TLQ: -Quyền lực mềm của Trung Quốc: Các Viện Khổng học
-Vì sao tượng Khổng tử biến mất khỏi quảng trường Thiên An Môn ?
-“Khổng Tử bị xua đuổi vì không có hộ khẩu Bắc Kinh”
-2 năm trước: ĐH Yale nói gì về Học Viện Khổng Tử?
-Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa
-Nói tiếp về tiếp thu tri thức ....
-Biển hiệu của Viện Khổng Tử vi phạm Nghị định của Chính phủ
Ngày 27/12, Trường Đại học Hà Nội đã tổ chức lễ gắn biển “Viện Khổng Tử” tại Trường với sự tham gia của các đại biểu cấp cao Việt Nam và Trung Quốc…
Tham gia lễ gắn biển, về phía Việt Nam có ông Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; ông Trần Đắc Lợi, Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương và ông Nguyễn Đình Luận, Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội.
Về phía Trung Quốc có ông Du Chính Thanh, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp); ông Vương Gia Thụy, Phó Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, Trưởng ban Đối ngoại Đảng Cộng sản Trung Quốc; ông Lương Hồng, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Quảng Tây…
PGS, TSKH Nguyễn Đình Luận, Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội nêu rõ: Lễ gắn biển “Viện Khổng Tử” tại Trường Đại học Hà Nội là sự kiện quan trọng trong quá trình phát triển của nhà trường.
Nhưng tấm biển đó đã vi phạm Điều 23 Nghị định 103/2009/NĐ-CP của Chính phủ (ban hành ngày 6/11/2009) quy định: Biển hiệu phải viết bằng chữ Việt Nam; trường hợp muốn thể hiện tên viết tắt, tên giao dịch quốc tế, tên, chữ nước ngoài phải ghi ở phía dưới, kích thước nhỏ hơn chữ Việt Nam.
Theo Điều 33 Nghị định số 75/2010/NĐ-CP của Chính phủ thì hành vi sau: – Thể hiện trên biển hiệu tên riêng, tên viết tắt, tên giao dịch quốc tế bằng chữ nước ngoài ở phía trên tên bằng chữ Việt Nam; Thể hiện trên biển hiệu tên gọi, tên viết tắt, tên giao dịch quốc tế bằng chữ nước ngoài có kích thước lớn hơn tên bằng chữ Việt Nam sẽ bị phạt tiền từ 3 đến 5 triệu đồng và buộc phải tháo dỡ biển hiệu.
Theo Nghị định 103 của Chính phủ thì biển hiệu này vi phạm cả hai: Đặt chữ Trung Quốc lên trên và to hơn chữ Việt. Đại học Hà Nội sao lại ít chữ vậy? Đề nghị Thanh tra Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch vào cuộc.
(Nghị định được trích từ trang Thư viện pháp luật)
Trần Trung Đạo: Viện Khổng Tử, cơ quan tuyên truyền và tình báo Trung Cộng
VÀI LỜI BÀN VỀ KHỔNG TỬ VÀ HỌC VIỆN KHỔNG TỬ.
Hai hôm nay, nhiều bạn facebook tag tôi vào những stt xoay quanh việc Học viện Khổng Tử đầu tiên được đặt tại một trường đại học của Việt Nam. Cá nhân tôi, tôi không ủng hộ việc này. Bởi như nhiều người đã tìm hiểu, Học viện Khổng Tử không đơn thuần nhằm “quảng bá tiếng Trung Quốc”. Ở Âu Mỹ, các học viện này đã có những hoạt động như đả phá Pháp luân công, kỳ thị tín ngưỡng (Đại học McMaster, Canada), cổ động sinh viên ủng hộ Trung Quốc trấn áp Tây Tạng (Đại học Waterloo, Canada), không cho sinh viên talk về vấn đề Tây Tạng, hạn chế ngôn luận (Đại học Chicago, Mỹ) v.v. Đó cũng chính là nguyên nhân chính khiến một loạt các nước Âu Mỹ tẩy chay học viện này.
Hiện nay, xét riêng số HVKT đặt tại các trường đại học trong khu vực, Hàn Quốc có 17 viện, Nhật Bản có 13, Thái Lan có 12, Indonesia có 7, Philipine có 3, Singapore có 2. Đây là lần đầu tiên, HVKT đặt tại Việt Nam. Mặc cho những phản ứng muôn hình muôn vẻ của trí thức, trí ngủ trong ngoài nước, đây là câu chuyện đã rồi, và là câu chuyện trên bàn tròn của những người anh em cộng sản hai nước. Việc thiết thực có thể làm hiện nay là theo dõi sát sao động tĩnh của học viện này, và phản ứng kịp thời khi nó có những hoạt động can thiệp nằm ngoài bổn phận.
Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý mấy điểm dưới đây, hầu mong những người phản đối HVKT hiểu rõ hơn mình đang phản đối thứ gì, tư tưởng gì.
1. Khổng Tử của đời thật và Khổng Tử sau khi bị các chính thể lợi dụng.
Bản thân Khổng Tử là người chính trực, nghiêm túc, kiên trì đến độ đáng thương, “biết đạo không thể thi hành mà vẫn làm”. Ông ta không được trọng dụng ngay khi còn sống. Trong bối cảnh văn hóa suy đồi, chính trị băng hoại thời Xuân Thu, tinh thần chấn hưng lễ nghĩa, quảng bá học thuật của Khổng đã khiến ông nửa đời lang bạt các nước như ‘con chó mất nhà’ theo cách ví của Tư Mã Thiên. Vào thời Hán, lần đầu tiên, đạo Khổng được trọng dụng. Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Khổng đã bị uốn bẻ theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau. Hán Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho... Tương tự, tư tưởng Nho giáo trải qua các triều Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng nhất. Có một Khổng Tử của đời thật, nhưng có nhiều Khổng Tử của các chính thể lợi dụng. Tư tưởng của Khổng có nhiều điều hay, cũng có nhiều hạn chế. Nhưng trước khi hiểu rõ con người, tư tưởng Khổng thì đừng vì phản đối HVKT mà vội quy chụp tư tưởng đó là thứ “bốc mùi”, gọi Khổng Tử là “thằng Confucius”!
Chính quyền Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa vào những năm 1966. Trong thời kỳ này, tư tưởng Khổng bị lên án gay gắt. Tượng Khổng trong Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ THẰNG KHỐN NẠN HÀNG ĐẦU, rồi bị kéo đổ, đập nát. Hồng vệ binh định đào mả Khổng, nhưng nhanh chóng bị can ngăn. Và giờ đây, khi nền chính trị, tư tưởng của Trung Cộng không đủ sức hút đối với thế giới, càng không phải giá trị phổ quát. Họ bám víu và giương chiêu bài quảng bá văn hóa; họ dùng Khổng Tử làm công cụ chính trị. Bởi vậy đừng nghĩ đơn giản rằng, HVKT là nơi truyền bá đạo Khổng. Trung Cộng không có tư cách đó.
2. Văn hóa Trung Hoa và chính quyền Trung Quốc.
Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng lan tỏa của văn hóa Trung Hoa trong quá khứ đối với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tạm không bàn đến bản quyền của các thành tố văn hóa tương đồng giữa Trung – Hàn – Việt. Bằng vào những tư liệu hiện có, có thể thấy các chính thể quân chủ Việt Nam đã từng chủ động sử dụng Hán văn làm ngôn ngữ hành chính, thi cử, sáng tác văn học, từng châm chước chế độ lễ nghi, áo mũ, phong tục của các triều đại Trung Hoa; từng tự phụ là ‘cõi văn hiến không kém Trung Quốc’; và khi Trung Quốc bị cai trị bởi những tộc người Mãn, Mông, lại tự nhận là quốc gia gìn giữ văn minh Hoa Hạ chính thống. Bất kỳ thứ văn hóa ngoại lai nào khi được du nhập vào dị vực đều bị bản địa hóa, bởi vậy khi văn hóa Hán đã hòa vào văn hóa Việt, trở thành một phần của văn hóa Việt thì đừng vì ghét Trung Cộng mà quay lại cầm dao tự xẻo thịt mình!
Sau Cách mạng văn hóa, văn hóa Trung Quốc đã xuống dốc. Trí thức Trung Quốc đương đại lưu truyền câu nói “sau Tống không còn Trung Quốc, sau Minh không còn Hoa Hạ, sau Mãn không còn Hán tộc, sau Cách mạng văn hóa không còn đạo đức”. Và trong mắt tôi, văn hóa Trung Quốc đương đại là một sản phẩm què quặt. Bởi vậy, hãy nhìn nhận cho rõ thứ văn hóa Trung Cộng quảng bá là văn hóa gì, tư tưởng gì, đừng tóm tất cả mọi thứ vào một khái niệm đơn nhất là ‘văn hóa Tàu’!
3. Tiếng phổ thông Trung Quốc và ngữ văn Hán Nôm.
Hiển nhiên, nội dung quảng bá của HVKT là tiếng phổ thông Trung Quốc, tức thứ ngôn ngữ sống, lấy ngữ âm phương Bắc làm chuẩn, sử dụng bộ văn tự đã được giản lược sau năm 1949. Còn ngữ văn Hán Nôm là một thứ ngôn ngữ chết (tử ngữ), được người Việt Nam sử dụng để ghi chép, thi cử v.v. trước thế kỷ 20.
Chữ Hán được sử dụng tại Việt Nam ngót 2000 năm. Trong quá trình du nhập, truyền bá, cho đến ngày hôm nay, người Việt có một hệ thống cách đọc chữ Hán riêng biệt (thiên địa, nhật nguyệt v.v. thay vì /tian di/, /ri yue/). Nhiều chữ Hán được người Việt viết theo lối riêng, có những kết cấu, hình thể riêng, tương tự như trường hợp chữ Hán của Nhật Bản. Vào khoảng thời Lý Trần, người Việt mượn cách đọc của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, tạo ra một hệ thống chữ mới gọi là chữ Nôm. Về ngữ pháp, người Việt cũng như người Trung, Hàn, Nhật trước đây sử dụng ngữ pháp Hán văn cổ đại (một thứ tử ngữ) để ghi chép, sáng tác văn học. Văn tự Hán Nôm được diên dụng ở miền Bắc đến năm 1956 trước khi Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến hành cải cách giáo dục, và tại miền Nam đến năm 1975 trước khi Việt Nam cộng hòa diệt quốc.
Học tiếng Trung hiện đại chắc chắn không thể đọc hiểu hoành phi, câu đối, sách vở do người Việt trước thời Nguyễn viết. Còn trong bối cảnh hiện đại, nếu học một lượng chữ Hán Nôm cơ bản, có thể hiểu sâu hơn về tiếng Việt. Bởi vậy, khi phản đối HVKT thì đừng bài xích văn tự Hán Nôm, đừng coi nó là thứ chữ lạ, và đừng nâng cao quan điểm rằng, một ngàn năm Bắc thuộc mới sắp bắt đầu, Việt Nam sẽ quay trở lại dùng chữ Hán. Cần phải hiểu rõ, chữ Hán là chữ Hán nào. Hán của người Việt hay Hán của Trung Cộng.
Việc thoát Trung là thoát ở sự lệ thuộc chính trị, kinh tế, ở những thứ văn hóa thô bỉ, quê mùa tập nhiễm từ Trung Quốc đương đại, chứ không phải tẩy chay bất kỳ nét văn hóa hay đẹp nào chỉ cần biết nó có nguồn gốc Tàu!
Chú thích ảnh (từ trên xuống dưới, trái qua phải):
1. Hình tượng Khổng Tử của Trung Quốc thời Minh.
2. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam thời Lê.
3. Hình tượng Khổng Tử của Hàn Quốc thời Joseon.
4. Hình tượng Khổng Tử của Nhật Bản thời Edo.
5. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam cộng hòa đặt tại Miếu Khổng Thánh (chụp năm 1969), nay là đền Hùng trong Thảo cầm viên, Sài gòn. Pho tượng đã bị di dời.
6. Tượng Khổng Tử tại Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ Thằng khốn nạn hàng đầu, trong thời Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976).
7. Tượng Khổng Tử đặt tại Thiên An môn năm 2011, bị di dời chỉ sau 100 ngày.
8. Biếm họa chân dung Khổng Tử sau khi bị chính quyền Trung Cộng lợi dụng để dựng lên Học viện Khổng Tử.
27/12/2014
Theo Hiệu trưởng ĐH Hà Nội Nguyễn Đình Luận, việc thành lập Học viện Khổng Tử sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt - Trung.
Sáng 27/12, Chủ tịch UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân và Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp) Du Chính Thanh dự lễ gắn biển "Học viện Khổng Tử" tại trường ĐH Hà Nội.
Chủ tịch MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân và Chủ tịch Chính hiệp Trung Quốc Du Chính Thanh.
Trong số 11 ngoại ngữ đang được giảng dạy và học tập tại trường, tiếng Trung Quốc được nghiên cứu và giảng dạy từ những ngày đầu thành lập (1959). Các thế hệ sinh viên Khoa tiếng Trung Quốc tốt nghiệp ra trường đã và đang đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp lớn của Việt Nam và Trung Quốc.
ĐH Hà Nội đã thiết lập quan hệ hợp tác với 50 trường đại học của Trung Quốc, trong đó ĐH Sư phạm Quảng Tây. Hiệu trưởng ĐH Hà Nội Nguyễn Đình Luận bày tỏ, việc thành lập Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt - Trung.
Lễ gắn biển "Học viện Khổng Tử" tại Đại học Hà Nội.
Giáo sư Liang Hong, Hiệu trưởng ĐH Sư phạm Quảng Tây cho biết, ngay từ năm 1955, Chính phủ Trung Quốc đã mở Trường Chuyên tu Ngữ văn Trung Quốc tại cơ sở Vương Thành của ĐH Sư phạm Quảng Tây với mục đích chủ yếu là đào tạo học sinh Việt Nam. Đã có hơn 1.000 thanh thiếu niên Việt Nam hoàn thành khoá học tại đây.Theo Chinhphu.vn
Vì sao giảng đường Mỹ, Canada đóng cửa Viện Khổng Tử?-
TTCT 12/11/2014- Trong vòng một tuần qua, hai trường đại học có uy tín tại Mỹ - Đại học Chicago và Đại học Pennsylvania - đã lần lượt ra tuyên bố ngưng hợp tác và đóng cửa Viện Khổng Tử, cơ quan giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc.
-Việt - Trung thỏa thuận lập Viện Khổng Tử tại Hà Nội
-Vì sao tượng Khổng tử biến mất khỏi quảng trường Thiên An Môn ?
-“Khổng Tử bị xua đuổi vì không có hộ khẩu Bắc Kinh”
-2 năm trước: ĐH Yale nói gì về Học Viện Khổng Tử?
-Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa
-Nói tiếp về tiếp thu tri thức ....
-Biển hiệu của Viện Khổng Tử vi phạm Nghị định của Chính phủ
Ngày 27/12, Trường Đại học Hà Nội đã tổ chức lễ gắn biển “Viện Khổng Tử” tại Trường với sự tham gia của các đại biểu cấp cao Việt Nam và Trung Quốc…
Tham gia lễ gắn biển, về phía Việt Nam có ông Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; ông Trần Đắc Lợi, Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương và ông Nguyễn Đình Luận, Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội.
Về phía Trung Quốc có ông Du Chính Thanh, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp); ông Vương Gia Thụy, Phó Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, Trưởng ban Đối ngoại Đảng Cộng sản Trung Quốc; ông Lương Hồng, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Quảng Tây…
PGS, TSKH Nguyễn Đình Luận, Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội nêu rõ: Lễ gắn biển “Viện Khổng Tử” tại Trường Đại học Hà Nội là sự kiện quan trọng trong quá trình phát triển của nhà trường.
Nhưng tấm biển đó đã vi phạm Điều 23 Nghị định 103/2009/NĐ-CP của Chính phủ (ban hành ngày 6/11/2009) quy định: Biển hiệu phải viết bằng chữ Việt Nam; trường hợp muốn thể hiện tên viết tắt, tên giao dịch quốc tế, tên, chữ nước ngoài phải ghi ở phía dưới, kích thước nhỏ hơn chữ Việt Nam.
Theo Điều 33 Nghị định số 75/2010/NĐ-CP của Chính phủ thì hành vi sau: – Thể hiện trên biển hiệu tên riêng, tên viết tắt, tên giao dịch quốc tế bằng chữ nước ngoài ở phía trên tên bằng chữ Việt Nam; Thể hiện trên biển hiệu tên gọi, tên viết tắt, tên giao dịch quốc tế bằng chữ nước ngoài có kích thước lớn hơn tên bằng chữ Việt Nam sẽ bị phạt tiền từ 3 đến 5 triệu đồng và buộc phải tháo dỡ biển hiệu.
Theo Nghị định 103 của Chính phủ thì biển hiệu này vi phạm cả hai: Đặt chữ Trung Quốc lên trên và to hơn chữ Việt. Đại học Hà Nội sao lại ít chữ vậy? Đề nghị Thanh tra Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch vào cuộc.
(Nghị định được trích từ trang Thư viện pháp luật)
Trần Trung Đạo: Viện Khổng Tử, cơ quan tuyên truyền và tình báo Trung Cộng
December 29, 2014 Các nước trên thế giới, dù nhỏ hay lớn đều muốn nhân loại biết đến những cái hay cái đẹp của nước mình. Viện Goethe (Goethe-Institut), đặt tên theo nhà văn và chính khách Đức Johann Wolfgang von Goethe, có 159 cơ sở hoạt động gần khắp thế giới để trao đổi văn hóa và ngôn ngữ. Viện Goethe tự trị về tài chánh và độc lập điều hành từ chính phủ Đức. Hội Liên Minh Pháp (Alliance Française) do một số trí thức Pháp trong đó có nhà khoa học Louis Paster, nhà văn JulesVerne, sáng lập từ 1883, có mặt trên 137 quốc gia với tổng số gồm 850 trung tâm cũng hoạt động độc lập với chính phủ Pháp.
Các nước Phi Châu tuy nghèo nàn, lạc hậu về kỹ thuật, bị thực dân xâm lược rồi nội chiến triền miên nhưng không phải vì thế mà họ không kiêu hãnh với nền văn hóa và cũng luôn tìm mọi cách để giới thiệu cùng nhân loại những nét đặc thù của dân tộc họ. Hiến chương Phục Hưng Văn Hóa Phi Châu được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chuẩn y ngày 24 tháng Giêng 2006 đã tạo điều kiện phục hưng các giá trị và giới thiệu văn hóa Phi Châu đến các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc. Ngày nay nhiều viện văn hóa Phi Châu do tư nhân tài trợ có mặt nhiều nơi trên thế giới.
Phát huy văn hóa là lẽ tự nhiên và đáng ca ngợi. Ngoài trừ những kẻ tự thu mình trong góc tối, sống trong ảo tưởng “quê hương mình là đẹp hơn cả” dù suốt đời không ra khỏi nhà để rồi trở nên ngày thêm u mê lạc hậu, phần lớn các lãnh đạo và con người trên thế giới đều biết trong cái riêng bao giờ cũng có cái chung, văn hóa của một dân tộc là một phần của văn minh nhân loại.
Thế nhưng, những khái niệm văn hóa, độc lập, tự trị, phi chính phủ của các trung tâm, các viện văn hóa nêu trên không áp dụng trong trường hợp các Viện Khổng Tử của Trung Cộng, bởi vì thực chất của các viện này chỉ là cơ quan tuyên truyền, tình báo và được đặt dưới sự lãnh đạo của Cục Tuyên Truyền Trung Ương đảng Cộng Sản Trung Quốc. Tuyên truyền là xương sống của chế độ CS. Từ khi thành lập đảng CSTQ năm 1921 đến nay, tuyên truyền luôn đóng một vai trò quyết định trong việc thực thi các chính sách của đảng. Cục Tuyên Truyền Trung Ương do Lý Trường Xuân, Ủy viên Bộ chính trị đứng hàng thứ năm làm Cục Trưởng.
Tại sao là Viện Khổng Tử mà không là Viện Mao Trạch Đông hay Viện Đặng Tiểu Bình?
Bản chất của CS từ Âu sang Á là giấu mặt và vận dụng ảnh hưởng của các nhân vật lịch sử trong đó Khổng Tử là một trong những nạn nhân.
Trong thời kỳ sau 1949 đến 1966, lãnh đạo Trung Cộng dựa vào Khổng Tử như biểu tượng của quyền hạn gia đình bởi vì trong giai đoạn đó Mao chủ trương phân tán quyền sở hữu đất đai xuống các đơn vị gia đình qua trung gian các chính sách cải cách ruộng đất và Bước Tiến Nhảy Vọt đầy thảm họa.
Mao ca ngợi Khổng Tử “nhiệm vụ của chúng ta là nghiên cứu các thành tựu lịch sử và đánh giá chúng với quan điểm Mác Lê. Trung Hoa có một lịch sử dài nhiều ngàn năm với đặc tính riêng và là những kho tàng quý báu… Chúng ta phải tổng hợp từ Khổng Tử đến Tôn Dật Tiên và kế thừa các truyền thống giá trị này”. Lưu Thiếu Kỳ còn đi xa hơn khi cho rằng Khổng Tử có nhiều đặc điểm của một người CS tốt.
Tuy nhiên, trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, bao nhiêu thất bại, sai lầm của Mao đều được đổ lên đầu Khổng Tử khi chiến dịch Chống Bốn Cũ (nhận thức cũ, văn hóa cũ, truyền thống cũ, tập quán cũ) được phát động. Nội dung của Cách Mạng Văn Hóa được tóm tắt là “cái mới” chống “cái cũ” và trong đó Khổng Tử đại diện cho mọi “cái cũ” và biểu tượng của xã hội giai cấp. Không chỉ chống Khổng Tử về mặt tư tưởng mà cả đền thờ, di tích, sách vở đều bị đục bỏ hay đốt phá. Mao phát biểu “đọc sách nhiều quá sẽ làm tê liệt khả năng nhận thức”. Mục đích chống Khổng Tử của Mao là để đương đầu với sự thất bại kinh tế do chính y gây ra và chống lại những lãnh đạo thực tâm sùng bái Khổng Tử trong đó có Lưu Thiếu Kỳ. Kết quả, 60 phần trăm lãnh đạo CS các cấp bị thanh trừng qua nhiều hình thức.
Khi nhân loại bước vào thiên niên kỷ thứ ba, thế giới thay đổi và sẽ thay đổi một cách nhanh chóng trong thời gian tới. Sự toàn cầu hóa không chỉ diễn ra trong lãnh vực kinh tế mà cả văn hóa, xã hội. Nhân vật lịch sử cần được đánh bóng không phải là hai hồn ma CS Mao hay Đặng mà chính là Khổng Tử. Lãnh đạo Trung Cộng Hồ Cẩm Đào khi giới thiệu Khổng Tử đã ca ngợi ông ta chủ trương một “xã hội hài hòa”. Bộ máy tuyên truyền Trung Cộng in Luận Ngữ và là tác phẩm phát hành nhiều nhất ở Trung Quốc, và các ấn bản ngoại ngữ cũng được giới thiệu nhiều nơi trên thế giới.
Theo Giáo sư Gilbert Rozman thuộc khoa xã hội học, đại học Princeton, Trung Cộng “muốn thế giới nhìn vào lịch sử Trung Quốc và những vinh quang quá khứ để khuyến khích họ chấp nhận một Trung Quốc hiện nay nhiều hơn”. Phê bình quan điểm của Hồ Cẩm Đào, Giáo sư Perry Link, Ban Đông Á, đại học Princeton cho rằng có sự mâu thuẫn về căn bản là cái cách chính phủ Trung Cộng sử dụng Khổng Tử để đại diện cho văn hóa Trung Hoa hài hòa ở nước ngoài trong khi đó đảng áp dụng chính sách toàn trị hà khắc đối với người dân trong nước.
Lịch sử hình thành Viện Khổng Tử
Kế hoạch Viện Khổng Tử được chính thức ra đời vào tháng Sáu năm 2004. Sau vài lần thử nghiệm tại Uzbekistan, viện đầu tiên được khánh thành ngày 21 tháng 11 năm 2004 tại Seoul, Nam Hàn. Đến nay, 2014, đã có 480 Viện Khổng Tử rải rác khắp sáu lục địa. Lãnh đạo Trung Cộng tuyên bố vào năm 2020 con số Viện Khổng Tử sẽ lên đến một ngàn viện.
So với Hội Liên Minh Pháp (Alliance Française) được thành lập 131 năm trước, con số một ngàn đầy tham vọng và cấp bách của Trung Cộng rõ ràng không phải chỉ thuần mục đích văn hóa. Tạp chí The Economist nhận xét Viện Khổng Tử chỉ là “cơ quan nhà nước” CS và do đó chấp hành một cách nghiêm chỉnh các chủ trương của đảng. Với điều kiện thông tin ngày ngay, nhận xét của tạp chí The Economist có thể kiểm chứng một cách dễ dàng.
Các chức năng mặt nổi của Viện Khổng Tử
Theo tài liệu chính thức, Viện Khổng Tử là bộ phận của Hán Ban (汉办) “một cơ quan của Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ, một tổ chức không lợi nhuận, phi chính phủ, liên kết với Bộ Giáo Dục Trung Quốc” Nhiệm vụ công khai của Viện Khổng Tử là “giảng dạy Hoa ngữ ” và “đóng góp vào sự thành hình một thế giới đa dạng và hài hòa”.
Hán Ban, về cơ cấu trực thuộc Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ, trong thực tế chẳng phải phi lợi nhuận, tự trị gì mà do một lãnh đạo CS cấp trung ương điều hành. Chủ tịch Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ là bà Chen Zhili. Bà Chen sinh tháng 11 năm 1942, nguyên Cố Vấn Nhà Nước kiêm Bộ Trưởng Giáo Dục Trung Cộng. Bà gia nhập đảng CSTQ năm 1961. Nguyên là Bí Thư đảng bộ Ban Khoa Học Kỹ Thuật Thượng Hải, sau đó được thăng cấp giữ chức Giám Đốc Ban Tuyên Truyền Thượng Hải kiêm Phó Bí Thư Ban Chấp Hành Đảng Bộ Thượng Hải. Từ năm 2008 bà Chen là Phó Chủ Tịch Quốc Hội Trung Cộng. Về cấp bậc đảng, bà Chen là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSTQ tại các đại hội 15, 16, 17 đảng CSTQ. Tổng giám đốc hiện nay của Hán Ban là bà Xu Lin, cấp thứ trưởng trong chính phủ, thành viên của Hội Đồng Nhà Nước và ủy viên Hội Đồng Tham Vấn Chính Trị. Điều đó cho thấy cả hai lãnh đạo Viện Khổng Tử đều là cán bộ tuyên truyền cao cấp chứ chẳng thuần túy văn hóa, ngôn ngữ gì.
Về tài chánh, theo Chinadigitaltimes, Viện Khổng Tử được sử dụng một ngân sách rất cao lên đến nhiều tỉ yuan và website của Viện Khổng Tử cũng được xếp vào một trong những website tốn kém nhất tại Trung Cộng. Bà Chen Zhili ra ngoại quốc được quyền sử dụng tiền bạc một cách rộng rãi so với các ngân sách giáo dục khác. Mặc dù rất ngạc nhiên trước thái độ yểm trợ tài chánh dồi dào của Trung Cộng, nhiều đại học quốc tế, kể cả Mỹ, cần tiền bảo trợ cho các chương trình Hoa Ngữ nên cũng không khó khăn lắm trong việc chấp nhận sự thành lập Viện Khổng Tử.
Các chức năng mặt chìm của Viện Khổng Tử
- Thực hiện chủ trương tuyên truyền “sức mạnh mềm”: Theo Giáo sư Joseph Nye Jr., sức mạnh mềm được định nghĩa như là khả năng đạt được mục tiêu bằng ảnh hưởng, hợp tác với đối phương thay vì ép buộc đối phương phải tuân hành. Người viết đã phân tích chi tiết trong bài Từ Hồ Cẩm Đào đến Obama, bài học về chính sách Sức mạnh mềm (Soft power).
Joseph Nye Jr. tóm tắt quan điểm này trong tác phẩm Sức mạnh Mềm: Phương tiện để Thành công trong Chính trị Thế giới (Soft Power: The Means to Success in World Politics): “Một quốc gia có thể đạt được kết quả mong muốn trong chính trị thế giới bởi vì các quốc gia khác – khâm phục giá trị của nó, tích cực noi gương các thành tựu nó đạt được, khát vọng để đạt đến mức độ thịnh vượng và mở rộng của nó, muốn theo chân nó. Trong ý nghĩa đó, quan trọng là đặt ra một nghị trình và thu hút các quốc gia khác trong chính trị thế giới, và không chỉ buộc họ thay đổi bằng các đe dọa quân sự hay trừng phạt kinh tế.”
Cũng theo Joseph Nye Jr., sức mạnh mềm của một quốc gia đặt trên ba nguồn: văn hóa, giá trị chính trị và chính sách đối ngoại. Áp dụng chính sách sức mạnh mềm trong phạm vi thế giới đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong chính sách tuyên truyền quốc tế của Hồ Cẩm Đào và các lãnh đạo Trung Cộng hiện nay.
Trung Cộng có hai đường lối tuyền truyền tương đối độc lập gồm tuyên truyền đối nội nhằm kiểm soát nhận thức người dân và tuyên truyền đối ngoại tập trung vào việc ảnh hưởng dư luận quốc tế một cách phù hợp với chính sách đối ngoại của đảng CSTQ. Tạp chí Economist giải thích các Viện Khổng Tử được sử dụng nhằm giành được sự đồng thuận của dư luận thế giới.
Mục đích cụ thể của đường lối tuyên truyền đối ngoại gồm (1) trấn an dư luận thế giới về một Trung Cộng đe dọa, (2) bảo đảm nguồn nguyên vật liệu cung ứng cho nền kinh tế tăng nhanh nhưng lãnh phí, (3) xây dựng các liên minh quốc tế và làm yếu vai trò của Đài Loan trong cộng đồng thế giới, và (4) phát huy một thế giới đa phương và giới hạn sức mạnh của Mỹ.
Khi Hồ Cẩm Đào công bố chủ trương áp dụng “sức mạnh mềm” trên thế giới đầu năm 2009, Lý Trường Xuân không giấu diếm khi cho rằng các Viện Khổng Tử là “cửa ngõ quan trọng để làm sáng danh văn hóa Trung Quốc, giúp mở rộng văn hóa Trung Quốc, đó là phần của chiến lược tuyên truyền quốc tế”.
Mặc dù luôn bào chữa là “khách quan”, “độc lập”, các vấn đề nhạy cảm như biến cố Thiên An Môn, Pháp Luân Công, Tây Tạng v.v. đều bị gạch bỏ khỏi các chương trình giảng dạy tại các Viện Khổng Tử và các học viên không được phép bàn đến các vấn đề này. Do đó, khác với nội dung do Joseph Nye phác họa, chính sách của CSTQ thực chất là một chính sách tuyên truyền và mua chuộc, tương tự như chính sách thực dân trước đây.
- Hang ổ tình báo: Trung Cộng hiện có 60 triệu Hoa Kiều sinh sống gần như tại hầu hết quốc gia trên thế giới và việc sử dụng nguồn lực của đạo quân thứ năm này để phục vụ một cách hữu hiệu đường lối đảng là một quan tâm lớn của lãnh đạo Trung Cộng.
Tờ báo có uy tín của Mỹ Forbes, trong tháng 10 2014, tố cáo một trong những trường đại học rất uy tín tại Mỹ, đại học Stanford, đã hợp tác với Trung Cộng qua trung gian Viện Khổng Tử. Ngân sách của viện do Trung Cộng tài trợ. Tác giả bài viết trên Forbes trích lời phát biểu của Arthur Waldron khi nói rằng “Viện Khổng Tử có thể đóng vai trò then chốt trong việc ảnh hưởng chính sách tình báo của Trung Cộng”.
Cũng trên Forbes, tác giả Eamonn Fingleton, chỉ trích các trường đại học Mỹ bán rẻ lương tâm trí thức qua việc im lặng trước sự kiện Thiên An Môn. Lý do, tiền của Bộ Giáo Dục Trung Cộng đổ vào các đại học này một cách ồ ạt qua cửa Viện Khổng Tử. Hiện nay có khoảng 220 ngàn sinh viên Mỹ theo học các Viện Khổng Tử. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên và nguy hiểm là các hợp đồng giữa Bộ Giáo Dục Trung Cộng và các đại học Mỹ đều phải được giữ kín.
Theo Abrice De Pierrebourg, một cựu chuyên viên ngành tình báo Pháp, nhiều “chuyên viên ngôn ngữ Trung Quốc” lại có lý lịch gốc an ninh tình báo. Chức năng của những người này không phải là giáo dục mà là kiểm soát sinh viên gốc Hoa sinh ra ở nước ngoài và đồng thời tuyển dụng tình báo để làm việc cho Trung Cộng.
Phóng viên Omid Ghoreishi của báo The Epoch Times, trong điều tra Bắc Kinh Sử Dụng Viện Khổng Tử cho mục đích Gián Điệp (Beijing Uses Confucius Institutes for Espionage) đã trích dẫn lời của Michel Juneau-Katsuya, cựu Trưởng Cơ Quan An Ninh Tình Báo đặc trách Á Châu Thái Bình Dương của chính phủ Canada rằng với kinh nghiệm nhiều chục năm của ông hoạt động trong khu vực, cho thấy Trung Cộng không ngừng nỗ lực để gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác.
Cũng theo lời ông Michel Juneau-Katsuya, đương kim chủ tịch chấp hành công ty an ninh Northgate SSI và một trong những chuyên viên an ninh được trích dẫn nhiều nhất tại Canada, Viện Khổng Tử là một đe dọa đối với chính phủ và nhân dân Canada. Ông khẳng định “Có những thông tin cho thấy rõ ràng các cơ quan tình báo Tây phương đã xác định Viện Khổng Tử như hình thức của cơ quan tình báo do Trung Cộng sử dụng và cũng do Trung Cộng tuyển dụng”.
Bài báo trên The Epoch Times cũng nhắc lại lời tuyên bố của Hồ Cẩm Đào như một bằng chứng cho thấy các Viện Khổng Tử thực chất là hang ổ gián điệp. Họ Hồ phát biểu “Sau nhiều năm nỗ lực, chúng ta đã tìm ra cách để trồng cấy và chuẩn bị những người ủng hộ đảng chúng ta”. Dĩ nhiên các lãnh đạo Trung Cộng luôn bác bỏ những lời tố cáo của các chuyên viên tình báo quốc tế và uy tín như Michel Juneau-Katsuya.
Các lãnh đạo Trung Cộng hãnh diện khi nhắc đến Viện Khổng Tử như một phần của “mặt trận đoàn kết” chống kẻ thù. Nhưng kẻ thù của “mặt trận” này là ai? Không ai khác hơn là “năm nọc độc” gồm Đài Loan, Tây Tạng ly khai, thiểu số Uighurs, Falun Gong, các nhà tranh đấu dân chủ, và “thế lực thù địch Tây Phương” đứng đầu là Mỹ.
Một chế độ dựa trên lừa dối và khủng bố sớm muộn cũng sẽ sụp đổ
Mặc dù phát triển kinh tế nhanh trong hai chục năm qua, Trung Cộng đang đương đầu với những khó khăn khách quan về lâu dài không thể vượt qua bao gồm yếu tố dân số thặng dư và mất cân đối, y tế công cộng thiếu hụt trầm trọng, môi sinh độc hại nhưng quan trọng nhất vẫn là cơ chế chính trị độc tài toàn trị, bóp nghẹt hầu hết các quyền căn bản của con người và tham nhũng đã trở thành một đặc tính trong mọi ngành, mọi cấp từ trung ương đến địa phương.
Lãnh đạo CSTQ đã và đang làm mọi cách để tồn tại bất chấp dư luận và thể diện của một đất nước có nhiều ngàn năm văn hóa.
Sự lừa dối bỉ ổi thể hiện khi Ủy Ban Thế Vận Quốc Tế đến kiểm nghiệm điều kiện môi sinh tại Bắc Kinh vào năm 2001 trước khi chấp thuận cho Trung Cộng làm quốc gia tổ chức. Ngày trước đó, lãnh đạo Trung Cộng đã ra lịnh xịt nước xanh lên hai hàng cây dọc đường phố có đoàn xe của Ủy Ban Thế Vận chạy qua để đánh lừa họ rằng Bắc Kinh là thành phố cây xanh. Hành động này giống hệt chuyện xảy ra hơn nửa thế kỷ trước khi các lãnh đạo CS tỉnh Hồ Bắc cho dời các ruộng lúa ra sát đường nơi có xe lửa của Mao chạy qua để gây ấn tượng cho Mao rằng mùa màng dư giả. Bản chất lừa dối của chế độ CS không thay đổi và một chế độ dựa trên lừa dối và khủng bố để tồn tại, chế độ đó sớm nay muộn rồi sẽ sụp đổ.
Trần Trung Đạo
Tham khảo:
– Mao’s China, A history of the People ‘s Republic. The Free Press, NY 1977
– The New Chinese Empire, Ross Terrill, Basic Books, 2003
– Hiến chương Phục Hưng Văn Hóa Phi Châu ( CHARTER FOR AFRICAN CULTURAL RENAISSANCE), Unesco, 2006
– Chen Zhili http://en.wikipedia.org/wiki/Chen_Zhili
– Viện Khổng Tử (http://en.wikipedia.org/wiki/Confucius_Institute)
– Confucius and the Cultural Revolution: A Study in Collective Memory, Tong Zhang và Barry Schwarz, International Journal of Politics, Culture and Society, Vol. 11, Nọ 2, 1997
– Propaganda in the People’s Republic of China, WikipediA
– List of all Confucius Institutes in the U.S. (http://confucius.gmu.edu/upload/Resources_Alphabetical-list-of-Confucius-Institutes-in-the-USA.pdf)
– Follow The (Chinese) Money: The Tiananmen Anniversary And A Scandalous Silence On U.S. Campuses (http://www.forbes.com/sites/eamonnfingleton/2014/06/01/follow-the-chinese-money-the-tienanmen-anniversary-and-a-strange-silence-on-u-s-campuses/)
– Beijing Uses Confucius Institutes for Espionage (http://www.theepochtimes.com/n3/1018292-hosting-confucius-institute-a-bad-idea-says-intelligence-veteran/)
– Joseph S. Nye, Jr. Soft Power, Hard Power and Leadership,, Harvard University, 2006
************************
VÀI LỜI BÀN VỀ KHỔNG TỬ VÀ HỌC VIỆN KHỔNG TỬ.
Hai hôm nay, nhiều bạn facebook tag tôi vào những stt xoay quanh việc Học viện Khổng Tử đầu tiên được đặt tại một trường đại học của Việt Nam. Cá nhân tôi, tôi không ủng hộ việc này. Bởi như nhiều người đã tìm hiểu, Học viện Khổng Tử không đơn thuần nhằm “quảng bá tiếng Trung Quốc”. Ở Âu Mỹ, các học viện này đã có những hoạt động như đả phá Pháp luân công, kỳ thị tín ngưỡng (Đại học McMaster, Canada), cổ động sinh viên ủng hộ Trung Quốc trấn áp Tây Tạng (Đại học Waterloo, Canada), không cho sinh viên talk về vấn đề Tây Tạng, hạn chế ngôn luận (Đại học Chicago, Mỹ) v.v. Đó cũng chính là nguyên nhân chính khiến một loạt các nước Âu Mỹ tẩy chay học viện này.
Hiện nay, xét riêng số HVKT đặt tại các trường đại học trong khu vực, Hàn Quốc có 17 viện, Nhật Bản có 13, Thái Lan có 12, Indonesia có 7, Philipine có 3, Singapore có 2. Đây là lần đầu tiên, HVKT đặt tại Việt Nam. Mặc cho những phản ứng muôn hình muôn vẻ của trí thức, trí ngủ trong ngoài nước, đây là câu chuyện đã rồi, và là câu chuyện trên bàn tròn của những người anh em cộng sản hai nước. Việc thiết thực có thể làm hiện nay là theo dõi sát sao động tĩnh của học viện này, và phản ứng kịp thời khi nó có những hoạt động can thiệp nằm ngoài bổn phận.
Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý mấy điểm dưới đây, hầu mong những người phản đối HVKT hiểu rõ hơn mình đang phản đối thứ gì, tư tưởng gì.
1. Khổng Tử của đời thật và Khổng Tử sau khi bị các chính thể lợi dụng.
Bản thân Khổng Tử là người chính trực, nghiêm túc, kiên trì đến độ đáng thương, “biết đạo không thể thi hành mà vẫn làm”. Ông ta không được trọng dụng ngay khi còn sống. Trong bối cảnh văn hóa suy đồi, chính trị băng hoại thời Xuân Thu, tinh thần chấn hưng lễ nghĩa, quảng bá học thuật của Khổng đã khiến ông nửa đời lang bạt các nước như ‘con chó mất nhà’ theo cách ví của Tư Mã Thiên. Vào thời Hán, lần đầu tiên, đạo Khổng được trọng dụng. Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Khổng đã bị uốn bẻ theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau. Hán Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho... Tương tự, tư tưởng Nho giáo trải qua các triều Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng nhất. Có một Khổng Tử của đời thật, nhưng có nhiều Khổng Tử của các chính thể lợi dụng. Tư tưởng của Khổng có nhiều điều hay, cũng có nhiều hạn chế. Nhưng trước khi hiểu rõ con người, tư tưởng Khổng thì đừng vì phản đối HVKT mà vội quy chụp tư tưởng đó là thứ “bốc mùi”, gọi Khổng Tử là “thằng Confucius”!
Chính quyền Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa vào những năm 1966. Trong thời kỳ này, tư tưởng Khổng bị lên án gay gắt. Tượng Khổng trong Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ THẰNG KHỐN NẠN HÀNG ĐẦU, rồi bị kéo đổ, đập nát. Hồng vệ binh định đào mả Khổng, nhưng nhanh chóng bị can ngăn. Và giờ đây, khi nền chính trị, tư tưởng của Trung Cộng không đủ sức hút đối với thế giới, càng không phải giá trị phổ quát. Họ bám víu và giương chiêu bài quảng bá văn hóa; họ dùng Khổng Tử làm công cụ chính trị. Bởi vậy đừng nghĩ đơn giản rằng, HVKT là nơi truyền bá đạo Khổng. Trung Cộng không có tư cách đó.
2. Văn hóa Trung Hoa và chính quyền Trung Quốc.
Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng lan tỏa của văn hóa Trung Hoa trong quá khứ đối với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tạm không bàn đến bản quyền của các thành tố văn hóa tương đồng giữa Trung – Hàn – Việt. Bằng vào những tư liệu hiện có, có thể thấy các chính thể quân chủ Việt Nam đã từng chủ động sử dụng Hán văn làm ngôn ngữ hành chính, thi cử, sáng tác văn học, từng châm chước chế độ lễ nghi, áo mũ, phong tục của các triều đại Trung Hoa; từng tự phụ là ‘cõi văn hiến không kém Trung Quốc’; và khi Trung Quốc bị cai trị bởi những tộc người Mãn, Mông, lại tự nhận là quốc gia gìn giữ văn minh Hoa Hạ chính thống. Bất kỳ thứ văn hóa ngoại lai nào khi được du nhập vào dị vực đều bị bản địa hóa, bởi vậy khi văn hóa Hán đã hòa vào văn hóa Việt, trở thành một phần của văn hóa Việt thì đừng vì ghét Trung Cộng mà quay lại cầm dao tự xẻo thịt mình!
Sau Cách mạng văn hóa, văn hóa Trung Quốc đã xuống dốc. Trí thức Trung Quốc đương đại lưu truyền câu nói “sau Tống không còn Trung Quốc, sau Minh không còn Hoa Hạ, sau Mãn không còn Hán tộc, sau Cách mạng văn hóa không còn đạo đức”. Và trong mắt tôi, văn hóa Trung Quốc đương đại là một sản phẩm què quặt. Bởi vậy, hãy nhìn nhận cho rõ thứ văn hóa Trung Cộng quảng bá là văn hóa gì, tư tưởng gì, đừng tóm tất cả mọi thứ vào một khái niệm đơn nhất là ‘văn hóa Tàu’!
3. Tiếng phổ thông Trung Quốc và ngữ văn Hán Nôm.
Hiển nhiên, nội dung quảng bá của HVKT là tiếng phổ thông Trung Quốc, tức thứ ngôn ngữ sống, lấy ngữ âm phương Bắc làm chuẩn, sử dụng bộ văn tự đã được giản lược sau năm 1949. Còn ngữ văn Hán Nôm là một thứ ngôn ngữ chết (tử ngữ), được người Việt Nam sử dụng để ghi chép, thi cử v.v. trước thế kỷ 20.
Chữ Hán được sử dụng tại Việt Nam ngót 2000 năm. Trong quá trình du nhập, truyền bá, cho đến ngày hôm nay, người Việt có một hệ thống cách đọc chữ Hán riêng biệt (thiên địa, nhật nguyệt v.v. thay vì /tian di/, /ri yue/). Nhiều chữ Hán được người Việt viết theo lối riêng, có những kết cấu, hình thể riêng, tương tự như trường hợp chữ Hán của Nhật Bản. Vào khoảng thời Lý Trần, người Việt mượn cách đọc của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, tạo ra một hệ thống chữ mới gọi là chữ Nôm. Về ngữ pháp, người Việt cũng như người Trung, Hàn, Nhật trước đây sử dụng ngữ pháp Hán văn cổ đại (một thứ tử ngữ) để ghi chép, sáng tác văn học. Văn tự Hán Nôm được diên dụng ở miền Bắc đến năm 1956 trước khi Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến hành cải cách giáo dục, và tại miền Nam đến năm 1975 trước khi Việt Nam cộng hòa diệt quốc.
Học tiếng Trung hiện đại chắc chắn không thể đọc hiểu hoành phi, câu đối, sách vở do người Việt trước thời Nguyễn viết. Còn trong bối cảnh hiện đại, nếu học một lượng chữ Hán Nôm cơ bản, có thể hiểu sâu hơn về tiếng Việt. Bởi vậy, khi phản đối HVKT thì đừng bài xích văn tự Hán Nôm, đừng coi nó là thứ chữ lạ, và đừng nâng cao quan điểm rằng, một ngàn năm Bắc thuộc mới sắp bắt đầu, Việt Nam sẽ quay trở lại dùng chữ Hán. Cần phải hiểu rõ, chữ Hán là chữ Hán nào. Hán của người Việt hay Hán của Trung Cộng.
Việc thoát Trung là thoát ở sự lệ thuộc chính trị, kinh tế, ở những thứ văn hóa thô bỉ, quê mùa tập nhiễm từ Trung Quốc đương đại, chứ không phải tẩy chay bất kỳ nét văn hóa hay đẹp nào chỉ cần biết nó có nguồn gốc Tàu!
Chú thích ảnh (từ trên xuống dưới, trái qua phải):
1. Hình tượng Khổng Tử của Trung Quốc thời Minh.
2. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam thời Lê.
3. Hình tượng Khổng Tử của Hàn Quốc thời Joseon.
4. Hình tượng Khổng Tử của Nhật Bản thời Edo.
5. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam cộng hòa đặt tại Miếu Khổng Thánh (chụp năm 1969), nay là đền Hùng trong Thảo cầm viên, Sài gòn. Pho tượng đã bị di dời.
6. Tượng Khổng Tử tại Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ Thằng khốn nạn hàng đầu, trong thời Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976).
7. Tượng Khổng Tử đặt tại Thiên An môn năm 2011, bị di dời chỉ sau 100 ngày.
8. Biếm họa chân dung Khổng Tử sau khi bị chính quyền Trung Cộng lợi dụng để dựng lên Học viện Khổng Tử.
*************
-Đại học Hà Nội thành lập 'Học viện Khổng Tử'27/12/2014
Theo Hiệu trưởng ĐH Hà Nội Nguyễn Đình Luận, việc thành lập Học viện Khổng Tử sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt - Trung.
Sáng 27/12, Chủ tịch UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân và Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp) Du Chính Thanh dự lễ gắn biển "Học viện Khổng Tử" tại trường ĐH Hà Nội.
Chủ tịch MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân và Chủ tịch Chính hiệp Trung Quốc Du Chính Thanh.
Trong số 11 ngoại ngữ đang được giảng dạy và học tập tại trường, tiếng Trung Quốc được nghiên cứu và giảng dạy từ những ngày đầu thành lập (1959). Các thế hệ sinh viên Khoa tiếng Trung Quốc tốt nghiệp ra trường đã và đang đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp lớn của Việt Nam và Trung Quốc.
ĐH Hà Nội đã thiết lập quan hệ hợp tác với 50 trường đại học của Trung Quốc, trong đó ĐH Sư phạm Quảng Tây. Hiệu trưởng ĐH Hà Nội Nguyễn Đình Luận bày tỏ, việc thành lập Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt - Trung.
Lễ gắn biển "Học viện Khổng Tử" tại Đại học Hà Nội.
Giáo sư Liang Hong, Hiệu trưởng ĐH Sư phạm Quảng Tây cho biết, ngay từ năm 1955, Chính phủ Trung Quốc đã mở Trường Chuyên tu Ngữ văn Trung Quốc tại cơ sở Vương Thành của ĐH Sư phạm Quảng Tây với mục đích chủ yếu là đào tạo học sinh Việt Nam. Đã có hơn 1.000 thanh thiếu niên Việt Nam hoàn thành khoá học tại đây.Theo Chinhphu.vn
Vì sao giảng đường Mỹ, Canada đóng cửa Viện Khổng Tử?-
TTCT 12/11/2014- Trong vòng một tuần qua, hai trường đại học có uy tín tại Mỹ - Đại học Chicago và Đại học Pennsylvania - đã lần lượt ra tuyên bố ngưng hợp tác và đóng cửa Viện Khổng Tử, cơ quan giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc.
Khuôn viên Đại học Chicago, nơi tuần trước tuyên bố không tiếp tục gia hạn ký kết - đồng nghĩa với đóng cửa Viện Khổng Tử ở trường - Ảnh: NY Times |
Cùng thời điểm này, tại Canada, Ban điều hành hệ thống trường học thành phố Toronto cũng đưa ra quyết định tương tự.
Các quyết định này được công bố ngay tại thời điểm Trung Quốc rầm rộ kỷ niệm 10 năm thành lập và mở rộng Viện Khổng Tử trên toàn cầu.
“Quyền lực mềm” hay “tuyên truyền cứng”?
Lễ kỷ niệm được xúc tiến hoành tráng tại Trung Quốc tuần qua. Đích thân Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tham dự lễ kỷ niệm của Hiệp hội Khổng Tử quốc tế tại Bắc Kinh. Sự có mặt của người đứng đầu nhà nước tại một sự kiện của một tổ chức phi lợi nhuận không phải là ngẫu nhiên - các hoạt động của Viện Khổng Tử được quản lý và kiểm soát bởi Ban Hán học, một cơ quan nhà nước do các thành viên của Bộ Chính trị trực tiếp điều hành.
Hiện nay hơn 480 Viện Khổng Tử đã có mặt tại 123 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, hoạt động trong các trường đại học và cao đẳng (nếu tính cả các chương trình “song sinh” mang tên lớp học Khổng Tử, dạy tiếng Hoa cho lứa tuổi phổ thông bằng giáo trình do viện soạn thảo, con số các tổ chức đào tạo mang tên Khổng Tử lên đến hơn 1.100!). Dự kiến đến cuối năm 2015, số lượng Viện Khổng Tử trên toàn cầu sẽ đạt đến con số 500. Ban Hán học của Chính phủ Trung Quốc bày tỏ tham vọng sẽ đạt được cột mốc 1.000 viện vào năm 2020. |
Viện Khổng Tử đầu tiên tại Mỹ được mở ở Đại học Maryland tại College Park ngay trong năm 2004. Các Viện Khổng Tử “mọc” lên nhanh chóng trong khuôn viên đại học vùng Bắc Mỹ vào đúng thời điểm suy thoái kinh tế bắt đầu ảnh hưởng đến ngân sách đào tạo đại học, cũng đồng thời điểm Trung Quốc bắt đầu vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới.
Với một số trường đại học và cao đẳng trong vùng, sự có mặt của Viện Khổng Tử trở thành một cơ hội “cung cấp chương trình học giá rẻ” cho sinh viên của mình. Mặt khác, sự có mặt của Viện Khổng Tử cũng là “cần câu” hữu hiệu để thu hút sinh viên Trung Quốc đến học.
Trung Quốc được coi là thị trường trọng điểm của các cơ sở đào tạo giáo dục Mỹ và Canada do số lượng học sinh sinh viên đến từ nước này luôn chiếm tỉ lệ cao trong số du học sinh quốc tế.
Nguồn tài chính mà Ban Hán học Trung Quốc rót vào các chương trình của Viện Khổng Tử cũng là động lực không nhỏ: riêng tại Mỹ, ngân sách hoạt động hằng năm do Ban Hán học tài trợ là 100.000-150.000 USD, chiếm 50% tổng ngân sách (đại học đối tác Mỹ đóng góp phần còn lại).
Những động cơ nói trên làm học đường Mỹ dễ dàng đón nhận Viện Khổng Tử vào khuôn viên của mình - hiện tại có khoảng 100 viện hoạt động tại các đại học và cao đẳng Mỹ, và 350 chương trình giảng dạy phổ thông do Viện Khổng Tử thiết kế.
Tuy nhiên, con số không nói lên được toàn bộ câu chuyện. Ban đầu, Viện Khổng Tử được đón nhận như là “đại sứ học thuật” của Chính phủ Trung Quốc, hoạt động theo cùng khuôn mẫu vận hành của các tổ chức có cấu trúc tương tự như Hội đồng Anh, Viện Goethe (của Đức), hoặc Nhà văn hóa Pháp - được coi là đại diện “quyền lực mềm” của các chính phủ Anh, Đức và Pháp trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, khác biệt căn bản trong tôn chỉ mục đích của Viện Khổng Tử và các cơ quan văn hóa phương Tây dần lộ rõ. Cả ba cơ quan của Anh, Pháp và Đức đều không được đặt trong các trường đại học trên toàn cầu mà hoạt động độc lập, công khai tôn chỉ và định hướng tại các nước đối tác.
Trong khi đó, chỉ không lâu sau khi các Viện Khổng Tử đi vào hoạt động, dư luận trong giới học thuật Mỹ đã ồn ào vì việc các viện này giảng dạy “đúng định hướng” của chính sách Bắc Kinh: từ chối công nhận vụ thảm sát tại Thiên An Môn năm 1989, cấm thảo luận về đề tài Tây Tạng...
Thậm chí ông Hạ Nghiệp Lương - nguyên giáo sư kinh tế học bị Đại học Bắc Kinh sa thải năm 2013 vì kêu gọi cải cách chính trị - từng lên tiếng cảnh báo về khả năng Trung Quốc cài cắm gián điệp qua các chương trình trao đổi đào tạo và khách mời đến Mỹ.
Tại Canada, từ năm 2007, một báo cáo giải mật của Cơ quan Tình báo an ninh Canada đã nhắc đến Viện Khổng Tử như một “nỗ lực (của Chính phủ Trung Quốc) trong việc tạo ra tâm lý thân thiện với Trung Quốc và mọi điều liên quan đến Trung Quốc”.
Vi phạm tự do học thuật
Bản thân chính quyền Bắc Kinh không che giấu tham vọng gây ảnh hưởng qua Viện Khổng Tử. Năm 2009, chính ông Lý Trường Xuân, nguyên cục trưởng Cục Tuyên truyền trung ương Trung Quốc, đã chính thức thừa nhận các Viện Khổng Tử là một phần quan trọng trong chiến lược tuyên truyền ngoài nước của Chính phủ Trung Quốc.
Tuy nhiên, Chính phủ Trung Quốc phủ nhận việc can thiệp và cấm đoán tự do học thuật tại các nước đối tác. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh ngày 30-9 cho biết các Viện Khổng Tử được thành lập tại các trường đại học Mỹ dựa trên lời mời từ phía Mỹ.
Bà Oánh cũng khẳng định: “Các viện này cung cấp ban giảng huấn, chương trình giảng dạy và các hỗ trợ khác theo yêu cầu tự nguyện từ phía đối tác Mỹ. Các trường (đại học Mỹ) không bị ép phải mở viện, và các viện cũng không thể tác động xấu đến tự do học thuật và tính chính trực hàn lâm được”.
Phản ứng của giới học thuật Bắc Mỹ cho thấy một thực tế khác với tuyên bố của Trung Quốc. Từ tháng 10-2013, giáo sư ngành nhân chủng học Marshall Sahlins thuộc Đại học Chicago đã công bố một điều tra về tình trạng hoạt động của các Viện Khổng Tử tại giảng đường Mỹ.
Sau đó, hơn 100 giảng viên của đại học này đã ký tên vào văn bản chính thức phản đối sự hiện diện của viện trong khuôn viên Đại học Chicago. Tuyên bố không tiếp tục gia hạn ký kết - đồng nghĩa với đóng cửa viện - mà Đại học Chicago đưa ra vào tuần qua là kết quả trực tiếp của phản ứng này.
Giáo sư Eric Hayot thuộc khoa châu Á học, cựu giám đốc Viện Khổng Tử của Đại học Pennsylvania, cho biết trong thời điểm tại nhiệm, ông và các giáo sư cộng sự liên tục đề xuất các kế hoạch nghiên cứu về khoa học, chính trị, môi trường... của Trung Quốc nhằm tận dụng ngân sách của viện. Tuy nhiên, mọi đề xuất đều bị Ban Hán học bác bỏ vì lý do “nằm ngoài phạm vi hoạt động của viện”.
Tại Canada, theo nhật báo The Globe and Mail, Ban điều hành hệ thống trường học thành phố Toronto - hệ thống trường phổ thông lớn nhất Canada - đầu tháng 10 bỏ phiếu với tỉ lệ 9-1 quyết định chấm dứt hoạt động những chương trình đào tạo của các Viện Khổng Tử trong hệ thống trường ở Toronto.
Nếu đề xuất này được toàn thể hội đồng trường thông qua, hệ thống trường phổ thông này sẽ là đơn vị thứ 3 sau Đại học McMaster và Đại học Sherbrooke của Canada chấm dứt hợp tác với Viện Khổng Tử. Trước đó từ tháng 12-2013, Hiệp hội Giảng viên đại học Canada cũng ra văn bản kêu gọi các trường đại học Canada hủy bỏ các hợp đồng hợp tác với Viện Khổng Tử.
Alice Huynh, giáo viên tại một trường phổ thông Toronto, cho biết bà đã thu thập được 14.000 chữ ký của phụ huynh và người dân trong cộng đồng phản đối sự hiện diện của Viện Khổng Tử trong các trường phổ thông Toronto.
Phát biểu tại buổi bỏ phiếu, bà nói: “Điều mà chúng tôi cực lực phản đối là việc (nhà trường) trao quyền dạy tiếng Hoa vào tay một tổ chức tự thừa nhận là có động cơ chính trị và muốn gây ảnh hưởng đến con em của chúng ta”.
Trước buổi họp này, Ban điều hành hệ thống trường học thành phố Toronto cho biết đã nhận được cảnh báo từ giới chức Trung Quốc rằng việc đóng cửa các Viện Khổng Tử tại khối trường phổ thông Toronto sẽ làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ của ban điều hành với “thị trường học sinh nước ngoài lớn nhất của Toronto”.
Tháng 6-2014, tiểu ban về tự do học thuật của Hiệp hội Giáo sư đại học Mỹ đã công bố một báo cáo mang tiêu đề: Về việc hợp tác với các chính phủ nước ngoài: Trường hợp của Viện Khổng Tử.
Bản báo cáo nhấn mạnh: trong xu hướng toàn cầu hóa, các giảng đường nước Mỹ đã dần dần cởi mở hơn trong việc tiếp nhận đóng góp (về nội dung, nhân sự và tài chính) từ nước ngoài, từ chính phủ, viện, trung tâm, tổ chức... đến các công ty tư nhân.
Tuy nhiên, ranh giới của việc tiếp nhận đóng góp tích cực từ ngoài nước và chấp nhận bị mất quyền quản lý và kiểm soát về nội dung đóng góp luôn luôn rõ ràng. Viện Khổng Tử là một điển hình đã vượt qua ranh giới này.
Điều bất ổn nhất trong các văn bản ký kết hợp tác giữa Viện Khổng Tử Trung Quốc và các trường đại học Mỹ là những điều khoản cho phép ban điều hành Viện Khổng Tử toàn quyền tuyển dụng và kiểm soát nhân sự giảng dạy của viện, lựa chọn chương trình giảng dạy và hạn chế các đề tài tranh luận trong giảng đường theo các quy chuẩn của Chính phủ Trung Quốc.
Bản báo cáo của Hiệp hội Giáo sư đại học Mỹ tuyên bố: “Việc cho phép một tổ chức khác kiểm soát các vấn đề học thuật đi ngược lại với nguyên tắc về tự do học thuật và quyền tự chủ của các đại học Mỹ”.
Giáo sư ngành lịch sử Trung Hoa Matthew Sommer thuộc Đại học Stanford bày tỏ: “Tôi lo ngại về những hậu quả lâu dài (của việc Viện Khổng Tử hoạt động trong học đường Mỹ). Các chương trình này đang phát triển rầm rộ không chỉ ở Mỹ mà trên toàn thế giới và hiển nhiên có tác động lớn đến việc ngành Trung Hoa học sẽ được giảng dạy như thế nào. Đáng lo nhất không phải là hiện nay, mà là hậu quả sẽ phát lộ trong 15, 20 năm tới”.
Trả lời phỏng vấn tờ The Wall Street Journal, ông Henry Reichman, phó chủ tịch Hiệp hội Giáo sư đại học Mỹ, cho biết: “Tôi tin rằng Chicago và Pennsylvania không phải là hai đại học duy nhất nhận ra rằng hợp tác với một viện như kiểu Viện Khổng Tử là hoàn toàn không đáng!”. CAM LY tổng hợp
Ngày 13/10, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc, ông Lý Khắc Cường, đang ở thăm chính thức Việt Nam.
Tại cuộc hội đàm, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã chuyển lời chia buồn sâu sắc của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc tới Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam về việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất, người bạn thân thiết lâu năm của nhân dân Trung Quốc, từ trần.
Hai thủ tướng đã trao đổi ý kiến về tình hình quan hệ hai nước và đạt nhận thức chung rộng rãi về các biện pháp làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, trong đó, có việc tăng cường sự tin cậy chính trị giữa hai nước, duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao, các bộ, ngành, địa phương hai nước.
Đồng thời, tiếp tục thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về kinh tế-thương mại. Triển khai thực chất một số dự án kết nối giao thông trọng điểm giữa hai bên, thúc đẩy sớm khởi công tuyến đường cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội, tuyến đường cao tốc Móng Cái-Hạ Long, nghiên cứu khả thi đối với dự án đường sắt tốc độ cao Lào Cai-Hải Phòng; nâng kim ngạch thương mại lên 60 tỷ USD vào năm 2015, đồng thời triển khai các biện pháp hữu hiệu duy trì cân bằng thương mại; mở rộng hợp tác về tài chính tiền tệ; tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ tài chính cho các dự án hợp tác song phương về thương mại và đầu tư; nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro tài chính tiền tệ của hai bên. Hai bên nhất trí thành lập nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và nhóm công tác về hợp tác tiền tệ.
Về vấn đề trên biển, hai bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển.
Theo tinh thần đó, hai bên đồng ý thành lập nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ đoàn đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc.
Hai bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn hiện có, gia tăng cường độ làm việc của nhóm công tác vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này và sớm khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ.
Nhanh chóng thực hiện các dự án hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ, nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.
Hai bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát tranh chấp trên biển giữa bộ ngoại giao hai nước, đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển giữa bộ nông nghiệp hai nước, xử lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, đồng thời tiếp tục tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có hiệu quả để kiểm soát tranh chấp, duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung và hòa bình, ổn định trên Biển Đông.
Hai bên nhất trí thực hiện đầy đủ, hiệu quả “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, theo tinh thần và nguyên tắc của “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở đồng thuận, nỗ lực hướng tới thông qua “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC).
Thủ tướng Lý Khắc Cường mời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Trung Quốc. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chân thành cảm ơn và vui vẻ nhận lời.
Sau cuộc hội đàm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Lý Khắc Cường đã chứng kiến lễ ký kết các văn bản hợp tác: hiệp định về việc mở cơ quan xúc tiến thương mại nước này tại nước kia; bản ghi nhớ về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới; hiệp định về việc xây dựng cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu và nghị định thư kèm theo; dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ; dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang; thỏa thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường Đại học Hà Nội và một số văn kiện hợp tác kinh tế khác.
-VN cho mở Học viện Khổng Tử
(BBC) Chính phủ Việt Nam vừa chấp thuận cho mở thí điểm Học viện Khổng Tử, mà thực chất là trung tâm văn hóa Trung Quốc.
Tin cho hay: "Văn phòng Chính phủ vừa có công văn số 1992/VPCP-QHQT gửi các bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngoại giao, Công an và Văn phòng Trung Ương Đảng Cộng Sản, thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm thành lập một Học viện Khổng Tử tại Việt Nam".
Ông Nguyễn Tấn Dũng giao cho Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân "chỉ đạo việc thí điểm thành lập Học viện Khổng Tử theo các quy định hiện hành".
Chưa rõ học viện này sẽ được đặt ở đâu và bao giờ bắt đầu xây dựng.
Học viện Khổng Tử là cơ quan truyền bá văn hóa của Trung Quốc ở nước ngoài, do chính phủ Bắc Kinh tài trợ; tương tự Viện trao đổi Văn hóa Pháp (Alliance francaise) hay Hội đồng Anh (British Council).
Học viện này có chức năng giảng dạy tiếng Hoa; đào tạo giáo viên Hoa ngữ; tổ chức thi trình độ tiếng Hoa; chiếu phim Trung Quốc, tư vấn du học; tổ chức các hoạt động trao đổi văn hóa, hữu nghị... với mục tiêu cuối cùng là mở rộng ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc trên phạm vi toàn cầu.
Viện Khổng Tử trung tâm được đặt tại thủ đô Bắc Kinh.
Trung Quốc có kế hoạch thiết lập khoảng 100 Học viện Khổng Tử tại các nước trên thế giới.
Truyền bá văn hóa
Kể từ năm 2004, khi Học viện Khổng Tử đầu tiên được thiết lập tại thủ đô Seoul của Hàn Quốc, nay các cơ sở dạng này đã xuất hiện tại khoảng 40 quốc gia trên thế giới, có mặt ở hầu hết các lục địa.
Một vài nước có cơ sở Học viện Khổng Tử ở nhiều thành phố. Nước gần với Việt Nam là Thái Lan cũng có Học viện Khổng Tử tại thủ đô Bangkok và thành phố Chiang Mai phía bắc đất nước.
Khổng Tử là triết gia nổi tiếng nhất thời Trung Hoa cổ đại. Đạo Khổng bị dập vùi thời kỳ Cách mạng Văn hóa, nhưng nay đang hồi sinh và được giới lãnh đạo Trung Quốc cổ súy như một trong các nền tảng tinh thần của "xã hội hài hòa" thời hiện đại.
Bắc Kinh đã có nhiều nỗ lực truyền bá đạo Khổng ra nước ngoài như biểu tượng của bản sắc và sức mạnh văn hóa Trung Quốc.
Học viện Khổng Tử cũng có chức năng cấp chứng chỉ HSK, được coi như chứng chỉ quốc tế về tiếng Hoa. Nhu cầu học tiếng Hoa đang ngày càng cao ở các nước, nhất là khi Trung Quốc đang trở thành một trong những nền kinh tế có ảnh hưởng nhất toàn cầu.
--------------
Thực ra nếu bình thường thì cũng chẳng có gì đáng nói, nhưng sau các vụ như bauxite, HSTS, thì liệu có nên không. Dân TQ đã sang VN rất nhiều rồi, bây giờ học tiếng Hoa .. . Cho dù khi TQ phát triển thì nhu cầu giao lưu, kinh doanh tăng thì việc học Hoa cũng sẽ là chính đáng..... Mở các học viện Khổng Tử, hay Thiếu Lâm Tự tại khắp nơi là cách mở rộng sức mạnh mềm của TQ.
Tại cuộc hội đàm, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã chuyển lời chia buồn sâu sắc của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc tới Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam về việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất, người bạn thân thiết lâu năm của nhân dân Trung Quốc, từ trần.
Hai thủ tướng đã trao đổi ý kiến về tình hình quan hệ hai nước và đạt nhận thức chung rộng rãi về các biện pháp làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, trong đó, có việc tăng cường sự tin cậy chính trị giữa hai nước, duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao, các bộ, ngành, địa phương hai nước.
Đồng thời, tiếp tục thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về kinh tế-thương mại. Triển khai thực chất một số dự án kết nối giao thông trọng điểm giữa hai bên, thúc đẩy sớm khởi công tuyến đường cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội, tuyến đường cao tốc Móng Cái-Hạ Long, nghiên cứu khả thi đối với dự án đường sắt tốc độ cao Lào Cai-Hải Phòng; nâng kim ngạch thương mại lên 60 tỷ USD vào năm 2015, đồng thời triển khai các biện pháp hữu hiệu duy trì cân bằng thương mại; mở rộng hợp tác về tài chính tiền tệ; tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ tài chính cho các dự án hợp tác song phương về thương mại và đầu tư; nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro tài chính tiền tệ của hai bên. Hai bên nhất trí thành lập nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và nhóm công tác về hợp tác tiền tệ.
Về vấn đề trên biển, hai bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển.
Theo tinh thần đó, hai bên đồng ý thành lập nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ đoàn đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc.
Hai bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn hiện có, gia tăng cường độ làm việc của nhóm công tác vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này và sớm khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ.
Nhanh chóng thực hiện các dự án hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ, nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.
Hai bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát tranh chấp trên biển giữa bộ ngoại giao hai nước, đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển giữa bộ nông nghiệp hai nước, xử lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, đồng thời tiếp tục tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có hiệu quả để kiểm soát tranh chấp, duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung và hòa bình, ổn định trên Biển Đông.
Hai bên nhất trí thực hiện đầy đủ, hiệu quả “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, theo tinh thần và nguyên tắc của “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở đồng thuận, nỗ lực hướng tới thông qua “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC).
Thủ tướng Lý Khắc Cường mời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Trung Quốc. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chân thành cảm ơn và vui vẻ nhận lời.
Sau cuộc hội đàm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Lý Khắc Cường đã chứng kiến lễ ký kết các văn bản hợp tác: hiệp định về việc mở cơ quan xúc tiến thương mại nước này tại nước kia; bản ghi nhớ về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới; hiệp định về việc xây dựng cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu và nghị định thư kèm theo; dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ; dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang; thỏa thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường Đại học Hà Nội và một số văn kiện hợp tác kinh tế khác.
-VN cho mở Học viện Khổng Tử
(BBC) Chính phủ Việt Nam vừa chấp thuận cho mở thí điểm Học viện Khổng Tử, mà thực chất là trung tâm văn hóa Trung Quốc.
Tin cho hay: "Văn phòng Chính phủ vừa có công văn số 1992/VPCP-QHQT gửi các bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngoại giao, Công an và Văn phòng Trung Ương Đảng Cộng Sản, thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm thành lập một Học viện Khổng Tử tại Việt Nam".
Ông Nguyễn Tấn Dũng giao cho Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân "chỉ đạo việc thí điểm thành lập Học viện Khổng Tử theo các quy định hiện hành".
Chưa rõ học viện này sẽ được đặt ở đâu và bao giờ bắt đầu xây dựng.
Học viện Khổng Tử là cơ quan truyền bá văn hóa của Trung Quốc ở nước ngoài, do chính phủ Bắc Kinh tài trợ; tương tự Viện trao đổi Văn hóa Pháp (Alliance francaise) hay Hội đồng Anh (British Council).
Học viện này có chức năng giảng dạy tiếng Hoa; đào tạo giáo viên Hoa ngữ; tổ chức thi trình độ tiếng Hoa; chiếu phim Trung Quốc, tư vấn du học; tổ chức các hoạt động trao đổi văn hóa, hữu nghị... với mục tiêu cuối cùng là mở rộng ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc trên phạm vi toàn cầu.
Viện Khổng Tử trung tâm được đặt tại thủ đô Bắc Kinh.
Trung Quốc có kế hoạch thiết lập khoảng 100 Học viện Khổng Tử tại các nước trên thế giới.
Truyền bá văn hóa
Kể từ năm 2004, khi Học viện Khổng Tử đầu tiên được thiết lập tại thủ đô Seoul của Hàn Quốc, nay các cơ sở dạng này đã xuất hiện tại khoảng 40 quốc gia trên thế giới, có mặt ở hầu hết các lục địa.
Một vài nước có cơ sở Học viện Khổng Tử ở nhiều thành phố. Nước gần với Việt Nam là Thái Lan cũng có Học viện Khổng Tử tại thủ đô Bangkok và thành phố Chiang Mai phía bắc đất nước.
Khổng Tử là triết gia nổi tiếng nhất thời Trung Hoa cổ đại. Đạo Khổng bị dập vùi thời kỳ Cách mạng Văn hóa, nhưng nay đang hồi sinh và được giới lãnh đạo Trung Quốc cổ súy như một trong các nền tảng tinh thần của "xã hội hài hòa" thời hiện đại.
Bắc Kinh đã có nhiều nỗ lực truyền bá đạo Khổng ra nước ngoài như biểu tượng của bản sắc và sức mạnh văn hóa Trung Quốc.
Học viện Khổng Tử cũng có chức năng cấp chứng chỉ HSK, được coi như chứng chỉ quốc tế về tiếng Hoa. Nhu cầu học tiếng Hoa đang ngày càng cao ở các nước, nhất là khi Trung Quốc đang trở thành một trong những nền kinh tế có ảnh hưởng nhất toàn cầu.
--------------
Thực ra nếu bình thường thì cũng chẳng có gì đáng nói, nhưng sau các vụ như bauxite, HSTS, thì liệu có nên không. Dân TQ đã sang VN rất nhiều rồi, bây giờ học tiếng Hoa .. . Cho dù khi TQ phát triển thì nhu cầu giao lưu, kinh doanh tăng thì việc học Hoa cũng sẽ là chính đáng..... Mở các học viện Khổng Tử, hay Thiếu Lâm Tự tại khắp nơi là cách mở rộng sức mạnh mềm của TQ.