Thứ Hai, 22 tháng 10, 2012

Kém học, ít nghe, cạn nghĩ

-VƯƠNG-TRÍ-NHÀN 

Trích từ chuyên mục
 Người xưa cảnh tỉnh
đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn

Đối với những tư tưởng lớn 
 chỉ hiểu sơ sài
       Thu nhặt tất cả những gì về văn chương nghệ thuật đã được làm ra trên đất nước ta, dễ thấy nguồn tài sản tổ tiên ta để lại là mỏng mảnh so với các dân tộc khác. Không thể từ cái di sản đó tiếp thêm sức mạnh trong cuộc chiến đấu giành một chỗ đứng trên thế giới.

      Những tác phẩm đã đóng góp vào việc nâng cao trình độ học thức của người Trung quốc thật là nhiều, nhưng với các nhà của ta, hình như các ông ấy chỉ biết mỗi một mình Khổng Tử. 
       Đạo Khổng dưới dạng một món hàng xuất khẩu mang sang nước An Nam đã gây tai hại: Các nhà nho ta muốn Khổng hoá tất cả những gì nằm trong tầm mắt của họ, giải thích mọi thứ theo cách hiểu hẹp hòi của họ.
        Hiểu biết của ta về các vấn đề Trung Hoa, về nền văn hoá Trung Hoa còn rất xa yêu cầu hiểu biết thực sự (những người đã hiểu thấu đáo văn hoá Trung Hoa có đủ trình độ để tiếp thu mọi luồng tư tưởng của nhân loại). Cũng như, cho đến nay, chưa có một người Việt Nam nào tiếp thu đầy đủ ý nghĩa của văn hoá Pháp.
 Nguyễn An Ninh
 Lý tưởng của thanh niên An Nam, 1924

Điểm xuất phát quá thấp
    Cái mà ta gọi là tư trào văn học do chế độ phong kiến và chế độ thực dân để lại  chỉ là những hình thái hết sức gày còm bạc nhược. Nền văn học bình dân chưa được phát triển. Bản sắc của dân tộc luôn luôn bị bóp chẹt dưới tư tưởng bản xứ xưa kia, nghĩa là kẻ học trò của tư tưởng phong kiến Trung Hoa, và sau đó là tôi đòi của chủ nghĩa thực dân Pháp. Tất cả tư trào văn học chính thức là nhặt vét trên mép mấy bộ kinh, sử, tử, tập của Trung Hoa đưa qua. Sau đó là những vẩy sơn hào nhoáng nhặt được trong văn học cổ điển Pháp đã hoàn toàn biến chất trên tập chương trình các trường Pháp Việt  khắp các cấp. Công tác nghiên cứu văn học cổ không có cơ sở, không có phương pháp. Bắt chước người ngoài chỉ đi đến chỗ hy sinh tất cả bản ngã. Cho nên trong công cuộc sáng tác, so với người ngoài thì nhà văn Việt Nam là những lực sĩ đi dự một cuốc chạy việt dã mà phải bắt đầu chạy sau người ta đến mấy thế kỷ.  

Đặng Thai Mai
                                                      Văn học bình dân và văn học cao cấp, 1948                                           

Thiếu sự hướng dẫn của tinh thần trí thức
     Phủ huyện nào cũng đều có hội Văn chỉ, các hội ấy làm giềng mối chủ trương dư luận cả xã hội, người ta quen gọi là cái nền danh giáo hay cơ quan thanh nghị (1). Chẳng những người trong hội cho đến người thường ở ngoài, nếu có làm việc gì phạm tới luân lý trái với đạo đức thì không thể nào tránh khỏi sự công kich của hội.
    [Nhưng các hội ấy ở nhiều phủ huyện nước ta thời xưa chỉ là hình thức].
   Người An nam mình kém học, ít nghe, cạn nghĩ, lại thêm không biết phán đoán, mà  cái lòng ghét điều ác quá nồng nàn, bao biếm (2) nhiều khi thất thiệt, bị người ta lợi dụng mà gieo điều nghi kỵ, thành ra ngờ vực nhau chia rẽ nhau.

(1) Bàn bạc xét đoán thẩm định việc đời
(2) khen chê  

Phan Khôi 
 Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta, Thần chung, 1930

Không có hiểu biết thì làm sao
nghĩ chuyện tranh đấu?
    Đời Trần Nhân Tông niên hiệu Thiên Bảo (1280) năm thứ hai, thổ tù ở Đà Giang là Trịnh Giốc Mật làm phản, vua sai Trần Nhật Duật đi đánh dẹp. Nhật Duật biết tiếng Mường, lại biết phong tục như ăn bốc uống ngụp, người Mường rất mừng. Mật dẫn cả gia thuộc ra hàng.
    Ôi! Là một vị thân vương mà thông hiểu được tiếng người các xứ xa xôi, đó cũng là một người khai thông (1) thứ nhất vậy!
   Tôi nay làm một người dân thuộc địa của Pháp mà hỏi tiếng Pháp chữ Pháp như câm như điếc, thì tranh đấu làm sao? Ở vào thời đại giao thông (2), phải cùng người ngoài tranh cạnh (3), mà tôi ngu lậu như thế này, nhìn tấm gương xưa càng thêm tự thẹn cho mình nhiều lắm. Giữa thời đại cạnh tranh mặc sức này, việc học tập ngôn ngữ đã là việc thường, vậy làm sao để có được mấy trăm người như Trần Nhật Duật.

 (1tức người mở đường trong một sự nghiệp nào đó
 (2) ý muốn nói thời đại các dân tộc mở rộng giao lưu tiếp xúc
 (3) cũng như tranh đua.

 Phan Bội Châu   
 Việt Nam quốc sử khảo, 1908

Lấy khôn vặt thay cho tư tưởng học thuật
  Thời bây giờ quá chuộng văn chương, tư tưởng phần nhiều chật hẹp, học thuật nông cạn, chỉ cứ khư khư đóng cửa ngăn sông, không biết giao thiệp với người các nước, để học hỏi thâu thái lấy cái văn hoá nước ngoài.
  Các bực học thức sớm có tư tưởng cao xa rộng rãi, biết nước nhà cần phải mở mang học thuật  rộng lối giao thông (1), mới  đứng vững được cùng các nước, đã nhiều lần bàn đến, mà không ai kẻ biết nghe.
   Tình thế bây giờ đâu có lấy văn chương hoạt bát với những lời ứng đối tinh ma mà đối phó với các nước được.

(1)   tức có sự giao lưu tiếp xúc với các nền văn hóa khác      
Nguyễn Khắc Bình 
An nam tạp chí, 1931 

Nô lệ nước ngoài như đã nô lệ cổ nhân
  Hết thảy mọi phương diện, chẳng hạn, từ văn học tới nghệ thuật – chúng ta đều ăn của người, nhưng đã biết hoá để làm của riêng của mình chưa ?
  Bình tĩnh mà xét, từ hình thức đến tinh thần ta nay cũng có một đôi phần tiến. Nhưng cái óc mô phỏng hãy còn rõ sờ sờ trong hết thảy mọi mặt.
   “ Chúng ta  phải làm con cháu của cổ nhân chứ không nên làm nô lệ của cổ nhân “. Đối với cổ nhân ta nay còn phải dè dặt thay, huống chi  đối với gió bốn phương,  há lại nên bạ chiều nào che chiều ấy ?!
                                                                                                      Hoa Bằng
Phải có cái gì để làm đặc tính của người mình chứ ? Tri tân, 1941

Tinh hoa trở thành phù phiếm
     Lệ trường quy rắc rối và hà khắc. Một nét phẩy bỏ sót, một chữ tên huý lỡ phạm phải,  một vết mực làm tì ố quyển thi, một lời bình luận trái với tư tưởng Tống nho (1), hoặc một ý kiến mạnh dạn cũng đủ làm cho kẻ ứng thí (2) nếu không bị đánh hỏng cũng bị khép vào một tội vu vơ. Sáng kiến của mỗi cá nhân bị dập tắt, tư tưởng của cá nhân bị đàn áp. Cả cái phần tinh hoa của dân chúng Việt Nam chỉ còn một lối duy nhất để tiết ra: văn chương phù phiếm.

(1)Bộ phận bảo thủ cứng nhắc nhất trong đạo Nho
(2)Dự thi
Lương Đức Thiệp
                                                                                                   Xã hội Việt nam 1944

Sử ta, ta không biết
     Tại sao tôi viết bộ Việt nam sử lược? Nước ta có sử từ đời nhà Trần, đến nay kể đã sáu bảy thế kỷ, nhưng sử của ta chép theo lối biên niên của Tàu, ngày nào năm nào thì ghi lấy một cách vắn tắt không tìm đến cái gốc ngọn và sự liên can đến việc.
     Nhà làm sử lại là người làm quan, vua sai coi việc chép sử, không được tự do phải chiều nhà vua, chép việc nhà vua, ít khi để ý đến những sự tiến hoá của nhân dân trong nước …
     Thành thử ra đọc sử thấy tẻ và không giúp được sự học vấn mấy.
    Sử của ta thì thế mà người mình thì lại quá lãnh đạm với nó. Quy lỗi cho dân tộc mình có lẽ là không đúng, vì từ trước tới nay, cái học vấn đã bắt buộc ta phải thuộc sử Tàu hơn là sử của mình. Học để đi thi, để làm thơ phú văn chương, theo những cái điển của Tàu. Trước là một sự bó buộc, sau thành một thói quen. Lúc ấy những chuyện nước mình, so sánh với những chuyện nước người, đều không đáng kể. Thật đáng buồn!.
 …Lắm lúc tôi nhìn thấy những điều trước mắt mà lo. Ở xã hội ta ngày nay, có một hạng người nghe nói đến nước mình thì ngây ngây như người ngoại quốc, sử nước mình không biết, tiếng nói nước mình chỉ biết qua loa, đủ dùng cho sự giao thiệp hàng ngày. Nếu sự đời cứ theo chiều ấy và cái đà ấy mà thay đổi, thì không hiểu dân tộc mình sẽ ra sao?

 Trần Trọng Kim
 Theo Lê Thanh, Cuộc phỏng vấn các nhà văn, 1943

Để cho tan biến mọi dấu xưa
         Những chốn ăn chơi của Hà Nội là nhất Bắc kỳ, cái đó rành rành không ai chối cãi. Nhưng chúng ta phải buồn phiền mà nhận ra rằng những hiệu cao lâu có danh và bền vững đều là của người Tàu.
      Về cách tổ chức một chốn ăn, về danh vọng của một ngôi hàng cơm, thật quả chúng ta không có nền nếp, tục lệ và quy củ.
     Hồi Hà Nội còn là kinh đô của vua Lê chúa Trịnh  chắc cũng còn nhiều  quán rượu tươm tất do người mình chủ trương. Nhưng bây giờ vết tích còn đâu?
    Cái quán rượu mà cụ Nguyễn Du lúc còn trẻ tuổi đã dắt ba bốn người bạn vào uống và bàn chuyện về lũ kiêu binh, cái quán ấy  chẳng hạn mà còn đến bây giờ, còn cả bộ trường kỷ Nguyễn Du  đã ngồi, thì hẳn là một chốn đáng cho chúng ta trọng vọng dường nào.  

                                                                                                                             Thạch Lam
                                                                         Hà Nội băm sáu phố phường, 1940

Làm hỏng mình vì không biết vay mượn
  Cái thời kỳ vay mượn của Tàu đến nay đã qua rồi, nhưng điều di hại vẫn còn.
   Ta hãy để lại một bên những người say mê Pháp văn -- những đứa con bội bạc ấy --- ta chỉ nói đến nói đến những ngòi bút vẫn một niềm phụng sự tiếng mẹ đẻ, và chỉ nên tiếc rằng: Cũng như xưa, tiếng mẹ đẻ không được phụng sự một cách toàn vẹn.
   Họ là những người học Tây; họ có cái khuynh hướng Âu hoá những danh từ, những điệu ngữ, cả cái cách xuất diễn tư tưởng...
   Họ sửa đổi cả những tiết tấu thiên nhiên, những âm luật huyền bí của tiếng Việt.
   Xưa kia kia chúng ta có những cái sáo rỗng mượn của Tàu thì bây giờ chúng ta cũng lại có những chữ sáo vô nghĩa dịch của Tây. Những ngữ điệu bị Pháp hoá chỉ chứng tỏ một cái bệnh về tinh thần. Cái hình thức kia chỉ là kết quả đương nhiên của sự biến đổi một tâm hồn.

Lưu Trọng Lư
 Một nền văn chương Việt NamSông Hương, 1939 

Thực dụng, tinh vặt, vụ lợi
       Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam phần nhiều là thông minh, song những người có trí tuệ lỗi lạc thì xưa nay vẫn hiếm. Nhiều khi trí thông minh không có chỗ dùng thuận tiện thường lại biến ra não tinh vặt.
        Trí nhớ của người Việt Nam rất nẩy nở, đến não tưởng tượng thì hoàn toàn bị não thực tiễn làm tê liệt.
        Não thực tiễn này mở nguồn cho nhiều đức tính khác, cho nên người Việt Nam hiếu học không phải vì khát hiểu biết mà chỉ vì mong một địa vị ưu thắng trong xã hội. Học đối với người Việt không phải  để thoả mãn một khát khao trí tuệ, mà chính là để làm kế mưu sinh.

                                                                                                                Lương Đức Thiệp
                                                                                            Việt Nam tiến hoá sử,1944

Tình cảm nhợt nhạt
    Trong quyển  Le Francais par  les  textes  (1), tôi đọc được  một đoạn ký ức  của văn sĩ Nga L. Tolstoi,  nhắc lại cái tình  mẹ đối với con và con đối với mẹ trong hồi còn thơ ấu. Một đoạn văn bình dị mà cảm động vô cùng.
   Rồi tôi cố tìm lại trong văn thơ ta một đoạn tương tự như vậy. Thì ra cái xứ vẫn nổi tiếng là hết sức tôn sùng đạo hiếu này lại không hề có một tác phẩm văn chương ca tụng tình cha con, mẹ con.
   Những bài ca Nhị thập tứ hiếu chỉ là những bài ca khuyến hiếu (2).Cho đến quyển Kim Vân Kiều cũng chỉ là một bài ca khuyến hiếu. Ở trong ấy chỉ có những điều bắt buộc của lễ nghi của luân lý mà không sao tìm thấy cái tình đối với song thân hồn nhiên, chất phác mà trời đã phú cho con người.
   Vì sao lại có sự lạ lùng vậy? Hay là cái tình cha con, mẹ con ở xứ mình quá ư bạc nhược, nên người ta phải mượn luân lý để ràng buộc lại?! 

     (1)Tiếng Pháp qua các bài khóa 
     (2)Khuyên người ta phải có hiếu

    Hoài Thanh
                           Về văn học  xứ ta cũng còn là một đất hoang Sông Hương, 1938

Tổng số lượt xem trang