Nguyễn Quốc Vĩ dịch
III. A.2 Tham Khảo
III. A. 3 VỊ TRÍ ĐÀM PHÁN CỦA HOA KỲ TRONG HỘI NGHỊ
Muc Lục
1. Đe dọa hành động thống nhất ảnh hưởng đến cuộc đàm phán
|
A-34
| |
a. Hành động thống nhất được phép duy trì như một lựa chọn công khai
b. Pháp và Vương Quốc Anh khai thác đe dọa của Hoa Kỳ
c. Eden xem như đang cân bằng đe dọa của Hoa Kỳ
|
A-34
A-34
A-34
| |
2. Mỹ thúc đẩy cho một Hiệp ước khu vực
|
A-35
| |
a. Cộng Sản tỏ vẻ không quan tâm
b. Pháp ngày càng quan tâm về việc chia cắt
c. Hai yếu tố mới tăng cường ý kiến phân vùng
d. Nhượng bộ của Cộng Sản cho thấy nhiều hứa hẹn hơn
e. Mỹ vẫn còn bi quan
|
A-35
A-35
A-35
A-36
A-36
| |
3. Mỹ Những nỗ lực để thống nhất vị trí ngoại giao của phương Tây
|
A-37
| |
a. Công văn của Pháp yêu cầu Mỹ và Anh hỗ trợ
b. Mỹ và Anh đưa ra Tuyên bố chung
c. Công thức Hiệp định “Bảy Điểm” của Mỹ và Anh
d. Việc tuân thủ Hiệp Định “Bảy điểm” của Anh vẫn còn trong nghi ngờ
e. Pháp nói chung đồng tình với Hiệp Định “Bảy điểm”
|
A-37
A-37
A-38
A-38
A-38
| |
4. Đại Diện của Mỹ ở Genève ảnh hưởng một kết thúc thuận lợi
|
A-39
| |
a. Pháp yêu cầu Đại diện cấp cao của Hoa Kỳ
b. Dulles phản đối việc Hoa Kỳ đại diện cấp cao
c. Danh sách những phản đối Dulles
d. Dulles và Mendes-Pháp đồng ý trên “bảy điểm”
e. Pháp tiếp tục thúc hối Đại diện Mỹ cấp cao
f. Hoa Kỳ xem xét lại yêu cầu của Pháp
g. Bedell Smith chỉ thị không để Hòa Kỳ cam kết
h. Hiện diện của Smith củng cố vị trí phương Tây
|
A-39
A-39
A-40
A-40
A-41
A-41
A-41
A-42
|
III. A. 3 VỊ TRÍ ĐÀM PHÁN CỦA HOA KỲ TRONG HỘI NGHỊ
- Đe dọạ hành động thống nhất ảnh hưởng đến cuộc đàm phán
a. Hành động thống nhất được phép duy trì như một lựa chọn công khai
Trong khoảng thời gian từ giữa tháng Sáu và kết thúc của Hội nghị vào ngày 21 tháng 7, ngoại giao Mỹ làm việc với liên minh phương Tây thống nhất đằng sau một hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á và hợp nhất trong một mặt trận ngoại giao thống nhất phương Tây tại Genève để đạt giải quyết tốt nhất có thể. Trong quá trình này, liên minh phương Tây dần dần kết dính với nhau. Kết quả là đã đạt được sự hợp tác Anh-Pháp không chỉ đối với các khái niệm về một hiệp ước an ninh khu vực, mà tao được một thế đứng đàm phán vững chắc đối mặt với những người cộng sản. Ngoài ra Mỹ, mặc dù ở vị trí riêng rẽ, vào cuối tháng Sáu đã tuân thủ một giải pháp chia cắt Việt Nam và tổ chức việc "thống nhất cuối cùng của Việt Nam bằng phương tiện hòa bình" (theo US-UK biên bản ghi nhớ “bảy điểm” ngày 29 tháng Sáu, đưo8`ng lối công khai của chúng ta tại Hội nghị làm cho những người cộng sản không rõ đâu là các điều khoản mà chúng tạ có thể thực sự chấp nhận. Về phần của chúng ta, thống nhất hành động là một vấn đề đã bị chết yểu vào giữa tháng Sáu, nhưng các nhà đàm phán cộng sản không thể biết được điều này. Kết quả là, họ có thể bị ảnh hưởng theo một hướng giải quyết với niềm tin rằng việc kéo dài hơn nữa các cuộc hội đàm, chỉ giúp củng cố sự thống nhất đoàn kết của phương Tây, có lẽ họ sẽ kết hợp chung trong một phản ứng thống nhất ở Đông Dương như trước đây Mỹ đã đề đạt, và rất có thể cả ba nước Đông Dương được đưa vào hiệp ước an ninh mà Mỹ đề xuất.
b. Pháp và Vương Quốc Anh khai thác đe dọa của Hoa Kỳ
Các nhà đàm phán cả Pháp và Anh đã sử dụng tuyệt vời của tình trạng nước đôi của Mỹ. Trưởng đoàn đại biểu Pháp, Jean Chauvel, nói với một đại biểu Nga, Kuznetsov, ví dụ, đề xuất của Pháp chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 18 có lẽ sẽ dễ được các thành viên hội nghị chấp nhận hơn so với đòi hỏi không hợp lý của Việt Minh là vĩ tuyến 13. Chauvel nói thêm là đường chia cắt theo Pháp [đề nghị], sẽ ngăn chặn nguy cơ quốc tế hóa cuộc xung đột. 1/ Eden cũng sử dụng mối đe dọa ám chỉ sự tham gia của Hoa Kỳ. Trong thời gian vào cuối tháng, ông cảnh báo Chu [Ân Lai] "một lần nữa" về sự nguy hiểm vốn có trong tình hình Đông Dương, có thể dẫn đến các hậu quả không thể đoán trước và nghiêm trọng. Khi Chu cho biết ông đã trông chờ Anh giúp để ngăn chặn điều này xảy ra, Bộ trưởng Ngoại giao [Anh] trả lời là Chu đã nhầm lẫn, khi nước Anh sẽ đứng về phía Mỹ trong cuộc thách đấu. 2/ Và Bidault và Smith, vào giữa tháng Sáu, đã đồng ý theo quan điểm mong muốn nguyên thủy của Trung-Xô để giữ cho Hội nghị tiếp tục, Trung Quốc lo ngại về các căn cứ Mỹ tại Lào và Campuchia sẽ không bị tháo gỡ.3/
c. Eden xem như đang cân bằng đe dọa của Hoa Kỳ
Anh dường như đã đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc khai thác ý định mập mờ của Mỹ để dành những thắng lợi ngoại giao. Tại Hội nghị, Eden đã tiếp xúc gần gũi với Molotov và Chu Ân Lai, và rõ ràng đã được sự tin tưởng và tôn trọng của họ. Rõ ràng là ông đã được xem như là một yếu tố hòa hoãn mà mọi người có thể nhờ đến (như Chu Ân Lai đã nói) để ảnh hưởng kéo Hoa Kỳ ra khỏi những hành động hấp tấp vội vàng có thể phá tan Hội nghị. Thái độ cư xử của Eden, do đó, đã phục vụ như một phong vũ biểu cho những người Cộng sản trong viễn ảnh đạt được thỏa thuận với phương Tây để giải quyết vấn đề. Khi người Anh đồng ý tham gia trong các cuộc đàm phán cùng các giới chức của giữa năm cường quốc quân sự [Mỹ, Pháp, Anh, Úc và Tân Tây lan] tại Washington (3-9 tháng Sáu), và khi Eden và Churchill đã tới Washington vào cuối tháng sáu để hội đàm với Dulles và Eisenhower, những người cộng sản có thể tin rằng Vương quốc Anh đã trải qua một số loại đánh giá lại thái độ của mình đối với đề nghị của Mỹ về một liên minh Đông Nam Á. Cảnh báo tiềm ẩn của việc Vương quốc Anh tham gia “thống nhất hành động” mà họ đã từ chối trước đây, việc có hoặc không có ý định đó với các nhà lãnh đạo Anh hiện nay, những việc đó không thể được Moscow và Bắc Kibỏ qua.
- Mỹ thúc đẩy cho một Hiệp ước khu vực
a. Cộng Sản tỏ vẻ không quan tâm
Đến giữa tháng Sáu, có vẻ như có rất ít lý do để hy vọng vào Hội nghị Genève , ngay cả khi phải triệu tập lại vào tháng Bảy, để thấy bất kỳ bước đột phá đáng kể nào từ phía cộng sản. Đến mức mà chính phủ mới của Pháp đã quyết định một cam kết sẽ giải quyết chung cuộc vào ngày 20 tháng 7, tiếp tục "ngầm" các cuộc thảo luận quân sự với Việt Minh, nỗ lực ngoại giao của Mỹ được tập trung vào việc đẩy người Anh đồng ý về một hệ thống hiệp ước [phòng thủ] khu vực Đông Nam Á, có hiệu lực, đảm bảo sự an toàn của những khu vực còn lại không lọt vào tay cộng sản tiếp sau việc giải quyết [chiến tranh Đông Dương]. Ngày 14 tháng 6, Dulles quan sát thấy rằng các sự kiện tại Genève rõ ràng là phải "làm sao để đáp ứng sự khăng khăng của Anh rằng họ không muốn thảo luận về hành động tập thể cho đến khi hoặc hội nghị Genève chấm dứt hoặc ít nhất là kết quả của Genève đã được biết đến." Dulles giả định rằng sự ra đi của Eden là "bằng chứng cho thấy là không còn lý do chính đáng nào để tiếp tục trì hoãn các cuộc đàm phán tập thể về việc phòng thủ khu vực Đông Nam Á". 4/
b. Pháp ngày càng quan tâm về việc chia cắt
Trong khi những kế hoạch đã đưa ra trước cho báo chí với chuyện liên minh khu vực, nhiều biến chuyển quan trọng đã xảy ra tại Hội nghị. Giảp pháp chia vùng đã được phía cộng sản giới thiệu vào cuối tháng Năm với một công thức thỏa hiệp, đã được sự quan tâm nghiêm túc của người Pháp. Được Smith thông báo về điều này, Dulles đã nhắc lại quan điểm là Mỹ có thể không liên kết mình với chuyện bán vùng đồng bằng [sông Hồng?] nhiều hơn chúng ta đã có thể dự kiến (như Jean Chauvel đã thúc giục) để "bán" vùng không cộng sản của Việt Nam. 5/
c. Hai yếu tố mới tăng cường ý kiến phân vùng
Hai tiêu chuẩn về khái niệm phân vùng đã được đưa ra trong cùng một thời kỳ. Hội nghị các quan chức của năm cường quốc quân sự [Mỹ, Pháp, Anh, Úc và Tân Tây lan] ở Washington đã kết thúc vào ngày 09 Tháng Sáu với một báo cáo xem xét tuyến Thakhek-Đồng Hới (nằm giữa vĩ tuyến 17 và 18 – Thakkek là Thà Khẹt bên Lào) là tuyến có thể phòng thủ trong trường hợp Việt Nam bị chia cắt. 6/ Ngoài ra, Chauvel đã nói với U. Alexis Johnson, lúc ấy là một thành viên của phái đoàn Mỹ, rằng việc Pháp đã bỏ ý tưởng được tán tỉnh trước đây là có một hoặc nhiều vùng cho mỗi bên Bắc và Nam của Việt Nam. Chauvel cho thấy chính phủ của ông đã quyết định bỏ Hải Phòng hơn là chấp nhận một vùng đất Việt Minh ở miền Nam, nếu sự lựa chọn đó được áp dụng. 7/ Các báo cáo của hội nghị và việc Paris thay đổi tâm điểm của khái niệm về vùng đã có hiệu lực thuyết phục một số người là nếu việc chia cắt được thông qua, nó có thể cho phép việc phòng thủ quân sự vững chắc cho miền Nam Việt Nam.
d. Nhượng bộ của Cộng Sản cho thấy nhiều hứa hẹn hơn
Ở khu vực khác, phe cộng sản đã thừa nhận - với đề nghị của Chu Ân Lai trong phiên họp Hội nghị giới hạn ngày 16 Tháng Sáu - Lào và Campuchia là những vấn đề riêng biệt với Việt Nam. Và trong một cuộc trò chuyện với Smith, Molotov thêm rằng Phạm Văn Đồng đã cho thấy những bằng chứng là Đồng đã sẵn sàng rút "chí nguyện quân" Việt Minh ra khỏi Lào và Cam-pu-chia. 8/ Nhưng, ở đây là việc chia cắt, các sáng kiến cộng sản chỉ đáp ứng một phần nhỏ quan niệm của người Mỹ về những điều khoản “có thể chấp nhận được”. Cho đến khi lực lượng chính quy Việt Minh đã hoàn toàn ra khỏi Lào và Cam-pu-chia, cho đến khi các yếu tố con rối Khmer Tự Do và Pathet Lào được giải giáp hoặc rút đi, và cho đến khi chính phủ Hoàng gia được quyền tìm kiếm sự hỗ trợ bên ngoài để tự vệ đã được khẳng định, thì Mỹ chỉ nhìn thấy ít tiến bộ trong tuyên bố của Chu Ân Lai.
e. Mỹ vẫn còn bi quan
Cái u ám trong giới chức Mỹ tăng dày lên đáng kể vào cuối tháng Sáu. Viêc không thể giải quyết tiếp tục trên bàn Hội Nghị cùng với cảm giác mạnh mẽ ở Washington rằng phái đoàn Pháp từ nay do Thủ Tướng Pierre Mendes-France chịu trách nhiệm (vào ngày 18 tháng 6), có thể sẽ kết thúc giải quyết ngay sau khi Hội nghị triệu tập lại, đã khiến Dulles cảnh cáo Smith không nên tham gia vào ủy ban làm việc (như Pháp đề xuất) vì nó sẽ hiện thân như việc Mỹ liên kết với bất kỳ quyết định cuối cùng nào. "Suy nghĩ của chúng tôi hiện nay", Dulles gửi điện cho Smith ngày 24 tháng 6, “là vai trò của chúng tôi tại Genève sẽ sớm được giới hạn như người quan sát.." 9/
3. Những nỗ lực để thống nhất vị trí ngoại giao của phương Tây và Mỹ
a. Công văn của Pháp yêu cầu Mỹ và Anh hỗ trợ
Trong khi Mỹ muốn cắt giảm sự tham gia của mình vào quá trình Hội nghị, Pháp hy vọng có được, như trước đây, đủ viện trợ để củng cố vị thế đàm phán của mình khi đối mặt với áp lực của cộng sản. Như vậy, ngày 26 tháng 6, Henri Bonnet gửi một bản ghi nhớ từ chính phủ của ông cho Dulles và Eden, ghi nhận những khó khăn của Pháp. Người Pháp muốn "đảm bảo cho Nhà nước Việt Nam một vùng lãnh thổ chắc chắn nhất có thể”, nhưng Việt Minh không có những nhượng bộ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, và có khả năng là người Việt ở Sài Gòn sẽ phản đối dữ dội về một sự sắp xếp phân vùng. Chính phủ Pháp, do đó, hy vọng rằng Hoa Kỳ có thể tìm thấy một cách nào đó để hỗ trợ nó trong cả hai hướng: thứ nhất, Mỹ và Anh có thể ra tuyên bố sau cuộc hội đàm sắp tới của họ ở Washington sẽ "tuyên bố bằng cách này hay cách khác, nếu không thể để đạt được một giải quyết hợp lý tại Hội nghị Genève, kết quả là quan hệ quốc tế sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng ", thứ hai, Mỹ có thể can thiệp với Việt Nam để tư vấn cho họ không phản đối chống lại giải pháp [phân vùng] mà thực sự giảp pháp đó là lợi ích tốt nhất cho họ. 10/
b. Mỹ và Anh đưa ra Tuyên bố chung
Đề xuất thứ hai là không bao giờ được xem xét nghiêm trọng, đối với Mỹ đã không muốn bị gắn kết với một giải pháp sẽ nhượng lãnh thổ cho Việt Minh. Việc đầu tiên, tuy nhiên, được thực thi khi Churchill và Eden đến Washington ngày 24 tháng 6. Bốn ngày sau, Anh và Mỹ đã đưa ra một tuyên bố chung cảnh báo: "nếu tại Genève Chính phủ Pháp phải đối mặt với những đòi hỏi ngăn chặn một thỏa thuận chấp nhận được về Đông Dương, tình hình quốc tế sẽ bị trầm trọng nặng nề hơn" 11/
c. Công thức Hiệp định “Bảy Điểm” của Mỹ và Anh
Kết quả ngay lập tức, nhiều hơn cả quá trình đàm phán [đến lúc ấy], là thỏa thuận chưa công bố giữa hai nước trên một số nguyên tắc mà nếu các điều khoản đó đưa tới thỏa thuận chung cuộc, nó sẽ cho phép London và Washington "tôn trọng" các hiệp ước đình chiến. Các nguyên tắc, sau đó được biết đến như là Bảy điểm, đã được thông báo cho Pháp. Đó là: 12/
(1) Bảo tồn sự toàn vẹn và độc lập của Lào và Cam-pu-chia, và bảo đảm của Việt Minh là họ sẽ rút khỏi các quốc gia đó;
(2) Bảo tồn ít nhất một nửa phía Nam của Việt Nam, và nếu có thể, những vùng đất ở vùng đồng bằng sông Bắc Bộ [ý nói các giáo phận Công Giáo], với đường phân giới cắm mốc về phía Nam [nhưng] không xa hơn đường ranh giới nói chung là về phía Tây Đồng Hới;
(3) Không hạn chế nào đối với Lào, Campuchia, hoặc phần được giữ lại của Việt Nam "mà [những hạn chế đó] cụ thể sẽ làm suy yếu khả năng của họ để duy trì một chế độ ổn định không Cộng sản, và đặc biệt là những hạn chế làm suy yếu quyền của họ được duy trì một lực lượng [vũ trang] đầy đủ cho an ninh nội bộ, nhập khẩu vũ khí và sử dụng các cố vấn nước ngoài";
(4) Không có "những quy định chính trị có nguy cơ sẽ làm mất khu vực được giữ lại vào tay kiểm soát của Cộng Sản";
(5) Không có điều khoản nào "loại trừ khả năng thống nhất sau cùng của Việt Nam bằng phương tiện hòa bình";
(6) Điều khoản "chuyển giao một cách hòa bình và nhân đạo, dưới sự giám sát quốc tế, những người mong muốn được di chuyển từ một khu vực đến khu vực khác của Việt Nam";
(7) Điều khoản "một cơ chế quốc tế có hiệu quả để giám sát thỏa thuận".
d. Việc tuân thủ Hiệp Định “Bảy điểm” của Anh vẫn còn trong nghi ngờ
Mặc dù thỏa thuận về bảy điểm đại diện cho một cái gì đó như một chiến thắng ngoại giao của Mỹ (với ngoại lệ quan trọng của điểm 2, Mỹ lần đầu tiên thừa nhận rằng việc phân vùng là không thể tránh được), Hoa Kỳ với bất cứ cách nào cũng không tin rằng người Anh sẽ thực sự tuân thủ những thỏa thuận tương đối khó khăn mới khi đạt được "... Chúng tôi có một ấn tượng riêng biệt," Dulles đã viết, "rằng cái nhìn của Anh [về biên bản ghi nhớ bảy điểm này] chỉ đơn thuần là một giải pháp tối ưu và họ sẽ không khuyến khích người Pháp đưa ra ra một giải pháp tốt như thê ". Ông Ngoại Trưởng quan sát thấy rằng người Anh, trong các cuộc đàm phán, đã giải quyết cho thỏa thuận "tôn trọng" các điều khoản cuối cùng, họ thích cái gì đó mạnh mẽ hơn, và trong thực tế "muốn bày tỏ rằng [thỏa thuận] Bảy điểm chỉ đơn thuần là một 'hy vọng' mà không có bất kỳ dấu hiệu vững chắc nào về phần của chúng ta. " Hoa Kỳ, đã khá đứng sang một bên đối với những gì đã được nói trong bảy điểm," không muốn có liên quan dưới bất cứ cách thức nào với một giải quyết cụ thể là sút giảm so với biên bản ghi nhớ Bảy điểm." 13/ Khả năng rút quân đơn phương vẫn được "nhận được rất nhiều sự cân nhắc", Dulles báo cáo, 14/ ngay cả khi Bảy điểm đã được thoả thuận.
e. Pháp nói chung đồng tình với Hiệp Định “Bảy điểm”
Mặc dù nhiều lo ngại về tính khả thi về việc thực hiện Bảy điểm, Mỹ vẫn hy vọng có được sự chấp thuận của Pháp. Ngày 6 tháng 7 điện tín do Dillon gửi liên quan đế phản ứng của Pháp [về kế hoạch Bảy điểm] đã đưa cho ông bởi Parodi, Tổng thư ký nội các. Ngoại trừ điểm 5 liên quan đến cuộc bầu cử, người Pháp đều thỏa thuận. Họ đã nhầm lẫn về một cuộc xung đột rõ ràng giữa việc tổ chức cuộc bầu cử và điểm 4, theo đó quy định chính trị, bao gồm cả các cuộc bầu cử sẽ không gây ra nguy cơ làm mất phần Việt Nam còn lại. Ngoài ra, họ cảm thấy ý định của Mỹ chỉ đơn thuần là "tôn trọng" bất kỳ thỏa thuận là một thuật ngữ quá yếu, và yêu cầu làm rõ ý nghĩa của nó. 15/
Dulles trả lời ngày hôm sau cho cả hai vấn đề. Điểm 4 và 5 không mâu thuẩn lẫn nhau, ông nói. Rất có thể thỏa thuận phù hợp với bảy điểm vẫn vẫn không ngăn cản được việc Đông Dương sẽ bị cộng sản hóa. Điều quan trọng, do đó, là để sắp xếp cho cuộc bầu cử quốc gia trong một cách mà có thể giúp cho Quốc Gia Việt Nam một chút say mê về hơi thở tự do:
"... Một sự thật là các cuộc bầu cử chắc chắn cuối cùng cũng sẽ đưa đất nước Việt Nam thống nhất theo Hồ Chí Minh. Với sự thật này, quan trọng trên hết là làm cho tất cả các cuộc bầu cử được tổ chức sau khi có thoả thuận ngừng bắn càng trễ càng tốt và trong điều kiện không [ai] bị ép buộc hăm dọa để giúp cho các yếu tố dân chủ [ở miền Nam Việt Nam] có những cơ hội tốt nhất. "
Và cho đến nay hai chữ "tôn trọng" liên quan đến thỏa thuận, với Mỹ và Anh nó có nghĩa là:
"sẽ không phản đối một giải pháp phù hợp với bảy điểm... Tất nhiên không có nghĩa là chúng tôi sẽ đảm bảo nhiều cho thỏa thuận hay chúng tôi nhất thiết sẽ hỗ trợ công khai. Chúng tôi cho rằng 'tôn trọng' như một từ ngữ mạnh mẽ như chúng ta có thể sử dụng trong hoàn cảnh... 'Tôn trọng' cũng có nghĩa là chúng tôi sẽ không kiếm cách trực tiếp hoặc gián tiếp làm xáo trộn thỏa thuận bằng vũ lực." 16/