất Việt, then chốt quang trọng của Tổng Tham Mưu chiến trường tại Cao Bằng và Trí Quận (置郡- Chun Nam), dưới sự bảo vệ và trách nhiệm của 3 trung đoàn Bộ binh 246, 611, 851. 2 trung đoàn pháo binh 188, 246 một trong những bộ phận chính qui của các Quân đoàn: 41, 42, 43, 50, 54, 55,còn được gọi là "nhóm làn sóng mới" vừa hình thành tại biên giới. Ngoài ra có những đơn vị tình báo biệt lập thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, từng là đảng viên CS Việt Nam, họ được chọn thi hành công tác có tên gọi là "Trung tâm bảo vệ 9" theo dõi hoạt động quân đội Việt Nam, riêng Sư Đoàn 3, có một bộ phận tình báo được gọi là "Sao Kim", phía Nam Lạng Sơn có trung đoàn 68 pháo binh do hai nhóm tình báo 12 và 141 biệt lập điều động, và liên kết với bộ phận khác đã thành hình trước tháng 6 năm 1976 trong lãnh thổ Việt Nam, tạo ra sức mạnh quân sự trên bờ đất Việt Nam. Trung Quốc khởi động cuộc chiến tranh, ngày đầu tiên tấn công chớp nhoáng đã chiếm được 141 khu vực của Việt Nam, nhờ buổi đầu binh lực thiện chiến được đào tạo tác chiến và kinh nghiệm thực tế chiến trường. Nói chung trong cuộc chiến này chủ lực chính qui dựa vào Quân báo, và nhiều cánh quân tình báo (từng là đảng viên CS Việt Nam) làm hoa tiêu tiến quân.

Mặt trận Bắc - Đông Việt Nam trong tầm tay Bắc Kinh

"Goie" ám hiệu triển khai quân đội, Sư đoàn 11, trải rộng vào mặt trận phía Bắc-Đông, theo cấu hình hai dây.

Vòng vây1 tiến vào tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh và án binh mặt biển vịnh Bắc Bộ ngoài khơi Thái Bình Dương, Hải quân sẽ làm phòng ngự theo cấp quân số chia thành năm đơn vị Lư đoàn, Lữ đoàn và Trung đoàn đồng triển khai theo mô hình Vòng vây2.

Theo kế hoạch:

312 Bộ phận tiền lũy tiến vào Thái Nguyên.
431 "Tsz Shan" tiền đồn tiếp viện.
327 Phòng thủ khu vực thủy triều vịnh Bắc Bộ và mạng biển Đông Việt Nam.
329 Khu vực "Hongji" ám hiệu Pháo binh, yểm trợ tiến quân vào biên giới Bắc-Đông.
242 Quân đội đồn trú khu vực đảo Cẩm Phả chờ lệnh chuyển quân tấn công.
196 Khu vực sông "Hiểu biết" ám hiệu cánh quân chi viện đến từ tỉnh Hà Bắc, nhiệu vụ phục kích.
38 Lữ đoàn án ngữ khu vực phía Đông.
98 Trung đoàn Quân báo hướng dẫn tiến quân.
27 Lữ đoàn truy kích quân Việt Nam.

Quân khu Nam Ninh chỉ đạo trinh sát.

Trung Quốc tung ra 13 lực lượng trinh sát, mỗi đơn vị 100 binh sĩ, thẩm quyền chỉ huy chiến thuật biển người, di động từ 150 binh sĩ thành một làn sóng ào vào bờ. Ngoài ra còn có chi tiết chiến thuật bí mất đã đưa lên kế hoạch, dự liệu tiến quân đến Hà Nội.

 
Bắc Kinh đã lập kế hoạch, chiến thuật bí mất, dự liệu tiến quân
đánh úp thủ đô Hà Nội của Việt Nam. Nguồn: Nhất Biến.
Trung Quốc tiến quân vào biên giới Bắc-Đông của Việt Nam:

Ngày 17/2/1979 có cả thảy 14 đường quân Trung Quốc tiến vào lãnh thổ Việt Nam. Khởi hành Quân đoàn I đưa quân đến hướng Đông-Bắc, tiếp theo Tập-đoàn III (48.000 quân) từ hướng Nam, di chuyển cùng một lúc 4 Quân đoàn thiện chiến tiến qua hướng Nam-Đông Trung Quốc.

Một ngày sau đó bước đột phá của Quân đoàn 18 từ hướng Bắc, tiến vào "Molong" ám hiệu, tiêu diệt một bộ phận hậu phương của quân đội Việt Nam. Trung Quốc di chuyển về phía trước, thông qua một nông trường biên giới hỗ trợ lực lượng chiến đấu đang tiến về phía trước đối diện quân dân Việt Nam. Từ lúc này quân đội Trung Quốc bị bế tắc, tiền tuyến hậu phương đứt liên lạc, đạo quân Trung Quốc chỉ biết bị sa lầy, nhưng không biết nguyên nhân.

Đến lúc quân Việt Nam bị vỡ từng lãnh, mới biết đó chỉ là dân quân địa phương biên giới, quân Trung Quốc bố trí lại biển người, xóa sổ thêm nhiều nút chặn của quân dân VN. Khai thác tối đa chuyển quân, 143 xe tăng, xe bọc thép Lữ đoàn 3, đúng giờ (11 giờ) vào trận chiến Đồng Đăng, tăng cường Lữ đoàn 376 hợp nhất được trung đoàn xe tăng yểm trợ, còn gọi là "hội tụ Đồng Đăng". 3 giờ sau trung đoàn 44 bộ binh vượt phòng tuyến cho thấy sức mạnh tổng hợp lớn hơn quân đội bộ binh và xe tăng, phá vỡ một nút chặn dân quân Việt Nam đẩy vào hỗn loạn. Các trung đoàn lên biểu đồ tiến quân, hướng phải đến là thu giữ những cây cầu huyết mạch, và dùng một cây cầu làm vật thiêu thân đối phương.

Sông Kỳ Cùng. Ảnh: HVD.

Một trong những cây cầu trên sông Kỳ Cùng tại thi xã Lạng Sơn
Ảnh: Nhất Biến.

Sơ đồ những con suối lớn tại Đồng Đăng.
Nguồn: Nhất Biến
Xen kẽ các đơn vị chính qui tiếp cận sông Kỳ Cùng và những con suối Đồng Đăng, buổi chiều ngày 17/2/1979 phía núi Đông có hồ lớn ngập sâu bùn lầy, chiều dọc 800 mét, chiều rộng 70 mét, bỗng dưng có một đoàn dân quân VN tập kết chống trả mãnh liệt không rõ quân số, quân đội Trung Quốc trở tay không kịp, cho thấy (phản ánh tình hình quân sự của Việt Nam không quân số trên thực tế, những vụ tấn công không chỉ huy, không hình dung lực lượng đang ở phía trước, không biết rõ địa chỉ trinh sát của đối phương).

Thượng tướng Nham Dịch Long (Liêu Tích Long
-廖锡龙上将  - Liao Xilong).Nguồn: Nhất Biến.
"Chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc vào năm 1979. Thượng tướng Nham Dịch Long (廖锡龙上将),chỉ huy Phó, Sư đoàn 91. Năm 1984 ông chỉ huy quân đoàn 11 và 31 đánh chiếm vùng núi chiến lược Việt Nam".

Liêu Tích Long (廖锡龙上将), phân phối lực lượng thành ba hướng tấn công, và quyết định buộc thay đổi hướng thông qua cây cầu từ cửa "hàng". Con đường thứ tư cũng được mở ra bắt kịp với các cuộc tấn công của bộ binh. Nhưng trên thực tế đã không đặt chiến đấu như dự tính ban đầu. Thượng tướng Liêu Tích Long (廖锡龙上将) có lối đánh phủ đầu không ngờ phức tạp, trong quân "ổ cắm" (Binh sĩdao động). Ông ta vộichuyển binh đơn lẽ vào điểm chính các tuyến đường Đồng Đăng. Sau một giờ Quân báo kiểm soát được trở lại đường chuyển quân, mặt khác quân chiến đấu trong khu vực hồ ngập sâu bùn không thể tiếp tục tấn công, tiếp theo Quân báo cho biết đã đẩy lùi đối thủ.

Tăng cường Quân Đoàn I năng động hơn, lập tức xe tăng, cối, pháo tấn công vào khu vực xung quanh ĐồngĐăng. Trung đoàn 84 pháo, Tiểu đoàn 1 xe tăng bất chấp đối phương chiến đấu chiếm giữ hai đầu cầu, chỉ huy mặt trận Bắc-Đông cho thiết lập một cầu phao.
Tại thời điểm này trở ngại nhất "sợ nước ngập lớp học" (sợ phục kích trên sông) đồng lúc lực lượng Trung Quốc bước vào thành phố Cao Bằng, tuy nhiên, những thay đổi tạm thời trong dây chuyền công kích, bằng mọi vòng xoay thời gian trả giá không lãng phí, chỉ một ngày và đêm quân Trung Quốc làm chủ tình hình mặt trận Bắc-Đông Việt Nam.

Một số cầu bị quân Trung Quốc phá hủy.
Sau ngày chiến tranh, các em đi học phải dùng bè tre
qua sông Kỳ Cùng. Nguồn: HVD.
Xe tăng, bộ binh xen kẽ tiến vào lãnh thổ Việt Nam.

Sư đoàn IV xe tăng trong cơn bão động cơ, mở đường cao tốc tiến quân, các binh sĩ phải trả giá tử vong không cần thiết, đặc biệt là các binh sĩ bộ binh trên xe tăng, máu chảy ướt đẫm, thảm họa, đưa đến xe tăng bỏ lại phía sau 3 đơn vị bộ binh, ngay cả ba lô cố định trên lưng chiến sĩ cùng xe tăng phơi xác. Lệnh chỉ huy mở cuộc tấn công biển người xen kẽ, bộ binh chiến đấu không hẹn thời gian, gần như là một con cá trên vỉ sắt đỏ, rất nhiều binh sĩ đến khi chết còn treo thân trên xe tăng, quá khủng khiếp.

Binh sĩ Trung Quốc đã chứng kiến, tự xem đây là một ​​tài liệu nội bộ bi thảm nhất, xe tăng và các đơn vị xe bọc thép cùng bộ binh đi vào núi rừng sâu trải qua một trận phục kích của đối phương, chống tăng trong khe núi hẹp, ngay chiếc xe đầu tiên đã bị phá hủy, và sau đó xe tăng thứ hai cũng chết theo nằm bên đường, có những xe tăng còn nổ máy nhưng người lính đã chết tự bao giờ, ba lô vẫn còn gắn chặt trên đôi vai của họ.
Xen kẽ những lực lượng bộ binh biển người tiến lên để thực hiện đại thắng nhưng khó thành, biển người tiến lên, lùi lại khác thường, khó khăn lắm mới vượt qua một nút chặn của dân quân địa phương, có tên gọi là "nút vòng hoa" đã được chứng minh rất sống động trong cảnh chết bất đắc dĩ, trên thực tế biển người tạo thành chiến tranh không qui ước, ý chí của binh sĩ xuống thấp và hổ thẹn. Ban đầu biển người diễn ra hai ngày và đêm bao quanh Cao Bằng tự tin không cần liên hệ với tổng đài chỉ huy, do đó Phó tướng Thượng tướng Liêu TíchLong (廖锡龙上将); chỉ huy mặt trận mất bình tĩnh, có đôi lời chỉ trích Bộ chỉ huy chiến trường "Mấy thằng tướng gìa lẫm cẩm".

Trong thực tế Tổng Tham Mưu chiến trường thiếu hiểu biết về thực địa, khả tin quá đáng trên đầu tình báo và Quân báo thiếu nghiên cứu thực địa. Thượng tướngLiêu TíchLong (廖锡龙上将) còn chỉ trích: "Tại sao không cẩn thận khảo sát địa hình trước khi chiến tranh, lựa chọn địa lý bố trận bị đối phương phá vỡ dễ dàng. Tại sao không nghĩ trước khi mở cuộc chiến tranh, dù hiểu đối phương cũng đề phòng trước có thể thiệt hại trên đường bộ. Tại sao bảo thủ, tuyệt vọng để "Gongdi" chết yểu, tuy quân mạnh mẽ nghiêm ngặt đầu vào, nhưng bố trí "off" đường lui quá tồi, không có đường vòng đai bảo vệ các phố Tây cũ hầu tránh hậu phê phán chiến tranh, tiến quân không chèn vào phía sau các thông hào kẻ thù, mặc dù giành chiến thắng muộn. Tuy nhiên phải tránh ít thương vong, không ngờ quân đội đối phương vào sâu trong các hầm thiên nhiên tử thủ, biến thành hiệu chuẩn hỏa lực mạnh. Lẽ ra hỏa lực Trung Quốc đánh bại đối phương từ lâu. Tóm lại chiến thắng cần kinh nghiệm, với các thiết bị vũ khí quá cũ không còn thích hợp hoàn cảnh mới, nhiều tướng lãnh bị lão hóa, không biết bản thân mình".

Đuổi xua đối phương tay chân run rẩy.

Ngày 18/02/1979, báo cáo từ mặt trận Bắc-Đông. Lực lượng Lữ đoàn 346, 851 Cối, Pháo, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 3 đến 9 và 20 tiểu đoàn khác kết hợp mưa đá "Tên lửa chống tăng pháo" xả pháo như mưa tháng 9, tuôn xuống 6 tỉnh biên giới Việt Nam, ngoài ra Bắc Kinh truyền lệnh tập kết tại biên giới Nam Tây Nguyên, Trung Quốc trên 651.526 binh sĩ, và trên 490.000 binh sĩ trừ bị tại Quảng Tây, nỗ lực của Trung Quốc quyết chiến không hề thua Việt Nam.

Từ tuyến đầu quân đội Trung Quốc đẩy biển người vào thế mạnh chẻ tre ra từng mảnh, vượt qua các lớp chặn, tiêu diệt lực lượng dân quân Việt Nam chỉ một ngày, quả nhiên tường thành dân quân bị phá vỡ.

Ngày 20/03/1979, hai hướng quân tiếp cận tại phố "Gao" (mật mã), với các đơn vị cơ bản xen kẽ trong các Sư đoàn bộ binh, gồm tình báo v.v...Tình báo cung cấp thông tin về Bộ Tư lệnh chiến trường, đã cố gắng khẳng định biển người xen kẽ vòng xoay có kết quả tại Đồng Đăng, tình báo còn đánh giá cho rằng:‒ Một bước đột phá đối với cánh quân biển người truyền thống, hướng dẫn hai cánh "lý trí" (chiến thuật) đã giải quyết chiến thắng quân sự không bị lộ trước đối phương (Quân đội Việt Nam).

346 ôtô của đơn vị bộ binh phân chia lộ trình tiến quân, nổ súng trước vào một rào cản tự nhiên để nắm bắt hạnh phúc (tiêu diệt đối phương), mỗi cố gắng không làm trì hoãn việc tiến quân sâu vào nội địa Việt Nam, biển người xen kẽ pháo binh với tốc chiến độ nhanh của quân đội Trung Quốc chiếm được nhiều điểm trọng yếu.

Quân đội Trung Quốc không bị cản trở nào đáng gờm, cho phép tiến quân nhanh chóng buộc các Trung đoàn xe tăng từ phía Bắc tiến lên, như Tiểu đoàn 1, và Tiểu đoàn 2, trên xe tăng còn có nhân dân tình báo địa phương hướng dẫn an toàn, khai tử được các điểm kiểm soát của đối phương, thừa thắng lực và thế của "Mã tấu" phá vỡ nút chặn thuận lợi. Sau đó các nhóm 6-7 tuổi (2 Lữ đoàn 6-7 bộ binh), giao tranh nút chặn trên đường phố Lạng Sơn. Những "Chủ nhiệm" (những Tướng lãnh Trung Quốc vào chiến trường Việt Nam) .
 
Từ Trái: 1 ‒Trung Tướng Lưu Sương Nghị (刘昌毅), Phó chỉ huy của Quân khu Quảng Châu. 2 ‒Trung Tướng Hướng Trọng Hoa (向仲华), Ủy viên chính trị khu vực quân sự Quảng Châu. 3  ‒Trung Tướng Lưu Chí Kiên (刘志坚), chính ủy Quân khu Côn Minh.4‒ Đại tướng Hứa Thế Hữu (许世友), Phó Tổng tư lệnh chiến trường Bắc-Đông. 5‒ Thiếu Tướng Trương Hải Đường (张海棠), Phó Tư lệnh quân sự khu vực Côn Minh. 6‒ Thiếu tướng Tiêu Ngọc Sơn (焦玉山), Phó giám đốc pháo binh Quân khu Quảng Châu. 7 ‒ Thiếu tướng Ngô Trung (吴忠), phó chỉ huy của Tập đoàn Quảng Châu. 8 ‒ Trung Tướng Trương Vạn Niên (张万年), Phó Chủ tịch 127 bộ phận chiến trường hướng Dòng Tây, Việt Nam.Nguồn: Nhất Biến.

Tám tướng lãnh Trung Quốc di chuyển bằng ôtô, viếng thăm thành phố Lạng Sơn, ủy lạo binh sĩ tại chiến trường, kiểm tra quân sự của các Quân đoàn, Sư đoàn. Đại tướng Hứa Thế Hữu (许世友) triệu tậpkhẩn cấp ra lệnh tiêu diệt đối phương nhanh.

Nhưng sau đó lực lượng vũ trang và các hệ thống thông tin liên lạc kém, thiếu chuyên môn, nhiều binh sĩ tử vong, tự nó co lại trở thành một tư lệnh quốc phòng tại chỗ, kết quả đã không kịp thời hoàn thành việc quân đội chiếm đóng một khu vực dao khóa (Lạng Sơn).

Theo tình báo cho biết:‒ Lữ đoàn 852 bị cắt đứt chia thành nhiều nhóm nhỏ hầu như xóa sổ gần hết, trước ngày xuất quân Trung Quốc có quá nhiều tham vọng ảo, muốn tìm đến mục tiêu đầu tiên, tiến quân cao tốc phía nam thông qua các khóa trượt ra khỏi cản trở của dân quân Việt Nam. Tại thời điểm đó, vị trí "thông minh" (tình báo) cho phép, cánh quân 852 còn lại tranh thủ thời gian, băng qua những ngọn núi cao, vào trung tâm đối phương lập phòng ngự cho những Sư đoàn bạn tiến quân, không ngờ bọn dân quân biên giới chặn đường phá hủy tham vọng. Thời điểm này vòng xoay phía Tây của Cao Bằng nỗ lực chiến thuật đối phương thất bại nặng.
 
Tống Đô đốc Dương Đắc Chí (杨得志–Yang Dezhi),
Tổng tư lệnh chiến trường, điều động cánh quân Tây-Bắc.
Nguồn: Nhất Biến.
Tống Đô đốc Dương Đắc Chí (杨得志), đề cập điều chỉnh chiến trường trước khi tiến sâu vào Tây-Bắc một bước, và cả Bắc-Đông. Mỗi khi cơ động quân, trải dài từ phía Tây qua Đông đi vòng để tránh các đối phương và kiểm tra hậu cần, tránh đối phương không cần thiết tấn công. Chính Dương Đắc Chí và các tướng lãnh, như Đô đốc Trương Vạn Niên(张万年), Đô đốc Phó Toàn Hữu (傅全有), Đô đốc Lương Quang Liệt (梁光烈), Thiếu tướng Ngô Thuyên Tự (吴铨叙), Thiếu tướng Tiễn Thụ Căn (钱树根), Thiếu tướng Vương Tổ Huấn (王祖训),Thiếu tướng Từ Vĩnh Thanh (徐永清), Thiếu tướng Lý Tân Lương (李新良), và Thiếu tướng Chu Khải (朱启- Zhu Qi).

Viếng thăm thành phố Cao Bằng, quân Trung Quốc lập các rào "cản nước" (phòng thủ) thông qua kỹ thuật "thoát nước" (rút lui) và cuối cùng trong 31 giờ để vượt qua mọi cản trở của dân quân VN, trước khi tiến quân sau khi chuyển nhượng thành phố Cao Bằng vào tayĐại tướng Hứa Thế Hữu, tình hình đã trở thành phòng thủ của quân Trung Quốc, hậu cần cung cấp trở lại dòng chảy. (lương thực, quân nhu v.v...)

Đại tướng Hứa Thế Hữu.
Nguồn: Nhất Biến
Ngày 24/02/1979 Lữ đoàn Long Châu (Longzhou), sẵn sàng bày trận phía nam chia sẻ phòng thủ nếu đối phương tấn công vào Cao Bằng. Phó Tổng tư lệnh chiến trường Đại tướng Hứa Thế Hữu, truyền lệnh hiệp nhất quân sự, sau bảy giờ chiến đấu. 0 giờ 25 ngày 25 chiếm đóng toàn bộ điểm cao của tỉnh Cao Bằng, để hủy diệt của kẻ thù, trên thực tế chỉ bao gồm các lực lượng tầm thường của dân quân, thế mà có hơn 346 binh sĩ của ông Đại tướng Hứa Thế Hữu mất tích. Cùng lúc lệnh đàn áp các cuộc tấn công do tập đoàn Nam đảm nhiệm, bao gồm cánh tay sắt (xe tăng) qua lại để ngăn chặn tấn công đối phương, nhóm di động F-306 (Lữ đoàn) đề phòng hậu quân, và lệnh phân chia quân bài (từng tiểu đội trấn thủ).

Ngày 26 tháng 2 đến đầu tháng ba, tình báo cho biết có 456 thương binh tàn dư của đối phương (dân quân biên giới địa phương Việt Nam) về cơ bản bị xóa sổ, nhưng ước tính có 1/4 đối phương đã thoát khỏi vòng vây.

Ngày 17-23/2/1979 hướng Đông, chuyển lợi thế hỏa lực pháo binh, quét sạch tất cả các đối  phương, để tạo ra đường hậu cần phía Đông của trận chiến.

Ngày 27 tháng hai, một phần của Tập đoàn Phòng không tăng cường, đến ngoại vi Lạng Sơn.

Lúc 7:50 phút, tung ra 75.281 bom lửa, đại pháo từ xe tăng, xe bọc thép.
8:00 phút bắt đầu các đơn vị bộ binh. Xóa sổ 29 đơn vi công tư hành chính Việt Nam.
9h30 ngày 01 tháng 3, tập trung 300 súng đạn pháo, 30 phút ra khỏi hàng chục nghìn quả bom tóc. Tướng chỉ huy Thượng tướng Liêu Tích Long (廖锡龙上将), chơi chiến thuật chó ăn thịt chó, lệnh đã ban hành "bình minh tấn công bắt đầu, không thể để một ngôi nhà tồn tại trên mặt đất Lạng Sơn." Thượng tướng Liêu Tích Long cho biết thực tế nhiều hơn so với chó ăn thịt chó. Nhân dân Lạng Sơn bị đẫm máu, và tuyệt vọng vì các lực lượng của Trung Quốc, quá tàn nhẫn đối với muôn loài đang sống trên đất nước Việt Nam.

Phó Tổng tư lệnh chiến trường, Đại tướng Hứa Thế Hữu đem ra thực thi chiến thuật biển người giành lấy chiến thắng trên xác binh sĩ của mình.

Tìm kiếm và tiêu trừ đối phương

Ngày 04/03/1979 phía Đông, Cao Bằng giáp ranh Lạng Sơn, đột nhiên xuất hiệnquân đội của đối phương di chuyển chiều dài 40 km, vượt qua sông, đồi trà, ruộng, thông qua những đồi đá dài, thiết lập phòng ngư tại Trùng Khánh, và những thị trấn chiến lược khác. Quân Trung Quốc ở phía Tây vượt qua phòng ngự đối phương ở độ sâu 40 km, bắt vào thành phố thứ hai qua đường đập nước "Rắc Cam", một tham chiến (tình báo) đến các xưởng cũ (bộ tham mưu), cho biết. Quân độiViệt Nam đã kiểm soát mộtthị trấn thuộc Lạng Sơn, xu hướng này đã được hình thành hóa.

Bắc Kinh chuẩn bị lực lượng đe dọa Hà Nội, chiến lược hoạt động đã được lên kế họachtrước ngày 5/3/1979, nhưng các Ủy ban quân sự trung ương đã ban hành lệnh thu hồi. Bao gồm việc luân phiên rút quân, mật lệnh "tất cả những gì trên trái đất này sẽ bị cháy xém" Trái đất còn được gọi là chiến tranh "thổ". (Là một chiến lược quân sự bao gồm lúc xuất quân hoặc thu hồi, đánh lạc hướng đối phương từ một nơi nào đó, đưa đối phương lâm vào bất kỳ thiệt hại nào), một lệnh khác: Tất cả máy móc thiết bị truyền thông di chuyển đến nơi an toàn, bất quá phá nổ làm mồilửa đối phương, để trút sự giận dữ. Quân đội Trung Quốc đang trên đường rút quân về hướng Tây sẽ phá hủy tất cả các công sự của đối phương, và cầu kiều xem đây là một sự trừng phạt.

Ngày 16 tháng 3 việc Trung Quốc hạ lệnh rút binh, hạ cờ ra khỏi 6 tỉnh lãnh thổ Việt Nam, tăng cường lực lượng tình báo, quân báo tự vệ đến 0 giờ kết thúc.

Quân đội Trung Quốc từchủ động chiến tranh sang qua phòng thủ rút quân, trên đường rút quân, tung ra toàn lực khiêu khích nhắm vào người dân Việt tại biên giới, nhân dân lương thiện tiếp tục làm bia đổ máu xuống mãnh đất quê hương, con người và mọi loài biến thành bình địa, biên giới bốc lửa ngút trời.

Nhân dịp Quân đội Trung Quốc rút lui, họ tận dụng mọi trí khôn, ngay cả đườngsắtbiên giới cũng không còn một con đinh nhỏ. Trung Quốc đã thành công "phản công tự vệ chống lại Việt Nam" kết thúc 1 tháng chiến tranh đem về Trung Quốc 30 nghĩa trang, rừng cờ rũ !

Trong trận chiến tranh 1979 dân quân Việt Nam chiến đấu quả cảm chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam, và sức chịu đựng 75.800 đạn pháo trải rộng biên giới thiệt hại mất trắng, chưa tính đạn pháo rơi trên đầu 6 tỉnh Việt Nam "vô tiền khoán hậu" và dân quân tiếp tục làm tù binh trong lãnh thổ Trung Quốc. Một Sư đoàn trưởng Trung Quốc cho biết:‒ Làng, xã, 52 trường học bị lửa pháo sang bằng phẳng, 30.041 thường dân thiệt mạng và 1531 người bị thương. Người dân biên giới bỏ nhà cửa của họ sống lây lất, tối tăm trong hang động núi rừng, 23.465 người dân bị đẩy ra khỏi quê hương xứ sở vào biên giới Trung Quốc. 31.793 mẫu đất hoa màu, nông sản và hàng trăm mẫu cao su đang mùa thu hoạch, biến thành đất chết.

Hồn dân Việt chưatỉnhthì đầu tháng 4/1984. Quân khu Côn Minh và Nam Ninh tung ra 14 Sư đoàn, cùng lúc 2 Sư đoàn đặc nhiệm 11 và 41 phân chia 31 tụ điểm tấn công chiếm miền núi cao của Việt Nam. Quân dân thương vong 550 binh sĩ, 118 tù binh chiến tranh, thu giữ hơn 60 khẩu súng cỡ nòng 19 mm, 154 vũ khí khác nhau, một số lượng đạn dược và quân nhu khá nhiều.

Trung Quốc tự mở chiến tranh lần thứ 2 không có khẩu hiệu như trước năm 1979 "phản công tự vệ chống chiến tranh Việt Nam". Tuy nhiên lần chiến tranh này vào tháng 4/1984 ác liệt hơn 1979 cả trăm lần.

Tháng 10/1984, Trung Quốc chuyển quân theo lịch trình 7 lượt vào chiến trường biên giới Việt Nam, gồm các Quân khu tham chiến:

‒ Quân khu Lan Châu, Sư đoàn 47, ngày 6/10/1984.
‒ Quân khu Thẩm Dương, Sư đoàn 16, ngày 7/10/1984.
‒ Quân khu Bắc Kinh, Lữ đoàn 27 và 38 (trinh sát đơn vị), ngày 08/10/1984.
‒ Quân khu Nam Kinh, Sư đoàn 12, ngày 9/10/1984.
‒ Quân khu Quảng Châu, Sư đoàn 41 và 42, ngày 10/10/1984.
‒ Quân khu Tế Nam, Sư đoàn 20, 26 và 67, ngày 12/10/1984.
‒ Quân khu Thành Đô, Sư đoàn 13 tương ứng chiến tranh, ngày 12/10/1984.

Không quân và Hải quân sẽ tham chiến theo kế hoạch dự bị.

‒ Ngày 12/10/1984. Hải quân đưa những tàu chiến vào vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, Trung Quốc triển khai hải quân gồm tàu chiến 150, 780.

Giới quân sự Trung Quốc đang ái ngại, cùng lúc Quân Ủy Trung Ương khởi động tuần tra an ninh, và giám sát các hoạt động của Liên Xô, đề phòng tàu chiến vào Việt Nam.

‒ Không quân Trung Quốc (PLAAF)trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam năm 1979, xem như đứng ngoài lề cuộc chiến. Đầu năm 1984, Không quân chính thức huy động 13 đơn vị, quân trường Không quân, ba nhóm Không quân độc lập, Lữ đoàn 10 Không quân, Lữ đoàn điện tử, chiến đấu cơ loại J tiêm kích, phi cơ loại Q tấn công mặt đất, phi cơ loại H ném bom, phi cơ loại JH tiêm kích và ném bom, theo lệnh mật mã "3131-8500" sẵn sàng chiến đấu, theo lệnh của Đặng Tiểu Bình. Không quân chuẩn bị mọi hiệu quả, Không quân tình báo Trung Quốc kiểm soát và trừ khử các mối đe dọa của Không quân Việt Nam, nếu tham chiến.

Tin tình báo Trung Quốc cho biết, ngày 18/3/1984, những vị trí chiến lược biên giới của tỉnh Quảng Tây, phát hiện chiến đấu cơ MIG-21P 1 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 5/4/1987, Trung đoàn 3 tên lửa Không quân Trung Quốc, từ vị trí núi cũ trong lãnh thổ Việt Nam, khạc ra 97 tên lửa, một chiến đấu cơ của Việt Nam rơi tại Bằng Tường, Sùng Tả, Quảng Tây, Trung Quốc.

Kết quả của những tranh chấp biên giới qua chiến tranh

Nhữnghọc giả Châu Á và Phương Tây phân tích, cho rằng chiến tranh này khởi động từ phía Trung Cộng, có thể từ đây các quốc gia Châu Á để tâm về sự cố gắn kết tụ nội bộ củng cố Quốc phòng và chính trị trong vùng, tránh sức mạnh quân sự, chính trị đến từ chiến tranh Trung Quốc, tuy nhiên sau cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 3. Đặng Tiểu Bình trở thành nhà lãnh đạo thế hệ thứ hai, buộc Hoa Quốc Phong từ chức. Các học giả nói chung, tin rằng chiến tranh có thể được gây ra bởi hai yếu tố bên ngoài.

Lý do nội bộ

Vào thời điểm đó, ngay sau Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc, các lãnh đạo mới lên nắm quyền lực. Vừa trải qua cuộc Cách mạng Văn hóa phân lại giai cấp cầm quyền, và gây ra khủng hoảng mất tự tin, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tự cho rằng cần thiết để tiến hành một cuộc "chiến chống lại kẻ xâm lược" sẽ đem lại đoàn kết dân tộc, gắn kết quốc gia hơn. Kể từ khi Cách mạng Văn hóa, Đặng Tiểu Bình được phong cách Quân Ủy Trung Ương Trung Quốc, họ Đặng nỗ lực đưa ra kế hoạch chiến tranh hầu qui tụ tướng lãnh bất mãn mạnh mẽ sau khi Cách mạng Văn hóa, giới tướng lãnh Trung Quốc biết rằng sẽ làm suy yếu quân đội trong các trường hợp chiến tranh vô cảm, cuối cũng xác định cuộc chiến tranh với Việt Nam, mục tiêu của nó để giết những gì kiêu ngạo của quân đội Việt Nam, và tạo ra một số học thuyến chiến tranh mới cho Trung Quốc.

Nguyên nhân bên ngoài

Vào thời điểm đó, vẫn còn trong chiến tranh lạnh, Liên Xô và Hoa Kỳ có một loạt các cuộc xung đột toàn cầu quan tâm, trong khi Trung Quốc và Liên Xô với nhau cũng như chiến lược trong quá khứ của cuộc cách mạng xuất khẩu cộng sản, dẫn đầu trong khu vực Đông Á trong một tình huống tương đối bị cô lập. Để cạnh tranh với Liên Xô trong giới lãnh đạo Cộng sản trên thế giới, và hiển thị khả năng cầm quyền Cộng sản Trung Quốc của Đảng, và khả năng của nhà nước để chỉ huy các lực lượng vũ trang, mở rộng không gian bên ngoài và giúp đỡ các đồng minh, như chế độ Khmer Đỏ, để rồi tận dụng lợi thế của các đồng minh Việt Nam.

Liên Xô tham gia vào cuộc chiến đang chiếm đóng ở Afghanistan (1979), sau chín nămcuộc chiến này chấm dứt. Nhân dịp này Trung Quốc phát động chiến tranh, một cảm giác chiến tranh Việt Nam sẽ cho Liên Xô một bài học.

Đặng Tiểu Bình viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng Giêng và tháng Hai trên thứ tự viếng thăm ngoại giao các điểm chú ý chiến tranh đặc biệt. Đối với Hoa Kỳ, các nước phương Tây muốn thấy Trung Quốc thực hiện bài học về Việt Nam đồng minh của Liên Xô. Tháng 12/1979 Hoa Kỳ bắt đầu cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Trung-Mỹ đã bước vào một thời kỳ ngoại giao vàng son.

Sau chiến tranh

Tác động của chiến tranh không lâu dài, đặc biệt về Việt Nam, Bắc Kinh tuy tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế chỉ rút quân ra khoải 6 tỉnh thành (Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh) phần còn lại biên giới trong lãnh thổ Việt Nam, quân đội Trung Quốc vẫn còn chiếm đóng.

Việt Nam trở lại trong quá trình phục hồi từ mọi cơ sở, thôn làng, đường bộ, đường sắt bị hỏng nặng bởi chiến tranh. Nghiêm trọng nhất, chiến tranh vẫn tiếp tục cả thập niên 80, trong đó có trận chiến vào năm 1984 để lại cho Việt Nam một biên giới hoang tàn!

Chiến thắng quân sự và tổn thất của Việt Nam-Trung Quốc.

Trung Quốc phòng thủ phản công chống lại Việt Nam vào năm 1979. Cánh quân thứ thất xuất phát từ Quảng Tây, đột nhập vào biên giới lãnh thổ theo hướng Cao Bằng Việt Nam từ 20-40km, bàn đạp đầu tiên xóa sổ 2 cơ sở căn bản của Việt Nam và 9 tiểu đoàn, hầu hết bị phá hủy, một số dân quân độc lập bị xóa sổ do 14 lữ đoàn thiết giáp Trung Quốc, tổng cộng 20.671 người tử vong.

Cánh quân thứ hai tràng qua biên giới Việt Nam, đến từ hướng Vân Nam, đã đột nhập vào độ sâu lãnh thổ Việt Nam 40 km, tiêu diệt tổng cộng 19.481 dân quân tại khu vực Gò Đất, trong đó có 13.524 dân quân VN, 2849 thường dân bị thương, và 3.108 bộ đội VN tử vong.

Về phía Trung Quốc tổng cộng 27.152 binh sĩ tử vong trong cả hai hướng Quảng Tây và Vân Nam. Ngoài ra một vòng chiến tranh đẩm máu nhất vào những năm 1980-1989, một phần quân đội Trung Quốc bị xóa sổ hơn 18.570 thương vong trong suốt thời gian chiến tranh tại Việt Nam, các lực lượng chiến đấu kết quả của hai quốc gia Việt Nam-Trung Quốc đem người sống đổi xác chết và tù binh trên 45.203 binh sĩ, con số này có thể cao hơn.

Việt Nam phản công chống lại Trung Quốc đã sử dụng trên 63.800 tấn đạn dược, về phía Trung Quốc hực hiện chiến tranh đổ tốc hết đạn pháo, bao gồm đạn cá nhân, tính từ viên đạn đầu ngày khởi chiến cho đến ngày rút quân cả thảy 75.078.450 viên đạn bốc lửa trong cuộc chiến, quân đội Trung Quốc với 1268 xe tăng, vết thương chiến tranh 348 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy, 234 khẩu pháo và súng cối hạng nặng liên tiếp hóa thành sắc trên chiến trường bởi quân đội Việt Nam. Sơ khởi tổng kết Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc chi phí khoảng 19.756 binh sĩ tử vong, bao gồm cả 955 binh sĩ mất tích. Theo báo cáo Vân Nam mất tích 1512 binh sĩ, 1016 tù binh, và Quảng Tây mất tích 1674 binh sĩ, 1204 tù binh.
Tổng số Quân tham chiến tại Việt Nam trên 68.700 binh sĩ, và trên 68 tướng lãnh. Năm 1984-1989 xem như thời điểm được mùa tướng lãnh nở rộ, trên 125 tướng lãnh tham chiến vào chiến trường Việt Nam.

Mặt trận Tây-Bắc Việt Nam, Tống Đô đốc Dương Đắc Chí (杨得志), Tổng tư lệnh chiến trường,tiếp nhận báo cáo binh sĩ  tử vong từng ngày.

Ngày 17/02/1979, Quân đội nhân dân giải phóng Trung Quốc tham chiến. Tứ hai hướng tiến quân Quảng Tây và Vân Nam, cùng các lực lượng "hỗ trợ trước chi phí" (thay vì người ta gọi tử vong) 4.954 binh sĩ, bị thương 7.500 binh sĩ.

Ngày 19 tháng hai đến 27/02/1979 Quân báo cho biết tốc độ tử vong giảm xuống chỉ còn 15.000 binh sĩ thiệt mạng.

Ngày 28/02/1979 đến 16/03/1979, có đến 6.500 binh sĩ thiệt mạng.

Trên chiến trường Việt Nam. Tình báo Trung Quốc liên lạc qua những mật mã:
‒ 21:00 trên đường tháng 2. (Mặt trận Tây-Bắc Việt Nam)
‒ Bộ binh thành công. (Mặt trận Bắc-Đông Việt Nam)
‒ Dê đẻ 17 tháng 2. (Tổng tư lệnh chiến trường)
‒ Ngựa đẻ trong đêm 17.(Phó Tổng tư lệnh chiến trường)
‒ Đến đầu sông. (Hậu cần, tiếp vận)
‒ 17-7. (Lực lượng tình báo)
‒ Xiang Pizhou (Hướng Bi Châu) 7. (Pháo binh)
‒ 4:00 ngày 17. (xe tăng và xe bọc thép)
‒ Người nộm tấn công. (bộ binh biển người)
‒ Đi đầu có bạn. (bộ binh)
‒ Công trường mở. (Công Binh)
‒ Đầu biên giới cuối bờbiển. (Hải quân, Không quân)

Trong những mật mã trên còn có những ngụ ý khác: Thiết lập cầu phao, quân đội tấn công biển người, khái thác đối phương, lập phòng thủ tấn công, rút quân, các khu vực vàng rồng, bao vây đối phương, tiêu diệt đối phương, cứ điểm mạnh, trận chiến phía trước v.v...

Ngày tháng trôi qua đã 8 năm chiến tranh, "phản công tự vệ chống chiến tranh Việt Nam". Kết quả Trung Quốc chỉ gào thét yếu ớt, cho thế giới biết rằng: "Trung Quốc bảo vệ quê hương bản xứ của các tỉnh phía Nam". Để rồi cả nước Trung Quốc phải trả một chi phí biển người bằng con số sinh mạnh không bao giờ đáp số.

Bắc Kinh tổn thất binh mã, từ ngày 17/02/1979 đến ngày 13/10/1989. Theo danh sách binh sĩ tử vong lấy xác được:

Lưu ý: Số lượng các thành phố có nguồn gốc chi phí (tử vong) trong trận chiến tranh tại Việt Nam, chưa cập nhật đầy đủ tổng số.‒ Vân Nam 5950 binh sĩ tử vong cho đảng. (người ta gọi cho kêu Thánh Tử Đạo)
‒ Quảng Tây, Khu tự trị Choang 5824 binh sĩ tử vong.
‒ Quảng Đông, 3970 binh sĩ tử vong.
‒ Hồ Nam, 3288 binh sĩ tử vong.
‒ Quý Châu, 3057 binh sĩ tử vong.
‒ Tứ Xuyên, 1705 binh sĩ tử vong.
‒ Hà Nam, 871 binh sĩ tử vong.
‒ Hồ Bắc, 747 binh sĩ tử vong.
‒ Sơn Đông, 638 binh sĩ tử vong.
‒ Giang Tô, 580 binh sĩ tử vong.
‒ Trùng Khánh, 519 binh sĩ tử vong.
‒ Giang Tây, 486 binh sĩ tử vong.
‒ Phúc Kiến, 354 binh sĩ tử vong.
‒ An Huy, 247 binh sĩ tử vong.
‒ Hà Bắc, 295 binh sĩ tử vong.
‒ Chiết Giang, 289 binh sĩ tử vong.
‒ Thiểm Tây 97 binh sĩ tử vong.
‒ Hải Nam, 171 binh sĩ tử vong.
‒ Sơn Tây, 156 binh sĩ tử vong.
‒ Thượng Hải, 155 binh sĩ tử vong.
‒ Cam Túc, 124 binh sĩ tử vong.
‒ Liêu Ninh, 168 binh sĩ tử vong.
‒ Bắc Kinh, 167 binh sĩ tử vong.
‒ Hắc Long Giang, 151 binh sĩ tử vong.
‒ Cát Lâm, 89 binh sĩ tử vong.
‒ Thiên Tân, 56 binh sĩ tử vong.
‒ Ninh Hạ, Khu tự trị, 46 binh sĩ tử vong.
‒ Nội Mông Cổ, Khu tự trị 33 binh sĩ tử vong.
‒ Thanh Hải, 23 binh sĩ tử vong.
‒ Tân Cương, Khu tự trị 22 binh sĩ tử vong.

Hiện nay Bắc Kinh lập 30 nghĩa trang liệt sĩ "Phản công tự vệ chống Việt Nam". Hằng ngày khói hương nghi ngút. Có những mộ bia người chết phản đối người sống. "我们认为, 人的海洋, 发誓, 没有中国共产党的生活" (Ngã môn nhận vi, nhân đích hải dương, phát thệ, một hữu Trung Quốc Cộng Sản Đảng đích sinh hoạt). Tạm dịch: "Ta đã làm ma biển người, nay thề rằng không chung sống cùng đảng cộng sản Trung Quốc".

Paris 08/07/2012
Huỳnh Tâm







Tổng số lượt xem trang