Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012

Bí mật Ngũ Giác Đài phần III (4)

-Tải về : Bí mật Ngũ Giác Đài phần III (4)

Nguyễn Quốc Vĩ dịch

 

  1. Chính phủ Việt Nam từ chối chấp nhận để cho Pháp lãnh đạo

 

  1. Chính phủ Việt Nam kiên trì và bất khuất

 

Đoàn của Việt Nam tại Genève được xác định là không bị tác động bởi VNDCCH và các đồng minh cộng sản của nó, họ cũng không bị tác động bởi các cường quốc phương Tây. Đại diện Chính phủ Việt Nam tiếp tục đề cập đến ý thức trách nhiệm với nhân dân Việt Nam và khát vọng quốc gia cho sự thống nhất và tự do. Dù sự phụ thuộc rõ ràng của Chính phủ Việt Nam vào sức mạnh quân sự của phương Tây, họ cũng không thể hiện một thái độ chính trị thích nghi [với ý muốn của phương Tây]; [trái lại] phải mô tả thái độ của Chính phủ Việt Nam tại Genèvelà kiên trì, không nhượng bộ, và lý tưởng. Chính phủ Việt Nam là một quốc gia tại Genève hoàn toàn không bị tác động bởi tinh thần thỏa hiệp.

 

  1. Chính phủ Việt Nam kiên quyết phản đối việc chia cắt Đất Nước

 

Thái độ của Chính phủ Việt Nam hướng tới giải quyết Genève là sản phẩm không chỉ họ không công nhận VNDCCH, mà còn thể hiện sự thù địch của họ về việc phân vùng và phản đối cuộc bầu cử quốc gia được tổ chức ở một đất nước bị chia hai. Rõ ràng là họ hoàn toàn độc lập với các nỗ lực vận động hoặc áp lực của Mỹ, chính quyền Sài Gòn đã kết luận lâu trước khi kết thúc Hội nghị là ngày 21 tháng Bảy rằng họ có thể không chấp nhận những gì mà họ coi như là một tập hợp các thỏa thuận ký kết chống lại khát vọng của Việt Nam và không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam. Nguyễn Quốc Định, người phát ngôn cho Chính phủ Việt Nam trong phiên họp khoáng đạt thứ ba (ngày 12 tháng 5) tại Genève, lần đầu tiên phát biểu để ghi nhận vào hồ sơ những chi tiết của hiệp ước mới nhằm đảm bảo tính độc lập của chính phủ Việt Nam, sau đó đã đưa ra lời phản đối kiên cường của đất nước ông chống lại bất kỳ thỏa thuận nào có xu hướng chia cắt Đất Nước hoặc trên cơ sở địa lý hoặc về chính trị. Bất kỳ tài liệu nào được trình để xem xét, Quốc Đình nói: "Không được dẫn đến phân vùng, hoặc là trực tiếp hay gián tiếp, cuối cùng hoặc tạm thời, trên thực tế hay hợp pháp, lãnh thổ quốc gia." Bầu cử tự do có thể được tổ chức, ông khẳng định, "ngay sau khi Hội đồng Bảo An [Liên Hợp Quốc] đã quyết định rằng cơ quan của Nhà nước đã được thành lập trong toàn bộ lãnh thổ, và rằng các điều kiện của Tự Do đã có... 18/ Trong kỳ họp hạn chế lần thứ năm, ngày 24 Tháng 5, Quốc Định một lần nữa nhấn mạnh sự độc lập của Chính phủ Việt Nam từ Pháp:

"... Vấn đề của nền Độc Lập của Việt Nam chi phối tất cả các sự kiện ở Đông Dương cho dù xem xét dưới quan điểm nào, dầu về nền độc lập mà nhà nước Việt Nam [đã] bảo đảm được là kết quả từ các cuộc đàm phán với Pháp, hoặc từ nền độc lập mà Việt Nam phải bảo vệ từ tất cả những kẻ xâm lược nước ngoài " 19/

 

Ngày hôm sau, Quốc Định lặp đi lặp lại, trong kỳ họp hạn chế lần thứ sáu, Chính phủ Việt Nam "sẽ không đồng ý với bất kỳ kế hoạch nào đưa đến kết quả là phân vùng Việt Nam". Bất kỳ phân vùng nào, ông nói, “sẽ đưa đến điều nguy hiểm nghiêm trọng, người ta sẽ dần dần di chuyển xuống một con đường mà nó sẽ dẫn đến những gì mọi người lo sợ nhất " 20/ Ngày 27 tháng 5, Quốc Định một lần nữa nói về việc phân vùng. Ông nhắc nhở các đại biểu khác rằng Chính phủ Việt Nam cuối cùng đã đạt được độc lập, nguyện vọng đầu của họ. Nguyện vọng thứ hai, cũng đã đạt được, là toàn vẹn lãnh thổ. Bây giờ Chính phủ Việt Nam có thể nào chấp nhận phân vùng mà không phản bội nhân dân của họ?":

 

"Liên quan đến Việt Nam, đoàn đại biểu Việt Nam mong muốn cảnh báo hội nghị là Việt Nam chống lại bất kỳ biện pháp nào nhằm phân chia lãnh thổ quốc gia. Nếu một bộ phận của Việt Nam được chấp nhận, kết quả là sẽ không có hòa bình, nhưng chỉ là một [yên ổn] tạm dừng trước khi chiến sự mới [xuất hiện]... phân vùng do đó chỉ có nghĩa là sớm hay muộn hay có thể sớm hơn - một sự đổi mới của chiến tranh " 21/

 

Ngày 29 tháng 5, khi phát biểu để bác bỏ phái đoàn VNDCCH, Quốc Đình nói: " không thể chấp nhận việc một người coi đất nước như của riêng của mình và tự do chia cắt nó... Không có người Việt Nam yêu nước nào có thể chấp nhận phân vùng." Điều này đánh dấu bốn cuộc họp liên tiếp trong đó các đại biểu Chính phủ Việt Nam nhấn mạnh quan điểm của đất nước của mình trên việc phân vùng, các cuộc bầu cử, hoặc cả hai chuyện đó. Điều này lặp đi lặp lại và tiếp tục nhấn mạnh.Trong phiên họp khoáng đại lần thứ bảy, ngày 10 tháng Sáu, phát biểu về một tuyên bố của Molotov, Quốc Định đã cáo buộc Liên Xô đã cố làm việc với những hiểu lầm về ý định của Chính phủ Việt Nam, và lần thứ năm từ khi đưa đề xuất của ông ra bàn thảo luận, ông đã lặp đi lặp lại về vị trí của VNDCCH:

 

"Tôi lưu ý trong tuyên bố của ông... Tôi cho rằng đó là một sai lầm thiếu sót hoặc vô ý khi nói rằng chỉ có đoàn đại biểu Việt Minh đã đề nghị rằng một cuộc tổng tuyển cử sẽ diễn ra tại Việt Nam. Tôi xin lỗi rằng tôi phải nói ngược lại. Đoàn đại biểu Quốc Gia Việt Nam, cũng đã có vinh dự đề xuất các cuộc bầu cử như vậy, [nhưng] sự khác biệt là, trong khi đoàn đại biểu Việt Minh đã đề xuất rằng không có giám sát quốc tế, [thế thì] trong hoàn cảnh hiện tại, có nghĩa là cuộc bầu cử có thể không được trung thực và đúng sự thật, đoàn đại biểu Quốc Gia Việt Nam đã đề xuất rằng các cuộc bầu cử phải diễn ra dưới sự giám sát quốc tế " 22/

 

Quốc Đình sau đó tái khẳng định nền độc lập hoàn toàn của Chính phủ Việt Nam từ tay Pháp, đã đề cập đến hiệp ước ngày 04 Tháng Sáu 1954. Một tuần sau đó, các đại biểu Việt Nam một lần nữa đẩy trường hợp của ông trên bàn họp của hội nghị:

 

"Liên quan đến nền Độc Lập của đất nước chúng tôi, nó là một thực tế nổi tiếng mà chúng tôi đã chỉ ra các nội dung của hai điều ước quốc tế chúng tôi đã có với Pháp... Liên quan đến các cuộc bầu cử, chính chúng tôi, trong đề xuất của chúng tôi ngày 12 tháng 5, đã chủ động đề xuất các cuộc bầu cử tại Việt Nam, cuộc bầu cử này phải được tự do, chân thành, và giám sát kiểm soát tốt nhất sẽ được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc. " 23/

 

Khẳng định của Chính phủ Việt Nam về toàn vẹn lãnh thổ và [chỉ tổ chức] cuộc bầu cử sau khi đã hoàn toàn tự chủ được thúc ép với quyết tâm rất lớn - gần như mãnh liệt cho đến phút cuối cùng của Hội nghị Genève.

 

  1. Chính phủ Việt Nam không được thông báo về thỏa thuận giữa Pháp và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa

 

Có bằng chứng cho thấy rằng không phải cho tới khoảng đầu tháng Bảy chính phủ Bảo Đại mới biết được Pháp đã sẵn sàng phân vùng đất nước, đưa ra một đường ranh giới có thể chấp nhận được. Theo nguồn tin của CIA, dựa trên một báo cáo của một người thuộc phe Việt Nam Quốc Gia đã "tích cực" có những tiếp xúc chính trị, Diệm đã rất bực mình vào đầu tháng Bảy về cái hướng đi rõ ràng của Pháp là từ bỏ miền Bắc chứ không phải là tìm cách giữ lại một chỗ đứng ở đó. 24/ Nghe nói Diệm đã tin rằng phân vùng là chuyện tự sát, vì nó sẽ chấm dứt các hoạt động tích cực chống Việt Minh; hơn nữa, Diệm đã bị thuyết phục rằng Pháp có ý định duy trì một chân đứng ở miền Nam thông qua [thủ đoạn] lôi kéo tác động lên các lực lượng đứng riêng rẽ không chính quy [ngoài chính phủ], chẳng hạn như các giáo phái vũ trang mà người Pháp bị cáo buộc là đã cung cấp súng ống quân sự.

 

  1. Gửi công hàm đến đoàn đại biểu Pháp bác bỏ việc phân vùng

 

Chính phủ Việt Nam tức giận về gợi ý của đề nghị của Pháp về vấn đề phân vùng đã được phản ánh trong một văn thư lưu ý trao cho phái đoàn Pháp vào ngày 17 Tháng Bảy 1954 (bởi Nguyễn Hữu Châu thành viên của đoàn đại biểu Việt Nam và một bản gửi cho phái đoàn Hoa Kỳ mà họ không cho phái đoàn Pháp biết). Nội dung văn thư lưu ý rằng mãi cho đến ngày 16 tháng 7 Việt Nam mới biết rằng đã rất lâu bộ Tư lệnh Pháp đã ra lệnh sơ tán của quân đội của họ ra khỏi các khu vực quan trọng ở đồng bằng Bắc Bộ, Pháp cũng đã "chấp nhận giao cho Việt Minh tất cả các khuc vực của họ ở phía bắc của vĩ tuyến thứ mười tám và đoàn đại biểu của Việt Minh có thể yêu cầu một đường ranh giới thậm chí còn thuận lợi hơn. " Đoàn đại biểu Việt Nam kháng nghị là đã bi đưa vào tình thế "hoàn toàn không biết gì" về các đề xuất của Pháp, những đề xuất không hề có một đếm xỉa nào đến ý chí muôn người như một về đoàn kết dân tộc của nhân dân Việt Nam ". Phê phán kế hoạch tái phối trí và tính chất " bấp bênh " của thỏa thuận ngừng bắn đang được xem xét, bản lưu ý một lần nữa kêu gọi thỏa thuận ngừng bắn phải được đi kèm với giải trừ quân bị của tất cả các lực lượng tham chiến tại Việt Nam. "Điều này sẽ được theo sau bằng cách để Liên Hiệp Quốc kiểm soát tạm thời tất cả Việt Nam" trong khi chờ đợi an ninh, trật tự và hòa bình được tái lập và hoàn thành... " [sau đó] sẽ cho phép người dân Việt Nam quyết định vận mệnh của mình bằng cách bầu cử tự do". Việc để Liên Hợp Quốc kiểm soát của một Việt Nam thống nhất, thư lưu ý nêu rõ, là thích hợp hơn để duy trì quyền lực trong một đất nước bị chia cắt và bị sống trong vòng nô lệ " 25/

 

  1. Chính phủ Việt Nam đăng ký phản đối việc Bầu Cử

 

Chính phủ Việt Nam giữ thái độ thù địch đối với việc phân vùng suốt những ngày trước khi thỏa thuận cuối cùng được sắp xếp, cùng lúc cảnh giác về một cuộc trưng cầu dân ý để thống nhất đất nước. Trong tháng sáu,

 

"... Đối với việc mà quí Bộ [Bộ Pháp Hải Ngoại ?] đã hợp lý đánh giá tầm quan trọng đó bây giờ đã trở nên ít có ý nghĩa tại Việt Nam hơn trước, do cảm giác hoảng loạn và lo lắng khắp nơi vì sợ rằng toàn bộ đất nước sẽ bị mất thông qua các điều khoản hiệp ước đình chiến không may. Báo chí đã công bố nghị định hiện nay sẽ được Bảo Đại ký để tổ chức bầu cử trực tiếp thị trưởng các thành phố, và... với ngoại lệ là vùng Sài Gòn Chợ Lớn. Điều này trong một chừng mực nào đó đã đáp ứng những đòi hỏi của quí Bộ về chuyện này mặc dù nó ít nhiều đã thể hiện đây là một cuộc bầu cử quốc gia hoặc là những chuẩn bị cho Quốc Hội Lập Hiến quốc gia. " 26/

 

Những phản đối của Chính phủ Việt Nam với Pháp ngày 17 tháng 7 khẳng định rằng một hiệp định ngừng bắn mà không cần giải trừ quân bị là không tương thích với một cuộc phổ thông đầu phiếuu. Họ đã phản đối thêm rằng việc tái phối trí các lực lượng vũ trang tham chiến vào hai vùng riêng biệt Bắc-Nam sẽ làm tổn hại cho sự tự do của bất kỳ cuộc bầu cử nào trong tương lai. Hơn nữa, dưới quan điểm của Chính phủ Việt Nam, các cuộc bầu cử chỉ có thể được tính đến sau khi an ninh trong nước và hòa bình đã được tái lập, do đó không bao gồm một bộ khung thời gian: 27/ Tóm lại, Chính phủ Việt Nam lập luận mạnh mẽ chống lại bất kỳ xếp đặt về thời gian nào cho cuộc bầu cử quốc gia sau đình chiến, và cảnh báo rằng một cuộc toàn dân bỏ phiếu để xác định một chính phủ cho một Việt Nam thống nhất, [và] rất khó để dự tính ở khu vực phía Bắc bị kiểm soát bởi lực lượng vũ trang cộng sản.

 

  1. Chính phủ Việt Nam bác bỏ dự thảo Tuyên bố cuối cùng

Ngày 18 Tháng 7, Chính phủ Việt Nam, trong một phiên họp của hội nghị, Bộ trưởng Ngoại giao Trần Văn Đỗ đã lên tiếng chống lại dự thảo Tuyên Bố Cuối Cùng của Hội nghị được lưu hành trong số các đoàn đại biểu. Ông nói rằng Việt Nam có thể, không ràng buộc mình với bản Tuyên Bố, đặc biệt nêu rõ điều kiện cho việc ngừng bắn trong đó quy định việc chia cắt đất nước, và, phía Việt Nam đã bị thiếu cơ hội để trình bày đề xuất của riêng của mình. Trần Văn Đỗ yêu cầu được quyền đưa ra dự thảo của Việt Nam tại một phiên họp khoáng đại.  28/

 

  1. Chính phủ Việt Nam trình bày phản đề nghị

Ngày hôm sau, 19 tháng 7, đoàn đại biểu Việt Nam trao kiến nghị của mình, xây dựng những ý tưởng có trong bản lưu ý này cho phái đoàn Pháp. Đề nghị cảnh báo rằng, dự thảo của Pháp, Liên Xô, và Việt Minh đều nói về một phân vùng tạm thời, hậu quả không thể tránh khỏi trên thực tế là "tạo ra cho Việt Nam những tác động tương tự như ở Đức, Áo, Hàn Quốc." Theo đề nghị: " [Việc phân vùng] sẽ không mang lại hòa bình đang tìm kiếm, làm bị thương sâu sắc tình cảm quốc gia của người dân Việt Nam, nó sẽ gây ra rắc rối trong cả nước, những rắc rối sẽ không ngừng đe dọa hòa bình mà ta phải trả giá rất để có”. Đoàn đại biểu sau đưa ra lần nữa, kế hoạch cho một lệnh ngừng bắn trong những khu vực tập trung nhỏ, giải giáp quân không chính quy, và sau một thời gian nhất định " [tập trung] tất cả quân đội Việt Minh, rút quân đội nước ngoài đồng thời với giải trừ vũ khí của Việt Minh; Liên Hiệp Quốc sẽ kiểm soát lệnh ngừng bắn, tập trung, giải trừ quân bị, rút quân, [và sau đó] các cuộc bầu cử sẽ được thực hiện sau khi trật tự và hành chính quốc gia đã được tái lập. 29/

 

 

  1. Chính phủ Việt Nam không thể để ảnh hưởng tới kết quả

 

Đề nghị của Trần Văn Đỗ không được xem xét tại phiên họp khoáng đại cuối cùng của Hội nghị Genève vào ngày 21 tháng Bảy. 30/ Người đứng đầu đoàn đại biểu [VN] phản đối điều này cũng như các "kết luận vội vàng của Hiệp định đình chiến chỉ ký kết giữa Pháp và lãnh đạo cao cấp Việt Minh". Hơn nữa, Trần Văn Đỗ cũng phản đối việc giao lãnh thổ quốc gia cho Việt Minh mặc dù vẫn những nơi ấy vẫn được quân đội Việt Nam đang chiếm đóng, và đã định ngày cho cuộc bầu cử quốc gia bằng một lệnh quân sự mà không có thỏa thuận của Việt Nam, Ông kết luận: "... Chính phủ Việt Nam mong muốn Hội nghị để lưu ý về thực tế là chúng tôi bảo lưu hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của người Việt Nam để thống nhất lãnh thổ, độc lập dân tộc, và tự do ". Sau khi các trưởng đoàn đại biểu khác đã đưa ra sự đồng ý [của họ] về thỏa thuận quân sự chấm dứt chiến tranh và Tuyên Bố Cuối Cùng, Trần Văn Đỗ đã phát biểu một lần nữa yêu cầu Hội nghị kết hợp vào các văn bản Tuyên bố sau đây:

 

"Hội nghị [Genève] ghi nhận Tuyên bố của Chính phủ của Nhà nước Việt Nam cam kết: để thực hiện và hỗ trợ mọi nỗ lực để thiết lập lại một nền hòa bình thực sự và lâu dài tại Việt Nam, không sử dụng vũ lực để chống lại các thủ tục để thực hiện ngừng bắn có hiệu lực, bất chấp sự phản đối và dè dặt mà Nhà nước Việt Nam đã thể hiện, đặc biệt là trong tuyên bố cuối cùng của nó ". 31/

 

Nỗ lực cuối cùng Trần Văn Đỗ đã bị bác bỏ bởi Eden (là Chủ tịch). Eden kêu gọi, vì Tuyên Bố Cuối Cùng đã được in, các đoàn đại biểu ghi nhận tuyên bố của ông Đỗ. Mặc dầu thế, các tuyên bố trước và sau đó đã rõ ràng nêu lên việc chính phủ của ông phản đối Hiệp Định Genève rằng Hiệp định chấm dứt chiến sự được ký kết bởi các Tư lệnh quân sự của Pháp và Việt Minh, các bên tham chiến chính, thích ứng với việc chính phủ Việt Nam đã không nhận ra sự tồn tại chính trị của VNDCCH. Pháp đã dự đoán một cách chính xác phản ứng tiêu cực từ Chính phủ Việt Nam, đã tránh tìm kiếm sự đồng ý chính thức của Chính phủ Việt Nam về Hiệp ước đình chiến. Người Pháp cũng biết rằng Chính phủ Việt Nam sẽ không bao giờ tham gia một sự sắp xếp phân vùng, và chính thức phê duyệt hiệp ước đình chiến để loại bỏ các khả năng cản trở Chính phủ Việt Nam về lệnh ngừng bắn.

Người Pháp có lý do chính đáng để tránh giao tiếp với đoàn Việt Nam trong những ngày cuối cùng của Hội nghị Genève: cuộc bầu cử dự kiến là điều nổi bật trong số những nhượng bộ mà nước Pháp đã phải làm để có được giải quyết ở tất cả, và Việt Nam thống nhất đã được hoãn lại với hứa hẹn một cuộc phổ thông đầu phiếu. Trong lúc Hội nghịsắp chấm dứt, và người Pháp không còn thời gian, họ đã mặc cả với Việt Minh "một nhà nước Việt Nam toàn vẹn" trong tương lai để cứu vãn những gì mà họ có thể cứu được từ tình hình đang lung lay của họ. Pháp cuối cùng đã đồng ý để việc trưng cầu dân ý ở Việt Nam sẽ được tổ chức trong vòng hai năm. Chính phủ Việt Nam đã không thể ảnh hưởng đến quyết định trong các hiệp định phân vùng, bất kỳ ở mức độ đáng kể nào. Trong ý nghĩa lớn hơn, nguyện vọng Chính phủ Việt Nam đã bị Pháp hy sinh cho việc [giải quyết] vị trí của họ và cộng sản. Mỗi bên đã xác định là không cho phép tất cả Việt Nam rơi vào tay của phe kia. Pháp đồng ý để cuộc bầu cử, dù đã biết - Liên Xô và Trung Quốc cũng đều biết - rằng cuộc bầu cử [trưng cầu dân ý] không bao giờ có thể được tổ chức.. 32/

 

 

  1. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam tại Genève

  1. Mỹ từ chối không ảnh hưởng tới Chính phủ Việt Nam dùm cho nước Pháp

Pháp sẵn sàng chấp nhận một Việt Nam chia cắt - một xếp đặt mà vào cuối tháng Sáu đã lên đến đỉnh điểm khi họ từ bỏ các vùng tập trung để hướng tới một phân vùng Bắc-Nam, Pháp đã không thông báo cho Chính phủ Việt Nam. Ngược lại, sau đó và trong suốt hội nghị, nếu đoàn đại biểu Chính phủ và chính phủ Việt Nam được thông báo về những thay đổi vị trí [đàm phán], nếu toàn bộ là "chuyện đã rồi". Trong tháng, ví dụ, Chauvel nhiều lần tiếp cận với thông tin về các cuộc đàm phán "ngầm" với Việt Minh, với hy vọng rằng, một khi phân vùng đã được cố định, Mỹ sẽ "bán" giải pháp đó cho SàiGòn. 33/ Trong cùng một tháng, Chauvel, tỏ ra thông cảm rằng Hoa Kỳ sẽ không dính phần vào việc phân vùng trong thỏa ước, tuy nhiên khi được hỏi nếu Hoa Kỳ, sẽ làm nhẹ đi việc Bảo Đại phản đối [viêc phân vùng] bằng cách [Hoa Kỳ] cho thấy đó là giải pháp tốt nhất có thể đạt được. Chauvel mô tả Diệm và Bửu Lộc là "khó khăn", không thực tế, và bất hợp lý trong sự phản đối của họ, và họ có thể gây bối rối cho các cuộc đàm phán tế nhị. 34/ Mỹ luôn phản ứng tiêu cực đối với cách tiếp cận này, với niềm tin chắc chắn chính xác là người Pháp chỉ đơn thuần cố gắng để cài Hoa Kỳ vào thế như thể họ đồng ý khái niệm phân vùng trong mắt phía Việt Nam. Ví dụ, Ngoại trưởng Dulles chỉ thị cho Đại sứ Hoa Kỳ vào ngày 02 tháng Bảy liên quan đến Diệm như sau:

"Đối với tôi dường như người Thủ tướng mới của Việt Nam là ông Ngô Đình Diệm, người có tiếng là kiên quyết quốc gia, đã bị hoàn toàn bưng bít về những biến chuyển nghiêm trọng có ảnh hưởng đến đất nước mà ông đang cố gắng để dẫn dắt. Tôi sợ rằng nếu kết quả các cuộc đàm phán giữa Pháp với cộng sản chỉ được tiết lộ cho ông ta như là một việc đã rồi, do Pháp rất muốn tránh các phản ứng xảy ra [từ phía VN]. Do đó bạn nên nêu lên mối quan tâm của chúng tôi cho người Pháp và xác định là ý định của họ [Pháp] phải được tham khảo ý kiến với Diệm hoặc họ phải giảm thiểu sự bất mãn trong cái nhìn và quan điểm của Diệm đối với kế hoạch [của Pháp] và triển vọng cho việc duy trì trật tự ở miền Nam Việt Nam " 35/.

Bằng cách từ chối làm trung gian cho người Pháp, Hoa Kỳ vê phía mình đã giữ họ không bị vướng víu trong một "giải pháp của Pháp" cho vấn đề Việt Nam.

 

  1. Pháp coi thường yêu cầu của Hoa Kỳ, duy trì khoảng cách với Chính phủ Việt Nam

 

Pháp tiếp tục né tránh Chính phủ Việt Nam suốt tháng Bảy mặc dù Hoa Kỳ đã yêu cầu đoàn đại biểu Pháp rằng Chính phủ Việt Nam phải được thông báo các diễn biến, người Pháp vẫn còn cảnh giác tránh tiếp xúc [đoàn VN] vì sợ gây ra phản ứng từ Chính phủ Việt Nam và rằng, vì đó, có thể làm gãy đổ các cuộc thảo luận tế nhị của Pháp với Việt Minh. Hậu quả là Chauvel đã thông báo cho U. Alexis Johnson rằng "ông đã xử lý việc này [liên lạc với Chính phủ Việt Nam] thông qua đội ngũ nhân viên của mình và tránh tiếp xúc trực tiếp với đoàn Việt Nam để không phải trả lời các câu hỏi của họ." 36/ Khi Offroy, một thành viên khác của đoàn đại biểu Pháp, đề nghị rằng Mỹ giúp xoa dịu Việt Nam với đảm bảo của thế giới tự do về chính trị, kinh tế, quân sự và hỗ trợ sau khi giải quyết, U. Alexis Johnson trả lời rằng đây là một vấn đề mà người Pháp đã phải tự mình xử lý. 37/

 

  1. Mỹ từ chối ủng hộ đề nghị sau cùng của Chính phủ Việt Nam.

Khi phiên áp chót của Hội nghị ngưng họp để nghĩ, Trần Văn Đỗ và một thành viên khác của đoàn đại biểu Việt Nam, ông Trần Văn Chương, giải thích vị trí của Việt Nam với U. Alexis Johnson. Mặc dù họ thừa nhận rằng họ đã nhận ra sự phi thực tế của đề nghị Chính phủ Việt Nam, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam cảm thấy rằng "họ phải làm cho vị trí đạo đức của chính phủ Việt Nam rõ ràng với thế giới và nhân dân Việt Nam. Nếu phía bên kia từ chối, vị trí chính phủ Việt Nam sẽ được cải thiện ". Khi U. Alexis Johnson nhận thấy rằng thời gian còn quá ít cho một phiên họp khoáng đại khác, ông đề nghị rằng họ [Việt Nam] nên yêu cầu Mendes-France lấy quyền của mình để cho thêm thời hạn để kết thúc đàm phán. Sau một lúc do dự, họ đã làm như vậy và Mendes-France, mặc dù ông kêu gọi người Việt Nam lưu hành đề nghị của họ, nói rằng ông chắc chắn không thể yêu cầu Quốc Hội Pháp cho nhiều thời gian hơn tại Genève. Johnson vào thời điểm này "nhắc nhở với Mendes-France là lập trường của Mỹ là Chính phủ Việt Nam phải đồng tình với bất kỳ thỏa thuận nào”. Mendes-France cho biết ông đã rất ý thức về điều này và đã yêu cầu De Jean [sic] ngay lập tức đi Cannes để gặp Bảo Đại " 38/ Không có kết quả gì liên quan đến cuộc gặp này.

Tóm lại, tuy nhiên,có thể nói rằng trong khi Chính phủ Việt Nam đã không đạt được mục tiêu chủ yếu nào của họ, và khi họ nhận được sự hỗ trợ từ Mỹ, họ tiếp tục tồn tại. Chính phủ Việt Nam [sau này là VNCH] được đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ và chính trị dưới vĩ tuyến 17, sau khi xếp đặt, ít nhất là hai năm sau Hiệp định Genève.

III. B. 1. THAM KHẢO

 

  1. McClintock from Saigon tel. No. 502,.May 4, 1954 (SECRET).

  2. Dulles to Paris tel. No. 4398, June 4, 1954 (TOP SECRET).

  3. The treaties are published. in U.S. VerbMin/3 (May 12), pp. 99-101

  4. See the DRV's Declaration of Independence, in Ho Chi Minh, Selected Works (Hanoi: Foreign Languages Publishing House, 1961), III, 20.

  5. Memorandum from Heath to Dulles and. Smith: "The Indochina Phase of the Conference," May 1, 1954 (SECRET)

  6. Lacouture and Devillers, p. 122.

  7. The U.S. objection was based on long-standing opposition to any move that would accord China the status of a major power equivalent to the fifth member of a "Big Five." See, e.g., Dulles to American Embassy - Canberra tel. No. 158, April 1, 1954 (TOP SECRET)

  8. Lacouture and. Devillers, pp. 122-23.

  9. G. McMurtrie Godley (First Secretary) from Paris tel. No. 2757, April 29, 1954 (UNC)

  10. Lacouture and. Devillers, p. 123, n. 3

  11. Ibid.., pp. 123-24.

  12. Ibid.., p. 187.

  13. U.S. VerbMin/IC Restricted. 6, p. 7 (CONFIDENTIAL).

  14. Smith from Genève tel. SECTO 217, May 15, 1954 (SECRET).

  15. Lacouture and Devillers, pp. 234.

  16. Pháp khẳng định việc chọn vĩ tuyến 18 có nguồn gốc từ các khuyến nghị của Tướng Navarre, người đã được hỏi một số câu hỏi của phái đoàn Pháp tại Genève về các tác động có thể có của tình hình quân sự trong vị thế thương thảo của Pháp. Trả lời của Navarre được gửi đi ngày 21 Tháng Tư. Trên đường ranh giới, Navarre cho rằng vĩ tuyến 18 để lại cho "chúng tôi" thủ đô chính trị cổ xưa là Huế và Tourane (Đà Nẵng), và cho phép giữ lại địa hình quân sự có giá trị. Xem Hồi Ký của tướng Ely: “Indochine dans la Tourmente (Paris: Kế hoạch, năm 1964), p. 112, và Lacouture và. Devillers, p. 126.

 

  1. Ibid., pp. 235-36.

  2. U.S. VerbMln/3, pp. 104, 105

  3. I.C. Restricted/5, p. 16 (C). Records of the Restricted Sessions are summaries rather than word.-for-word quotations, or the most part

 

  1. I.C. Restricted/6, p. 16 (C).

  2. I.C. Restricted/7, p.13 (C).

  3. U. S. VerbMin/7, p. 344

  4. I.C. Restricted/14, p. 26 (C).

  5. Báo cáo CIACS-4219B, 14 tháng Bảy, 1954, từ Sài Gòn (bí mật). Lacouture và Devillers cho rằng Diệm đã kinh hoàng khi ông đã học được việc phân vùng lần đầu tiên từ Đại sứ Heath qua một bức thư cá nhân từ Eisenhower, ngày 12 tháng bảy (pp. 256-57).

 

  1. Reported in Smith's priority tel. SECTO 633 from Genève, July 17, 1954 (SECRET)

26. McClintock from Saigon tel. No. 2656, June 4, 1954 (TOP SECRET).

27. Smith from Genève priority tel. SECTO 633, July 17, 1954 (SECRET)

28. Smith from Genève priority tel. SECTO 654, July IB, 1954 (CONFIDENTIAL);

29. Smith from Genève tel. SECTO 655, July IB, 1954 (SECRET).

Smith from Genève priority tel. SECTO 673, July 19, 1954 (SECRET).

30. U.S. VerbMin/B, pp. 347-4B.

31. Ibid … p. 355.

32. Hans Morgenthau, "The 1954 Genève Conference: An Assessment," in A Symposium on America's Stake in Vietnam, New York: American Friends of Vietnam, 1956, pp. 64-70.

33. Dulles to Smith at Genève priority tel. TEDUC 212, June 17, 1954 (TOP SECRET).

34.Từ DULTE ưu tiên Genève 195 của Smith, ngày 18 tháng sáu, năm 1954 (bí mật). Trong một bản ghi nhớ được phân phối bởi Henri Bonnet, đại sứ Pháp tại Washington, gửi cho Dulles và Eden ngày 26 tháng Sáu, chính phủ Pháp đã kêu gọi Hoa Kỳ không khuyến khích một phản ứng bất lợi của Việt Nam về việc phân vùng. Mỹ cũng được yêu cầu "can thiệp với Việt Nam để tư vấn họ sự khôn ngoan và tự chế và ngăn cản họ từ chối một thỏa thuận, nếu nó đạt được. [Việc phân vùng] được quyết định không phải trên tinh thần từ bỏ họ, nhưng trái lại đó là mong muốn nhằm cứu vớt ở Đông Dương tất cả những gì có thể được để giữ và để trao lại cho người Việt Nam trong điều kiện hòa bình, đây là cơ hội không phải lúc nào cũng có thể có được vì chiến tranh - "tel Dulles số 4.852 cho Đại sứ quán Mỹ - Paris, ngày 28 tháng 6 năm 1954 (TOP SECRET).

35. AroEmbassy Paris 39, July 2, 1954 (TOP SECRET).

36. Johnson from Genève priority tel. SEC TO 560, 'July 6,1954 (TOP SECRET).

37. Johnson from Genève priority tel. SECTO 574, -July 8, 1954 (SECRET).

38. Smith from Genève tel. SECTO 655, July 18, 1954 (SECRET)

 

III. B. 2 Trách nhiệm của Pháp  Chính phủ Việt Nam sau Hội Nghị Genève

 

TÓM LƯỢC NỘI DUNG

 

 

1. Sự hiện diện của Pháp không có nghĩa là Pháp có chủ quyền

 

2. Pháp là người thi hành của Hiệp định Genève


a. Chính phủ Việt Nam không kế thừa trách nhiệm của Pháp

b. Vị trí của Chính phủ Việt Nam là bất thường

 

 

 

 

 

1. Sự hiện diện của Pháp không có nghĩa là Pháp có chủ quyền

 

Sự kiện rằng các lực lượng Liên hiệp Pháp tại Việt Nam trong thời gian hiệp định Genève về quân sự được ký kết, và họ vẫn ở đó trong lúc và sau Hội nghị, không cần được hiểu đó là bằng chứng về sự thiếu chủ quyền của Việt Nam. Lực lượng Liên minh Pháp khó có thể rời khỏi đất nước ngay lập tức mà không bỏ tất cả Việt Nam cho cộng sản, mà không mời gọi việc giết hại các sĩ quan người Việt quốc gia trong Quân đội Pháp và những quan chức không tác chiến lãnh đạo quân đội [Pháp] này. Rõ ràng, chỉ có một rút lui dần dần các quân đoàn viễn chinh Pháp là hợp lý trong quan điểm về tình hình quân sự hiện hành. Chính phủ Việt Nam chấp nhận những thực tế này và công nhận sự hiện diện tiếp tục của Pháp là cần thiết. Chính phủ Pháp, khi trao trả độc lập cho Việt Nam đã đồng ý rằng quân viễn chinh [Pháp] sẽ được rút ra khỏi Việt Nam theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam - mặc dù không có nghi ngờ gì là Pháp muốn trì hoãn ngày đó. Thực vậy, Pháp đã nhanh chóng rút đi sau Hội Nghị Genève, dưới sự đôn đốc của Mỹ, bỏ lại cho Chính phủ Việt Nam đầy đủ các những cạm bẩy của chủ quyền trao vào tháng Sáu năm 1954. Đến giữa tháng Chín, việc chuyển giao các dịch vụ dân sự, cảnh sát, và hành chính công khác tại miền Nam Việt Nam được chính thức hoàn thành. Tháng Hai, 1955, quân đội Việt Nam đã được đặt dưới sự chỉ huy của các nhà lãnh đạo Việt Nam và Pháp chấp nhận tính ưu tiên của Mỹ trong các việc tư vấn, đào tạo và trang bị cho lực lượng vũ trang của Chính phủ Việt Nam.

2. Pháp là người thi hành của Hiệp định Genève


a. Chính phủ Việt Nam không kế thừa trách nhiệm của Pháp

Điều 27 của hiệp định đình chiến được ký bởi Pháp đã nêu lên một phần: “Các bên ký kết Hiệp định hiện tại và những người kế thừa của họ, trong chức năng của mình, có trách nhiệm bảo đảm và chấp hành và thực thi các điều khoản và các quy định của chúng... " điều khoản đó dường như buộc Nhà nước Việt Nam trong trường hợp Pháp bãi bỏ trách nhiệm của mình - nhưng ngay cả khi hiểu một cách như thế, nghĩa vụ trong hiện tại chỉ áp dụng cho “những thỏa thuận [quân sự], " và không dính gì đến những điều khoản chính trị ghi trong Tuyên Bố Cuối Cùng không được ký kết. Cũng có thể giải thích chữ "kế thừa" như là một chất kết dính cho cuộc diễn hành của chính phủ Pháp như theo Mendes-France [muốn]. Trong mọi trường hợp, Nhà nước Việt Nam rõ ràng đã phủ nhận trách nhiệm cho tất cả các thỏa thuận ký kết bởi nước Pháp tại Genève, mặc dù họ cam kết không can thiệp vào lệnh ngừng bắn. 1/ Chính phủ Việt Nam đã sớm tuyên bố không chấp nhận, đã lặp đi lặp lại nhiều lần và rất cụ thể. Hơn nữa, các lần tuyên bố đã gồm các cảnh báo rằng việc phân vùng và các cuộc bầu cử theo như Hội nghị Genèveđịnh sẽ dẫn đến những bạo lực mới. Trích dẫn về các tuyên bố này như sau:

 

Những tuyên bố của chính phủ Việt Nam trong Hội Nghị Genève

 

 

Ngày

Về việc phân vùng

Về vấn đề bầu cử

2

12-05-54

Hội nghị Genève "không được đưa đến việc phân vùng, hoặc trực tiếp hay gián tiếp, cuối cùng hoặc tạm thời, trên thực tế hay hợp pháp, lãnh thổ quốc gia."

Cuộc bầu cử có thể được tổ chức khi Hội đồng Bảo An [Liên Hợp Quốc] quyết định rằng một Nhà nước đã được thành lập trên toàn bộ lãnh thổ, rằng các điều kiện tự do [bầu cử] đã được... "

3

25-05-54

Nhà nước Việt Nam sẽ không đồng ý với bất kỳ kế hoạch nào đưa đến kết quả phân vùng Việt Nam. Phân vùng là sẽ gây ra những "nguy hiểm nghiêm trọng. "

 

4

27-05-54

"... Đoàn đại biểu Việt Nam mong muốn cảnh báo Hội nghị chống lại các biện pháp đang bàn cải để chia vùng lãnh thổ quốc gia. Nếu một bộ phận của Việt Nam đã bị cắt ra, kết quả chỉ là một tạm ngưng trước khi một cuộc chiến tranh mới [xảy ra]. Không có ví dụ nào về một đất nước bị chia cắt mà không cố gắng để khôi phục lại sự thống nhất và biên giới lịch sử của mình, phân vùng do đó sẽ có nghĩa là sớm hay muộn - có thể sớm hơn. một sự tái xuất của chiến tranh "

 

5

29-05-54

"Chúng tôi tin rằng có những nguyên tắc nhất định hướng dẫn chúng ta. Trong số những nguyên tắc này chính trị và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Khi có sự đồng ý rằng đại diện của Việt Nam nên tham dự hội nghị này, lúc ấy rõ ràng rằng mọi người đã không thể bỏ qua hậu quả của việc tham dự này. Không thể chấp nhận để cho một người được tự cho mình có cái quyền cắt xén của đất nước của mình... Không có người Việt Nam yêu nước nào có thể chấp nhận việc phân vùng. "

 

6

10-06-54

 

"Đoàn đại biểu Nhà nước Việt Nam... đã có vinh dự để đề xuất... cuộc bầu cử... trong khi đoàn đại biểu Việt Minh đã đề xuất rằng [bầu cử] không có giám sát quốc tế, việc đó, trong hoàn cảnh hiện tại, có nghĩa là cuộc bầu cử không có thể là trung thực và đúng sự thật, đoàn đại biểu Nhà nước Việt Nam đã đề xuất rằng các cuộc bầu cử sẽ diễn ra dưới sự giám sát quốc tế. "

7

16-06-54

 

Chính phủ Việt Nam, nếu đề nghị của chúng tôi ngày 12 tháng năm, đã chủ động đề xuất các cuộc bầu cử... [thì] các cuộc bầu cử này phải được tự do, chân thành, và được giám sát. Việc kiểm soát tốt nhất sẽ được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc "

8

17-07-54

"Việc phân vùng trên thực tế... không đếm xỉa gì đến ý chí một long đoàn kết quốc gia của người dân Việt Nam... Việt Nam sẽ chọn... [chấp nhận] Liên Hiệp Quốc kiểm soát tạm thời một nước Việt Nam thực sự thống nhất độc lập để giữ Việt Nam khỏi bị chia cắt bị kết án phải chịu cảnh nô lệ. "

"Việc tập trung... củng cố mối đe dọa không cho người dân được tự do thể hiện ý muốn của mình. Do đó một hiệp định ngừng bắn chẳng những không dẫn đến một nền hòa bình bền vững, kể từ khi nó đã bỏ qua ý chí đoàn kết dân tộc, kích động người dân “thống nhất” đất nước, nhưng bằng cách củng cố các lực lượng vũ trang hiện nay đang phải đối mặt với nhau, nó đã vi phạm trước tiên sự tự do [lựa chọn] trong các cuộc bầu cử tương lai... các hiệp định ngừng bắn... chẳng những không đưa tới hòa bình, mà còn làm cho hòa bình không thể xảy ra và bấp bênh. "

9

18-07-54

"Để tránh bất kỳ sự hiểu lầm [Trần Văn Đỗ] đoàn Việt Nam kiên quyết không dính kết với bất kỳ thảo luận nào về việc này [Tuyên bố cuối cùng]... Việt Nam không đồng ý với các điều kiện đã được đưa ra để chấm dứt chiến sự... Đoàn Việt Nam chỉ thể phản đối ý tưởng của việc phân vùng... đoàn Việt Nam đã thẳng thừng bác bỏ cả hai dự thảo trình hội nghị... đoàn Việt Nam không thể chấp nhận [bất kỳ] tuyên bố hay thỏa thuận nào khi mà Việt Nam, [được] mời tham dự hội nghị như [một] nhà nước đang hiện hữu, thậm chí [ý tưởng ấy] không [được] đề cập đến. "

 

10

19-07-54

" tất cả dự thảo của Pháp, Liên Xô và Việt Minh đều thừa nhận các nguyên tắc của việc phân chia Việt Nam thành hai vùng, tất cả miền Bắc Việt Nam giao cho Việt Minh. Mặc dù phân vùng này chỉ là tạm thời trong lý thuyết, nó sẽ không (nhắc lại chữ không) thất bại để đem đến cho Việt Nam những tác hại tương tự như ở Đức, Áo, và Hàn Quốc. Nó sẽ không mang lại hòa bình đang tìm kiếm, nó làm thương tổn sâu sắc tình cảm quốc gia của người dân Việt Nam, nó sẽ gây ra rắc rối trong cả nước, những rắc rối sẽ không khỏi đe dọa hòa bình mà [chúng ta] phải trả giá đắt để có. "

"Đoàn đại biểu Việt Nam do đó đề nghị:

  1. Một hiệp định ngừng bắn tại vị trí như hiện nay.

  2. Tập trung quân đội của hai vùng vào những khu vực càng nhỏ càng tốt

  3. Giải trừ quân bị quân không chính qui.

  4. Sau một khoảng thời gian nhất định, giải trừ quân bị quân đội Việt Minh và đồng thời quân đội nước ngoài rút khỏi Việt Nam.

  5. [Dưới sự] Kiểm soát của Liên Hiệp Quốc về:

  1. các hiệp định ngừng bắn.

  2. việc tập trung [các lực lượng vũ trang]

  3. việc giải trừ quân bị và rút quân

  4. chính quyền của cả nước.

  5. cuộc tổng tuyển cử, khi Liên Hiệp Quốc tin rằng trật tự và an ninh sẽ được ở khắp mọi nơi thực sự phục hồi

Đề xuất này được thực hiện theo các hướng dẫn chính thức của Vua Bảo Đại, và Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho thấy đó lãnh đạo của Việt Nam một lần nữa đã đặt độc lập và thống nhất đất nước của mình lên trên bất kỳ cân nhắc nào, và rằng chính phủ quốc gia Việt Nam muốn Liên Hợp Quốc kiểm soát tạm thời một Việt Nam thực sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ để duy trì quyền lực trong một đất nước bị chia cắt và bi kết án làm nô lệ. "

11

21-07-54

"Ông Trần Văn Đỗ (nhà nước Việt Nam) (phiên dịch):

Thưa ông Chủ tịch, đoàn đại biểu Nhà nước Việt Nam khi trình đề nghị của mình, đã nhìn thấy một hiệp ước đình chiến không kèm theo việc phân vùng Việt Nam, dù thậm chí chỉ là tạm thời, thông qua việc giải trừ quân bị tất cả các lực lượng tham chiến sau khi họ tập trung vào những vùng tập trung nhỏ càng giới hạn càng tốt và việc thành lập một kiểm soát tạm thời của Liên Hiệp Quốc trên toàn lãnh thổ, trong khi trật tự và hòa bình đã được lập lại, sẽ cho phép người dân Việt Nam quyết định số phận của mình thông qua một bầu cử tự do.

Đoàn đại biểu Nhà nước Việt Nam phản đối sự việc rằng đề xuất của họ đã bị từ chối mà không cần xem xét, mà đề xuất đó là đề xuất duy nhất phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Việc khẩn trương phi quân sự hóa và trung lập hóa cộng đồng Công giáo, các giáo phận của vùng đồng bằng VNDCCH-Nam ít nhất phải được Hội nghị này chấp nhận.

“[Chúng tôi] long trọng phản đối chống lại các kết luận vội vàng của Hiệp định đình chiến chỉ do bộ chỉ huy cao cấp Pháp và Việt Minh soạn thảo, trong khi Bộ Tư lệnh Pháp chỉ thi hành việc chỉ huy quân đội Việt Nam thông qua ủy quyền được đưa ra bởi người đứng đầu Nhà nước Việt Nam, trong khi đó đặc biệt là có nhiều quy định của Hiệp định mang tính chất gâyphương hại nghiêm trọng đến tương lai chính trị của Việt Nam.

“[Chúng tôi] long trọng phản đối chống lại thêm một thực tế nữa là Hiệp định đình chiến này giao bỏ cho Việt Minh các vùng lãnh thổ mà một số vùng vẫn đang được quân đội Việt Nam trú đóng và hơn nữa, đó là những vùng căn bản để giúp Việt Nam chống lại sự bành trướng nhiều hơn nữa của Cộng sản, và hậu quả thực tế là đã tước khỏi nhà nước Việt Nam quyền tự tổ chức phòng thủ cho chính mình khác hơn là cách phải duy trì quân đội nước ngoài trên lãnh thổ của mình.

“[Chúng tôi] cũng long trọng phản đối chống lại sự việc rằng Bộ Tư lệnh Pháp Tối Cao đã tự hài lòng lấy những quyền mà không có một thỏa thuận sơ bộ nào với Phái đoàn của nhà nước của Việt Nam để định ngày của cuộc bầu cử trong tương lai, trong khi chúng ta hiển nhiên đang đối phó ở đây với một điều khoản rõ ràng là manh tính chất chính. Do đó, chính phủ của Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng Việt Nam long trọng phản đối chống lại cách thức mà [Hiệp Ước] đình chiến đã được ký kết và chống lại các điều kiện đình chiến này vì đã không đếm xỉa gì đến nguyện vọng sâu xa của nhân dân Việt Nam.

"Chính phủ Việt Nam mong muốn Hội nghị ghi nhận về sự việc là họ bảo lưu được hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền lợi thiêng liêng của người Việt Nam để thống nhất lãnh thổ, độc lập dân tộc, và tự do.

"... Liên quan đến Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị, Đoàn Việt Nam muốn yêu cầu Hội nghị sát nhập Tuyên bố này sau khi Điều 11, các văn bản sau đây:

"Hội nghị lưu ý về Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam cam kết:

‘để thực hiện và hỗ trợ mọi nỗ lực nhằm thiết lập lại một nền hòa bình thực sự và lâu dài tại Việt Nam;

‘không sử dụng vũ lực để chống lại các qui trình thực hiện ngừng bắn có hiệu lực, mặc dù những phản đối và những bảo lưu mà Việt Nam đã đưa ra, đặc biệt là trong Tuyên bố cuối cùng của nó. "

 

Tổng số lượt xem trang